Chuyên đề Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập

Nền kinh tế nước ta đang đứng trước thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập toàn diện, do đó cần có một chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp và hiệu quả. Qua 20 năm đổi mới và những cải cách mạnh mẽ trong ngành ngân hàng, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu lớn: ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ giá, ổn định lưu thông tiền tệ, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao Tuy nhiên, hiệu quả tác động của các công cụ của chính sách tiền tệ còn rất hạn chế, NVTTM chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền, công cụ quản lý lãi suất NHTM và quản lý ngoại hối chưa phát huy được hết vai trò của mình. Trước tình hình đó, NHNN cần phải có các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam như hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả NVTTM, nâng cao nguồn nhân lực, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, thực hiện chính sách lãi suất đồng bộ, tiến tới tự do hoá lãi suất Trên cơ sở đó thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

doc26 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1090 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Sau 20 năm tiến hành đổi mới nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) dưới sự điều tiết và quản lý vĩ mô của Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Trước ngưỡng cửa của sự hội nhập, trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), Đảng và Nhà nước ta luôn xác định chiến lược phát triển kinh tế xã hội là sẽ tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công đường lối đổi mới là phải ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và có các chính sách kinh tế phù hợp. Trong đó chính sách tiền tệ là một chính sách kinh té quan trọng tác động mạnh mẽ nhiều mặt đến các biến số kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ là một công cụ điều tiết vĩ mô cực kỳ quan trọng, nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, kiềm chế lạm phát, hạn chế thất nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã đạt mức cao song tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức cao, đồng nội tệ ngày càng mất giá ... Điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải có một chính sách tiền tệ đúng đắn, linh hoạt để tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, bền vững, đồng thời đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Với những nhận định trên, em quyết định lựa chọn chủ đề: "Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập". NỘI DUNG CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 1.1 Vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ 1.1.1 V ị trí Kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Ở đó bao giờ chính sách tiền tệ cũng là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Nhà nước, bên cạnh chính sách tài khoá, chính sách phân phối thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại… NHNN sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt chặt trong việc cung ứng tiền tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc gia đến mức mong muốn. Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của NHNN. Có thể coi chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt trong mọi hoạt động của NHNN. Các hoạt động khác của NHNN đều nhằm thực thi chính sách tièn tệ đạt được các mục tiêu của nó. 1.1.2 Nhiệm vụ Chính sách tiền tệ, một mặt là cung cấp đủ phương tiện thanh toán cho nền kinh tế (lượng tiền cung ứng), mặt khác phải giữ ổn định giá trị đồng bản tệ. Để thực hiện được điều đó, thông thường trên thé giới, việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ được giao cho NHNN. Có một số nước, việc xây dựng chính sách tiền tệ có thể do một cơ quan khác, nhưng thực hiện chính sách tiền tệ vẫn là NHNN. Tuy nhiên trong lĩnh vực này, NHNN cần được độc lập ở một mức độ nhất định với Chính phủ. 1.2 Mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia 1.2.1 Kiểm soát lạm phát Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung theo thời gian. Khi lạm phát ở mức độ cao (lạm phát phi mã, siêu lạm phát) thì sẽ dẫn tới phân phối lại thu nhập và của cải giữa các tầng lớp giai cấp khác nhau. Khi giá cả tăng lên một cách bất thường thì người mất là những người đang nắm giữ các tài sản danh nghĩa, còn người được là những người có các khoản nợ tính theo các giá trị danh nghĩa. Khi lạm phát tăng lên ở mức độ cao, thu nhập thực tế của dân cư sẽ giảm, đời sống nhân dân lao động giảm sút, lạm phát cao còn gây ra hiện tượng đầu tư tích trữ hàng hoá và hiện tuợng chuyển tiền sang các loại hàng hoá khác, làm cho cầu về hàng hoá tăng (gồm cả cầu giả tạo) dẫn tới mất cân đối cung cầu và giá cả hàng hoá tăng lên, làm cho lạm phát tăng càng cao và dễ bị rơi vào vòng xoáy lạm phát nếu tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài. Còn khi lạm phát ở mức độ vừa phải (lạm phát dự tính thì nó không có tác động tiêu cực mà còn có tác động thúc đẩy kinh tế tăng trưởng . Tuy nhiên thực chất của việc kiểm soát lạm phát là chấp nhận sự biến động với một biên độ cho phép. Còn khi lạm phát ở mức cao thì NHNN sẽ sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt đẻ làm giảm mức cung ứng tiền, giảm lạm phát. Như vậy, nhiệm vụ của NHNN là kiểm soát lạm phát tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển bình thuờng, đảm bảo đời sống cho người lao động 1.2.2 Ổn định giá trị đồng bản tệ Kiểm soát lạm phát được biều hiện trước hết ở chỗ ổn định giá trị đối nội, giá trị đối ngoại của đồng tiền. Giá trị đối nội và giá trị đối ngoại củat đồng tiền có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái. Trong nền kinh tế mở, một sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ít hay nhiều đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nước tuỳ theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế. Một tỷ giá hối đoái quá thấp (đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với ngoại tệ) có tác dụng khuyến khích nhập khẩu gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu tương đối đắt khi bán cho nước ngoài. Như vậy sẽ gây trở ngại trong nước về xuất khẩu, bất lợi cho những chuyển dịch ngoại tệ từ nuớc ngoài vào trong nước. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao (đồng bản tệ có giá trị thấp so với ngoại tệ) có tác dụng bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu tương đối đắt, hàng xuất khẩu tương đối rẻ hơn. Như vậy một tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều dẫn tới những tác động kép tích cực và tiêu cực. Do đó nhiệm vụ của NHNN là sử dụng những công cụ, chính sách của mình, can thiệp, giữ cho tỷ giá không thăng trầm quá đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của nền kinh tế quốc dân trong nuớc. 1.2.3 Tạo việc làm và giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp Những người trong lực lượng lao động khi không có việc làm sẽ trở thành người thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mỗi quốc gia có nền kinh tế thị truờng cho dù quốc gia đó là phát triển, đang phát triển hay kém phát triển. Khi tỷ lệ thất nghiệp cao, sản xuất sút kém các nguồn lực không được sử dụng hết, thu nhập của dân cư giảm sút. Khó khăn kinh tế tràn sang lĩnh vực xã hội, nhiều hiện tượng tiêu cực phát triển, tác hại của thât nghiệp là rất rõ ràng. Thất nghiệp luôn gắn liền với các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, tổn thương về mặt tâm lý và niềm tin của nhiều người, có thể phá vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống, làm xói mòn lối sống lành mạnh … Mục tiêu của chính sách tiền tệ là tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp chứ không phải là làm cho thất nghiệp bằng không mà ở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Trong thực tế có một số người thất nghiệp có lợi cho nền kinh tế. Đó là khi người lao động quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó bị thất nghiệp trong thời gian đang tìm việc làm. Hoặc một số nguời lao động tự nguyện rời bỏ công việc của mình để theo đuổi các hoạt động khác như học tập hay du lịch … và khi họ quyết định gia nhập trở lại thị truờng lao động, họ phải mất một thời gian đẻ tìm đúng công việc mà họ mong muốn. Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm, tức đến tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của NHNN nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ, tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và Nhà nước cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng. 1.2.4 Ổn định và tăng trưởng kinh tế Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn chặt với mục tiêu việc làm cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh nghiệp cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại. 1.2.5 Các mục tiêu trung gian Trong nền kinh tế thị trường NHNN phải xác định các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tề, nhằm đạt đến các mục tiêu cuối cùng của chính sách này. Bởi lẽ, NHNN sử dụng các mục tiêu trung gian để có thể xét đoán nhanh chóng tình hình thực hiện hoạt động của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng hơn là chờ cho đến khi nhìn thấy kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó. Bằng việc tăng giảm các khối lượng tiền tệ NHNN góp phần đến tác đông tăng, giảm tổng cung và tổng cầu tiền tệ của xã hội. Đồng thời NHNN cũng có thể sử dụng công cụ lãi suất để tác động đến sự tăng giảm khối luợng tiền tệ, từ đó tác động đến tổng cung và tổng cầu của xã hội. 1.2.6 Quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ Nhìn tổng quát và có chiến lược lâu dài thì các mục tiêu chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó cho thấy rằng trong quá trinh thực hiện chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hoá một mục tiêu nào, không thể giải quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy nhiên, có nơi có lúc, trong thời gian ngắn có thể xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu. Điều thường gặp và dễ thấy nhất là sự mâu thuẫn giữa tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp. Tuy vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau, song nhìn chung, mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng bản tệ, trên cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. 1.3 Các công cụ của chính sách tiền tệ 1.3.1 Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) NVTTM là hoạt động NHNN mua bán các giấy tờ có giá với mục đích tác động đến thị trường tiền tệ, điều hoà cung và cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM tại NHNN, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng này từ đó làm thay đổi mức cung tiền. Trên thị trưởng mở NHNN chủ yếu mua bán trái phiếu của Chính phủ. Bằng cách mua trái phiếu NHNN làm tăng khối dự trữ của NHTM. Khi đó, NHTM có thể mở rộng khả năng cho vay gấp bội lần tuỳ theo mức dự trữ bắt buộc. Hơn nữa việc NHNN mua trái phiếu với lãi suất thấp góp phần tăng cung tín dụng từ đó làm lãi suất tín dụng hạ thấp, kích thích các doanh nghiệp đi vay. Đây cũng là một cách gia tăng khối tiền tệ. NVTTM là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất bởi vì nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ, và là nguồn chính gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ. Có hai loại NVTTM là NVTTM chủ động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ; NVTTM thụ động nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ. NVTTM có những ưu và nhược điểm sau: - Ưu điểm NVTTM linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào. NVTTM dễ dàng được đảo ngược lại. Khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành NVTTM, NHNN có thể lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. NVTTM có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây ra những chậm trễ về mặt hành chính. - Nhược điểm: đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán phát triển và chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng. 1.3.2 Công cụ chiết khấu Nghiệp vụ vủa NHTM là kinh doanh tiền tệ, tức là nhận tiền gửi và cho vay phần lớn tiền gửi đó. Nhưng không phải lúc nào hoạt động của ngân hàng cũng thuận lợi. Có những lúc người gửi tiền đến rút tiền quá nhiều, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng kẹt vốn. Những trường hợp ào ạt rút tiền thường xảy ra theo những chu kỳ kinh tế. Do đó nhiều ngân hàng khó tránh khỏi tình trạng thiếu khả năng chi trả, do đó nều không có NHNN, ngân hàng trung gian sẽ rất nguy hiểm vì dễ rơi vào tình trạng phá sản. Chính vào những lúc khó khăn đó, NHTM sẽ tìm mọi cách để có được vốn để chi trả, có thể là đi vay, và người cho vay cuối cùng của NHTM chính là NHNN. NHNN sẽ cấp tín dụng cho NHTM qua nhiều hình thức, thông dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức tái chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu tức là NHNN đã làm tăng khối tiền tệ. Thông qua lãi suất tái chiết khấu, NHNN có thể khuyến khích giảm hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế, đồng thời giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền Chiết khấu và tái chiết khấu có những ưu đểm và nhược điểm sau: - Ưu điểm Các khoản cho vay của NHTM đều được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá. Do nó có khả năng tự thanh toán. Có tính chất tích cực hơn biện pháp hạn mức tín dụng do chịu sự tác động của quy luật cung cầu - Nhược điểm NHNN bị thụ động do yếu tố chủ động đi vay hay không nằm ở NHTM Yếu tố chính trị trong lãi suất chiết khấu quá lớn. Việc áp đặt một lãi suất chiết khấu chịu yếu tố chủ quan của NHNN rất lớn, nó có thể đưa ra một lãi suất chiết khấu không phù hợp với lãi suất thị trường khi NHNN bị phụ thuộc nhiều vào Chính phủ. 1.3.3 Dự trữ bắt buộc NHNN được giao quyền bắt buộc các ngân hàng trung gian phải ký gửi tại NHNN một phần của tổng số tiền gửi mà ngân hàng trung gian nhận được từ dân cư và các thành phần kinh tế theo một tỷ lệ nhất định. Phần bắt buộc ký gửi đó được gọi là dự trữ bắt buộc và tỷ lệ phần trăm mà NHNN quy định như trên gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Mục đích của việc thực hiện dự trữ bắt buộc là nhằm: Giới hạn khả năng thương mại của ngân hàng trung gian, tránh được trường hợp ngân hàng này quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể gây hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền ở ngân hàng tức là đảm bảo an toàn tiền gửi của khách hàng. Việc tập trung dự trữ của ngân hàng trung gian ở NHNN còn là một phương tiện để NHNN có thêm quyền lực để điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của ngân hàng trung gian đối với NHNN. Duy trì khả năng thanh toán của các ngân hàng trung gian trong những trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền gửi của công chúng, tránh được tình trạng khủng hoảng ngân hàng. 1.3.4 Kiểm soát hạn mức tín dụng Chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc sẽ giới hạn mức tín dụng tối đa cấp cho những ngành mà Nhà nước không muốn phát triển nữa, ngược lại, ưu đãi những ngành hoạt động được coi như ưu tiên, cần yểm trợ tín dụng mạnh hơn. Nếu không có chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc, NHNN sẽ chỉ hướng tín dụng vào những ngành kinh doanh lớn, xí nghiệp nuớc ngoài, mua bán chứng khoán, ít chú trọng tới những ngành hoạt động có lợi ích xã hội. Ấn định hạn mức tín dụng là việc NHNN quy định một khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định. Việc ấn định hạn mức tín dụng có ưu điểm là giúp NHNN quản lý điều tiết được lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế khi các công cụ truyền thống không hiệu quả. Nhược điểm của công cụ này là tổng dư nợ thực tế của NHTM là không bằng hạn mức tín dụng mà NHNN quy định từ trước. Làm giảm bớt động lực cạnh tranh giữa NHTM vì các NHTM hoạt động tốt khi sử dụng hết hạn mức tín dụng cũng không thể huy động vốn được thêm trong khi các NHTM hoạt động kém vẫn được huy động vốn vì chưa hết hạn mức. 1.3.5 Cung ứng tiền mặt pháp định NHNN có thế trực tiếp làm tăng, giảm dự trữ và cung ứng tiền bằng các nghiệp vụ thị trường hối đoái và nghiệp vụ cho vay với Chính phủ, ngoài NVTTM và cho vay chiết khấu, tái chiết khấu. Khi NHNN đưa tiền mặt ra mua ngoại tệ, lập tức sẽ làm gia tăng lượng tiền trong lưu thông, dẫn đến tỷ giá lên cao, nghĩa là phá giá đồng bản tệ. Ngược lại, khi NHNN đem ngoại tệ ra bán, làm giảm nhanh cung ứng tiền, lượng tiền trong lưu thông giảm đi, tỷ giá ngoại tệ hạ thâp xuống, tức là nâng giá đồng bản tệ. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 2.1 Khái quát tình hình thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2001 - nay *Giai đoạn 2001-2003 *Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 2001-2003 + Nghiệp vụ thị trưởng mở Sau hơn 3 năm hoạt động, tính đến cuối năm 2003 thị trưởng mở dã có hơn 22 thành viên, trong đó có 4 NHTM quốc doanh, 10 NHTM cổ phần, 5 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng Trung ương và một công ty tài chính. Quy mô và doanh số trong hoạt động của thị trường ngày càng tăng thể hiện sự phát triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này, thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau: Đơn vị: triệu VNĐ Chỉ tiêu 6 tháng cuối năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 102 phiên 2003 (đến 16/12/2003) Tổng cộng Doanh số hoạt động 1.903,5 3.933,8 9.145,53 16.740 31.722,83 NHNN mua 1.353,5 3.313,8 7245,53 9.500 21.412,83 NHNN bán 550 620 1.900 7.240 10.310 Số phiên giao dịch 17 48 85 102 252 Nguồn: NHNN Trong năm 2002 bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch mua có kỳ hạn và bán hẳn, NHNN đã tổ chức được 85 phiên thị trường mở, với tổng khối lượng giao dịch 9145,53 tỷ đồng, bằng 232,48% so với năm 2001. Thông qua đó NHNN cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế hoặc rút bớt tiền từ lưu thông về, tạo điều kiện cho các NHTM tham gia có hiệu quả trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cụ thể: thông qua 57 phiên giao dịch theo phuơng thức mua có kỳ hạn NHNN đã cung ứng 7.254,53 tỷ đồng vốn cho NHTM. Thông qua 28 phiên giao dịch theo phương thức bán hẳn thu về 1.900 tỷ đồng vốn. Lãi suất trúng thầu trên thị trường mở bình quân mua vào là 4,9%/năm và lãi suất trúng thầu bán ra là 4,7%/năm. Tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay của các NHTM đối với doanh nghiệp và khách hàng. Trong năm 2003 bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch mua có kỳ hạn và bán hẳn, tính đến ngày 16/12/2003 NHNN đã tổ chức được 102 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu ước tính là 16.740 tỷ đồng cho các NHTM, trong đó khối lượng giấy tờ có giá là 9.500 tỷ đồng, bán hẳn là 7.240 tỷ đồng. Tức là thông qua thị trường này trong năm 2003 NHNN đã cung ứng gần 8.000 tỷ đồng cho các NHTM tăng đáng kể so với năm 2001 và năm 2002... Qua 4 năm hoạt đông từ năm 2000 đến năm 2003, thị trường mở vẫn tồn tại một số hạn chế, đó là hầu như chỉ có NHTM Nhà nước tham gia, các NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh chưa có cơ hội tham gia hay tham gia chưa có hiệu quả. + Về tái cấp vốn Công cụ tái cấp vốn đã được điều hành theo hướng thực hiện nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng, khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng, tiếp tục thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, hạn chế xu hướng giảm chỉ số giá tiêu dùng. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu trong năm 2001 được điều chỉnh giảm hai lần, xuống còn 0,4%/tháng vào tháng 7/2001 tạo thuận lợi cho việc thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ. Trong năm 2003 lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu được điều chỉnh giảm với biên độ 0,6 - 1,2%/năm, không tương ứng với chiều hướng và biên độ biến động của lãi suất thị trường tiền tệ. Đối với lãi suất tái cấp vốn tháng 3/2003 tăng 1,8%/năm so với 1/6/2002. Đây không phải là biển hiện "thắt chặt tiền tệ", mà NHNN thay đổi cơ chế điều hành lãi suất thị trường liên ngân hàng, bằng việc lấy lãi suất tái cấp vốn là lãi suất chiết khấu làm trần, sàn. Đơn vị: %/năm 1/6/02 31/12/03 31/3/03 30/6/03 30/9/03 31/12/03 Lãi suất tái cấp vốn 4,8 4,8 6,6 6,6 5,0 5,0 Lãi suất chiết khấu 4,2 4,2 4,2 4,2 3,0 3,0 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước + Về dự trữ bắt buộc Năm 2001 việc nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ lên 15%, tiến hành đồng thời với việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng Việt Nam đồng xuống còn 3%, thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất và tỷ giá, góp phần thu hẹp chênh lệch lãi suất tiền gửi Việt Nam đồng, qua đó góp phần hạn chế tình trạng đô la hoá. NHNN đã quy định điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ xuống 10% (do xu hướng giảm mạnh lãi suất trên thị trường quốc tế tháng 12/2001). Trong năm 2002 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh giảm 2 lần xuống 8% vào tháng 4/2002 và xuống 5% vào tháng 12/2002, tạo điều kiện để hạn chế những tác động bất lợi của diễn biến lãi suất trên thị trường quốc tế đến hoạt động các tổ chức tín dụng. + Về lãi suất Năm 2001, NHNN tiếp tục đổi mới điều hành lãi suất theo hướng điều chỉnh lãi suất cơ bản một cách linh hoạt, trên cơ sở bám sát các diễn biến trên thị trường quốc tế và trong nước và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ mức 0,7%/tháng xuống 0,6%/tháng. Cho đến tháng 6/2002 trên thực tế việc điều chỉnh lãi suất cơ bản của NHNN trong năm 2001 phù hợp với diễn biến lạm phát, tỷ giá, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa Việt Nam đồng và ngoại tệ. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ từ tháng 6/2001 NHNN đã bỏ qua cơ chế khống chế theo biên độ chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Theo đó các tổ chức tín dụng được tự do ấn định lãi suất cho vay ngoại tệ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu tín dụng trong và ngoài nước. Riêng với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng, NHNN vẫn quy định khống chế ở mức thấp nhằm hạn chế giảm giữ USD trên tài khoản, hạn chế đô la hoá trong tỷ lệ kết hối giảm xuống mức 40%. Từ 1/6/2002 NHNN bỏ cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận mà theo đó việc kiểm soát lãi suất trên thị trường bằng công cụ hành chính đã chấm dứt. + Về tỷ giá Tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt bám sát biên độ dao động của lãi suất USD trên thị trường quốc tế và cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. Ngày 8/9/2001 NHNN đã quyết định mở rộng kì hạn thực hiện các giao dịch kì hạn hoán đổi của tổ chức tín dụng và điều chỉnh mức tăng tỷ giá giao ngay. Trong năm 2001, tỷ giá giữa VNĐ và USD có diễn biến không đều. Trong 4 tháng đầu năm, tỷ giá tăng ở mức thấp (0,09/tháng). Từ tháng 5 đến tháng 7, tỷ giá bình quân tăng 0,86%/tháng. Riêng tháng 6 tỷ giá tăng tới 1,24%. Sang năm 2002 NHNN tiếp tục điều hành chính sách giá linh hoạt thông qua việc mở rộng biên độ giao dịch theo cả chiều tăng giảm. Năm 2003 tỷ giá 9 tháng đầu năm khá ổn định, chỉ tăng 1% nhưng từ đầu tháng 10/2003 tăng đáng kể. Trong 3 tháng cuối năm, tỷ giá tăng tới 1,2% làm cho mức tăng cả năm là 2,2%. *Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 2004-2005 + Nghiệp vụ thị trường mở Trong năm 2004 nghiệp vụ thị trường mở đã được tăng cường sử dụng như một công cụ chủ yếu trong điều tiết theo mục tiêu chính sách tiền tệ của NHNN thông qua việc bơm/hút vốn khả dụng của tổ chức tín dụng với thời hạn ngắn từ 7 - 60 ngày. Tổng số giao dịch đạt 61936 tỷ đồng, bằng khoảng 3 lần tổng doanh số giao dịch của năm 2003. Khối lượng giao dịch bình quân một phiên tăng mạnh trong năm 2004 là 500 tỷ đồng/phiên. Với thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc 2004, khối lượng bán ra trên 19465 tỷ đồng, tăng hơn 3563 tỷ đồng so với năm 2002. Thành viên tham gia thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc tăng hơn 14 thành viên. Bước sang năm 2005 thì trong 6 tháng đầu năm doanh số giao dịch NHTM đã gần bằng 90% doanh số giao dịch của cả năm 2004. Khối lượng giao dịch trong từng phiên cũng ngày càng tăng bình quân 82 tỷ đồng/phiên năm 2000 lên 725 tỷ đồng/phiên trong 6 tháng đầu năm 2005. + Dự trữ bắt buộc Từ tháng 7/2004 NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi dưới 24 tháng bằng VNĐ và ngoại tệ. Cụ thể đối với tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%. Đối với tiền gửi VNĐ kú hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không có kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% - 8%, loại từ 12 tháng đến 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. - Kiểm soát hạn mức tín dụng NHNN tiếp tục việc tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại và nâng cấp hiệu quả tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Đối với các NHTM Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước vẫn là nhóm khách hàng có tỷ trọng dư nợ tín dụng lớn trong danh mục tín dụng. + Quản lý lãi suất của các NHTM Năm 2004 lãi suất cơ bản ở mức 7,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 5%/năm, lãi suất tái chiết khấu là 3%/năm. Từ tháng 5 các NHTM bắt đầu gặp khó khăn trong việc huy động vốn do chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, các NHTM đã thực hiện điều chỉnh tăng nhẹ lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ và giữ ổn định đến cuối năm, lãi suất huy động không kỳ hạn 2%/tháng, lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng 0,58%/tháng. Trong 8 tháng đầu năm 2005, NHNN đã sử dụng công cụ lãi suất thận trọng, điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7,5%/năm lên 7,8%/năm, lãi suất tái cấp vốn: 5 - 6%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 3%/năm lên 4%/năm, nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn từ thị trường. + Về điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối Trong năm 2004 NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt sát với cung cầu trên thị trường, đồng thời NHNN đã can thiệp trên thị trường ngoại hối vào những thời điểm thích hợp, góp phần ổn định tỷ giá và tạo điều kiện thuận lợi cho thanh toán quốc tế. * tình hình thực hiện chính sách tiền tệ từ năm 2006 - nay Thị trường tài chính quốc tế vẫn biến động như năm 2005 và đặc trưng là giá dầu thô và giá vàng tăng, Fed tiếp tục nâng lãi suất cơ bản lên. Trong nước chỉ số giá tiêu dùng tăng, năm 2006 là 8,7%, 11 tháng đầu năm 2007 tăng 8,9%. Trong năm 2007 để hạn chế lạm phát, Ngân hàng nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tăng lãi suất tái chiết khấu và chỉ đạo các Ngân hàng thương mại tăng cường kiểm soát tín dụng. 2.2 Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay 2.2.1 Tình hình lạm phát Tỷ lệ lạm phát thời kỳ 2002– nay Đơn vị: % Năm 2002 2003 2004 2005 2006 11 tháng 2006 Tỷ lệ lạm phát 4,0 3,0 9,5 8,4 8,7 8,9 Nguồn : Niên giám thống kê 2.2.1.3 Tình hình thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã lên mức báo động. Theo tính toán không chính thức của Ngân hàng Thế giới, thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam xấp xỉ 7%, lao động qua dạy nghề chiém tỷ trọng không lớn trong tổng số lao động, theo tính toán của Bộ lao động và Thương binh xã hội thì tỷ trọng này chỉ đạt 12,2%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị trong những năm gần đây còn ở mức cao. 2.2.1.4 Tình hình tăng trưởng kinh tế Trong công cuộc đổi mới kinh tế trong những năm vừa qua, chúng ta đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nền kinh tế đã đạt được kết quả tương đối cao và bắt đầu có tích luỹ, đầu tư được mở rộng, sản xuất lưu thông phát triển. Chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 8,6%/năm. 2.2.2 Sử dụng các công cụ tiền tệ 2.2.2.1 Nghiệp vụ thị trường mở Ở Việt Nam hiện nay NVTTM chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền. Nguyên nhân cơ bản nhất là chúng ta mới chỉ có thị trường sơ cấp, còn thị trường thứ cấp mới được hình thành và manh nha hoạt động. hàng hoá trên thị trường chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhưng khối lượng đuợc phát hành còn ít lại chưa thường xuyên. 2.2.2.2 Công cụ chiết khấu Trong quá trình đổi mới, một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển khu vực thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng hoàn thiện việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn từ thế bị động sang chủ động 2.2.2.3 Dự trữ bắt buộc Đến năm 2004 tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%. Đối với tiền gửi VNĐ kú hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từu 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không có kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% - 8%, loại từ 12 tháng đến 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Năm 2007 Ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gần gấp đôi để giảm lượng cung tiền góp phần kiềm chế lạm phát. 2.2.2.4 Quản lý ngoại hối Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ, năm 1999 NHNN đã tăng cường theo dõi, giám sát các tổ chức tín dụng thựuc hiện các quy định của Thủ tướng Chính phủ về kết hối ngoại tệ, thường xuyên có đánh giá tình hình thực hiện và kịp thời trình Chính phủ sửa đổi cơ chế cho phù hợp với thực tế (giảm tỷ lệ kết hối bắt buộc đối với các tổ chức kinh tế có nguồn thu ngoại tệ vãng lai từ 80% xuống còn 50% số ngoại tệ thu được); xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về việc quy định người Việt Nam ở nuớc ngoài chuyển tiền về nước nhằm thu hút nguồn ngoại tệ phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. 2.3 Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 2.3.1 Những mặt đạt được Giữ được ổn định vĩ mô, ổn định tỷ giá điều chỉnh lãi suất phù hợp để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Huy động được vốn đầu tư bù đắp sự giảm sút vốn đầu tư nước ngoài, đáp ứng nhu cầu đầu tư của Nhà nước, đáp ứng đủ ngoại tệ để đàu tư những dự án trọng điểm với lãi suất thấp hơn lãi suất quốc tế. Ổn định lưu thông tiền tệ, đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn cho phát triển kinh tế trong bối cảnh cơ sở vật chất tự có còn rất hạn chế. Dư nợ tín dụng tăng mạnh và tỷ trọng tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh cũng được cải thiện đáng kể. Việc cho ra đời và vận hành một chính sách tiền tệ theo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động tiền trong nền kinh tế thị trường là một bước ngoặt trong lịch sử điều hành và thể hiện quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ ngân hàng trong thời gian qua. 2.3.2 Những hạn chế còn tồn tại Tỷ lệ lạm phát biến động không đồng đều, năm 2000 lạm phát nước ta - 0,6%. Đến năm 2003 tỷ lệ lạm phát là 3,0%. Những năm gần đây lạm phát tăng, Tỷ lệ trên 8%/năm, lạm phát đã gây ra những tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp đã lên đến mức báo động khoảng 7%, gây lãng phí về nguồn lực và gây ra các tệ nạn xã hội. 2.3.3 Nguyên nhân 2.3.3.1 Nguyên nhân chủ quan Hiện nay NHNN Việt Nam đang sử dụng một hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp như hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá và các công cụ gián tiếp như như dự trữ bắt buộc và chính sách tái cấp vốn nhưng hiệu quả tác động còn rất hạn chế. Các công cụ trực tiếp không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện ứ đọng vốn. NHNN không có công cụ để hấp thụ vốn khả dụng thừa một cách chủ động ngoài dự trữ bắt buộc (nhưng rất chậm chạp). Hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi dụng được các kênh dẫn suất đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại tệ. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ hiện có chưa phát huy tối đa tác dụng trong cơ chế thị trường, thậm chí có công cụ vẫn còn ở dạng sơ khai và rất thiếu các công cụ cần thiết để đáp ứng đòi hỏi mới của tình hình. 2.3.3.2 Nguyên nhân khách quan Giá cả nguyên nhiên vật liệu, vàng trên thế giới biến động. Đặc biệt thời gian gần đây giá xăng dầu tăng cao. 2.3.3.3 Nguyên nhân thuộc về người lập, ra quyết định và thực hiện quyết định. Những ngưới lập chính sách còn chưa có trình độ cao, nhiều khi còn ra các quyết định các sai lầm, thêm vào đó là chất lượng thông tin về các biến số vĩ mô còn chưa được cao. Những biện pháp đề ra chưa đủ nhanh, mạnh, nội dung công việc triển khai chậm chưa bám sát thực tiễn. 2.3.3.4 Sự thiếu đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế khác. Để kiềm chế lạm phát Chính phủ có thể sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, làm giảm lượng tiền trong lưu thông nhưng điều đó có thể làm giảm tỷ giá hối đoái (đồng nội tệ lên giá so với đồng ngoại tệ), vì vậy sẽ là nguy cơ của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại… CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP 3.1 Một số giải pháp nâng cao nghiệp vụ thị trưởng mở Ở Việt Nam hiện nay, NVTTM chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ Để hoàn thiện NVTTM cần có các giải pháp sau: Hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả NVTTM. Để thực hiện tốt NVTTM, NHNN cần có bộ máy gồm các chuyên gia tài chính - tiền tệ giỏi chuyên môn theo dõi, phân tích đánh giá diễn biến tình hình tiền tệ, lạm phát… để đưa ra những quyết định can thiệp vào thị trường một cách kịp thời, cùng các công cụ khác thực thi có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ. Bộ máy này có thể gọi là Ban thị trường mở trực thuộc NHNN. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban thị trường mở gồm: Theo dõi, tính toán, dự toán vốn khả dụng của các ngân hàng. Các thông tin này giúp Ban thị trường mở quyết định cần phải thay đổi vốn khả dụng của các NHTM ở mức độ cần thiết để đạt được yêu cầu cung ứng tiền tệ. Theo dõi diễn biến xu hướng vận động của tình hình lạm phát, lãi suất đầu tư, cùng kết quả phân tích ở trên, tính toán đề xuất phương án mua hoặc bán, khối lượng mua bán từng đợt, lãi suất trình Thống đốc quyết định. Phát triển công nghệ ngân hàng, bao gồm con người và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Ban hành quy chế về hoạt động của thị trường mở và hình thành cơ chế can thiệp linh hoạt, kịp thời của NHNN trên thị trưởng mở. NHNN cần xác định rõ các công cụ được mua bán trên thị trường mở, quy định cụ thể phạm vi đối tượng tham gia thị trường mở. NHNN cũng cần thực hiện linh hoạt cơ chế mua bán tại thị trường mở. Khi cần tăng lãi suất trên thị trường hoặc khống chế khối lượng tiền tệ trong lưu thông, NHNN đặt mua lại các tín phiếu trên thị trường mở với mức lãi suất cao, mức lãi suất đó sẽ tác động đến lãi suất thị trường nói chung, đồng thời giúp NHNN nhanh chóng thu hẹp được khối tiền tệ ngoài lưu thông như dự định. Các biện pháp liên quan khác Việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc phải tập trung vào một đầu mối thông qua NHNN làm đại lý NHNN cần tiếp tục củng cố, hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoạt động thực sự sôi nổi, lành mạnh và thực hiện đóng vai trò người cho vay cuối cùng. Thực hiện các biện pháp cần thiết, đồng bộ từ Chính phủ, uỷ ban chứng khoán Nhà nước đến các ngành, các cấp để thị trường chứng khoán ngày càng nhiều hàng hoá và hoạt động có hiệu quả. Thực hiện các biện pháp để thúc đẩy hình thức tín dụng thương mại và ban hành các quy chế hoạt động, các văn bản hướng dẫn liên quan. Hệ thống NHTM cần tiếp tục đổi mới công nghệ thanh toán, tiến tới thự hiện xã hội hoá việc mở tài khoản thanh toán cho các chủ thể trong xã hội. Có như vậy khi các chủ thể này tham gia mua bán tín phiếu tại thị trường mở, nó sẽ nhanh chóng tác động ngay đến khả năng tín dụng của cac NHNN và công cụ thị trưởng mở mới có thể phát huy hết các ưu thế vốn có của mình. 3.2 Các giải pháp đối với lãi suất 3.2.1 Chính sách lãi suất đồng bộ Lãi suát cho vay bằng nội tệ cần phải dựa trên các cơ sở sau: Tỷ lệ lạm phát: lãi suất danh nghĩa phải được xác định cao hơn tỷ lệ lạm phát để đảm bảo một tỷ lệ lãi suất thực duơng. Tỷ suất lợi nhuận bình quân: giới hạn tối đa đối với tỷ lệ lãi suất là tỷ suất lợi nhuận bình quân. Cơ cấu rủi ro: mức độ rủi ro của một khoản vay xác định lãi suất của khoản vay đó, theo đó rủi ro càng cao thì lãi suất càng cao. Cơ cấu ưu tiên: một mức lãi suất thấp hơn sẽ áp dụng cho các khu vực được ưu tiên như khu vực các doanh nghiẹp quốc doanh hay khu vực nông nghiệp, khu vực sản xuất hàng xuất khẩu. Chi phí hoạt động của ngân hàng Lãi suất cho vay phải bù đắp được các chi phí hoạt động cho ngân hàng và đảm bảo có lãi cho các ngân hàng. Mối quan hệ giữa lãi suất cho vay bằng nội tệ và các loại lãi suất khác Tiền lãi suát cho vay bằng ngoại tệ và nội tệ phải cân xứng nhau tuỳ theo sự biến động của tỷ giá, tốc độ mất giá của đồng nội tệ sao cho chi phí vay vốn bằng nội tệ hay ngoại tẹ đều như nhau. Tiền lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn đều là các công cụ của chính sách tiền tệ. Chúng cần được điều hành đồng bộ với nhau để thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3.3. Một số công cụ gián tiếp điều hành chính sách tiền tệ Các công cụ trực tiếp ngày càng bộc lộ những yếu điểm và ngày càng kém hiệu lực trong một nền kinh tế thị trường đầy biến động. Để có một chính sách tiền tệ mềm dẻo, linh hoạt cần có các công cụ gián tiếp mới và tăng cường sử dụng các công cụ gián tiếp cũ. Để có thể sử dụng các công cụ gián tiếp cần phải: Có một hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh. Một thị trường tiền tệ thứ cấp hoạt động tích cực và được điều tiết hiệu quả. 3.4. Hoàn thiện bộ máy hành chính, giảm bớt sự bất cập của các thủ tục hành chính. Các thủ tục hành chính vẫn còn rắc rối, kém hiệu quả, nhiều chỗ còn chưa rõ ràng, có khi còn chồng chéo còn chưa hợp lý. Do đó cần phải có một cơ chế thông thoáng hơn, hợp lý hơn, cần có các văn bản hướng dẫn việc thi hành các văn bản pháp luật một cách rõ ràng, cụ thể, chính xác; bộ máy hành chính nói chung và của NHNN nói riêng còn cồng kềnh, yếu kém, còn nhiều bất cập, làm việc kém hiệu quả cho nên các quyết định nhiều khi chưa chính xác, việc chỉ đạo thực hiện các chính sách nhiều khi chậm trễ, không hiệu quả. Yếu tố con người là cực kỳ quan trọng do đó cần phải đào tạo, bồi dưỡng để có những cán bộ tín dụng có kiến thức, trình độ, có đạo đức, trình độ nghề nghiệp và phải có bản lĩnh, kinh nghiệp nghề nghiệp. Bên cạnh đó cần phải giảm biên chế bộ máy hành chính, tăng cường các mối quan hệ theo chiều ngang. Tiếp tục thực hiện một cách mạnh mẽ dứt điểm việc củng cố, sắp xếp các tổ chức tín dụng. Ngoài ra cần nâng cao chất lượng thông tin, bao gồm cả thông tin tài chính và thông tin phi tài chính, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng mà trọng tâm là nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng. Phát triển các công cụ và dịch vụ thanh toán, không dùng tiền mặt để dễ dàng hơn trong viẹc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, lưu thông, điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả hơn. 3.5 Kết hợp chính sách tiền tệ với các chính sách khác Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế - xã hội quan trọng của quốc gia, nó có quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác, nhất là chính sách tài khoá quốc gia. Do đó khi điều hành chính sách tiền tệ cần phải đặt trong mối quan hệ với các chính sách khác, trong một tổng thể vĩ mô vì các biến số vĩ mô cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các công cụ của chính sách tiền tệ cũng cần được sử dụng một cách đồng bộ cùng hướng đến mục tiêu định trước. Để làm được điều đó cần phải chú ý đến cả các tác động trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn của các chính sách, các công cụ riêng lẻ. Cần có sự phối hợp giữa các bộ ngành có liên quan. Đặc biệt cần tăng cường sự phối hợp giữa NHNN và Bộ tài chính trong điều hành chính sách tài chính tiền tệ. KẾT LUẬN Nền kinh tế nước ta đang đứng trước thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập toàn diện, do đó cần có một chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp và hiệu quả. Qua 20 năm đổi mới và những cải cách mạnh mẽ trong ngành ngân hàng, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu lớn: ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ giá, ổn định lưu thông tiền tệ, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao… Tuy nhiên, hiệu quả tác động của các công cụ của chính sách tiền tệ còn rất hạn chế, NVTTM chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền, công cụ quản lý lãi suất NHTM và quản lý ngoại hối chưa phát huy được hết vai trò của mình. Trước tình hình đó, NHNN cần phải có các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam như hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả NVTTM, nâng cao nguồn nhân lực, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, thực hiện chính sách lãi suất đồng bộ, tiến tới tự do hoá lãi suất… Trên cơ sở đó thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐCSVN, 2001, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia. FREDERIC S.MISHKIN, 2001, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB khoa học kỹ thuật. Lê Thanh Hà - Nguyễn Hồng Mai, 2004, Thẳt chặt tín dụng để kiềm chế lạm phát, Tạp chí Tài chính, số 8/2004, tr 29 – 31. Lê Thị Thuỳ Vân, 2004, “Bắt đầu chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ toàn cầu”, Tạp chí Tài chính, số 8/2004, tr 47 – 48. Lê Vinh Danh, 1996, Tiền và hoạt động ngân hàng, NXB Thống kê. Lê Văn Tư, 1999, Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, NXB Thống kê. Niên giám thống kê năm 1999, 2003. Tạp chí Ngân hàng số 7, 10, 12/1999 và số 2, 5, 9/2002. Th.S Trần Nguyên Nam, 2004, “Điều hành chính sách tiền tệ tác động như thế nào đến biến động giá cả”, Tạp chí Tài chính, số 8/2004, tr 27 – 29. TS Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyếtTài chính Tiền tệ, NXB Thống kê. TS Phan Văn Tính, 2006, “Bàn về xây dựng NHNN Việt Nam theo thể chế ngân hàng Trung ương độc lập, Tạp chí Tài chính, số 8/2006, tr 35 – 37.  LỜI MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 2 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2 1.1 Vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ 2 1.1.1 V ị trí 2 1.1.2 Nhiệm vụ 2 1.2 Mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia 3 1.2.1 Kiểm soát lạm phát 3 1.2.2 Ổn định giá trị đồng bản tệ 3 1.2.3 Tạo việc làm và giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp 4 1.2.4 Ổn định và tăng trưởng kinh tế 5 1.2.5 Các mục tiêu trung gian 5 1.2.6 Quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ 5 1.3 Các công cụ của chính sách tiền tệ 6 1.3.1 Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) 6 1.3.2 Công cụ chiết khấu 7 1.3.3 Dự trữ bắt buộc 8 1.3.4 Kiểm soát hạn mức tín dụng 8 1.3.5 Cung ứng tiền mặt pháp định 9 CHƯƠNG II 10 THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 10 Ở VIỆT NAM 10 2.1 Khái quát tình hình thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2001 - nay 10 2.2 Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay 15 2.2.1 Tình hình lạm phát 15 2.2.1.3 Tình hình thất nghiệp 15 2.2.1.4 Tình hình tăng trưởng kinh tế 15 2.2.2 Sử dụng các công cụ tiền tệ 16 2.2.2.1 Nghiệp vụ thị trường mở 16 2.2.2.2 Công cụ chiết khấu 16 2.2.2.4 Quản lý ngoại hối 16 2.3 Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 17 2.3.1 Những mặt đạt được 17 2.3.2 Những hạn chế còn tồn tại 17 2.3.3 Nguyên nhân 17 2.3.3.1 Nguyên nhân chủ quan 17 2.3.3.2 Nguyên nhân khách quan 18 2.3.3.3 Nguyên nhân thuộc về người lập, ra quyết định và thực hiện quyết định. 18 2.3.3.4 Sự thiếu đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế khác. 18 CHƯƠNG III 19 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP 19 3.1 Một số giải pháp nâng cao nghiệp vụ thị trưởng mở 19 3.2 Các giải pháp đối với lãi suất 20 3.2.1 Chính sách lãi suất đồng bộ 20 3.3. Một số công cụ gián tiếp điều hành chính sách tiền tệ 21 3.4. Hoàn thiện bộ máy hành chính, giảm bớt sự bất cập của các thủ tục hành chính. 21 3.5 Kết hợp chính sách tiền tệ với các chính sách khác 22 KẾT LUẬN 23 TÀI LIỆU THAM KHẢO 24

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0731.doc
Tài liệu liên quan