Đặc điểm Procalcitonin trong chẩn đoán nhiễm trùng huyết sơ sinh

Từ bảng 5 chúng tôi thấy PCT luôn có tỷ lệ dương tính cao nhất so với các xét nghiệm khác tầm soát NTHSS khi mới vào viện. Trong nhóm NTHXĐ, tỷ lệ dương tính của PCT nhiều gấp gần 2,5 lần CRP, các thay đổi TC và chất lượng BC và gấp 1,5 lần so với thay đổi số lượng BC. Trong nghiên cứu của Guibourdenche J et al trên 136 trẻ sơ sinh bị NTH và KNTH tại Pháp, PCT có giá trị chẩn đoán rất cao, với độ nhạy 87%, độ đặc hiệu 90%, giá trị tiên đoán dương 86%, giá trị tiên đoán âm 93%; trong khi CRP có giá trị thấp hơn trong chẩn đoán NTH với các giá tương ứng lần lượt là 68%, 80%, 81%, 72%(3). Nghiên cứu tại Hàn Quốc của Kim trên 77 bệnh nhân người lớn NTH có nhóm chứng cũng cho thấy độ nhạy của PCT (95%) cao hơn CRP (85%) trong chẩn đoán NTH. Monneret et al nhận thấy PCT có tương quan mức độ nhiễm khuẩn, sự thay đổi nồng độ PCT diễn ra nhanh hơn so với CRP(7). Kết quả của một nghiên cứu phân tích gọp cho thấy PCT là một chỉ điểm chính xác hơn CRP trong chẩn đoán phân biệt tình trạng nhiễm khuẩn với tình trạng viêm không nhiễm khuẩn, phân biệt nhiễm khuẩn và siêu vi. Độ nhạy của PCT là 88% (95% KCT 80‐93%), so với 75% (KTC 62‐84% 95%) cho nồng độ CRP. Độ đặc hiệu cũng cao hơn đáng kể so với CRP là 81 % (95%KTC 67‐90%) so với 67% (95% KTC 56‐77%) (6) . Tuy nhiên, các nghiên cứu khác nhau lại có độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán dương khác nhau. Điều này có thể do sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu, tiêu chí phân chia nhóm, thời điểm khảo sát và điểm cắt PCT giữa các nghiên cứu.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 63 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm Procalcitonin trong chẩn đoán nhiễm trùng huyết sơ sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 234 ĐẶC ĐIỂM PROCALCITONIN TRONG CHẨN ĐOÁN   NHIỄM TRÙNG HUYẾT SƠ SINH  Trần Thị Lam*, Lâm Thị Mỹ**  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Chẩn đoán và điều trị sớm nhiễm trùng huyết (NTH) ở sơ sinh là rất cần thiết để ngăn ngừa  những biến chứng nghiêm trọng, cải thiện tỷ lệ tử vong. Procalcitonin (PCT) được xem như một xét nghiệm  giúp chẩn đoán sớm NTH. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về PCT trong NTH sơ sinh. Nghiên cứu này  nhằm mục đích khảo sát đặc điểm PCT trong chẩn đoán NTH ở trẻ sơ sinh.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca trong khoảng thời gian  từ 10/2012 đến 04/2013 tại khoa sơ sinh Bệnh Viện Nhi Đồng 2. Tất cả các bệnh nhân nghi ngờ NTH sẽ được  làm phết máu ngoại biên, CRP, cấy máu và PCT ngay lúc nhập viện và trước khi dùng kháng sinh. Bệnh nhân  được  chia  làm  3  nhóm  tuỳ  theo  kết  quả  phết máu, CRP  và  cấy máu:  nhóm  nhiễm  trùng  huyết  xác  định(  NTHXĐ), nhóm nhiễm trùng huyết có thể( NTHCT) và nhóm không nhiễm trùng huyết( KNTH).   Kết quả: Có 50 bệnh nhân được đưa vào nhóm nghiên cứu với 10 ca thuộc nhóm NTHXĐ, 10 ca thuộc  nhóm NTHCT và 30 ca thuộc nhóm KNTH. PCT dương tính 90%( 9/10) ở nhóm NTHXĐ, 70% (7/10) ở nhóm  NTHCT và 46,7% (14/30) ở nhóm KNTH. Giá trị trung vị của PCT ở NTHXĐ là 4,9ng/l (0,2‐36,7ng/l) cao  hơn nhóm NTHCT là 2,3ng/l (0,1‐32,7ng/l) và thấp nhất ở nhóm KNTH là 0.4 ng/l (0,1‐11,6ng/l). Trong nhiễm  trùng sơ sinh( NTSS) sớm, PCT dương tính 88,9% trong khi trong NTSS muộn là 100%. Tỷ lệ dương tính của  PCT  trong  đủ  tháng  là 100%, cao hơn  so với non  tháng  là 85,7%. So với các xét nghiệm khác  trong nhóm  NTHXĐ,tỷ lệ dương tính của PCT là 90% (9/10), thay đổi số lượng bạch cầu là 60% (6/10), thay đổi tiểu cầu là  40% (4/10), thay đổi chất lượng BC là 30% (3/10), CRP là 30% (3/10).  Kết luận: PCT có tỷ lệ dương tính cao trong các ca NTHXĐ là 90% (9/10 ca).  Từ khoá: nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng huyết sơ sinh, Procalcitonin  ABSRACT  CHARACTERISTICS OF PROCALCITONIN IN DIAGNOSIS NEONATAL SEPSIS  Tran Thi Lam, Lam Thi My * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 234 ‐ 239  Background:  Early  diagnosis  and  treatment  neonatal  sepsis  are  very  important  to  prevent  critical  complications and lower mortality rates. Procalcitonin has been known as a marker for early diagnosis sepsis. In  Viet Nam, there haven’t been any researches about PCT in neonatal sepsis. The aim of this study is to describe the  characteristics of Procalcitonin in diagnosis neonatal sepsis.   Material  and method:  Series  of  prospective  study  are  described  from October  2012  to April  2013  at  Neonatology Department  of  Children Hospital Number  2.  All  neonates  with  suspected  infection  would  be  collected blood  for peripheral blood smear, C‐reactive protein  (CRP), blood culture and PCT at admission and  before starting antibiotic treatment. Patients were categorised into three groups on basis of blood for peripheral  blood smear, CRP and blood culture results: ‘definite sepsis’, ‘possible sepsis’ and ‘no sepsis’.  Results: There were 50 patients in study divided into three groups: ‘definite sepsis’ (n=10), ‘possible sepsis’  (n=10) and  ‘no sepsis’ (n=30). PCT were positive 90% (9/10)  in definite sepsis group, 70% (7/10)  in possible  *Bệnh viện Nhi Đồng 2  ** Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Bs. Trần Thị Lam  ĐT: 0932684767  Email: bslamtran@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 235 sepsis group and 46,7% (14/30) in no sepsis group. The median value of PCT in definite sepsis was 4,9ng/l (0.2‐ 36.7ng/l), higher than in possible sepsis was 2.3ng/l (0.1‐32.7ng/l) and minimum in ‘no sepsis’ was 0.4ng/l (0.1‐ 11.6ng/l). In early‐onset sepsis, PCT were positive 88.9% in other hand in late‐onset sepsis were 100%. Positive  rates of PCT were 100% in term, higher than in preterm 85.7%. To compare to other markers in definite sepsis  group, PCT were positive 90% (9/10), white blood cells count were 60% (6/10), platelet count were 40% (4/10),  changes in white blood cell charisteristics were 30% (3/10) and CRP were 30% (3/10).  Conclusions: PCT were strongly positive in denfinite sepsis group 90% (9/10).  Keywords: sepsis, neonatal sepsis, Procalcitonin.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Chẩn đoán và điều  trị sớm nhiễm  trùng sơ  sinh  (NTSS)  nói  chung mà  đặc  biệt  là  nhiễm  trùng huyết (NTH) là rất cần thiết để ngăn ngừa  những biến chứng nghiêm trọng, cải thiện tỷ  lệ  tử vong. Tuy nhiên, điều đó không dễ dàng bởi  các biểu hiện lâm sàng nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh  thường không  rõ  ràng và không  đặc hiệu. Kết  quả  cấy máu  được  xem  là  tiêu  chẩn  vàng  để  chẩn đoán NTH lại thường mất nhiều thời gian,  ít nhất là 48‐72 giờ và tỷ lệ dương tính còn thấp.  Trong khi đó, công  thức bạch cầu (BC), protein  phản  ứng  C  (CRP)  vì  có  đặc  điểm  đơn  giản,  nhanh chóng và kinh  tế đã được sử dụng rộng  rãi  trong hỗ  trợ chẩn đoán NTSS  tại Việt Nam.  Tuy nhiên, CRP và số  lượng bạch cầu đa nhân  trung  tính  (BCĐNTT)  chịu  ảnh  hưởng  của  rất  nhiều  yếu  tố. Cách  sanh,  giảm  bạch  cầu máu,  thời  điểm  làm  xét  nghiệm.  làm  giá  trị  CRP  thay đổi. Còn số  lượng BCĐNTTcũng chịu ảnh  hưởng của cách sanh, ngày  tuổi, sanh non hay  đủ  tháng. Những điều đó  làm cho giá  trị chẩn  đoán  của CRP  và BC  giảm  trong nhiễm  trùng  huyết sơ sinh  (NTHSS). Gần đây, Procalcitonin  (PCT) được nghiên cứu với nhiều giá trị hứa hẹn  hơn  CRP,  BC  trong  chẩn  đoán  NTH(6,8).  PCT  không  chịu  ảnh  hưởng  bởi  sự  giảm  BC  hạt,  không hoặc  ít thay đổi trong các đáp ứng viêm  không do nhiễm khuẩn, tăng sớm hơn CRP khi  có  tình  trạng  nhiễm  khuẩn  xảy  ra.  Theo  JeanGuibourdenche, PCT  có  độ nhạy  87%,  đặc  hiệu  90%, giá  trị  tiên  đoán dương  96%,  giá  trị  tiên  đoán âm 93%  so với CRP  lần  lượt  là 68%,  80%, 81%, 72% trong chẩn đoán NTH sơ sinh(3).  Tại Việt Nam  trong nghiên  cứu  của  tác giả Lê  Xuân Trường phân  biệt  viêm màng  não do  vi  trùng và không vi trùng ở người lớn thì PCT có  giá trị chẩn đoán cao, PCT không tăng trong các  bệnh lý nhiễm siêu vi và ký sinh trùng(5). Tác giả  Nguyễn  Thị  Thanh  tiến  hành  mô  tả  về  Procalcitonin  trong  hội  chứng  đáp  ứng  viêm  toàn thân ở trẻ em đầu tiên ở Việt Nam cho thấy  PCT  có  thể  phân  biệt  tình  trạng  nhiễm  khuẩn  hay  không  nhiễm  khuẩn  trong  hội  chứng  đáp  ứng  viêm  toàn  thân(9).  Cho  đến  nay,  chưa  có  nghiên cứu nào về Procalcitonin ở những trẻ sơ  sinh  nghi  ngờ  NTH  tại  Việt  Nam  được  tiến  hành. Chính vì những  điều  đó,  chúng  tôi  thực  hiện nghiên cứu này để  tìm hiểu đặc điểm của  PCT ở những ca sơ sinh nghi ngờ NTH.   Mục tiêu nghiên cứu  Khảo sát đặc điểm Procaclcitonin trong chẩn  đoán nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU   Phương pháp  Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca.  Đối tượng nghiên cứu  Trẻ sơ sinh được chẩn đoán theo dõi NTH  nhập  khoa  sơ  sinh  bệnh  viện Nhi  Đồng  2  từ  10/2012‐04/2013.  Tiêu chí chọn mẫu  Theo phác  đồ  điều  trị  bệnh  lý  sơ  sinh  của  Nhi Đồng 2, trẻ theo dõi NTH khi có các yếu tố  nguy cơ và biểu hiện lâm sàng gợi ý NTH  Tiêu chí loại trừ  Trẻ đa dị tật  Trẻ được điều trị kháng sinh trước đó.   Cha mẹ hoặc người giám hộ không đồng ý  làm xét nghiệm Procalcitonin.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 236 3 nhóm bệnh nhân  NTH xác định (NTHXĐ) khi có:   ‐ Yếu tố nguy cơ VÀ  ‐  Biểu  hiện  lâm  sàng  khi  nhập  viện  gợi  ý  nhiễm trùng huyết VÀ  ‐ Có từ 2 cận lâm sàng dương tính (đã nêu ở  trên) VÀ  ‐ Cấy máu dương tính.  NTH có thể (NTHCT) khi có:  ‐ Yếu tố nguy cơ VÀ  ‐  Biểu  hiện  lâm  sàng  gợi  ý  nhiễm  trùng  huyết VÀ  ‐ Có từ 2 cận lâm sàng dương tính (đã nêu ở  trên) VÀ  ‐ Cấy máu âm tính.  Không NTH (KNTH) khi có:   ‐ Yếu tố nguy cơ VÀ  ‐  Biểu  hiện  lâm  sàng  gợi  ý  nhiễm  trùng  huyết VÀ  ‐ Có  ít hơn 2 cận  lâm sàng dương tính (đã  nêu ở trên) VÀ  ‐ Cấy máu âm tính.  PCT  dương  tính  khi  >0,5ng/l  và  được  đo  bằng phương pháp  định  lượng miễn dịch  ánh  sáng huỳnh quang hoá điện.   KẾT QUẢ  Trong 7  tháng  tại Bệnh Viện Nhi Đồng 2,  từ tháng 10/2012 đến hết tháng 04/2013, chúng  tôi  đã  khảo  sát  được  50  ca  có  đủ  tiêu  chuẩn  đưa vào nhóm nghiên cứu. Chúng tôi ghi nhận  kết quả sau:  Dịch tễ: nhóm NTHXĐ có tỷ  lệ sanh non  là  70% (7/10), mẹ bệnh lý lúc sanh là 80% (8/10 ca).  Lâm  sàng:  NHTXĐ  có  các  triệu  chứng  thường gặp  là  tiêu hoá 100%  (10/10),  thần kinh  80% (8/10), ổ nhiễm trùng khu trú 60% (6/10).  Cận lâm sàng: NTHXĐ có xét nghiệm thay đổi  số lượng BC, CRP và lactate có tỷ lệ dương tính lần  lượt  là  60%,  30%  và  70%. Kết  quả  cấy máu  của  nhóm NTHXĐ chủ yếu làE.Coli chiếm 50%, còn lại  là  Klebsiella  pneumoniae,  Enterobacter  Cloacae,  Acinobacter  Spp,  Staphylococcus  Coagulase  (‐)  và  Burkhoderia Cepacia.  Điều trị: 100% các ca được dùng kháng sinh  ngay  từ  đầu  với  chủ  yếu  là  công  thức  Cefotaxim+  Ampicillin  (56%)  và  Cefotaxim+  Ampicillin+ Amikacin  (40%). Thời gian điều  trị  kháng sinh ở nhóm NTHXĐ là 18,5 ngày  Tỷ lệ PCT dương tính ở các nhóm  Bảng 1: Tỷ lệ PCT dương tính ở các nhóm  Đặcđiểm NTHXĐ n=10 (%) NTHCT n=10 (%) KNTH n=30 (%) Tổng N=50 (%) PCT> 0,5ng/l 9/10 (90) 7/10 (70) 14/30 (46,7) 30/50 (60) Tỷ  lệ  PCT  dương  tính  cao  nhất  ở  nhómNTHXĐ  là  9/10  ca  (90%),  kếđếnlà  nhóm  NTHCT với 7/10 ca (70%), cao hơn nhómKNTH14/30  ca (46,7%).   Giá trị trung vị của PCT ở các nhóm  Bảng 2: Giá trị trung vị của PCT ở các nhóm  Đặcđiểm NTHXĐ Trung vị (giới hạn) NTHCT Trung vị (giới hạn) KNTH Trung vị (giới hạn) PCT (ng/l) 4,9 (0,2-36,7) 2,3 (0,1-32,7) 0,4 (0,1-11,6) Giá trị trung vị của PCT ở NTHXĐ là 4,9ng/l  (0,2‐36,7ng/l)  cao hơn nhóm NTHCT  là  2,3ng/l  (0,1‐32,7ng/l)  và  thấp  nhất  ở  nhóm  KNTH  là  0,4ng/l (0,1‐11,6ng/l).   Tỷ  lệ  PCT  dương  tính  theo  ngày  tuổi  phát bệnh  Bảng 3: Tỷ lệ PCT dương tính theo ngày tuổi  phát bệnh  Đặcđiểm NTHXĐ n=10 (%) NTHCT n=10 (%) KNTH n=30 (%) Tổng N=50 (%) PCT>0,5ng/l <7 ngày ≥7 ngày 8/9 (88,9) 1/1 (100) 6/6 (100) 1/4 (25) 8/13 (61,5) 6/17 (35,3) 22/28 (78,6) 8/22 (36,4) Nhìn chung,  tỷ  lệ số ca có PCT > 0,5 ng/l ở  nhóm <7 ngày  cao hơn nhóm≥7 ngày. Sự khác  biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 6,5; P=0,01).  Nhóm NTHXĐ  PCT  dương  tính  trong8/9  ca  <  7  ngày  và  1/1  ca  ≥7  ngày  cũng  có  PCT  dương  tính. Tỷ  lệ dương  tính  của PCT  trong  nhóm NTHCT  và KNTH  ở  trẻ  <  7  ngày  cao  hơn nhóm ≥7 ngày.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 237 Tỷ  lệ  PCT  dương  tính  ở  các  nhóm  theo  tuổi thai  Tỷ  lệ  trẻ  có  PCT  >  0,5ng/l  ở  nhóm  non  tháng  (15/27  ca)  thấp  so  với  đủ  tháng  (15/23  ca). Trong nhóm NTHXĐ thì tỷ lệ PCT>0,5 ng/l  ở trẻ đủ tháng cao hơn trẻ non tháng. Điều này  cũng  giống  nhóm  KNTH  và  trái  ngược  với  nhóm NTHCT.  Bảng4: Tỷ lệ PCT dương tính ở các nhóm theo tuổi  thai  Đặcđiểm NTHXĐ n=10 (%) NTHCT n=10 (%) KNTH n=30 (%) Tổng N=50 (%) PCT>0,5 ng/l <37 tuần ≥37 tuần 6/7 (85,7) 3/3 (100) 3/4 (75) 4/6 (66,7) 6/16 (37,5) 8/14 (57,1) 15/27 (55,6) 15/23 (65,2) Tỷ lệ dương tính của BC, TC, CRP, PCT ở các nhóm  Bảng 5. Tỷ lệ dương tính của BC, TC, CRP, PCT ở các nhóm  Đặcđiểm NTHXĐ, n=10 (%) NTHCT, n=10 (%) KNTH, n=30 (%) Tổng, N=50 (%) PCT> 0,5ng/l 9/10 (90) 7/10 (70) 14/30 (46,7) 30/50 (60) Thay đổi số lượng BC 6/10 (60) 5/10 (50) 0/30 (0) 11/50 (22) Thay đổi chất lượng BC 3/10 (30) 4/10 (40) 1/30 (3,3) 8/50 (16) CRP ≥10mg/l 3/10 (30) 4/10 (40) 6/30 (20) 13/50 (26) Thay đổi TC 4/10 (40) 2/10 (20) 1/30 (3,3) 7/50 (14) Trong cả 2 nhóm NTHXĐ và nhóm NTHCT  thì PCT luôn có tỷ lệ dương tính cao nhất so với  các  xét  nghiệm  tầm  soát NTHSS  khi mới  vào  viện. Trong khi đó, các xét nghiệm thường quy  như CRP, chỉ số BC và TC thay đổi ít hơn và gần  như nhau giữa nhóm NTHXĐ và NTHCT.   Tỷ  lệ  các  xét  nghiệm  dương  tính  ở  nhóm  NTHXĐ  và  NTHCT  cao  hơn  so  với  nhóm  KNTH. Không có ca nào  thay đổi số  lượng BC  trong nhóm KNTH.  BÀN LUẬN  Từ bảng 1, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ dương  tính của PCT cao nhất ở nhóm NTHXĐ (90%),  kế đến là nhóm NTHCT (70%) và thấp nhất là  KNTH  (46,7%).  Ở Việt Nam,  chưa  có  nghiên  cứu nào về PCT ở trẻ sơ sinh, chỉ có các nghiên  cứu ở  trẻ  lớn hay người  lớn. Nghiên cứu  tiến  hành trên trẻ từ 2  tháng  tuổi ở bệnh viện Nhi  Đồng 2 của Nguyễn Thị Thanh (năm 2006) cho  thấy  tỷ  lệ  PCT  dương  tính  trong  hội  chứng  nhiễm  khuẩn  toàn  thân  là  86,6%,  cao  hơn  nhóm không có hội chứng nhiễm khuẩn  toàn  thân, 33,3% (P<0,001)(9). Trong một nghiên cứu  trên bệnh nhân người  lớn  tại khoa Nhiệt Đới  bệnh  viện Chợ Rẫy,  tác  giả  Lê Xuân  Trường  (năm  2009)  ghi  nhận  PCT  có  độ  nhạy  là  88,61%, độ đặc hiệu là 88,52%, giá trị tiên đoán  dương  là  90,91%(5).  Nhiều  nghiên  cứu  nước  ngoài cũng cho thấy PCT tăng cao trong nhóm  nhiễm trùng huyết so với nhóm không nhiễm  trùng(1,3,7). Nghiên  cứu  tại Ý  của Chiesa  (năm  1998)  trên  126  trẻ  bệnh  nặng  và  83  trẻ  khoẻ  mạnh  cho  thấy PCT  có  độ nhạy  92,6% và  độ  đặc hiệu  97,5%  trong  chẩn  đoán NTHSS  sớm  và cả hai giá  trị này  là 100%  trong chẩn đoán  NTHSS muộn(1). Theo Guibourdenche J et al,  với  điểm  cắt  là 2,5ng/ml, PCT  có giá  trị  chẩn  đoán  rất  cao,  với  độ  nhạy  87%,  độ  đặc  hiệu  90%, giá  trị  tiên đoán dương 86%, giá  trị  tiên  đoán âm 93%(3). Monneret et al nhận định PCT  là một chỉ  tố nhạy  trong chẩn đoán NTHSS(7).  Qua các nghiên cứu  trên cho  thấy PCT có giá  trị trong chẩn đoán NTHSS.   Tuy  nhiên,  trong  nhóm  KNTH,  PCT  cũng  dương  tính khoảng 46,7% các  trường hợp. Một  số nghiên cứu chỉ ra rằng PCT không là một dấu  ấn sinh học có độ nhạy và độ đặc hiệu cao giúp  chẩn  đoán  sớm  NTHSS.  Các  nghiên  cứu  cho  thấy nồng độ PCT tăng khi có thủ thuật hồi sức  sau sanh, ngạt chu sinh, xuất huyết nội sọ, tràn  khí màng phổi. Chính những yếu  tố đó sẽ  làm  giảm  độ  đặc  hiệu  của  PCT  trong  chẩn  đoán  NTHSS sớm cho dù những thay đổi này chỉ làm  tăng PCT không quá cao và thoáng qua(2). Đó là  một trong những lý do khiến PCT không còn là  một dấu ấn được lựa chọn hàng đầu trong chẩn  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 238 đoán NTHSS.  Tuy  nhiên,  các  nghiên  cứu  còn  chưa thuần nhất, tiêu chí chọn mẫu và điểm cắt  PCT  còn khác nhau nhiều nên giá  trị  của PCT  trong NTHSS vẫn còn tiếp tục tranh cãi. Cần có  thêm nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng và chỉ  ra giới hạn tham khảo nồng độ PCT để làm tiền  đề cho các nghiên cứu về giá trị PCT trong NTH  một cách thống nhất và thuyết phục.  Giá  trị  trung  bình  của  PCT  ở  NTHXĐ  là  5,62±7,2mg/l cao hơn KNTH  (1,47±2,63 ng/l) và  thấp hơn NTHCT (11,09±14,24ng/l). Giá trị trung  vị của PCT là 2,69 ng/l ở nhóm NTH cao hơn ở  nhóm không NTH là 0,43 ng/l.   Trị  số  trung bình hay  trung vị  của PCT  ở  các nghiên cứu khác nhau cũng dao động khác  nhau(4,3).  Tuy  nhiên,  điểm  chung  của  các  nghiên cứu là nồng độ PCT ở nhóm NTH luôn  cao  hơn  nhóm  không  NTH  một  cách  có  ý  nghĩa thống kê. Sự khác nhau giữa các nghiên  cứu có thể là do phương pháp định lượng, thời  gian và  đối  tượng nghiên  cứu khác nhau. Từ  những  điều  đã phân  tích  trên  đây,  chúng  tôi  nhận thấy PCT có nhiều khả năng là một chỉ tố  cận  lâm sàng hữu  ích, hỗ  trợ cho các nhà  lâm  sàng  trong  chẩn  đoán  và  xa hơn nữa  là  theo  dõi,  điều  trị,  tiên  lượng  bệnh  nhân  nghi  ngờ  NTH. Trong khuôn khổ nghiên cứu của mình,  chúng  tôi bước  đầu có cái nhìn về  trị  số PCT  giữa  các nhóm NTH và không NTH  ở  trẻ  sơ  sinh. Cần có nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để  khẳng định giá trị PCT trong chẩn đoán NTH  ở trẻ sơ sinh Việt Nam bởi mặc dù đã có nhiều  nghiên  cứu  về  PCT  trên  thế  giới  nhưng  sự  khác biệt nhiều về giá trị điểm cắt trên những  đối tượng khác nhau khiến cho việc ứng dụng,  so  sánh  và  giá  trị  PCT  bị  hạn  chế  trong  NTHSS.  Trong nhóm NTHXĐ, chúng tôi ghi nhận tỷ  lệ dương  tính của PCT  trong NTSS sớm 88,9%,  NTSS muộn  100%.  Đa  số  các  nghiên  cứu  đều  cho  thấy vai  trò của PCT  trong chẩn đoán sớm  NTHSS, đặc biệt là NTSS muộn cũng như giá trị  tiên  đoán  âm  rất  cao  (>90%)(3,10).  Theo  Emine  Kocabaş(4),  PCT  có  nồng  độ  trung  bình  trong  NTH  sớm  là18,7±29,1ng/l;  trong NTH muộn  là  19,4±21,8ng/l.  Theo  Gendrel  et  al  thì  nồng  độ  PCT không thay đổi đáng kể giữa các trẻ sơ sinh  khoẻ mạnh và  trẻ  lớn, người  lớn. Điều này  trái  ngược  với  ghi  nhận  của  Chiesa  et  al  và  Monneret et al  rằng PCT  thay đổi  trong 48 giờ  đầu sau sanh(1,7). Do đó, sự thay đổi của PCT có  bị  ảnh  hưởng  của  ngày  tuổi  phát  bệnh  hay  không thì còn cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để  có câu trả lời cho vấn đề này.  Trong NTHXĐ,  tỷ  lệ dương  tính  của PCT  trong  đủ  tháng  là  100%,  cao  hơn  so  với  non  tháng  là 85,7%. Theo Chiesa et al  thì nồng độ  PCT không bị  ảnh hưởng bởi  các yếu  tố như  cân nặng, tuổi thai và một số yếu tố khác ngoại  trừ  đái  tháo  đường  thai  kỳ(1).  Tương  tự,  Guibourdenche J et al cũng ghi nhận nồng độ  PCT  ở  trẻ không nhiễm  trùng  cũng không bị  ảnh hưởng bởi tuổi thai(3). Vậy yếu tố tuổi thai  không  ảnh  hưởng  đến  kết  quả  PCT.  Đây  là  một  điểm  thuận  lợi  để  ứng  dụng  PCT  trong  chẩn đoán NTHSS.  Từ bảng 5 chúng tôi thấy PCT  luôn có tỷ  lệ  dương tính cao nhất so với các xét nghiệm khác  tầm soát NTHSS khi mới vào viện. Trong nhóm  NTHXĐ,  tỷ  lệ dương  tính  của PCT  nhiều  gấp  gần 2,5 lần CRP, các thay đổi TC và chất lượng  BC và gấp 1,5  lần so với thay đổi số  lượng BC.  Trong nghiên cứu của Guibourdenche J et al trên  136 trẻ sơ sinh bị NTH và KNTH tại Pháp, PCT  có giá trị chẩn đoán rất cao, với độ nhạy 87%, độ  đặc hiệu 90%, giá  trị  tiên đoán dương 86%, giá  trị  tiên  đoán âm 93%;  trong khi CRP  có giá  trị  thấp  hơn  trong  chẩn  đoán  NTH  với  các  giá  tương  ứng  lần  lượt  là  68%,  80%,  81%,  72%(3).  Nghiên cứu tại Hàn Quốc của Kim trên 77 bệnh  nhân người lớn NTH có nhóm chứng cũng cho  thấy độ nhạy của PCT (95%) cao hơn CRP (85%)  trong chẩn đoán NTH. Monneret et al nhận thấy  PCT  có  tương  quan mức  độ  nhiễm  khuẩn,  sự  thay đổi nồng độ PCT diễn ra nhanh hơn so với  CRP(7). Kết  quả  của một  nghiên  cứu phân  tích  gọp cho thấy PCT là một chỉ điểm chính xác hơn  CRP trong chẩn đoán phân biệt tình trạng nhiễm  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 239 khuẩn với tình trạng viêm không nhiễm khuẩn,  phân biệt nhiễm khuẩn và siêu vi. Độ nhạy của  PCT là 88% (95% KCT 80‐93%), so với 75% (KTC  62‐84%  95%)  cho  nồng  độ  CRP.  Độ  đặc  hiệu  cũng  cao  hơn  đáng  kể  so  với  CRP  là  81  %  (95%KTC 67‐90%) so với 67% (95% KTC 56‐77%)  (6). Tuy nhiên, các nghiên  cứu khác nhau  lại  có  độ nhạy,  độ đặc hiệu, giá  trị  tiên  đoán dương,  giá trị tiên đoán dương khác nhau. Điều này có  thể do sự khác nhau về đối  tượng nghiên cứu,  tiêu chí phân chia nhóm, thời điểm khảo sát và  điểm cắt PCT giữa các nghiên cứu.   KẾT LUẬN  PCT  có  tỷ  lệ dương  tính  cao  trong  các  ca  NTHXĐ.  Cần  có  thêm  nghiên  cứu  với  thời  gian và  cỡ mẫu  lớn hơn về giá  trị PCT  trong  nhiễm trùng sơ sinh để từ đó làm cơ sở cho chỉ  định PCTtrong chẩn đoán ban đầu; hoặc phối  hợp  PCT  vớicông  thức máu  và CRP  để  tăng  cao mức độ chẩn đoán ở các trường hợp nặng,  nghi ngờ NTH.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Chiesa  C,  et  al  (1998).  ʺReliability  of  procalcitonin  concentrations  for  the  diagnosis  of  sepsis  in  critically  ill  neonatesʺ. Clin Infect Dis, Mar; 26 (3), pp. 664‐72.   2. Chiesa C, et al (2003). ʺC‐Reactive Protein, Interleukin‐6, and  Procalcitonin in the Immediate Postnatal Period: Influence of  Illness  Severity,  Risk  Status,  Antenatal  and  Perinatal  Complications, and Infectionʺ. Clinical Chemistry; 49 (1), pp.  60‐68.  3. Guibourdenche  J,  et  al,(2002).  ʺBiochemical  markers  of  neonatal  sepsis:  value  of  procalcitonin  in  the  emergency  settingʺ. Ann Clin Biochem, 39 (2), pp. 130‐35.  4. Kocabaş E, Sarikçioğlu A, et al,(2007).  ʺRole of procalcitonin,  C‐reactive  protein,  interleukin‐6,  interleukin‐8  and  tumor  necrosis  factor‐α  in  the  diagnosis  of  neonatal  sepsisʺ.  The  Turkish Journal of Pediatrics; 49, pp. 7‐20.  5. Lê Xuân Trường,(2009).  ʺGiá  trị  chẩn  đoán  của  xét nghiệm  Procalcitonin trên bệnh nhân viêm màng nãoʺ. Tạp chí Y Học  TPHCM, tập 13 (1), tr. 209‐1  6. Mirjam Christ‐Cr, Beat M  (2005).  ʺProcalcitonin  in  bacterial  infections  ‐hype, hope, more or  less?ʺ. Swiss Med Wkly, 134  pp. 451‐60.  7. Monneret G, et al (1997). ʺProcalcitonin and C‐reactive protein  levels in neonatal infectionsʺ. Acta Paediatr, 86 (2), pp. 209‐12.   8. Ng PC (2004).  ʺDiagnostic markers of  infection  in neonatesʺ.  Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed, 89, pp. 229–35.  9. Nguyễn Thị Thanh  (2006). Khảo  sát  sự  thay  đổi Procalcitonin,  CRP, bạch cầu máu trong hội chứng đáp ứng viêm toàn thân ở trẻ  em tại bệnh viện Nhi Đồng 2. Luận án chuyên khoa 2, chuyên  ngành Nhi. Đại học Y Dược T.PHCM.  10. Yu Z, Liu J, et al (2010). ʺThe accuracy of the procalcitonin test  for the diagnosis of neonatal sepsis: a meta‐analysis.ʺ. Scand J  Infect Dis, 42(10), pp. 723‐33.  Ngày nhận bài báo:       30/10/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   05/11/2013  Ngày bài báo được đăng:     05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_procalcitonin_trong_chan_doan_nhiem_trung_huyet_so.pdf