Chuyên đề Thẩm định dự án xây dựng câu lạc bộ bida tại đường Nguyễn Ảnh Thủ, Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh

MỞ ĐẦU Trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh,trong đó có hoạt động đầu tư được xem xét từ hai góc độ: nhà đầu tư và nền kinh tế. Trên góc độ nhà đầu tư , mục đích cụ thể có nhiều nhưng quy tụ lại là yếu tố lợi nhuận. khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Chính vì vậy, xu hướng phổ biến hiệu quả nhất hiện nay là đầu tư theo dự án.Dự án đầu tư có tầm quan trọng đặc biệt với sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và đối với từng doanh nghiệp nói riêng. Sự thành bại của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc đầu tư dự án có hiệu quả hay không. muốn cho đầu tư có hiệu quả thì chúng ta phải làm tốt từ khâu chuẩn bị cho đến khi vận hành kết quả đầu tư. Nhưng không phải mọi dự án khi thực hiện đều mang lại hiệu quả. Do vậy, trước khi thực hiện dự án cần phải thẩm định, kiểm tra xem dự án có mang lại hiệu quả kinh tế hay không. Nhằm mục tiêu lựa chọn những dự án tốt với tính khả thi cao và loại bỏ những dự án xấu.Việc phân tích chính xác các chỉ tiêu kinh tế của dự án sẽ chứng minh được điều này. Theo nhịp phát triển chung của nền kinh tế thì các ngành dịch vụ đang được đẩy mạnh và phát triển. nhu cầu giải trí của con người ngày càng được chú trọng hơn. Chính vì lẽ đó nên em đã chọn đề tài : THẨM ĐỊNH DỰ ÁN XÂY DỰNG CÂU LẠC BỘ BIDA TẠI ĐƯỜNG NGUYỄN ẢNH THỦ- QUẬN 12 Do trình độ còn hạn chế, nên vấn đề nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp để sửa chữa và hoàn thiện thêm. Em xin chân thành cám ơn thầy giáo Th.s Võ Tất Thắng trường đại học kinh tế tp HCM đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG I KHÁI QUÁT ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ A. ĐẦU TƯ VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ. 1. ĐẦU TƯ VÀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ. 1.1 khái niệm đầu tư. Người ta thường quan niệm đầu tư là việc bỏ vốn hôm nay để mong thu được lợi nhuận trong tương lai. Tuy nhiên tương lai chứa đầy những yéu tố bất định mà ta khó biết trước được. Vì vậy khi đề cập đến khía cạnh rủi ro, bất chắc trong việc đầu tư thì các nhà kinh tế quan niệm rằng: đầu tư là đánh bạc với tương lai. Còn khi đề cập đến yếu tố thời gian trong đầu tư thì các nhà kinh tế lại quan niệm rằng: Đầu tư là để dành tiêu dùng hiện tại và kì vọng một tiêu dùng lớn hơn trong tương lai . Tuy ở mỗi góc độ khác nhau người ta có thể đưa ra các quan niệm khác nhau về đầu tư, nhưng một quan niệm hoàn chỉnh về đầu tư phải bao gồm các đặc trưng sau đây: - Công việc đầu tư phải bỏ vốn ban đầu. - Đầu tư luôn gắn liền với rủi ro, mạo hiểm Do vậy các nhà đầu tư phải nhìn nhận trước những khó khăn nay để có biện pháp phòng ngừa. - Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả. Nhưng ở những vị trí khác nhau, người ta cũng nhìn nhận vấn đề hiệu quả không giống nhau. Với các doanh nghiêp thường thiên về hiệu quả kinh tế, tối đa hoá lợi nhuận. Còn đối với nhà nước lại muốn hiệu quả kinh tế phải gắn liền với lợi ích xã hội.Trong nhiều trường hợp lợi ích xã hội được đặt lên hàng đầu. Vì vậy một cách tổng quát ta có thể đưa ra khái niệm về lĩnh vực đầu tư như sau: Đầu tư là một hình thức bỏ vốn vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm thu được những lợi ích kì vọng trong tương lai. Ở đây ta cần lưu ý rằng nguồn vốn đầu tư này không chỉ đơn thuần là các tài sản hữu hình như: tiền vốn, đất đai, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, hàng hoá .mà còn bao gồm các loại tài sản vô hình như: bằng sáng chế, phát minh nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kĩ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương mại, quyền thăm dò khai thác, sử dụng tài nguyên. Dưới góc độ nào đi nữa thì mọi hoạt động đầu tư đều phải sử dụng các nguồn lực ban đầu. Các nguồn lực này được sử dụng theo mục đích của chủ đầu tư để tạo mới, mở rộng hoặc nâng cao chất lượng hiện có của các tài sản tài chính (tiền vốn ), tài sản vật chất (như nhà máy, đường xá ), tài sản trí tuệ (như trình độ văn hoá, chuyên môn ) và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mục đích của công cuộc đầu tư là thu được những kết quả nhất định lớn hơn so với nguồn lực đã bỏ ra. Hoạt động đầu tư được tiến hành trong mọi lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân, nó không chỉ bó hẹp trong đầu tư tài sản vật chất và sức lao động mà còn tham gia cả đầu tư tài chính và đầu tư thương mại, với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. 1.2 Dự án đầu tư. Theo quan điểm chung nhất, dự án đầu tư được hiểu là tài liệu tổng hợp , phản ánh kết quả nghiên cứu cụ thể toàn bộ các vấn đề về thị trường, về kinh tế, về kỹ thuật, về tài chính, có liên quan, ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của một công cuộc đầu tư. Ở Việt Nam, theo nghị định số 177/CP về điều lệ quản lý dự án đầu tư và xây dựng, dự án đầu tư được định nghĩa như sau: “ Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian nhất định.” Bất cứ một dự án đầu tư nào kể từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc đều phải trải qua giai đoạn: Luận văn chia làm 3 chương, với 40 trang

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2190 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thẩm định dự án xây dựng câu lạc bộ bida tại đường Nguyễn Ảnh Thủ, Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a ra tiêu thụ trên thị trường. Dự án đầu tư có một vai trò rất quan trọng trong bất cứ hoạt động đầu tư nào, điều này được thể hiện: - Dự án đầu tư là cơ sở để quyết định bỏ vốn ra đầu tư. Thông qua dự án đầu tư, nhà đầu tư sẽ quyết định có bỏ vốn ra đầu tư hay không và từ số vốn mình bỏ ra với dự án đầu tư này sẽ đem lại hiệu quả, lợi ích như thế nào? - Dự án là cơ sở lập kế hoạch thực hiện đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. Trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, thông qua dự án nhà đầu tư có thể tự bố trí kế hoạch, tiến độ thực hiện dự án đồng thời tổ chức kiểm tra, đôn đốc, theo dõi quá trình thực hiện đầu tư. - Dự án là cơ sở để thuyết phục các tổ chức tín dụng xem xét tài trợ cho dự án. Các tổ chức tín dụng, ngân hàng thông qua việc xem xét, thẩm định dự án đầu tư để đánh giá hiệu quả của dự án, là lãi hay lỗ để từ đó đưa ra quyết định tài trợ vốn cho nhà đầu tư hay không. - Dự án là cơ sở để thuyết phục các cơ quan quản lý Nhà nước xem xét cấp giấy phép đầu tư. Điều này được xem xét trên cơ sở dự án có hiệu quả kinh tế cao, không vi phạm quy định Pháp luật, không ảnh hưởng xấu đến môi trường, đến xã hội và qua đó sẽ đưa ra quyết định cho phép đầu tư hay không. - Dự án là một trong những cơ sở Pháp lý để xem xét giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình liên doanh thực hiện đầu tư. 2. VỐN ĐẦU TƯ. vốn đầu tư là một khái niệm rộng bao gồm nhiều nguồn lực tài chính và phi tài chính khác nhau. Để thống nhất trong quá trình đánh giá, phân tích và sử dụng, người ta thường quy đổi các nguồn lực này về đơn vị tiền tệ chung. Do đó khi nói đến vốn đầu tư, ta có thể hình dung đó là những nguồn lực tài chính và phi tài chính đã được quy đổi về đơn vị đo lường tiền tệ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, cho các hoạt động kinh tế xã - hội. Vốn cần thiết để tiến hành các hoạt động đầu tư rất lớn, không thể cùng một lúc trích ra từ các khoản chi tiêu thường xuyên của các cơ sở vì điều này sẽ làm xáo động mọi hoạt động bình thường của sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt xã hội. Ngay nay, các quan hệ tài chính ngày càng được mở rộng và phát triển. Do đó, để tập trung nguồn vốn cũng như phân tán rủi ro, số vốn đầu tư cần thiết thường được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như: tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, tiền tiết kiệm của quần chúng và vốn huy động từ nước ngoài. Đây chính là sự thể hiện nguyên tắc kinh doanh hiện đại: " Không bỏ tất cả trứng vào một giỏ". Như vậy, ta có thể tóm lược định nghĩa và nguồn vốn của gốc đầu tư như sau: Vốn đầu tư là các nguồn lực tài chính và phi tài chính được tích luỹ từ xã hội, từ các chủ thể đầu tư, tiền tiết kiệm của dân chúng và vốn huy động từ các nguồn khác nhau được đưa vào sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm đạt được những hiệu quả nhất định. Về nội dung của vốn đầu tư chủ yếu bao gồm các khoản sau: - Chi phí để tạo các tài sản cố định mới hoặc bảo dưỡng, sửa chữa hoạt động của các tài sản cố định có sẵn. - Chi phí để tạo ra hoặc tăng thêm các tài sản lưu động. - Chi phí chuẩn bị đầu tư. - Chi phí dự phòng cho các khoản chi phát sinh không dự kiến được. 3. CHU KỲ DỰ ÁN. Chu kỳ của một dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua, bắt đầu tư khi một dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án hoàn thành và kết thúc hoạt động. Quá trình hoàn thành và thực hiện dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Trong 3 giai đoạn trên, giai đoạn chuẩn bị đầu tư, tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt là giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư. Do đó đới với giai đoạn chuẩn bị đầu tư, vấn đề chất lượng, vấn đề chính xác của các kết quả nghiên cứu, tính toán và dự đoán là rất quan trọng. Thời gian thực hiện đầu tư càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất lại càng lớn. Thời gian thực hiện đầu tư lại phụ thuộc vào chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, vào việc thực hiện quá trình đầu tư, quản lý việc thực hiện nhiều hoạt động khác có liên quan đến việc thực hiện quá trình đầu tư. Giai đoạn ba, vận hành các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư ( là giai đoạn sản xuất, kinh doanh, trao đổi dịch vụ) nhằm đạt được các mục tiêu dự án. Nếu làm tốt các công việc của giai đoạn chuẩn bị đầu tư sẽ tạo thuận lợi cho quá trình tổ chức, quản lý và vận hành các kết quả đầu tư. Soạn thảo dự án đầu tư nằm trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Công tác soạn thảo được tiến hành qua ba mức độ nghiên cứu: - Nghiên cứu cơ hội đầu tư. - Nghiên cứu tiền khả thi. - Nghiên cứu khả thi Nghiên cứu cơ hội đầu tư Đây là giai đoạn hình thành dự án và là bước nghiên cứu sơ bộ nhằm xác định triển vọng và hiệu quả đem lại của dự án. Cơ hội đầu tư được phân thành hai cấp độ: Cơ hội đầu tư chung và cơ hội đầu tư cụ thể. - Cơ hội đầu tư chung: Là cơ hội được xem xét ở cấp độ ngành, vùng hoặc cả nước. Nghiên cứu cơ hội đầu tư chung nhằm xem xét những lĩnh vực, những bộ phận hoạt động kinh tế trong mối quan hệ với điều kiện kinh tế chung của khu vực, thế giới, của một quốc gia hay của một ngành, một vùng với mục đích cuối cùng là sơ bộ nhận ra cơ hội đầu tư khả thi. Những nghiên cứu này cũng nhằm hình thành nên các dự án sơ bộ phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, với thứ tự ưu tiên trong chiến lược phát triển của từng ngành, vùng hoặc của một đất nước. - Cơ hội đầu tư cụ thể: Là cơ hội đầu tư được xem xét ở cấp độ từng đơn vị sản xuất, kinh doanh nhằm phát triển những khâu, những giải pháp kinh tế, kĩ thuật của đơn vị đó, Việc nghiên cứu này vừa phục vụ cho việc thực hiện chiến lược phát triển của các đơn vị, vừa đáp ứng mục tiêu chung của ngành, vùng và đất nước. Việc nghiên cứu cơ hội đầu tư cần dựa vào các căn cứ sau: - Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của ngành, vùng hoặc đất nước, Xac định hướng phát triển lâu dài cho sự phát triển. - Nhu cầu thị trường về các mặt hàng hoặc dịch vụ dự định cung cấp, - Hiện trạng sản xuất và cung cấp các mặt hàng và dịch vụ này hiện tại có còn chỗ trống trong thời gian đủ dài hay không ?(ít nhất cũng vượt qua thời gian thu hồi vốn). - Tiềm năng sẵn có về tài nguyên, tài chính, lao động…..Những lợi thế có thể và khả năng chiếm lĩnh chỗ trống trong sản xuất, kinh doanh. - Những kết quả về tài chính, kinh tế xã hội sẽ đạt được nếu thực hiện đầu tư. Mục tiêu của việc nghiên cứu cơ hội đầu tư nhắm loại bỏ ngay nhẽng dự kiến rõ ràng không khả thi mà không cần đi sâu vào chi tiết. Nó xác định một cách nhanh chóng và ít tốn kém về các khả năng đầu tư trên cơ sở những thông tin cơ bản giúp cho chủ đầu tư cân nhắc, xem xét và đi đến quyết địnhcó triển khai tiếp giai đoạn nghiên cứu sau hay không. Nghiên cứu tiền khả thi Đây là bước tiếp theo của các cơ hội đầu tư có nhiều triển vọng, có quy mô đầu tư lớn, phức tạp về mặt kĩ thuật, thời gian thu hồi vốn dài..v..v..Bước này nghiên cứu sâu hơn các khía cạnh còn thấy phân vân, chưa chắc chắn của các cơ hội đầu tư đã được lựa chọn. Việc nghiên cứu tiền khả thi nhằm sàng lọc, loại bỏ các cơ hội đầu tư hoặc khẳng định lại các cơ hội đầu tư dự kiến. Đối với các dự án lớn, liên quan và chịu sự quản lý của nhiều ngành thì dự án tiền khả thi là việc tranh thủ ý kiến bước đầu, là căn cứ xin chủ trương để tiếp tục đầu tư. Sản phẩm cuối cùng của nghiên cứu tiền khả thi là luận chứng tiền khả thi. Nội dung của luận chứng tiền khả thi ( hay còn gọi là dự án tiền khả thi) bao gồm các vấn đề sau đây: - Các bối cảnh chung về kinh tế, xã hội, pháp luật có ảnh hưởng đến dự án. - Nghiên cứu thị trường. - Nghiên cứu kĩ thuật. - Nghiên cứu về tổ chức, quản lý và nhân sự. - Nghiên cứu các lợi ích kinh tế xã hội. Đặc điểm nghiên cứu các vấn đề ở bước tiền khả thi chưa hoàn toàn chi tiết, còn xem xét ở trạng thái tĩnh, ở mức trung bình mọi đầu vào, đầu ra, mọi khía cạnh kĩ thuật, tài chính, kinh tế trong quá trình thực hiện đầu tư. Do đó độ chính xác chưa cao. Nghiên cứu khả thi. Đây là bước xem xét lần cuối cùng nhằm đi đến các kết luận xác đáng về mọi vấn đề cơ bản của dự án bằng các bước phân tích, các số lượng đã được tính toán cẩn thận, chi tiết, các đề án kinh tế kĩ thuật, các lịch biểu và tiến độ thực hiện dự án. Sản phẩm của giai đoạn nghiên cứu khả thi là " Dự án nghiên cứu khả thi" hay còn gọi là " Luận chứng kinh tế kĩ thuật ". ở giai đoạn này, dự án nghiên cứu khả thi được soạn thảo tỉ mỉ, kỹ lưỡng nhằm đảm bảo cho mọi dự đoán, mọi tính toán ở độ chính xác cao trước khi đưa ra để các cơ quan kế hoạch, tài chính, các cấp có thẩm quyền xem xét. Nội dung nghiên cứu của dự án khả thi cũng tương tự như dự án nghiên cứu tiền khả thi, nhưng khác nhau ở mức độ ( Chi tiết hơn, chính xác hơn). Mọi khía cạnh nghiên cứu đều được xem xét ở trạng thái động, tức là có tính đến các yếu tố bất định có thể xảy ra theo từng nội dung nghiên cứu. Dự án nghiên cứu khả thi còn nhằm chứng minh cơ hội đầu tư là đáng giá, để có thể tiến hành quyết định đầu tư. Các thông tin phải đủ sức thyết phục các cơ quan chủ quản và các nhà đầu tư. Điều này có tác dụng sau đây: - Đối với nhà nước và các định chế tài chính - Dự án nghiên cứu khả thi là cơ sở để thẩm định và ra quyết định đầu tư, quyết định tài trợ cho dự án. - Dự án nghiên cứu khả thi đồng thời là những công cụ thực hiện kế hoạch kinh tế của ngành, địa phương hoặc cả nước. 4. NHỮNG YÊU CẦU KHI XEM XÉT DỰ ÁN ĐẦU TƯ. Để có được một dự án đầu tư có tính thuyết phục và thu hút các bên tham gia, dự án đó phải thoả mãn các yêu cầu sau: - Dự án phải có tính khoa học. Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu của dự án đầu tư. Đảm bảo yêu cầu này sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai và thực hiện thành công dự án. Tính khoa học của dự án được thể hiện: về số liệu thông tin phải đảm bảo trung thực, chính xác; về phương pháp lý giải: các nội dung của dự án không được tồn tại độc lập, riêng rẽ mà chúng luôn nằm trong một thể thống nhất; về phương pháp tính toán phải đơn giản, chính xác,… - Dự án phải có tính pháp lý, tức là dự án phải phản ánh quyền lợi quốc gia trong dự án. Nói một cách khác đi là dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc, phù hợp với chính sách và Pháp luật của Nhà nước. - Dự án phải có tính thực tiễn. Tính thực tiễn vủa dự án đầu tư thể hiện ở chỗ, nó có khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Mỗi dự án thuộc một ngành nghề cụ thể, có những thông số, tính toán và chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cụ thể, cho nên các nội dung, các khía cạnh phân tích của dự án đầu tư không thể được nghiên cứu một cách chung chung mà phải dựa trên những căn cứ hợp lý, tức là dự án phải được xây dựng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về mặt bằng, về thị trường vốn và các chỉ tiêu khác. - Dự án phải có tính thống nhất. Các dự án phải biểu hiện sự thống nhất về lợi ích giữa các bên tham gia và có liên quan đến dự án. Để các bên đối tác có quyết định tham gia dự án, các ngân hàng và tổ chức tài chính quyết định tài trợ hay cho vay vốn với các dự án, và muốn được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy phép đầu tư thì việc xây dựng dự án từ các bước tiến hành đến nội dung, hình thức, cách trình bày dự án cần phải tuân thủ theo những quy định chung mang tính quốc tế. - Dự án phải có tính phỏng định. Trong nhiều trường hợp, những nội dung, những tính toán về quy mô sản xuất, chi phí, giá cả, lợi nhuận,… trong dựa án chỉ có tính chất dự trù, dự báo do thực tế xảy ra khác xa với dự kiến ban đầu trong dự án. Vì vậy, dự án phải có tính phỏng định, tuy nhiên, sự phỏng định này phải dựa trên những căn cứ khoa học, trung thực và khách quan nhằm giảm thiểu rủi ro, hạn chế độ bất định trong dự án. B. THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ. 1. KHÁI NIỆM THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ. 1.a. Khái niệm. Các dự án đầu tư sau khi được soạn thảo và thiết kế xong dù được nghiên cứu tính toán rất kỹ lưỡng và chi tiết thì chỉ mới qua bước khởi đầu. Để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và ra quyết định dự án có đượcthực hiện hay không thì phải có một quá trình xem xét kiểm tra, đánh giá một cách độc lập và tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm định dự án. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về thẩm định tuỳ theo tính chất của công cuộc đầu tư và chủ thể có thẩm quyền thẩm định, song đứng trên góc độ tổng quát có thể định nghĩa như sau: Thẩm định dự án đầu tư là quá trình một cơ quan chức năng (Nhà nước hoặc tư nhân) thẩm tra, xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện về các mặt pháp lý, các nội dung cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả, tính khả thi, tính hiện thực của dự án, để quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép về đầu tư hay quy định về đầu tư… 1.b. Ý nghĩa: Thẩm định dự án đầu tư là một công việc quan trọng, nó đề cập đến tất cả những vấn đề của bản thân dự án, và quan trọng hơn, qua quá trình thẩm định, dự án sẽ được tìm hiểu một cách sâu rộng hơn, chuyên môn hơn. Thẩm định dự án có những ý nghĩa vô cùng quan trọng sau đây: - Thông qua thẩm định dự án đầu tư, với những kết quả thu được là một trong những cơ sở quan trọng để có quyết định bỏ vốn đầu tư được đúng đắn. - Thông qua thẩm định dự án đầu tư, có cơ sở để kiểm tra việc sử dụng vốn đảm bảo đúng mục đích và an toàn vốn. - Thông qua thẩm định dự án đầu tư có, với những kinh nghiệm và kiến thức của mình sẽ bổ sung thêm những giải pháp góp phần nâng cao tính khả thi của dự án. - Thông qua thẩm định dự án đầu tư có cơ sở tương đối vững chắc để xác định kết quả đầu tư, thời gian hoàn vốn và trả nợ từ dự án của chủ đầu tư. - Thông qua thẩm định dự án đầu tư sẽ rút ra được những kinh nghiệm để tiến hành thẩm định các dự án đầu tư sau tốt hơn. 2. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI TIẾN HÀNH THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ. Đầu tư là một lĩnh vực quan trọng quyết định sự tăng trưởng và phát triển của các thành phần kinh tế cũng như nền kinh tế quốc dân. Nhưng hoạt động đầu tư sẽ không thể tiến hành được khi không có vốn hay không đủ vốn. Một câu hỏi được đặt ra là: "Vốn lấy từ đầu?" Ngoài nguồn vốn tự có của mình, các nhà đầu tư thường kêu gọi sự tài trợ từ bên ngoài mà trong đó chủ yếu là nguồn vốn vay của ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ không đồng ý cho vay nếu không biết rằng vốn vay có được sử dụng an toàn và hiệu quả hay không. Do đó, không chỉ riêng các nhà đầu tư, mà cả ngân hàng và các cơ quan hữu quan cũng phải tiến hành thẩm định dự án đầu tư tức là đi sâu xem xét, nghiên cứu đánh giá hang loạt các vấn đề trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm đưa ra một quyết định đúng đắn. 2.a. Đối với nhà đầu tư. Sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp là nhờ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh đúng đắn, mà các kế hoạch này lại được thực hiện bởi các dự án. Với tư cách là chủ dự án và là bên lập dự án, chủ đầu tư biết khá rõ và tương đối tỷ mỷ dự án đầu tư của mình, nắm được những điểm mạnh cũng như điểm yếu, những khó khăn thách thức trong quá trình thực hiện dự án của mình. Trên thực tế, khi đưa ra một quyết định đầu tư, chủ đầu tư thường xây dựng và tính toán các phương án khác nhau. Điều đó có nghĩa là có nhiều dự án khác nhau được đưa ra nhưng không phải dễ dàng gì trong việc lựa chọn dự án này, loại bỏ dự án kia vì nhiều khi khả năng thu thập, nắm bắt những thông tin mới của chủ dự án bị hạn chế nhất là đối với các xu hướng kinh tế, chính trị, xã hội mới và điều này sẽ làm nguy cơ rủi ro tăng cao và làm giảm tính chính xác trong phán đoán của họ. Thông qua việc thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp nhà đầu tư lựa chọn được dự án đầu tư tối ưu và thích hợp nhất với năng lực của mình. 2.b. Đối với nhà tài trợ. Nhà tài trợ là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện việc nhận tiền gửi và cho vay. Trong quá trình cho vay, không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng được Nhà tài trợ đáp ứng, Nhà tài trợ chỉ cho vay khi đã biết chắc chắn vốn vay được sử dụng đúng mục đích, mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và Nhà tài trợ. Muốn vậy, Nhà tài trợ sẽ yêu cầu người xin vay lập và nộp cho Nhà tài trợ dự án đầu tư. Trên cơ sở đó, cùng với các nguồn thông tin khác Nhà tài trợ sẽ tiến hành tổng hợp và thẩm định dự án của chủ đầu tư một cách khách quan hơn. Việc thẩm định dự án đầu tư còn là cơ sở để Nhà tài trợ xác định số tiền vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, thời điểm bỏ vốn cho dự án và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong tương lai. Tóm lại, đối với Nhà tài trợ, công tác thẩm định dự án đầu tư là rất quan trọng, nó giúp cho Nhà tài trợ ra quyết định có bỏ vốn đầu tư hay không? Nếu đầu tư thì đầu tư như thế nào? Mức độ bỏ vốn là bao nhiêu? Điều này sẽ giúp Nhà tài trợ đạt được những chỉ tiêu về an toàn và hiệu quả trong sử dụng vốn, giảm thiểu nợ quá hạn và nợ khó đòi, hạn chế những rủi ro có thể xảy đến với Nhà tài trợ. 2.c. Đối với xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước. Đầu tư luôn được coi là động lực phát triển nói chung và sự phát triển kinh tế nói riêng của mỗi quốc gia. Nhưng vấn đề quan trọng đặt ra là đầu tư như thế nào cho có hiệu quả, bằng không tác động của đầu tư không hợp lý là rất nguy hại và gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Hiệu quả ở đây không đơn thuần là hiệu quả kinh tế mà nó bao hàm cả các hiệu quả về mặt xã hội như vấn đề giải quyết công ăn việc làm, tăng thu ngân sách, tăng khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước, đặc biệt là vấn đề đảm bảo môi trường sinh thái. Ngoài ra, dự án được chọn đầu tư còn phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của từng địa phương mà dự án này thực hiện và phải hoàn toàn tuân thủ các quy chế quản lý kinh tế, quản lý đầu tư xây dựng và các quy chế quản lý khác của Nhà nước. 3. YÊU CẦU TRONG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ. Thẩm định được tiến hành với tất cả các dự án thuộc mọi nguồn vốn, của mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, yêu cầu về nội dung thẩm định có khác nhau về mức độ và chi tiết giữa các dự án, tuỳ thuộc vào quy mô, tính chất của dự án, nguồn vốn được huy động và chủ thể có thẩm quyền thẩm định. Tuy vậy, dù đứng trên góc độ nào đi chăng nữa, để có kết quả thẩm định có sức thuyết phục thì chủ thể có thẩm quyền thẩm định phải đảm bảo các yêu cầu sau (hoặc một phần trong số các yêu cầu sau): - Nắm vững chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của ngành, của địa phương và các quy chế luật pháp về quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và xây dựng của nhà nước. - Hiểu biết về bối cảnh, điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án, tình hình và trình độ kinh tế chung của đất nước, của địa phương, của ngành, của thế giới. Nắm vững tình hình sản xuất kinh doanh, các số liệu tài chính của doanh nghiệp, các quan hệ tài chính - tín dụng của doanh nghiệp hoặc của chủ đầu tư với các doanh nghiệp khác hoặc chủ đầu tư khác, với các ngân hàng… - Biết khai thác các số liệu trong các báo cáo tài chính của doanh nhgiệp hoặc chủ đầu tư, các thông tin liên quan đến giá cả, thị trường để phân tích hoạt động chung của doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư, từ đó có thêm căn cứ vững chắc để quyết định đầu tư. - Biết xác định và kiểm tra được các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật quan trọng của dự án, đồng thời thường xuyên thu thập, đúc kết, xây dựng các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật tổng hợp trong và ngoài nước để phục vụ cho việc thẩm định. - Đánh giá khách quan, khoa học và toàn diện về nội dung của dự án, có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia trong và ngoài ngành có liên quan cả trong và ngoài nước. - Thẩm định kịp thời, tham gia ý kiến ngay từ khi nhận được hồ sơ dự án. - Thường xuyên hoàn thiện quy trình thẩm định, phối hợp phát huy được trí tuệ tập thể, tránh gây phiền hà. 4. CÁC PHƯƠNG PHÁP THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ. Dự án đầu tư sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có phương pháp thẩm định khoa học kết hợp với các kinh nghiệm quản lý thực tiễn và nguồn thông tin đáng tin cậy. Việc thẩm định dự án có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau trong quá trình thẩm định, tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu đối với dự án. Sau đây là những phương pháp thẩm định thường gặp nhất. 4.a. Phương pháp so sánh các chỉ tiêu. Đây là phương pháp phổ biến và đơn giản, các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của dự án được so sánh bởi các dự án đã và đang xây dựng, đang hoạt động. Phương pháp so sánh được tiến hành theo một số chỉ tiêu sau: - Tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng, tiêu chuẩn về cấp công trình do nhà nước quy định hoặc điều kiện tài chính mà dự án có thể chấp nhận được. - Tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị trong quan hệ chiến lược đầu tư công nghệ quốc gia, quốc tế. - Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm của dự án mà thị trường đang đòi hỏi. - Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư… - Các định mức về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu, nhân công, tiền lương, chi phí quản lý… của ngành theo các định mức kinh tế - kỹ thuật chính thức hoạc các chỉ tiêu kế hoạch và thực tế. - Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư. - Các định mức tài chính doanh nghiệp phù hợp với hướng dẫn, chỉ đạo hiện hành của nhà nước, của ngành đối với doanh nghiệp cùng loại. - Các chỉ tiêu mới phát sinh… Trong việc sử dụng các phương pháp so sánh cần lưu ý các chỉ tiêu dùng để tiến hành so sánh cần phải được vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của từng dự án và doanh nghiệp. Cần hết sức tranh thủ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, chuyên gia (kể cả thông tin trái ngược). Tránh khuynh hướng so sánh máy móc, cứng nhắc, dập khuôn. 4.b. Phương pháp thẩm định theo trình tự. Trong phương pháp này, việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết, lấy kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau. - Thẩm định tổng quát: là việc xem xét một cách khái quát các nội dung cơ bản thể hiện tính pháp lý, tính phù hợp, tính hợp lý của dự án. Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu rõ quy mô, tầm quan trọng của dự án trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, xác định các căn cứ pháp lý của dự án đảm bảo khả năng kiểm soát được của bộ máy quản lý dự án dự kiến. - Thẩm định chi tiết: là việc xem xét một cách khách quan, khoa học, chi tiết từng nội dung cụ thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi, tính hiệu quả, tính hiện thực của dự án trên các khía cạnh pháp lý, thị trường, kỹ thuật công nghệ, môi trường, kinh tế… phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong giai đoạn thẩm định chi tiết, cần đưa ra những ý kiến đánh giá đồng ý hay sửa đổi bổ xung hoặc không thể chấp nhận được. Khi tiến hành thẩm định chi tiết sẽ phát hiện được các sai sót, kết luận rút ra từ nội dung trước có thể bác bỏ toàn bộ dự án mà không cần đi vào thẩm định các nội dung còn lại của dự án. 4.c. Phương pháp thẩm định dựa trên việc phân tích độ nhạy của dự án. Phương pháp này thường dùng để kiểm tra tính vững chắc về hiệu quả tài chính của dự án. Cơ sở của phương pháp này là dự kiến một số tình huống bất trắc có thẩy xảy ra trong tương lai đối với dự án rồi khảo sát tác động của những yếu tố đó đến hiệu quả đầu tư và khả năng hoà vốn của dự án. Mức độ sai lệch so với dự kiến của các bất trắc là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. ở đây, ta nên chọn các yếu tố tiêu biểu dễ xảy ra gây tác động xấu đến hiệu quả của dự án để xem xét. Nếu dự án vẫn tỏ ra có hiệu quả kể cả trong trường hợp có nhiều bất trắc phát sinh đồng thời thì đó là những dự án vững chắc, có độ an toàn cao. Trong trường hợp ngược lại thì cần phải xem xét lại khả năng phát sinh bất trắc đề xuất kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục hay hạn chế. 4.d. Phương pháp dự báo. Cơ sở của phương pháp này là dùng số liệu dự báo, điều tra thống kê để kiểm tra cung cầu của sản phẩm dự án trên thị trường, giá cả và chất lượng của công nghệ, thiết bị, nguyên liệu… ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và tính khả thi của dự án. 4.e. Phương pháp triệt tiêu rủi ro Dự án là một tập hợp các yếu tố dự kiến trong tương lai, từ khi thực hiện dự án đến khi đi vào khai thác, hoàn vốn thường rất dài, do đó có nhiều rủi ro phát sinh ngoài ý muốn chủ quan. Để đảm bảo tính vững chắc của dự án, người ta thường dự đoán một số rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp kinh tế hoặc hành chính thích hợp, hạn chế thấp nhất các tác động của rủi ro hoặc phân tán rủi ro cho các đối tác có liên quan đến dự án. Một số loại rủi ro bắt buộc phải có biện pháp xử lý như: đấu thầu, bảo hiểm xây dựng, bảo lãnh hợp đồng. Trong thực tế, biện pháp phân tán rủi ro quen thuộc nhất là bảo lãnh của ngân hàng, bảo lãnh của doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và uy tín, thế chấp tài sản. Để tránh tình trạng thế chấp tài sản nhiều lần khi vay vốn nên thành lập Cơ quan đăng ký quốc gia về giao dịch bảo đảm. 5. NỘI DUNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ. 5.a. Thẩm định điều kiện pháp lý của dự án và sự cần thiết phải đầu tư. Nội dung này bao gồm việc thẩm định các văn bản, thủ tục hồ sơ trình duyệt theo quy định, đặc biệt là xem xét đến tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư. Đây là nội dung đầu tiên được xem xét khi thẩm định dự án, nó được xem như là điều kiện cần để tiến hành các nội dung thẩm định tiếp theo. Dự án có cần thiết đầu tư hay không? Điều này được xác định dựa trên hai khía cạnh: đó là dự án có ưu thế như thế nào trong quy hoạch phát triển chung; đồng thời dự án được đầu tư sẽ đóng góp như thế nào cho các mục tiêu gia tăng thu nhập cho nền kinh tế và doanh nghiệp, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, tạo công ăn việc làm… 5.b. Thẩm định dự án về phương diện thị trường. Kiểm tra phân tích các vấn đề liên quan đến cung cầu về sản phẩm của dự án. Tuỳ theo phạm vi tiêu thụ sản phẩm của dự án, tiến hành lập bảng cân đối về nhu cầu thị trường, khả năng đáp ứng của các nguồn cung hiện có và xu hướng biến động của nguồn đó, đánh giá mức độ cạnh tranh, khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án, công cụ được sử dụng trong cạnh tranh… Từ đó đánh giá mức độ tham gia thị trường mà dự án có thể đạt được. Kết quả phân tích này làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư. 5.c. Thẩm định phương diện kỹ thuật và tổ chức của dự án. - Về phương diện kỹ thuật. Xem xét lựa chọn các phương án địa điểm và mặt bằng xây dựng dự án. Vị trí lựa chọn dự án cần được tối ưu hoá (về quy hoạch xây dựng kiến trúc của địa phương ngành, thuận lợi về giao thông, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, bảo đảm về môi trường…). Xem xét lựa chọn các hình thức đầu tư và công suất dự án. Đây là nhiệm vụ của chủ dự án, nhà thẩm định chỉ có trách nhiệm phát hiện sai sót, nhầm lẫn mang tính chủ quan đồng thời kiểm tra loại bỏ dự án sử dụng công nghệ ô nhiễm, lạc hậu so với chiến lược phát triển công nghệ. Xem xét lựa chọn công nghệ và dây chuyền thiết bị, đảm bảo phù hợp với điều kiện trong ngành, địa phương và nguồn nguyên liệu đáp ứng. - Về phương diện tổ chức Xem xét các đơn vị thi công về các khía cạnh tư cách pháp nhân, năng lực thực hiện, khả năng đáp ứng yêu cầu dự án và kế hoạch phòng ngừa rủi ro cũng như phương án tổ chức thực hiện, cơ cấu quản lý và thực hiện. 5.d. Thẩm định về phương diện tài chính. nội dung thẩm định tài chính bao gồm thẩm định tài chính trong doanh nghiệp (hoặc chủ đầu tư) và thẩm định tài chính đối với chính dự án đang được xem xét. 5.e. Thẩm định về phương diện lợi ích kinh tế xã hội. nhằm so sánh giữa cái giá mà xã hội phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình một cách tốt nhất và lợi ích do dự án tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế (chứ không chỉ riêng cho cơ sở sản xuất kinh doanh). Việc thẩm định kinh tế xã hội của dự án được tính toán trên cơ sở một loạt các tiêu chuẩn đánh giá và chỉ tiêu đánh giá như: Giá trị gia tăng thuần tuý, giá trị gia tăng thuần tuý quốc gia, các chỉ tiêu về số lao động có việc làm, các chỉ tiêu đánh giá tác động của dự án đến phân phối thu nhập và công bằng xã hội… 6. CÁC CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH CỦA DỰ ÁN. Một dự án được đánh giá là rất tốt khi dự án đó phải tạo ra được mức lợi nhuận tuyệt đối - tức khối lượng của cải ròng lớn nhất; có tỷ suất sinh lời cao - ít nhất phải cao hơn tỷ suất lãi vay hoặc suất sinh lời mong muốn hoặc suất chiết khấu bình quân ngành hoặc thị trường; khối lượng và doanh thu hoà vốn thấp và dự án phải nhanh chóng thu hồi vốn - để hạn chế những rủi ro bất trắc. Xuất phát từ suy nghĩ đó, người ta có những chỉ tiêu tương ứng dùng để thẩm định tính hiệu quả của dự án. 6.a. Chỉ tiêu Giá trị hiện tại ròng (NPV) Phân tích tài chính một dự án đầu tư là phân tích căn cứ trên các dòng tiền của dự án. Trên cơ sở các luồng tiền được dự tính, các chỉ tiêu về tài chính được tính toán làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư. Giá trị hiện tại ròng của một dự án là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính dự án mang lại trong tương lai với giá trị đầu tư ban đầu. Do vậy, chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm (khi NPV dương) hoặc giảm đi (khi NPV âm). Công thức tính toán giá trị hiện tại ròng (NPV) như sau: Trong đó: NPV là giá trị hiện tại ròng C0 là vốn đầu tư ban đầu vào dự án, do là khoản đầu tư luồng tiền ra nên C0 mang dấu âm. C1, C2, C3,…, Cn là các luồng tiền dự tính dự án mang lại các năm 1, 2, 3,…, t ; r là tỷ lệ chiết khấu phù hợp của dự án. Phương pháp giá trị hiện tại ròng được xây dựng dựa trên giả định có thể xác định tỷ suất chiết khấu thích hợp để tìm ra giá trị tương đương với thời điểm hiện tại của một khoản tiền trong tương lai. Ngân hàng khi cho vay thường chỉ quan tâm đến vấn đề trả gốc và lãi của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi thẩm định dự án doanh nghiệp thường đưa ra tỷ lệ chiết khấu cao để NPV>0. Vì vậy, ngân hàng cần thẩm định NPV để thẩm định việc dự tính tỷ lệ chiết khấu của doanh nghiệp là hợp lý hay không. Và với tỷ lệ chiết khấu hợp lý đó thì NPV>0 sẽ giúp cho Ngân hàng khẳng định việc cho vay là có hiệu quả. Ưu điểm của NPV là tính trên dòng tiền và xét đến giá trị thời gian của tiền, xét đến qui mô dự án và thoả mãn yêu cầu tối đa hoá lợi nhuận, phù hợp với mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Nhược điểm của NPV là chỉ tiêu này chỉ cho biết quy mô mà không cho biết thời gian nhanh hay chậm. Và lãi suất đo lường chi phí cơ hội của vốn bằng lãi suất thị trường, cho nên việc giữ nguyên một tỷ lệ chiết khấu cho cả thời kỳ hoạt động của dự án là không hợp lý. Vì vậy, sự kết hợp với các chỉ tiêu khác vẫn là điều cần thiết khi tiến hành thẩm định dự án trong các điều kiện thực tế, cụ thể. 6.b. Chỉ tiêu Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR) Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0, tức giá trị hiện tại của dòng thu nhập tính theo tỷ lệ chiết khấu đó cân bằng với hiện giá của vốn đầu tư. Hay nói cách khác, nó chính là tỷ lệ sinh lợi tối thiểu của dự án. Mỗi phương án đầu tư đem ra phân tích đánh giá cần được tính IRR. Phương án được chọn là phương án IRR lớn hơn chi phí vốn (tỷ lệ chiết khấu). IRR là lãi suất cần tìm sao cho NPV = 0. ⇒ Tìm IRR? Chọn tìm 2 lãi suất r1 và r2để sao cho tương ứng với r1 ta có NPV1 > 0, ứng với r2 ta có NPV2 < 0. IRR cần tìm ứng với NPV = 0 sẽ nằm giữa 2 tỷ suất chiết khấu r1 và r2. Và áp dụng phương pháp nội suy ta có được kết quả của IRR theo công thức Trong đó r2 > r1, NPV1 > 0 gần 0, NPV2 < 0 gần 0 Qua cách tính trên cho thấy IRR là tỷ suất nội hoàn từ những khoản thu nhập của một dự án. Điều đó có nghĩa là nếu dự án chỉ có tỷ lệ hoàn vốn IRR = r thì các khoản thu nhập từ dự án chỉ đủ hoàn trả phần gốc và lãi đã đầu tư ban đầu vào dự án. Nó chính là mức lãi suất tiền vay cao nhất mà nhà đầu tư có thể chấp nhận mà không bị thua thiệt nếu toàn bộ số tiền đầu tư cho dự án là vốn vay và nợ vay (cả gốc và lãi cộng dồn) được trả bằng nguồn tiền thu được từ dự án mỗi khi chúng phát sinh. Và cũng như chỉ tiêu NPV, chỉ tiêu IRR cũng được xác định cho hai tình huống đầu tư - Nếu 2 dự án độc lập nhau thì dự án có IRR > r sẽ được lựa chọn. - Nếu 2 dự án loại trừ nhau ta chọn dự án có IRR > r và lớn nhất. Ưu điểm là tính bằng tỷ lệ phần trăm nên dễ dàng so sánh với chi phí sử dụng vốn Nhược điểm là chỉ tiêu này chỉ phản ánh tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án là bao nhiêu chứ không cung cấp quy mô của số lãi (hay lỗ) của dự án tính bằng tiền. Khi dự án được lập trong nhiều năm, việc tính toán chỉ tiêu là rất phức tạp. Đặc biệt loại dự án có các luồng tiền dòng vào ra xen kẽ năm này qua năm khác, kết quả tính toán có thể cho nhiều IRR khác nhau gây khó khăn cho việc ra quyết định. Do đó, IRR là chỉ tiêu kết hợp, bổ trợ cho chỉ tiêu NPV Lưu ý: Trong trường hợp có sự xung đột giữa 2 phương pháp NPVvà IRR thì việc lựa chọn dự án theo NPV cần được coi trọng hơn để đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của dự án . 6.c. Chỉ tiêu Thời gian hoàn vốn (PP) Thời gian hoàn vốn của một dự án là một trong các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá giá trị kinh tế của dự án đầu tư. Thời gian hoàn vốn của một dự án đầu tư là độ dài thời gian để thu hồi toàn bộ khoản đầu tư ban đầu. Cho nên, thời gian thu hồi vốn của một dự án càng ngắn càng tốt để tránh được những biến động, rủi ro bất định. 7. MỘT SỐ RỦI RO CHU YẾU TRONG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN. Một số dự án đầu tư, từ khâu chuẩn bị đến thực hiện đầu tư đi vào sản xuất có thể xảy ra nhiều loại rủi ro khác nhau, có thể là do nguyên nhân chủ quan cũng có thể là do nguyên nhân khách quan. Việc tính toán khả năng tài chính của dự án như đã giới thiệu ở trên chỉ đúng trong trường hợp dự án không bị ảnh hưởng bởi một loại các rủi ro có thể xảy ra. Vì vậy, việc đánh giá, phân tích, dự đoán các rủi ro có thể xảy ra là rất quan trọng nhằm tăng tính khả thi của phương án tính toán dự kiến cũng như chủ động có biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu. Dưới đây là một số rủi ro chủ yếu: 7.a. Rủi ro về cơ chế chính sách. Rủi ro này được xem là gồm tất cả những bất ổn về tài chính và chính sách của nơi hoặc địa điểm xây dựng dự án, bao gồm: các sắc thuế mới, hạn chế và chuyển tiền, quốc hữu hoá, tư hữu hoá hay các luật nghị quyết, nghị định và các chế tài khác có liên quan đến dòng tiền của dự án. Loại rủi ro này có thể giảm thiểu bằng nhiều cách: - Khi thẩm định dự án, phải xem xét mức độ tuân thủ của dự án (theo hồ sơ dự án), để đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh các luật và quy định hiện hành có liên quan tới dự án. - Chủ đầu tư nên có những hợp đồng ưu đãi riêng quy định về vấn đề này. - Những bảo lãnh cụ thể về cung cấp ngoại hối sẽ góp phần hạn chế ảnh hưởng tiêu cực tới dự án. - Bảo hiểm tín dụng, xuất khẩu… 7.b. Rủi ro về tiến độ xây dựng, hoàn tất. Rủi ro này được xem là việc hoàn tất dự án không đúng thời hạn, không phù hợp với các tiêu chuẩn và thông số thực hiện. Loại rủi ro này nằm ngoài khả năng điều chỉnh, kiểm soát của ngân hàng, tuy nhiên nó có thể giảm thiểu bằng cách đề xuất với chủ đầu tư thực hiện các biện pháp sau: - Lựa chọn nhà thầu xây dựng uy tín, có sức mạnh tài chính và kinh nghiệm. - Thực hiện nghiêm túc việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh chất lượng công trình. - Giám sát chặt chẽ trong quá trình xây dựng. - Hỗ trợ của cấp có thẩm quyền, dự phòng về tài chính của khoa học trong trường hợp vượt dự toán. - Quy định rõ trách nhiệm, vấn đề đền bù, giải toả mặt bằng. - Hợp đồng giá cố định hoặc chìa khoá trao tay với sự phân chia rõ ràng nghĩa vụ của mỗi bên. 7.c. Rủi ro thị trường, thu thập, thanh toán. Rủi ro này bao gồm: Thị trường không chấp nhận hoặc không đủ cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án; do sức ép cạnh tranh, giá bán sản phẩm không đủ để bù đắp lại các khoản chi phí của dự án;… Loại rủi ro này có thể giảm thiểu bằng cách: - Nghiên cứu thị trường, đánh giá phân tích thị trường, thị phần cẩn thận. - Dự kiến cung cầu thận trọng, không nên có những dự báo quá lạc quan. - Phân tích khả năng thanh toán, thiện ý, hành vi của người tiêu dùng - Xem xét các hợp đồng bao tiêu sản phẩm dài hạn với bên có khả năng về tài chính. - Hỗ trợ bao tiêu sản phẩm của Chính phủ - Khả năng linh hoạt của cơ cấu sản phẩm, dịch vụ đầu ra. 7.d. Rủi ro về cung cấp. Đây là rủi ro khi dự án không có được nguồn nguyên liệu (đầu vào) với số lượng, giá cả và chất lượng như dự kiến để vận hành dự án, tạo dòng tiền ổn định, đảm bảo khả năng trả nợ vốn vay để đầu tư. Loại rủi ro này có thể giảm thiểu bằng cách: - Trong quá trình xem xét dự án, cán bộ thẩm định phải nghiên cứu, đánh giá cẩn trọng các báo cáo về chất lượng, trữ lượng nguyên nhiên liệu vật liệu đầu vào trong hồ sơ dự án. Đưa ra những nhận định ngay từ ban đầu trong tính toán, xác định hiệu quả tài chính của dự án. - Nghiên cứu sự cạnh tranh giữa các nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu. - Linh hoạt về thời gian và số lượng nguyên nhiên vật liệu mua vào. - Những thoả thuận với cơ chế chuyển qua tới người sử dụng cuối cùng. - Những hợp đồng cung cấp nguyên nhiên vật liệu đầu vào dài hạn với nhà cung cấp có uy tín. 7.e. Rủi ro về kỹ thuật, vận hành, bảo trì. Đây là những rủi ro về việc dự án không thể vận hành và bảo trì ở mức độ phù hợp với các thông số thiết kế ban đầu. Loại rủi ro này, chủ đầu tư có thể giảm thiểu thông qua thực hiện một số biện pháp sau: - Sử dụng công nghệ đã được kiểm chứng - Bộ phận vận hành dự án phải được đào tạo tốt, có kinh nghiệm. - Có thể ký hợp đồng vận hành và bảo trì với những điều khoản khuyến khích và phạt vi phạm rõ ràng. - Bảo hiểm các sự kiện bất khả kháng tự nhiên như lụt lội, động đất, chiến tranh… - Kiểm soát ngân sách và kế hoạch vận hành. - Quyền thay thế người vận hành do không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ. 7.g. Rủi ro về môi trường, xã hội. Rủi ro này thể hiện những tác động tiêu cực của dự án đối với môi trường và người dân xung quanh. Loại rủi ro này có thể giảm thiểu bằng một số biện pháp sau: - Báo cáo đánh giá tác động của môi trường phải khách quan và toàn diện, được cấp có thẩm quyền chấp nhận bằng văn bản. - Nên có sự tham gia của các bên liên quan như cơ quan quản lý môi trường và chính quyền địa phương, từ khi bắt đầu triển khai dự án. - Tuân thủ các quy định về môi trường. 7.h. Rủi ro về kinh tế vĩ mô. Đây là những rủi ro phát sinh từ môi trường kinh tế vĩ mô, bao gồm tỷ giá hối đoái, lạm phát, lãi suất… Loại rủi ro này có thể giảm thiểu bằng cách: - Phân tích các điều kiện kinh tế vĩ mô cơ bản. - Sử dụng các công cụ thị trường như hoán đổi và tự bảo hiểm. - Bảo vệ trong các hợp đồng như chỉ số hoá, giá cả leo thang, bất khả kháng… - Đảm bảo của Nhà nước về phá giá tiền tệ và cung cấp ngoại hối (nếu được). Trên đây là những nội dung căn bản trong bất cứ một quá trình thẩm định dự án đầu tư nào. Có thể nói, thẩm định dự án đầu tư là một công việc hết sức phức tạp, nó đòi hỏi phải luôn hoàn thiện qua thực tế chứ không phải chỉ dừng lại ở lý thuyết. Vì vậy, việc không ngừng nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư đối với các dự án là điều rất cần thiết để giảm thiểu rủi ro, phát huy hiệu quả hoạt động của mình một cách tối đa… Trong công tác xây dựng dự án, việc thẩm định dự án đầu tư là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết đối với bất kỳ một dự án nào. Những phân tích, đánh giá sẽ giúp người thẩm định tìm hiểu về dự án một cách toàn diện hơn, sâu rộng hơn, có được những đánh giá chính xác hơn đối với dự án đó. Vì xét một cách toàn diện, bất kỳ một dự án nào đều được phản ánh một cách hoàn hảo nhất qua các chỉ tiêu về như Doanh thu, chi phí, lãi lỗ qua các năm dự tính… Chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về công tác thẩm định dự án đầu tư trong phần sau để có được những hiểu biết bao quát hơn về vấn đề này. CHƯƠNG II GIỚI THIỆU MÔN THỂ THAO BIDA VÀ CÔNG TY TIẾN HÀNH XÂY DỰNG DỰ ÁN. TỔNG QUAN VỀ MÔN THỂ THAO BIDA. Với lịch sử ra đời từ những năm của thế kỷ XV, có tài liệu nói rằng bộ môn này do người Pháp nghĩ ra; cũng có tài liệu cho rằng đó là của người Tây Ban Nha,.. Nhưng một điều không thể phủ nhận: Bida hiện đang chiếm được sự quan tâm của đông đảo những người từ khắp nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, tuy xuất hiện chưa lâu nhưng Bida cũng nhanh chóng trở thành một trong những môn thể thao ưa chuộng của thanh thiếu niên chúng ta. Là môn thể thao xuất hiện trong các giải đấu quốc tế và các kỳ segame. Bida đã trở thành niềm đam mê của nhiều tầng lớp. các cơ thủ của Việt Nam ngày càng nổi tiếng và được xếp hạng cao trong các giải đấu quốc tế. Chơi bida sẽ rèn luyện cho người chơi có một thể lực tốt, sự bền bỉ và tính kiên nhẫn. đồng thời tập cho người chơi tính tư duy và sáng tạo. cần phải nghĩ ra những thế đánh độc đáo, những đường đi của bi để mang lại kết quả tốt nhất. ngoài ra môn thể thao này còn mang đến cho người chơi sự thư giãn, thoải mái. GIỚI THIỆU CÔNG TY TIẾN HÀNH XÂY DỰNG Công ty được chọn để tiến hành xây dựng dự án là công ty TNHH NT HIỆN ĐẠI. Công ty TNHH NT HIỆN ĐẠI là công ty chuyên thiết kế, thi công các công trình. Hoạt động trong lĩnh vực nội và ngoại thất. công ty đã có nhiều năm kinh nghiệm và uy tín với khách hàng. Với đội ngũ nhân viên nhiệt tình và có tay nghề cao sẽ mang lại sự hài lòng tuyệt đối trong xây dựng dự án. CHƯƠNG III THẨM ĐỊNH DỰ ÁN XÂY DỰNG CÂU LẠC BỘ BIDA TẠI ĐƯỜNG NGUYỄN ẢNH THỦ- QUẬN 12 1. Ý TƯỞNG HÌNH THÀNH VÀ MỤC TIÊU DỰ ÁN. 1.a. ý tưởng hình thành dự án. Trong bối cảnh thu nhập của con người ngày càng được nâng cao. thì nhu cầu giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng là không thể thiếu. Bida là một loại hình giải trí rất quen thuộc của giới trẻ hiện nay, không chỉ là môn thể thao- giải trí lành mạnh Bi - A còn mang đến những giây phút thư giãn thật thoải mái, thú vị cho người chơi. Làm cho người chơi phấn chấn tinh thần làm việc tích cực hơn. Hơn nữa nó cũng mang ảnh hưởng tốt đến tình hình xã hội trong khu vực. giới trẻ có nơi để thư giãn,giải trí nên sẽ bớt đi tình trạng tụ tập quậy phá,… Khi cơ sở tiến hành kinh doanh thì sẽ phải đóng thuế cho nhà nước. góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước. Mặt khác kinh doanh trong ngành này cũng đem lại lợi nhuận khá cao. Trong khi vốn đầu tư bỏ ra không quá lớn. 1.b. Cơ sở pháp lý nghị định 112/2007/ NĐ - CP ngày 26/06/2007 nghị định 83/2006/ NĐ – CP ngày 17/08/2006 nghị định 43/2006/ NĐ – CP ngày 25/04/2006 thông tư liên tịch số 222/2003/ TTLT – UBTDTT- BCA 1.c. Mục tiêu dự án Nhằm tạo ra một sân chơi giải trí an toàn và lành mạnh. Nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của mọi tầng lớp trong khu vực. đồng thời còn là một nơi để mọi người có thể giao lưu, kết bạn và trao đổi kinh nghiệm. PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG. 2.a. tình hình trong khu vực. Xuất phát từ nhu cầu giải trí và sự thiếu thốn các cơ sở giải trí trong khu vực. nhiều khi các câu lạc bộ đông ngẹt bàn. Khách phải chạy lòng vòng từ chổ này sang chổ kia mà vẫn không tìm được bàn để chơi. Qua khảo sát trực tiếp các tay chơi bida trong khu vực thì nhu cầu còn đang rất lớn. cung chưa đáp ứng đủ cầu. mặc khác chất lượng phục vụ chưa được tốt. nên xây dựng trong khu vực này thì sẽ đáp ứng đươc nhu cầu đang khan hiếm của người chơi. 2.b. Đối thủ cạnh tranh Hiện tại trong khu vực có 2 đối thủ cạnh tranh đó là câu lạc bộ HOÀNG MAI và ĐƯỜNG BĂNG Đối với câu lạc bộ Hoàng Mai thì có 22 bàn bida. Số lượng bàn khá nhiều nhưng chất lượng không được tốt. nên không có khả năng giữ khách lâu dài. Đa số người chơi bida lúc mới tập chơi thì người ta chưa biết nhiều về chất lượng của bàn. Nhưng đến lúc biết chơi thì chất lượng của bàn là điều đáng được quan tâm. Độ chuẩn của bàn, độ nhạy của băng và vải phải được thường xuyên thay mới để đảm bảo bi chạy đều. chính vì không đáp ứng được những tiêu chuẩn này. nên nếu có một câu lạc bộ mới đủ tiêu chuẩn chất lượng hơn thì sẽ rất dễ dàng thu hút được khách hàng. Đối với câu lạc bộ Đường Băng thì có 6 bàn. Mặc dù chất lượng bàn thì tốt nhưng quá ít so với nhu cầu của thị trường. khách hàng thường xuyên phải đứng đợi lâu mới đến lượt mình chơi. Nên xây dựng cơ sở mới sẽ thu hút đươc khách hàng một cách để dàng. 2.c. Chiến lược kinh doanh. Việc mở ra một cơ sở kinh doanh , đó không phải là một chuyện khó nhưng việc giữ chân khách hàng đến với mình lần thứ 2 hay nhiều lần hơn nữa hoặc là mãi mãi thì đó không phải là một chuyện dễ. Do đó câu lạc bộ cần phải đề ra những chiến lược cụ thể về giá, quảng cáo, khuyến mãi, nhằm thu hút khách hàng, giữ chân khách để đạt được mục tiêu đã đề ra. 2.d. Về cảnh quan của câu lạc bộ Dù là người đi chơi thể thao thì họ cũng yêu cái đẹp nên khi xây dựng phải chú ý đến cách trang trí sao cho phù hợp. bố trí hệ thống đèn điện sao cho đẹp mắt. kèm theo xây dựng bồn hoa trước cổng. Một mặt, nó tô thêm vẻ đẹp cho câu lạc bộ, mặt khác, nó gây sự chú ý của người khách hàng vào chơi. đồng thời có phòng để khách ngồi uống nước mỗi khi đợi bàn. 2.e. Chuẩn bị điều kiện khai trương Trước ngày khai trương, câu lạc bộ sẽ giới thiệu mình bằng những tấm băng rol , phát những tờ bướm với những lời giới thiệu thật ngắn gọn và hấp dẫn nhằm thu hút sự tò mò của khách hàng. có kèm theo khuyến mãi, giảm giá trong tháng đầu tiên. Tên câu lạc bộ được in rõ ràng và nổi bậc để thu hút sự chú ý của mọi người 2.g. Về khách hàng Bất kì một cơ sở kinh doanh nào cũng cần phải có khách hàng, họ là nhân tố chủ lực giúp cho cơ sở kinh doanh tồn tại và phát triển. Với hoạt động này thì thái độ phục vụ của nhân viên là hết sức quan trọng. Do đó, câu lạc bộ sẽ chọn những nhân viên nhanh nhẹn, vui vẻ, trung thực gây được cảm tình với khách hàng, đồng thời tạo cho khách hàng có cảm giác vui lòng khi đến, vừa lòng khi đi. 3. GIỚI THIỆU VỀ DỰ ÁN 3.a mặt bằng. Nhà đầu tư thuê được 1 mặt bằng ở đường Nguyễn Ảnh Thủ có diện tích là 200m2 với giá 12 triệu/tháng. Hợp đồng thuê trong suốt vòng đời dự án. Giá thuê đất được điều chỉnh hàng năm theo tỷ lệ lạm phát. Tiền thuê sẽ phải thanh toán vào cuối mỗi năm. Trong năm xây dựng và năm thanh lý, sẽ được miễn tiền thuê như là một sự hỗ trợ đầu tư cho dự án này. Mặt bằng cần phải được sữa chữa lại cho phù hợp với mục đích kinh doanh. Được công ty TNHH NH Hiên Đại dự tính hết 150 triệu. bao gồm các khoản xây dựng, trang trí cho đẹp mắt và làm bảng hiệu, hộp đèn. 3.b. trang thiết bị. Qua tìm hiểu cũng thì nhà đầu tư quyết định chọn công ty Thành Tâm làm nhà cung cấp bàn bida. Công ty Thành Tâm là một trong những nhà cung cấp bàn bida chất lượng hàng đầu Việt Nam. Đã hoạt động nhiều năm và có thương hiệu uy tín trên thị trường. Câu lạc bộ dự kiến sẽ đặt được 12 bàn bida. Gồm 8 bàn bida băng và 4 bàn bida lổ. giá mỗi bàn là 19 triệu/bàn. Đây là loại bàn đạt tiêu chuẩn với mặt đá nhập từ Trung Quốc và cao su thì được nhập từ Đài Loan. Thời gian hữu dụng của bàn là 10 năm. Để không khí ở câu lạc bộ thêm nhộn nhịp thì phải mua sắm dàn âm thanh, tivi để chiếu các giải bóng đá.phuc vụ nhu cầu vừa chơi bida vừa xem bóng đá của khách. Chi phí mua sắm thiết bị âm thanh cùng với các đồ dùng trong câu lạc bộ như : ly, bếp, quạt, … ước tính 30 triệu. Câu lạc bộ mua thêm 1 máy phát điện để dùng những lúc bị mất điện với giá 5 triệu đồng. 3.c. Lịch đầu tư và vòng đời dự án: Đầu tư ban đầu như đã nêu trên sẽ được thực hiện trong vòng 1 năm (năm 0 ). Dự án hoạt động trong 8 năm (năm 1 đến năm 8). Câu lạc bộ dự kiến sẽ thanh lý tài sản và hoàn tất việc giải quyết các công nợ trong năm 9. 3.d. Dự kiến sản lượng Thống kê số giờ hoạt động của mỗi bàn và lượng nước giải khát bán ra ở cơ sở Hoàng Mai. Theo sổ tính tiền ghi lại của cơ sở. thứ 2 thứ 3 thứ 4 thứ 5 thứ 6 thứ 7 chủ nhật số giờ hoạt động của bàn/ngày 8 8 7 7 8 9 9 đơn giá(nghìn đồng) 15 15 15 15 15 15 15 thành tiền(nghìn đồng) 120 120 105 105 120 135 135 nước giải khát+bia(thùng) 3 2 3 2 3 4 4 lợi nhuận/1 thùng giải khát+bia 110 110 110 110 110 110 110 lợi nhuận từ bán nước 330 220 330 220 330 440 440 số giờ bình quân hoạt động của mỗi bàn/ngày 8 lượng nước bán được bình quân trong ngày 3 Thống kê số giờ hoạt động của mỗi bàn và lượng nước giải khát bán ra ở cơ sở Đường Băng. Theo sổ tính tiền ghi lại của cơ sở. thứ 2 thứ 3 thứ 4 thứ 5 thứ 6 thứ 7 chủ nhật số giờ hoạt động của bàn/ngày 9 10 10 8 9 11 13 đơn giá(nghìn đồng) 15 15 15 15 15 15 15 thành tiền(nghìn đồng) 135 150 150 120 135 165 195 nước giải khát+bia(thùng) 4 3 4 3 4 5 5 lợi nhuận/1 thùng giải khát+bia 110 110 110 110 110 110 110 lợi nhuận từ bán nước 440 330 440 330 440 550 550 số giờ bình quân hoạt động của mỗi bàn/ngày 10 lượng nước bán được trong ngày 4 Vì là cơ sở ra sau với những điều kiện chuẩn bị và chất lượng vượt trội so với đối thủ cạnh tranh. Nên chắc chắn sẽ thu hút được nhiều khách hơn. Số giờ hoạt động bình quân của mỗi bàn/ngày là :10 giờ/ngày Lượng nước bán ra trong ngày là : 3 thùng/ngày Lợi nhuận bình quân/1 thùng nước : 110 nghìn đồng. Tiền giờ : 15 nghìn đồng/giờ. Lợi nhuận từ việc bán nước và tiền giờ tăng hàng năm theo tỷ lệ lạm phát trong nước. 3.e. Chi phí hoạt động: Để thu hút khách và đồng thời quảng cáo câu lạc bộ đến với khách hàng thì câu lạc bộ sẽ phối hợp với phòng thể dục thể thao quận tổ chức các giải thi đấu trong khu vực. hình thức dự thi là các cơ thủ đăng ký dự thi phải đóng kèm một khoản lệ phí. Nên chi phí tổ chức của câu lạc bộ bỏ ra cũng không quá lớn. ước tính khoảng 30 triệu/ năm. Lao động thì sẽ thuê 4 nhân viên với mức lương 3 triệu/tháng và 1 bảo vệ để trông xe mức lương 4 triệu/tháng. Các mức lương trên được ước tính theo giá năm 0. Để bảo đảm đời sống của người lao động và khuyến khích họ gắn bó lâu dài với câu lạc bộ nhà đầu tư dự kiến sẽ tăng tiền lương thực hàng năm 8 % (cao hơn tỷ lệ tăng thu nhập bình quân đầu người của cả nền kinh tế). Ngoài ra tiền lương danh nghĩa sẽ còn điều chỉnh tăng hàng năm theo tỷ lệ lạm phát trong nước. Tiền điện phục vụ cho hoạt động kinh doanh ước tính 500 nghìn đồng/tháng Các chi phí phát sinh khác như : lơ, đầu cơ, thưởng nhân viên,…ước tính 15 triệu/năm 3.g. Tài trợ vốn: Đề đủ vốn đầu tư, nhà đầu tư dự kiến sẽ vay Ngân hàng với số tiền tương ứng bằng 60% chi phí mua sắm bàn bida vào cuối năm 0 với lãi suất danh nghĩa là 14%/năm. Khoản vay này sẽ phải trả trong 3 năm tiếp theo với phương thức vốn gốc và lãi đều nhau. Phần vốn đầu tư còn lại là vốn của nhà đầu tư. Suất sinh lời thực của vốn chủ sở hữu (re) là 12%/năm. Lạm phát: Tỷ lệ lạm phát dự kiến là 8% mỗi năm trong suốt thời gian hoạt động của dự án. Khấu hao tài sản cố định theo phương pháp đường thẳng (khấu hao đều hàng năm) Thuế : cơ sở được cơ quan thuế chấp nhận cho nộp thuế theo hình thức thuế khoáng. Với mức thuế là 4 triệu/năm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_van_tham_dinh_du_an_5563.doc
Tài liệu liên quan