Chuyên đề Tìm hiểu về kiểm toán báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại tổng công ty Sông Đà

Kỹ thuật thường áp dụng với kiểm kê tiền mặt., tín phiếu, tài sản thế chấp, hàng hoá, nguyên vật liệu và tài sản cố định , Tuy nhiên đối với các tài sản thuộc lĩnh vực xây lắp có những đặc thù riêng và thường để ngoài trời thì kiểm toán viên phải đặc biệt chú ý đến quan sat công tác bảo quản của đơn vị để đánh giá mức độ sử dụng và tình trạng của tài sản, kiểm toán viên cần phải có những hiểu biết nhất định về các máy móc kỹ thuật vốn là đặc trưng của doanh nghiệp xây lắp, cần phải hiểu được các thông số kỹ thuậtcơ bản để có thể đánh giá chính xác tình hình hoạt động của máy móc, phương tiện sản xuất trong doanh nghiệp. Phương pháp này có ưu điểm là cho phép ta kiểm tra về số lượng, chất lượng tài sản và bằng chứng có độ tin cậy cao. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng phương pháp này sẽ không chứng minh được quyền sở hữu đối với tài sản, điều kiện thực hiện khó khăn.

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tìm hiểu về kiểm toán báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại tổng công ty Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi yêu cầu về quy cách đối với loại thiết bị đó so với thiết kế. Kiểm toán viên kiểm tra quyết định phê duyệt của Tổng giám đốc, kiểm tra Phiếu thu tiền mặt với đầy đủ các yếu tố pháp lý cùng các chứng từ chứng minh khác và chấp nhận với việc ghi giảm giá trị công trình khoản tiền thu về. Trên cơ sở các phân tích cơ bản kiểm toán viên tiến hành các thủ tục kiểm toán chi tiết đối với một số khoản mục trọng yếu. Có thể khái quát các thủ tục đó đối với các khoản phải thu tiền mặt sau: Bảng số 16: Mục tiêu và các thủ tục kiểm toán các khoản phải thu Mục tiêu Thủ tục kiểm toán Đảm bảo cho các khoản tiền ghi sổ là đã thực tế nhận được Xem xét bằng chứng các khoản thu tiền Số tiền đã thu được ghi sổ một cách đầy đủ Đối chiếu các phiếu thu với sổ Nhật ký chung Các khoản tiền thu đã được tính toán và đánh giá đúng đắn Xem xét các khoản thu bằng ngoại tệ (Chênh lệch bằng tỉ giá), các khoản thu bằng vàng bạc đá quý. Còn với Tiền gửi ngân hàng các thủ tục để áp dụng kiểm toán cũng như đối với tiền mặt. Tuy nhiên những sai số thu chi tiền gửi ngân hàng theo đánh giá của kiểm toán viên ít hơn so với tiền mặt bời vì các khoản thu chi về tiền gửi ngân hàng ngoài sự kiểm soát của đơn vị còn có sự kiểm soát của ngân hàng. Đồng thời các thủ tục chứng từ và sự kiểm tra ký duyệt các khoản về tiền gửi ngân hàng cũng được thực hiện một cách chặt chẽ qua nhiều khâu, nhiều bộ phận của doanh nghiệp cũng như của ngân hàng. Kiểm toán viên đánh giá các khoản tiền được trình bày trung thực, hợp lý trong báo cáo của đơn vị chủ đầu tư. 2.2.3. Kết thúc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng nhà G10 được lập là sự tổng hợp các phần việc của các kiểm toán viên. Trước khi báo cáo kiểm toán được lập các kiểm toán viên nội bộ lập các biên bản kiểm toán. Đây là giai đoạn tổng hợp các phát hiện kiểm toán từ các sổ tay kiểm toán viên nội bộ. Trong sổ tay kiểm toán viên nội bộ phần phát hiện kiểm toán được trình bày với cơ cấu gồm: Thực trạng ( chênh lệch ) Nguyên nhân Hậu quả Kiến nghị xử lý Cụ thể các biên bản chi tiết được các kiểm toán viên lập cho từng phần việc mà họ được phân công và đã làm sau đó trưởng đoàn tiến hành xem xét và tổng hợp lại trên cơ sở đã có sự theo dõi giữa các phần việc đó trong quá trình thực hiện cuôc kiểm toán. Các biên bản kiểm toán sẽ được chuyển cho ban quản lý dự án để ký xác nhận trước đồng thời báo cáo kiểm toán sẽ được lập. Thực tế tại phòng kiểm toán nôi bộ Tổng công ty Sông Đà biên bản kiểm toán được hiểu đồng nhất với báo cáo kiểm toán Bảng số17: Biên bản kiểm toán Bộ xây dựng cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Tổng công ty sông đà Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------------- --------------------- biên bản kiểm toán Báo cáo quyết toán Trung tâm điều hành sản xuất Tổng công ty Sông Đà nhà G10 - quận Thanh xuân - Hà Nội Thực hiện Quyết định số 76TCT/KTNB ngày 04/01/2003 của Hội đồng quản trị Tổng công ty phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty đã tiến hành kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng trung tâm điều hành sản xuất và giao dịch của Tổng công ty - nhà G10 Quận Thanh Xuân - Hà Nội trong thời gian vừa qua (từ ngày 17/2/2003 đến ngày 24/2/2003). Đại diện đoàn kiểm toán nội bộ Tổng công ty : Đ/c : Nguyễn Hồng Phong – Trưởngphòng Kiểm toán nội bộ- Trưởng đoàn cùng các đồng chí chuyên viên phòng kiểm toán nội bộ Đại diện công ty Xây lắp vật tư vận tải Sông Đà 12 Đ/c : Ninh Mạnh Hùng - Giám đốc công ty Đ/c : Trần Tuyết Hoa- Kế toán trưởng Cùng các đ/c kết toán trưởng chi nhánh, xí nghiệp trực thuộc và một số cán bộ phòng liên quan. Sau khi xem xét báo cáo quyết toán sổ sách chứng từ của chúng tôi tổng hợp kết quả kiểm toán như sau: Phần I: khái quát về công trình và quá trình xây dựng trung tâm giao dịch và điều hành nhà G10: …………….. Phần II : Kết quả kiểm toán I.Kiểm toán báo cáo quyết toán 1.Về thanh toán khối lượng công trình: Giảm trong giá trị công trình do thanh toán tăng cả về khối lượng và đơn giá trong một số hạng mục công trình được kiểm tra: 341.964.223đ Giá trị khối lượng thanh quyết toán chưa chính xác yêu cầu banh quản lý và các bên thi công thanh quyết toán lại: 15.215.455đ Giá trị khối lượng thanh toán chưa hợp lý trình Hôi đồng quản trị Tổng công ty xem xét thêm 29.235.242đ ………… II. Kiểm toán tuân thủ ……… Phần III: Nhận xét và một số kiến nghị: ……… Đại diện đoàn kiểm toán Trưởng đoàn Đại diện đơn vị Một báo cáo kiểm toán cũng được lập với hình thức như trên. Như vậy có thể thấy một báo cáo tổng hợp gồm 3 phần: - Nội dung cơ bản của một cuộc kiểm toán - Các phát hiện - Các kiến nghị và kết luận kiểm toán và các phụ lục kiểm toán Các kết luận và kiến nghị kiểm toán chính là những vấn đề có liên quan đến điều chỉnh báo cáo quyết toán, thay đổi quy chế quản lý và hạch toán đến các đơn vị tham gia thi công, đến các cơ quan quản lý… Đó cũng là những điều mà kiểm toán viên đã trao đổi với những người có liên quan đến đối tượng kiểm toán. Cách trình bày báo cáo như trên thường dài và mang tính chất diễn giải toàn bộ kết quả của cuộc kiểm toán. Căn cứ để lập báo cáo kiểm toán trên như đã trình bày là những ý kiến nhận xét về bằng chứng kiểm toán đã thu thâp được trong quá trình kiểm toán và lưu giữ trong quá trình kiểm toán. Báo cáo kiểm toán này còn được trưởng phòng kiểm toán nội bô kiểm tra xem xét lại và điều chỉnh, bổ xung những chi tiết cần thiết sau đó được lập thành 3 bản trong đó: 1 bản đươc chuyển cho ban quản lý dự án, 1 bản được chuyển cho ban giám đốc Tổng công ty còn 1 bản được lưu trong phòng kiểm toán nôi bộ trong hồ sơ kiểm toán của phòng. Trong quy trình kiểm toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản theo dõi sau kiểm toán mới là giai đoạn cuối cùng của một cuộc kiểm toán. Tổng giám đốc Tổng công ty tiến hành xem xét các kết luậnvà các kiến nghị của kiểm toán viên trước các vấn đề còn tồn tại và ra các quyết định cần thiết. Đồng thời ban quản lý dự án tiếp tục giải trình những gì còn “nợ” phòng kiểm toán nội bộ trong quá trình kiểm toán và cả những vấn đề kiểm toán viên xác định và có những chứng cớ chưa thoả mãn vì chúng là những vấn đề quan hệ đến lợi ích của chính ban quản lý dự án. Các kết luận kiểm toán của kiểm toán viên nội bộ có yêu cầu thay đổi đối với một Báo cáo quyết toán nhưng đồng thời cũng là những hướng để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của những lần thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản sau kể cả việc thực hiện đầu tư lẫn quá trình lập Báo cáo quyết toán phù hợp với các quy định của Nhà nước. 2.3. Nhận xét về quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản do kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà tiến hành. Tuy mới hoạt động được 5 năm kể từ năm 1998 nhưng phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty xây dựng Sông Đà đã khẳng định được vị trí vai trò của mình. Theo các nhà chuyên môn đánh giá phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà là một trong những nơi hoạt động có hiệu quả nhất nước ta hiện nay. Tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà, kiểm toán nội bộ là một phòng chức năng độc lập với các phòng ban khác trong Tổng công ty chịu sự lãnh đạo trực tíêp của Tổng giám đốc, được lãnh đạo công ty nhận thức đúng vị trí, vai trò và sự cần thiết của kiểm toán nội bộ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh tại Doanh nghiệp. Mặt khác do tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tập trung tại Tổng công ty nên kiểm toán nội bộ có khả năng kiểm tra được tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, các hoạt động sản xuất kinh doanh và điều hành quản lý trong các doanh nghiệp, tổng kết đánh giá ưu nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với từng lĩnh vực tư vấn giúp lãnh đạo Tổng công ty và các doanh nghiệp thnàh viên cho phù hợp với từng doanh nghiệp. Hiện nay, phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty xây dựng Sông Đà tuy xác định phạm vi kiểm toán nội bộ bao gồm kiểm toán hoạt động, kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ nhưng trên thực tế với tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ như hiện nay kiểm toán nội bộ mới thực hiện tốt được nội dung kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ mà chưa chú trọng đến kiểm toán hoạt động. Qua quá trình theo dõi thực tế kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản do kiểm toán nội bộ Tổng công ty xây dựng Sông Đà thực hiện đối với dự án nhà G10 và các yếu tố khác như: qua các đề cương kiểm toán các phần việc đã lập, qua thực tế kiểm toán nói chung của phòng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản như về công tác kiểm kê trong kiểm toán, việc thực hiện các thủ tục kiểm toán …qua phỏng vấn các kiểm toán viên nội bộ trong phòng ta có thể khái quát quy trình kiểm toán các dự án đàu tư xây dựng cơ bản tại đây như sau: ỉChuẩn bị kiểm toán : Chọn dự án hoặc chọn các hạng mục công trình của dự án Tìm hiểu những thay đổi trong cơ cấu kiểm soát nội bộ của đơn vị chủ đầu tư. Lập kế hoạch tổng quát trình Tổng giám đốc Tổng công ty phê chuẩn và thông báo cho ban quản lý dự án. Lập kế hoạch kiểm toán chi tiết ỉThực hiện kiểm toán : Kiểm toán tuân thủ Kiểm toán các khoản mục trọng yếu trong báo cáo quyết toán theo đề cương đã chuẩn bị: + Kiểm toán tài khoản vốn + Kiểm toán chi phí đầu tư : Chi tiết hơn như sau: Kiểm toán chi phí đầu tư xây dựng và lắp đặt Kiểm toán chi phí trang thiết bị lắp đặt công trình Kiểm toán chi phí kiến thiết cơ bản khác Kiểm toán tài khoản tiền Kiểm toán tài khoản vật tư Kiểm toán các tài khoản trong thanh toán Kiểm toán tài sản cố định ỉLập báo cáo kiểm toán : Lập các biên bản kiểm toán chi tiết sau đó lập các biên bản kiểm toán tổng hợp Lập báo cáo kiểm toán ỉTheo dõi sau kiểm toán Quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB tại đây về cơ bản giống với quy trình kiểm toán Nhà nước đặc biệt trong phần lựa chọn đâu là khoản mục trọng yếu trong một dự án đầu tư xây dựng cơ bản để kiểm toán. Có thể lý giải như sau: Xét trên góc độ kiểm toán một cách độc lập đối với dự án đầu tư xây dựng cơ bản thì kiểm toán nội bộ và kiểm toán Nhà nước có cùng một bản chất. Tuy nhiên điểm khác nhau cơ bản ở chỗ: mục đích chính của kiểm toán nội bộ là phục vụ ban lánh đạo đơn vị. kiểm toán nội bộ các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư hay nội dung kiểm toán hoạt động trong kiểm toán dự án phải là nội dung chính trong khi kiểm toán Nhà nước chủ yếu thực hiện kiểm toán tuân thủ. Hơn nữa do kiểm toán nội bộ có sự hiểu biết phong phú về hệ thống kiểm soát nội bộ của dự án nên công việc tìm hiểu đối tượng kiểm toán có phần thuận lợi đồng thời tại đây việc lập chương trình kiểm toán còn được lồng ghép vào trong quá trình kiểm toán tức là việc tiến hành các thủ tục kiểm toán không cần đượcghi chép lại thành văn bản mà chủ yếu được thực thi trực tiếp theo quyết định của kiểm toán viên căn cứ trên kỹ năng và kinh nghiệm của họ chứ không phải là một bước công việc riêng biệt trong phần chuẩn bị kiểm toán như đối với kiểm toán Nhà nước. Mặt khác cũng do kiểm toán nội bộ còn gắn với đối tượng kiểm toán cho nên họ có điều kiện thuận lợi để thực hiện có hiệu quả kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Kiểm toán nội bộ chủ yếu vận dụng Quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước do Bộ Tài Chính ban hành chưa hướng tới các Chuẩn mực kiểm toán nội bộ quốc tế. Qua thực tế quy trình kiểm toán trên có thể thấy được những cố gắng của kiểm toán nội bộ trong việc tìm một quy trình kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản phù hợp với đặc trưng riêng của mình đồng thời cũng còn nhiều hạn chế Những điểm mạnh của kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà thể hiện trên nhiều mặt. Quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản được mô tả trong phần trên là phù hợp với Chuẩn mực thực hành nghề nghiệp của kiểm toán nội bộ do Viện kiểm toán viên nội bộ ban hành, đồng thời phù hợp với Quy chế kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp nhà nước do Bộ Tài chính ban hành ngày 28/10/1997 với 4 giai đoạn: Chuẩn bị kiểm toán Thực hiện kiểm toán Báo cáo kết quả kiểm toán Theo dõi sau kiểm toán Trong quá trình kiểm toán dự án đầu tư nhà G10 kế hoạch kiểm toán có Sự thay đổi phù hợp với kiểm toán số 520- lập kế hoạch kiểm toán “chương trình làm việc phải đủ linh hoạt để bao quát được những yêu cầu chưa đươc kiểm toán đối với kiểm toán nội bộ”. Trong quá trình kiểm toán các kiểm toán viên đã phối hợp các kỹ thuật kiểm toán như: kiểm tra hoá đơn, chứng từ số liệu, tính toán kiểm tra các loại sổ sách và nhật ký kế toán, kiểm tra và phát hiện các trường hợp không bình thường, kiểm tra các mối quan hệ của hoá đơn, chứng từ đề thu thập bằng chứng kiểm toán. Kiểm toán viên nội bộ Tổng công ty có hiểu biết sâu sắc về hệ thống kiểm soát nội bộ Tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên cho nên bước lập kế hoạch kiểm toán không tốn thời gian và công sức. Hơn thế đây cũng là một lợi thế để thực hiện kiểm toán dự án thông qua việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và triển khai các thủ tục kiểm toán bởi vì việc nắm được cơ cấu kiểm soát dự án là điều kiện kiên quyết để thực hiện kiểm toán hoạt động- một mảng quan trọng của kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Đồng thời đây là điểm khác biệt so với quy trình của kiểm toán nhà nước. Trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán việc trao đổi thông tin và phối hợp các phần việc trong đoàn kiểm toán được thực hiện tốt. Các kiểm toán viên được phân công thực hiện các công việc tương đối độc lập nhau nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo chủ động tiến hành theo trình tự chương trình kiểm toán chi tiết đồng thời tận dụng được kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của các kiểm toán viên. Tuy nhiên giữa các kiểm toán viên có sự trao đổi thông tin với nhau để đảm bảo kiểm toán được toàn diện và sâu sắc, không trùng lặp không bỏ sót. Ví dụ như kết hợp sử dụng dữ liệu giữa kiểm toán các khoản phải trả với kiểm toán các khoản vật tư, chi phí lắp đặt thiết bị khác… Đó còn sự phối hợp của trưởng đoàn kiểm toán - người nắm cuộc kiểm toán một cách tổng hợp và có hệ thống đồng thời cũng là người có trình độ nghiệp cao, có nhiều năm trong lĩnh vực kiểm tra tài chính kế toán điều này đảm bảo tính thống nhất giữa các yếu tố của một dự án vì dứ án theo định nghĩa khái quát nhất là một đơn vị hoàn chỉnh hoạt động độc lập trong mối quan hệ qua lại với mục tiêu, là công cụ quản lý có kế hoạch nhằm đạt được những mục tiêu đã định. Quá trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản được triển khai đồng thời kiểm toán viên cũng làm nhiệm vụ tư vấn về tài chính kế toán cho ban quản lý dự án nhằm sửa chữa nhưng sai sót kịp thời nâng cao trình độ hạch toán kế toán, năng cao hiệu quản quản lý cho các dự án sau. Đồng thời quá trình theo dõi sau kiểm toán được tổ chức tốt có sự phối hợp của kiểm toán nội bộ, ban giám đốc và ban quản lý dự án đảm bảo các kết luận và các kiến nghị mang tính khả thi và có ý nghĩa thiết thực Những mặt còn hạn chế Về nội dung của cuộc kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản: Kiểm toán mới chỉ tập trung vào kiểm toán các thông tin phản ánh trên các báo cáo, kiểm toán tuân thủ còn kiểm toán hoạt động chưa thể hiện rõ ràng. Mặt khác, kiểm toán tuân thủ chưa đươc khái quát thành một quy trình chuẩn do tính đa dạng và bản chất phức tạp của loại hình kiểm toán này cũng như đối với loại hình kiểm toán hoạt động. Chưa có một hệ thống chuẩn mực hoặc quy tắc nào chi phối đến các công việc đó. Thực tế trên là khó khăn không chỉ đối với kiểm toán nội bộ mà còn đối với cả kiểm toán độc lập và kiểm toán nhà nước do hạn chế về nhân sự và thời gian đồng thời do tính phức tạp của vấn đề. Về quy trình kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản : Trong phần chuẩn bị đội ngũ nhân viên cho cuộc kiểm toán dự án kiểm toán nội bộ Tổng công ty vấn chưa chú trọng đến vấn đề xác nhận nhu cầu chuyên gia tư vấn trong cuộc kiểm toán. Trên thực tế cho thấy tuy kiểm toán nội bộ được tập trung tại Tổng công ty nên có điều kiện thuận lợi trong việc xin ý kiến các chuyên gia, xin số liệu tại các phòng ban chức năng trong Tổng công ty nhưng chưa có sự chuẩn bị nên gây ra nhiều bất cập về sự chờ đợi làm gián đoạn đén tiến độ và chất lượng của cuộc kiểm toán. Các kiểm toán viên nội bộ có ưu điểm là sự hiểu biết sâu sắc về hệ thống kiểm soát nội bộ Tổng công ty lại là những người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kế toán, tài chính cho nên bước tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ thường được triển khai ít, các kiểm toán viên chủ yếu thu thập thông tin tài liệu cần thiết thông qua hiểu biết về đơn vị trong các cuộc kiểm toán năm trước, đối với các khoản mục cụ thể kiểm toán viên chủ yếu dựa vào phương pháp phỏng vấn trực tiếp nhân viên đơn vị và kiểm tra chứng từ sổ sách mà không lập bảng mô tả, bảng tường thuật hay lưu đồ vốn là những công cụ rất hiệu quả để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Cách thu thập thông tin như vậy có thể không chính xác do sự cung cấp thông tin sai lệch của chính đối tượng kiểm toán. Mặt khác đối với một tổng công ty có quy mô lớn hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng trong nhiều lĩnh vực có cơ cấu quản lý khá phức tạp thì những hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ không thì chưa đủ mà cần phải có sự hiểu biết một cách có hệ thống. Nếu việc tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ tốt giúp cho việc thực hiện hiệu quả ở cả mảng kiểm toán báo cáo quyết toán, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ giúp cho kiểm toán viên đỡ mất thời gian trong việc kiểm tra những chỗ không cần thiết và tập trung vào những chỗ quan trọng. Điều quan trọng hơn là một sự hiểu biết đầy đủ, có hệ thống về cơ cấu kiểm soát nội bộ trong toàn Tổng công ty cung cấp cơ sở cho công việc kiểm toán hoạt động dự án bởi vì việc khảo sát tính hiệu quả của quá trình kiểm soát nội bộ đối với dự án cũng là một phần của công tác kiểm toán hiệu quả hiệu lực của dự án. Chính vì vậy, việc phòng kiểm toán nội bộ ít triển khai tìm hiểu cơ cấu kiểm soát nội bộ một cách có hệ thống xét về mặt khách quan là chưa đủ điều kiện để thực hiện kiểm toán dự án có hiệu quả cao. Trong quá trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình nhà G10, kiểm toán viên đã vần dụng khái niệm trọng yếu nhưng chủ yếu theo kinh nghiệm. Việc quyết định sai số bao nhiêu là sai phạm trọng yếu đối với một khoản mục nào đấy không được xác định rõ ràng mà chủ yếu được quyết định một cách chủ quan bởi các kiểm toán viên. Ví dụ một sai số 1 triệu đồng đối với một tập hợp chi phí sản xuất chung đã phải là sai sót trọng yếu chưa và cũng số tiền này nhưng đối với khoản mục hàng tồn kho thì sao trong khi đó trọng yếu trọng yếu là một khái niệm quan trọng trong kiểm toán có thể ảnh hưởng đến phán xét của người đọc báo cáo kiểm toán và do đó ảnh hưởng đến quyết định của họ. Bên cạnh đó các kiểm toán viên nội bộ ở đây thường tiến hành chọn mẫu theo nguyên tắc số lớn nghĩa là khoản mục nào có số dư lớn sẽ có cơ hội được chọn trước, không theo một quy định nào mà chỉ dựa vào xét đoán chủ quan và kinh nghiệm của kiểm toán viên. Chính vì vậy mẫu kiểm toán không mang tính đại diện cao, không thể đảm bảo răng mọi sai sót, gian lân đều tập trung vào khoản mục có số dư lớn. Gian lận, sai sót có thể tập trung vào khoản mục có số sư nhỏ nhưng mật độ xẩy ra sai sót có thể rất lớn và có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của cuộc kiểm toán nói chung và kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản nó riêng. Đồng thời việc đánh giá quy mô mẫu để tiến hành việc kiểm toán không được chú trọng sẽ khiến cho khối lượng công tác kiểm toán trở nên rất lớn và gây lãng phí về thời gian tiền bạc. Công tác kiểm kê cũng chủ yếu dựa vào kết quả kiểm kê do đối tượng kiểm toán thực hiện. Điều đó khiến cho sự tồn tại vật chất của các tài sản không được đánh giá chính xác. Việc sử dụng các kỹ thuật kiểm toán khác như điều tra xác nhận không được sử dụng trong quá trình kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Hay nói một cách khác kiểm toán viên nội bộ vẫn chủ yếu sử dụng các kỹ thuật kiểm toán chứng từ mà chưa kết hợp với các thủ tục kiểm toán ngoài chứng từ. Điều này sẽ chưa đảm bảo cho các kết luận kiểm toán có tính tin cậy cao mặc dù tại đây các kiểm toán viên nội bộ có sự hiểu biết sâu sắc về hệ thống kiểm soát nội bộ bởi vì thực trạng hoạt động tài chính có hai phần riêng biệt: một phần được phản ánh trong tài liệu kế toán và phần khác chưa được phản ánh trong tài liêu này. Đối với phần thứ nhất, việc xác minh và bày tỏ ý kiến đã hoàn toàn có cơ sở chứng minh là các thông tin kế toán. Do đó kiểm toán viên có thể sử dụng phương pháp kiểm toán chứng từ để tìm bằng chừng kiểm toán. Còn phần thứ hai chưa có cơ sở dữ liệu do đó cần có những phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ để tạo ra bằng chứng kiểm toán như: điều tra kiểm kê hay thực nghiệm … Khi kiểm tra chi tiết các kiểm toán viên ghi lại những sai sót phát hiện được dưới dạng diễn giải bằng lời trong báo cáo kiểm toán. Còn các thông tin khác trong quá trình kiểm toán hầu như không được giữ lại trên giấy tờ làm việc. Điều này gây khó khăn cho các kiểm toán viên khi muốn tìm lại các bằng chứng cụ thể của đơn vị được kiểm toán đã trình bày lại với ban lãnh đạo Tổng công ty khi họ có đòi hỏi giải trình cụ thể. Các nhà quản lý cũng khó mà có thể đánh giá công việc kiểm toán hiệu qủa như thể nào, đặc biệt trong trường hợp có các tranh chấp pháp lý hay kiện tụng. Hơn nữa nếu số lượng phát hiện ít thì việc tập hợp các phát hiện trong sổ tay kiểm toán còn có thể kiểm soát được nhưng trong trường hợp các phát hiện nhiều bao gồm cả những sai sót rõ ràng và những phát hiện kiểm toán còn đang nghi vấn mà không được hệ thống hoá thì kiểm toán viên nội bộ sẽ gặp khó khăn trong việc xử lý số liệu. Ví dụ như trong công tác tổng hợp kết quả kiểm toán, theo dõi và xử lý những trường hợp nghi vấn cần có những giải trình để có thể kết luận đấy là những sai sót hay chứng minh được sư chân thực của nghiệp vụ…Tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà ban lãnh đạo tin tưởng các kiểm toán viên trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Điều này có thể lý giải cho thực tế trên những việc các kiểm toán viên nội bộ không ghi chép lại những công việc đã tiến hành về lâu dài sẽ ảnh hưởng cho kiểm toán Báo cáo quyết toán vì ngoài việc lập báo cáo kiểm toán thì hồ sơ kiểm toán còn dùng để đánh giá rút kinh nghiệm cho các cuộc kiểm toán sau. Không thể có một quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản hiệu quả nếu không đúc rút kinh nghiệm từ những công việc đã làm. Qua những nhận xét trên có thể thấy được những kết quả đáng khích lệ và cả những hạn chế trong công tác kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản của phòng kiểm toán nội bộ. Đồng thời qua việc nghiên cứu đối chiếu giữa lí luận và thực tiễn cônng tác kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản của phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty đã được mô tả ở trên ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm dẫn đến thực trạng đó: Sự trao đổi thông tin và phối hợp giữa các kiểm toán viên trong đoàn kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản với sự chỉ đạo bao quát của trưởng đoàn. Dự án đầu tư XDCB là một chỉnh thể thống nhất giữa các yếu tố của nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy tuy các kiểm toán viên triển khai cuộc kiểm toán theo các khoản mục tương đối độc lập với nhau nhưng nhờ trao đổi thông tin và phối hợp tốt nên vẫn đảm bảo được mối liên hệ qua lại giữa các phần việc với nhau như đã phân tích ở trên. Thực tế kiểm toán nói chung cho thấy nếu chỉ thực hiện phân đoạn kiểm toán theo khoản mục mà không có sự kết nối dữ liệu tốt thì không đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán. Nó sẽ dẫn đến sự tách biệt những tài khoản vốn có liên quan chặt chẽ với nhau như vật tư tồn kho và chi phí vật tư tính vào công trình. Nhờ thực hiện tốt công tác trao đổi thông tin và phối hợp công việc đã làm giảm khả năng này và theo được dòng vận động liên tục của thông tin từ nghiệp vụ kinh tế được phản ánh vào sổ nhật ký chung, sổ chi tiết và tổng hợp vào sổ cái và báo cáo. Trong lúc nước ta chưa thể tiếp cận được với cách kiểm toán theo các chu kỳ thì đây là một bài học kinh nghiệm dẫn đến sự thành công của một cuộc kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Hiểu biết về thình hình hoạt động của dự án : Với lợi thế là nhân viên của Tổng công ty đã từng làm việc nhiều năm trong các lĩnh vực kiểm tra tài chính, kế toán các kiểm toán viên nội bộ của tổ chức. Qua sự hiểu biết ấy kiểm toán viên đã lựa chọn được những phương pháp tiếp cận dự án, tập trung vào những mục tiêu trọng tâm tạo điều kiện thuận lợi để triển khai cuộc kiểm toán. Nhu cầu chuyên gia về những lĩnh vực chuyên môn: khi kiểm toán viên đứng trước tình huống đòi hỏi kiến thức chuyên môn thì có thể phỏng vấn một chuyên gia. Người này thường được điều động từ các bộ phận khác trong Tổng công ty với yêu cầu người này phải độc lập với đối tượng kiểm toán. Dự đoán nhu cầu của chuyên gia được chuẩn bị trong quá trình chuẩn bị kiểm toán. Tuy nhiên việc phòng kiểm toán nội bộ chưa chú ý đến công tác này có thể gây nhiều bất cập trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán như đã phân tích ở trên. Hiểu biết về các chuẩn mực, luật lệ, chính sách chế độ của Nhà nước và Tổng công ty : Điều này đảm bảo cho cuộc kiểm toán được tiến hành nhanh và các kết luận kiểm toán có giá trị thuyết phục cao. Chương III phương hướng hoàn thiện kiểm toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản qua thực tiễn hoạt động của phòng kiểm toán nội bộ tổng công ty sông đà 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản đối với kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà. Ngày nay, trên thế giới sự phát triển từng ngày của ngành kiểm toán nói chung và của kiểm toán nội bộ nói riêng thể hiện ở sự thay đổi về bản chất và phạm vi hoạt động kiểm toán. Sự ra đời của kiểm toán nội bộ trong các tổ chức lúc ban đầu xuất phát từ nhu câù đảm bảo sự chính xác của các hồ sơ, số liệu, sự tuân thủ các quy tắc, kiểm soát gian lận và sai sót. Qua thời gian, kiểm toán nội bộ đã trở thành một công việc có phạm vi ngày càng rộng đối với các tổ chức thuộc tất cả các lĩnh vực. Kiểm toán nội bộ do đó cũng gặt hái được rất nhiều thành tựu trong nghiên cứu cũng như trong phưoưng pháp tiếp cận. Ngày nay, kiểm toán nội bộ được nhìn nhận như một nhiệm vụ không thể thiếu trong mọi lĩnh vực của tổ chức. Sự mở rộng về loại hình hoạt động của kiểm toán nội bộ đã được các đơn vị tư nhân thừa nhận. Điều đó thể hiện ở vị trí cao hơn trong tổ chức, ngân sách hoạt động lớn hơn, sự thừa nhận mục tiêu nghiên cứu rộng hơn, được sử dụng nhiều hơn để phục vụ cho nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Trong hầu hết các công ty, chuyên viên kiểm toán và các nhân viên khác được nhìn nhận như những cộng sự quan trọng trong hoạt động chung của công ty. Tất cả sự thừa nhận trên chứng tỏ công việc của kiểm toán nội bộ đang ngày càng được mở rộng và trở nên độc lập hơn. Sự phát triển của kiểm toán nội bộ diễn ra rrộng khắp xuất phát từ quá trình hoạt động của các bộ phận kiểm toán nội bộ tại từng doanh nghiệp và các tổ chức Chính phủ. Những hoạt động này là cơ sở thành công cho các tổ chức đó. Sự tiến triển trong tương lai của kiểm toán nội bộ sẽ lớn hơn qua nỗ lực nghề nghiệp trên một phạm vi rộng lớn. Nhưng xét một cách toàn diện, sự phát triển của kiểm toán nội bộ phụ thuộc vào thành tựu của mọi kiểm toán viên nội bộ. Do đó, mục tiêu ở đây là nâng cao chất lượng hoạt độngcủa từng kiểm toán viên và mỗi bộ phận kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp, đem lại sự trợ giúp tích cực góp phần đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin và các ứng dụng của nó trong mọi vấn đề của cuộc sống hiện đạilà một trong những sức mạnh to lớn và có ý nghĩa nhất của xã hội. Trong kinh doanh và trong hoạt động quản lý nhà nước. máy tính đã trở thành phương tiện chủ yếu để xử lý các dữ liệu văn phòng và đem lại khả năng mới cho một số lượng lớn các ứng dụng trong khoa học quản lý. Những phát triển này đem lại những thuận lợi lớn nhưng đồng thời cũng gây ra không ít khó khăn cho công tác quản lý, điều hành. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ về trợ giúp tổ chức đồi hỏi kiểm toán viên nội bộ phải nhận thức được những cơ hội cũng như các thách thức mới này và trợ giúp mọi bộ phận để sử dụng mọi nguồn lực một cách có hiệu quả. Thêm vào đó những ứng dụng rộng rãi của máy tính đã tác động trực tiếp nhiều hơn tới công việc của kiểm toán viên nội bộ. Việc xem xét các dữ liệu hoạt động nay đã được vi tính hoá. Trước khi có sự xâm nhập của máy tính, kiểm toán viên nội bộ xử lý tài liệu và các dữ liệu có liên quan bằng cách thủ công. Ngày nay các dữ liệu cơ bản được in ra bằng máy tính điện tử qua mọt loạt các chương trình và phương pháp xử lý dữ liệu phức tạp. Khi xem xét các số liệu này kiểm toán viên nội bộ cần tập trung vào các xử lý cơ bản của máy tính, các chương trình và kiểm soát mà qua đó số liệu được tạo ra. Những kiểm tra về quá trình xử lý của máy tính điện tử dẫn tới việc sử dụng độc lập máy tính. Thông thường, kiểm toán viên sẽ kiểm tra độ chính xác của các dữ liệu bằng các chương trình máy tính và đồng thời kiểm tra sự hợp lệ của các số liệu gốc trước khi nhập vào cho máy tính xử lý. Quá trình xử lý dữ liệu của máy tính được dựa trên chương trình được định sẵn, khi chương trình đó thuộc một lĩnh vực quan trọng và có mối quan hệ qua lại với nhiều hoạt động thì chùn được coi như một hệ thống.Kiểm toán viên muốn trở thành một bộ phận cấu thành tích cực của một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt và các thủ tục nội bộ có hiệu quả kiểm toán viên nội bộ cần có ngay những kiến thức chuyên môn tương đối đầy đủ về kỹ thuật để có thể làm việc với bộ phận phát triển hệ thống. Điều đó cũng có nghĩa là kiểm toán viên nội bộ phải thiết lập và duy trì liên lạc trong những thời điểm cần thiết. Thực hiện những công việc trên một cách có hiệu quả cũng là một thách thức đối với kiểm toán viên nội bộ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành kiểm toán nội bộ trên thế giới, kiểm toán nội bộ ở Việt Nam cũng đang dần trở thành một hoạt động quen thuộc và đóng vai trò nhất định tại các công ty, tổng công ty lớn và là một yêu cầu thiết yếu mà Bộ Tài chính đặt ra đối với các doanh nghiệp nhà nước. Với xu hướng hội nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới, khi Việt Nam ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập AFTA, ƯTO các doanh nghiệp phải đặt ra phương hướng hoàn thiện mình nhằm nâng cao tính cạnh tranh trên thương trường. Hiện nay, ở nước ta chưa có chuẩn mực kiểm toán riêng cho kiểm toán nội bộ, hoạt động kiểm toán nội bộ hoàn toàn dựa theo Quy chế kiểm toán nội bôl do Bộ Tài chính ban hànhvà các quy chế, quy định tại mỗi công ty. Trong xu hướng phát triển hiện nay, kiểm toán nội bộ ngày càng trở nên độc lập do đó Việt Nam cần phải nghiên cứu ban hành một bộ chuẩn mực cho hoạt động của kiểm toán nội bộ. Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, với xu thế hội nhập mạnh mẽ và sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuậtđặc biệt là công nghệ thông tin, để có thể đứng vững và phát triển được Tổng công ty Sông Đà ngày càng phải hoàn thiện hoạt động kiểm toán nội bộ của mình. Là một Tổng công ty có hoạt động kinh doanh chủ yếu trên lĩnh vực XDCB việc kiểm toán các Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB nói riêng và kiểm toán các dự án đầu tư XDCB nói chung là một công việc cần thiết. Trong thời gian tới, Tổng công ty sẽ phát triển hướng kinh doanh sang cả các ngành thuộc các lĩnh vực khác do đó hoạt động kiểm toán nội bộ phải có sự thay đổi lớn để thích ứng với sự thay đổi trong chiến lược kinh doanh song hoạt động kiểm toán đối với các công trình XDCB vẫn đongs vai trò quan trọng và chiếm phần lớn thời gian. Với mục tiêu mở rộng thị trường kinh doanh về XDCB, tăng các dự án đầu tư XDCB ở cả trong nước và nước ngoài Tổng công ty yêu cầu bộ máy kiểm toán nội bộ phải có những bước hoàn thiện các quy trình kiểm toán đặc biệt là kiểm toán các công trình đầu tư XDCB để bắt kịp những bước phát triển của kiểm toán nôị bộ trong khu vực và trên thế giới tạo sự hoà nhập về mọi mặt của Tổng công ty. Đây cũng là yêu cầu thiết yếu nhằm làm tăng sức mạnh của Tổng công ty trên thương trường.Vì vậy, hoàn thiện hoạt động kiểm toán nội bộ nói chung và hoàn thiện quy trìh kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình XDCB nói riêng là yêu cầu thực tế và bức thiết đối với kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà. 3.2. Một số kiến nghị nhằm khắc phục khó khăn và hoàn thiện kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Trong năm 2003 một số dự án đầu tư xây dựng cơ bản được đưa vào kế hoạch kiểm toán chính thức theo những chuyên đề riêng biệt của phòng kiểm toán nội bộ chứng tỏ sự tin cậy của ban giám đốc Tổng công ty với hiệu quả mang lại của công tác này. Với các kiến thức đã được tích luỹ trong quá trình thực hiện, học tập nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế quốc dân và nghiên cứu thực tiễn kiểm toán tại phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty em mạnh dạn có một số đề xuất để góp phần vào việc khắc phục những tồn tại trong kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà. Thứ nhất, để có thể cùng một lúc thực hiện được cả 3 nội dung kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán Báo cáo quyết toán tại Tổng công ty ngoài kiểm toán viên nội bộ có trình độ chuyên môn cao về tài chính kế toán cần bổ sung các kiểm toán viên nội bộ trong những lĩnh vực chuyên ngành khác đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Trước mắt, công ty cần bổ sung thêm người có kinh nghiệm, năng lực trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán từ các đơn vị lên phòng Kiểm toán nội bộ. Và về lâu dài Tổng công ty cần tổ chức các khoá học bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên, tổ chức các cuộc tiếp xúc trao đổi với các chuyên gia kiểm toán thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm trau dồi và nâng cao trình độ của kiểm toán viên nội bộ. Một cách khác Tổng công ty có thể tuyển nhân viên là các sinh viên chuyên nghành kiểm toán trong các trường đại học nhằm giảm chi phí đào tạo cho công ty. Thứ hai, Tổng công ty cần có những quy định cụ thể về việc luân chuyển thông tin báo cáo tạo điều kiện cho kiểm toán nội bộ năm bắt kịp thời được các thông tin trong Tổng công ty. Như vậy phòng kiểm toán nội bộ với chức năng, nhiệm vụ của mình cần có sự phối hợp với các phòng ban trong việc kiểm tra, đánh giá các thông tin kinh tế đồng thời thông qua việc xem xét, đánh giá chất lượng thông tin kinh tế của kiểm soát nội bộ cũng như hiệu lực của hệ thống kỉêm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn chỉnh quy chế cũng như báo cáo, thông tin. Thứ ba, qua phân tích tình hình kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty cho thấy nội dung kiểm toán hoạt động chưa là một nội dung chính trong một cuộc kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên trong chương I khi tìm hiểu về các lĩnh vực hoạt động của kiểm toán nội bộ nói chung cũng như trong phần II qua nội dung Quy chế hoạt động của phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà đều thấy lĩnh vực chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán Báo cáo tài chính hay Báo cáo quyết toán của dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Như vậy kiểm toán nội bộ Tổng công ty nên và cần phải mở rộng nội dung kiểm toán hoạt động. Với tư cách là các kiểm toán viên nội bộ, họ có một vị trí độc đáo để thực hiện kiểm toán hoạt động, đó là do họ là những nhân viên của Tổng công ty và dành tất cả thời gian của họ làm việc cho Tổng công ty mà họ đang kiểm toán. Vì thế họ có một kiến thức đáng kể về Tổng công ty và công việc sản xuất kinh doanh của nó mà đây là điều cơ bản để kiểm toán hoạt động có hiệu quả. Để thực hiện kiểm toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB, phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty sông Đà có thể áp dụng quy trình kiểm toán hoạt động đã nêu trong Chương I : “ Cơ sở lí luận của kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản của kiểm toán nội bộ”. Tuy nhiên thực tế kiểm toán cho thấy kiểm toán Báo cáo quyết toán là một cuộc kiểm toán liên kết do đó kiểm toán có thể kết hợp kiểm toán hoạt động và kiểm toán Báo cáo tài chính mà kiểm toán viên nội bộ thực hiện. Mối quan hệ đó có thể thấy thông qua sơ đồ số 3. Tuy nhiên Tổng công ty cũng phải cân nhắc giữa chi phí để thực hiện kiểm toán với những hiệu quả đạt được nhằm đưa ra những quyết định chính xác và có lợi nhất cho toàn Tổng công ty. Thứ tư, kiểm toán viên nội bộ có thể hoàn thiện một số nội dung trong quy trình kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản như hoàn thiện việc vận dụng tính trọng yếu, nâng cao công tác đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, vận dụng một số phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán, áp dụng một số kỹ thuật kiểm toán, hoàn thiện công tác lập biên bản và lập báo cáo kiểm toán. Sơ đồ số 3: Đối chiếu quy trình kiểm toán hoạt động và kiểm toán báo cáo quyết toán Lựa chọn đối tượng kiểm toán Lập kế hoạch kiểm toán Nghiên cứu tổng quát Xem xét kiểm toán nội bộ Thử nghiệm mở rộng Thử nghiệm kiểm soát Thủ tục phân tích Thử nghiệm chi tiết Xử lí các phát hiện kiểm toán Báo cáo kiểm toán Theo dõi sau kiểm toán Lựa chọn đối tượng kiểm toán Lập kế hoạch kiểm toán Nghiên cứu tổng quát Xem xét kiểm toán nội bộ Xử lí các phát hiện kiểm toán Báo cáo kiểm toán Theo dõi sau kiểm toán Kiểm toán hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính Tính trọng yếu rất quan trọng đối với việc đảm bảo kiểm toán và thiết kế phương pháp kiểm toán. Đối với kiểm toán viên việc đảm bảo kiểm toán toàn diện trên mọi mặt của đối tượng kiểm toán là điều không thực tế. Tại Tổng công ty Sông Đà, kiểm toán viên đã vận dụng tính trọng yếu trong quá trình thực hiện kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nhưng chủ yếu theo kinh nghiệm và những phán xét chủ quan. Để đảm bảo cho các kết luận kiểm toán được chuẩn xác hơn các kiểm toán viên nên tiến hành vận dụng tính trọng yếu một cách bài bản hơn qua 5 bước như sau : Bước 1 : Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu Sự ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là ước lượng tối đa mà các kiểm toán viên tin rằng ở mức đó các thông tin có thể bị sai nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng hợp lí. Bước 2 : Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các bộ phận. Nếu các kiểm toán viên có ước lượng ban đầu về tính trọng yếu đối với từng bộ phận điều này giúp họ xác định được bằng chứng thích hợp để thu thập. Các kiểm toán viên tiến hành phân bổ tính trọng yếu cho các tài khoản trên bảng cân đối kế toán. Mục tiêu của quá trình phân bổ tính trọng yếu phải nhằm tối thiểu hoá chi phí kiểm toán. Bước 3, 4, 5 : Khi kiểm toán viên tiến hành các thủ tục kiểm toán cho từng phần của cuộc kiểm toán, tất cả các sai số tìm được đều được vào sổ. Những sai số này được dùng để ước tính tổng cộng sai số trong mỗi phần. Con số tổng cộng được dựa vào như một ước tính hoặc thường hơn là một dự đoán vì chỉ có một mẫu thay vì toàn bộ tổn thể được kiểm toán. Một cách để tính sai số ước tính là đem chia tổng cộng sai số phát hiện được cho số tiền của mẫu rồi nhân kết quả đó với tổng giá trị ghi sổ của tổng thể. Kết quả tính được là tổng cộng sai số ước tính. Đến bước 4 thì cần tính số ước tính sai số kết hợp. Nó là tổng của các sai số ước tính cho từng tài khoản. Số ước tính sai số kết hợp này có thể đem so sánh với ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Đến đây kiểm toán viên cần có những phán xét quan trọng về sự ảnh hưởng của chênh lệch đến kết luận kiểm toán cuối cùng. Trên đây là cách vận dụng tính trọng yếu trong công tác kiểm toán. công việc sẽ hiệu quả hơn nếu tính trọng yếu được bộ phận kiểm toán nội bộ xây dựng thành những “ Biểu chỉ đạo về tính trọng yếu “, nhằm hướng dẫn cụ thể cho nhân viên trong phòng vận dụng trong việc đánh giá sai sót, chênh lệch mà họ phát hiện khi kiểm toán các phần hành, khoản mục cụ thể. Thứ năm, mặc dù kiểm toán viên đã có những hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ Tổng công ty nhưng để thực hiện kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư XDCB thì các hiểu biết đó phải được tổ chức thành hệ thống và dễ dàng tra cứu khi cần thay vì chỉ ghi nhớ trong đầu. Cách hiệu quả là kiểm toán viên lập bảng về đối tượng kiểm toán hoặc cập nhật bảng mô tả trong hồ sơ thường trực về những thay đổi trong cơ cấu tổ chức, chức năng, trách nhiệm và các hoạt động của đơn vị. Các mô tả này bao gồm các bảng tường thuật, lưu đồ và sơ đồ tổ chức cũng như các thông tin tài chính và các hoạt động của đơn vị. Thường bảng mô tả bao gồm những nội dung chính sau đây : + Mục tiêu hoạt động của đơn vị + Những giới hạn trong môi trường hoạt động + Các bộ phận và chức năng trong đơn vị + Nguồn lực (số lượng và phân loại nhân viên, tình hình lưu chuyển tiền tệ, đất đai, nhà xưởng và thiết bị, các hệ thống thông tin ...) + Các cán bộ quản lí của đơn vị Trong thực tế các bảng mô tả này có thể có nhiều nội dung và chi tiết hơn. Thứ sáu, do không thể kiểm toán toàn diện đối tượng kiểm toán cho nên phải thực hiện các phương pháp chọn mẫu. Để mẫu kiểm toán mang tính đại diện cao thì kiểm toán viên có thể áp dụng một số phương pháp chọn mẫu cơ bản chọn mẫu xác suất, chọn mẫu phi xác xuất và chọn mẫu theo nhận định nhà nghề. Chọn mẫu xác suất còn gọi là chọn mẫu ngẫu nhiên là cách chọn khách quan theo đúng phương pháp xác định, bảo đảm cho mọi phần tử cấu thành đám đông đều có khả năng như nhau trong việc hình thành mẫu chọn. Đặc trưng cơ bản của phương pháp chọn ngẫu nhiên là khách quan, máy móc cả trong cách nhìn nhận đánh giá các phần tử của đám đông lẫn trong chọn mẫu. Trong kiểm toán chọn mẫu ngẫu nhiên được thực hiện ở 3 loại hình cụ thể + Bảng số ngẫu nhiên + Chọn mẫu ngẫu nhiên(đầu vào - đầu ra) qua máy tính + Chọn hệ thống Bảng số ngẫu nhiên là một bảng lập sẵn và đảm bảo cho các con số trong mỗi hàng, mỗi cột đều được lựa chọn mẫu đại diện với số lượng tương đương nhau. Kiểm toán viên sẽ căn cứ từ tổng thể để chọn một số mẫu bất kỳ từ các số ngẫu nhiên. Chọn mẫu ngẫu nhiên qua máy tính: kiểm toán viên nạp số liệu và các nghiệp vụ chi tiết vào máy, sau đó chọ mẫu bất kỳ, chọn mẫu theo hệ thống để chọn được mẫu đại diện theo nguyên tắc chung. Chọn mẫu theo hệ thống: theo phương pháp này kiểm toán viên chọn mẫu kiểm toán theo một nguyên tắc nhất định chẳng hạn theo một khoảng cách đều nhau. Các mẫu đại diện này phải đảm bảo các yêu cầu sau: Các phần tử chọn mẫu đại diện trong tổng thể phải có dặc tính giống nhau. Các phần tử của mẫu được chọn phải đựoc sắp xếp có hệ thống tuần tự Không để một phần tử nào trong tổng thể bị sót Các bước chọn mẫu theo hệ thống: Xác định số tổng thể và số lượng mẫu đại diện cần chọn Xác định khoảng cách các phần tử mẫu cần chọn Bắt đầu chọn mẫu đại diện, từ phần tử đầu tiên của số liệu hoặc nghiệp vụ, chọn các phần tử theo một khoản cách bằng nhau cho đến phần tử cuối cùng Ví dụ, đối với các khoản mục chi phí đầu tư xây dụng cơ bản kiểm toán viên có thể thực hiện chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên bởi đối tượng mẫu phần lớn là những chứng từ đã được đánh số trước. Chọn mẫu phi xác suất: các phương pháp chọn mẫu phi xác suất thường được sử dụng là chọn mẫu theo khối: là việc chọn một tập hợp các mẫu liên tục trong một giây nhát định. Trong trường hợp này phần tử đầu tiên trong khối được chọn thì phần còn lại cũng được chọn tất yếu. Mộu chọn có thể là một khối hay nhiều khối. Chọn mẫu theo nhận định nhà nghề: trong nhiều trường hợp đặc biệt khi cỡ mẫu nhỏ hoặc có tình huống không bình thường... chọn mẫu theo nhận định sẽ tạo cơ hội tôt cho sự xuất hiện của mẫu đại diện. Để tăng được khả năngcủa phương pháp nhận địnhthường phải tập rung chú ý vào phân bố mẫu chọn theo các hướng khác nhau: + Theo loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu. + Theo phần việc cho các nhân viên khác nhau phụ trách: theo đó số lượng nghiệp vụ do mỗi người thực hiện phải được kiểm toán. Nếu có thay đổi nhân viên hoặc các nghiệp vụ ở các địa điểm khác nhau sẽ có mẫu chọn đại diện khi giới hạn phạm vi chọn mẫu. + Theo quy mô: khi chọn các mẫu có quy mô tiền tệ khác nhau thì các khoản mục, nghiệp vụ, tài khoản có số dư lớn cần được chọn để kiểm toán Đối với các kiểm toán viên nội bộ thì phương pháp chọn mẫu phi xác suất tỏ ra phù hợp hơn phương pháp chọn mẫu xác suất vì chi phí chọn mẫu thì nhỏ hơn, và coc sự hiểu biết rất tốt về các đối tượng kiểm toán của mình. Thứ bảy, nhằm nâng cao tính chân thực của kết luận kiểm toán và tính khả thi của các kiến nghị của kiểm toán viên nội bộ cần áp dụng đa dạng kỹ thuật kiểm toán đặc biệt là việc kiểm kê tài sản. Kiểm toán viên nội bộ phải chứng kiến trực tiếp việc kiểm kê và đếm tài sản để chứng minh số lượng và tình trạng của tài sản có đúng với bảng kê khai hay không và xác nhận tình trạng đó. Kỹ thuật thường áp dụng với kiểm kê tiền mặt., tín phiếu, tài sản thế chấp, hàng hoá, nguyên vật liệu và tài sản cố định , Tuy nhiên đối với các tài sản thuộc lĩnh vực xây lắp có những đặc thù riêng và thường để ngoài trời thì kiểm toán viên phải đặc biệt chú ý đến quan sat công tác bảo quản của đơn vị để đánh giá mức độ sử dụng và tình trạng của tài sản, kiểm toán viên cần phải có những hiểu biết nhất định về các máy móc kỹ thuật vốn là đặc trưng của doanh nghiệp xây lắp, cần phải hiểu được các thông số kỹ thuậtcơ bản để có thể đánh giá chính xác tình hình hoạt động của máy móc, phương tiện sản xuất trong doanh nghiệp. Phương pháp này có ưu điểm là cho phép ta kiểm tra về số lượng, chất lượng tài sản và bằng chứng có độ tin cậy cao. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng phương pháp này sẽ không chứng minh được quyền sở hữu đối với tài sản, điều kiện thực hiện khó khăn. Thứ tám, trong bước kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên gửi biên bản kiểm toán cho các đối tượng kiểm toán dể họ ký xác nhận. Thực trạng này có thể gây bất cập cho việc gửi báo cáo kiểm toán cho ban lãnh đạo Tổng công ty trong trường hợp cácc đối tượng này trì hoãn, Bên cạnh đó báo cáo kiểm toán và biên bản kiểm toán còn chưa có sự phân biệt rạch ròi về hình thức và nội dung. Như vậy báo cáo kiểm toán chưa đảm bảo tính súc tích. Để khắc phục các hạn chế trên phòng Kiểm toán nội bộ có thể có một số thay đổi như: đối với nhược điểm thứ nhất, kiểm toán viên có thể yêu cầu tổng giám đốc và hộ đồng quản trị tăng cường trách nhiệm pháp lý của cac đối tượng kiểm toán trong việc ký biên bản kiểm toán; còn đối với hạn chế sau thì trưởng phòng Kiểm toán nội bộ cần tự mình hoặc uỷ quyền cho các kiểm toán viên khác thực hiện bước khái quát các phát hiện kiểm toán để cung cấp một cái nhìn tổng quát về thực trạng của đối tượng kiểm toán đồng thời bổ sung phần tiêu chuẩn hay là căn cứ cho kết luận kiểm toán để làm chỗ dựa pháp lý tránh các tranh chấp sau này. Kết luận Quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản như đã phân tích ở trên với nhiều mối quan hệ phức tạp, liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành, nhiều đơn vị nhiều các nhân qua nhiều khâu. Chính vì vậy đây là lĩnh vực có nhiều thất thoát. Qua thực tế nhiều ý kiến cho rằng thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản chiếm từ 10% đến 20%giá trị công trình, cá biệt có công trình lên đến 30%giá trị. Chính phủ và các cơ quan chức năng của nhà nước đã thấy rõ thực trạng trên, vì thế đã nhiều lần sửa đổi và ban hành các chế độ về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Do đó việc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từng bước đi vào nề nếp. Tuy nhiên hiệu quả đạt được vẫn chưa cao, tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản còn lớn, chất lượng công trình chưa đảm bảo. Là một Tổng công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp Tổng công ty Sông Đà rất quan tâm đến việc tìm kiếm giải pháp cho thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản nêu trên. Do vậy nội dung kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản được coi là như một hoạt đông chính của phòng Kiểm toán nội bộ. Do tính mới mẻ của vấn đề quy trình kiểm toán vẫn còn trong quá trình hoàn thiện. Tuy nhiên đây là việc làm cấp thiết vì tính phức tạp của các dự án đòi hỏi các kiểm toán viên có trình độ cao. Với nguồn lực có hạn không chỉ về mặt nhân viên mà còn về mặt thời gian, chi phí một quy trình kiểm toán hoàn thiện sẽ có thể giảm bớt công việc mà vẫn đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán. Trong chuyên đề tốt nghiệp đại học, em đã đưa ra được những lý luận cơ bản cho một cuộc kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Kết hợp giữa phần lý thuyết đã tích luỹ được với những kiến thức về thực tế có được trong thời gian thực tập em đã đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà. Do sự hạn hẹp về kiến thức và về thời gian nên chuyên đề còn nhiều hạn chế : trong phần thực trạng kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty Sông Đà mới chỉ nêu được một ví dụ về kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành và do Tổng công ty tự thực hiện do đó chưa thấy rõ được các trường hợp khác như kiểm toán các Báo cáo quyết toán công trình do Nhà nước hoặc đơn vị khác làm chủ đầu tư với hình thức quản lý đầu tư khác; những ý kiến đề xuất còn mang nhiều tính chủ quan do thiếu những hiểu biết về thực tế mà trong quá trình thực tập em chưa có đủ thời gian để tìm hiểu kỹ càng. Với mong muốn có được những kiến thức sâu hơn về mặt lý luận, có những hiểu biết về thực tế đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quy trình kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản Tổng công ty Sông Đà em đã hoàn thành chuyên đề “Tìm hiểu kiểm về toán nội bộ Báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản tại Tổng công ty Sông Đà” với sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy Nguyễn Quang Quynh và các cô, các chú, các anh chị tại phòng Kiểm toán nội bộ Tổng công ty Sông Đà. Em xin chân thành cảm ơn thầy, các cô chú và các anh chị đã hướng dẫn và tạo điều kiện để em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp đại học của mình. Tài liệu tham khảo Giáo trình “Kiểm toán tài chính” Trường Đại học kinh tế quốc dân. Kiểm tra, kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản hoàn thành PGS. TS Vương Đình Huệ TS. Thịnh Văn Vinh Kiểm toán các dự án- Vấn đề dặt ra TS.Trần Duy Thanh Tạp chí Kiểm toán Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Bộ Tài chính Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản Bộ Tài chính Quy chế về quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước Bộ Tài chính Kiểm toán nội bộ hiện đại Victor Z. Brink and Herbert Witt 6. Kiểm toán Alvin A. Arens James K. Loebbecke

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29666.doc
Tài liệu liên quan