Đề án Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa tồn tại nhiều thanh phần kinh tế như ở nước ta hiện nay ,vai trò của thành phần kinh tế nhà nước là vô cùng quan trọng , đây là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển nền kinh tế và hôi nhập với nền kinh tế thế giới của nước ta, đồng thời đây là một thành phần kinh tế cung cấp cho Nhà Nước các công cụ vật chất quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế . Xuất phát từ ý nghĩa lí luận kết hợp với thực tiễn hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng còn nhiều bất cập,chưa thực sự tương xứng với vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân mà yêu cầu đặt ra phải có nhưng thay đổi cho phù hợp với sự phát triển kinh tế ,tạo ra hiệu quả trong hoạt động kinh tế của thành phần kinh tế nhà nước.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho nền kinh tế Xã hội Chủ Nghĩa . Thứ hai sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia tất yếu có sự phát triển không đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành ,các vùng,các doanh nghiệp,nó quyết định quan hệ sản xuất trước hết là hình thức,quy mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó,nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau. Thứ ba để thực hiện chính sách mở cửa ,cải cách kinh tế thì phải thực hiện liên doanh liên kết với nước ngoài hình thành nên các thành phần kinh tế mới. Từ đại hội ĐảngIX xác định nước ta hiện nay có năm thành phần kinh tế sau: Thành phần kinh tế nhà nước :phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế ,là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế Thành phần kinh tế tập thể : phát triển với nhiều hình thức đa dạng ,trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Thành phần kinh tế cá thể,tiểu chủ:Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển;khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện ,làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân:phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất mà pháp luật không cấm. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước :tồn tại dưới hình thức liên doanh ,liên kết giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:ngày càng được nhà ước khuyến khích thông qua các chính sách kêu gọi đầu tư thông thoáng hơn. Với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay nhà nước mong muốn có thể phát huy sức mạnh nội lực của toàn bộ nền kinh tế đồng thời tranh thủ các nguồn lực kinh tế từ nước ngoài. Trong nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa thì vai trò của thành pần kinh tế nhà nước càng trở nên quan trọng, đây là thành phần được xác định là giữ vai trò then chốt trong phát triển kinh tế đất nước đồng thời thông qua việc mở rộng quan hệ cả về sở hữu và quan hệ sản xuất với các thành phần kinh tế khác để thúc đẩy cũng như định hướng cho các thành phần kinh tế cùng phát triển. 3.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: Thành phần kinh tế nhà nước được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo.Hiệu quả tong hoạt đọng của thành phần này quuyết định đến hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế,bởi vậy trong quá trình quản lý hoạt độmg của thành phần kinh tế này nhà nước luôn quan tâm tìm mọi biện pháp để hoạt động của nó ngày càng hiệu hơn. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước được thể hiện ở các nội dung sau: Thứ nhất:kinh tế nhà nước trở thành lực lượng vật chất và công cụ sắc bén để nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Đây là một trong những vai trò cực kỳ quan trọng của kinh tế nhà nước.Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường mặc dù sự can thiệp của nhà nước là cần thiết và đúng đắn nhưng nếu không có một lực lượng kinh tế mạnh làm hậu thuẫn thì trong nhiều trường hợp sự can thiệp đó có thể bị cơ chế thị trường vô hiệu hoá.Mặt khác trong cơ chế thị trường Nhà nước thường xuất hiện như là một chủ thể kinh tế có lợi ích kinh tế độc lập với chủ thể kinh tế khác. để đảm bảo hiệu lực điều tiết Nhà nước cần một tiềm lực kinh tế đủ để hoặc bù xứng đáng cho sự thua thiệt về lợi ích của các chủ thể kinh tế hướng họ theo mục tiêu nhà nước định ra,hoạc đủ sức cạnh tranh thắng thế các thành phần kinh tế khác.Tiềm lực kinh tế ấy do khu vực kinh tế nhà nước cung cấp phần rất cơ bản. Thứ hai :hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước là nhằm mở đường,hướng dẫn,hỗ trợ,thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác.Tức là nó tạo diều kiện tiền đề thuận lợi để khai thông và tận dụng mọi nguồn lực ở tất cả các thành phần khác nhau vì sự tăng trưởng chung của kinh tế,bảo đảm nền kinh tế phát triển đúng mục tiêu đã chọn. Thứ ba:kinh tế nhà nước là lực lượng xung kích chủ yếu thực hiện công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước.Nhiệm vụ nặng nề do quá trình công nghiệp hoá đặt ra trong giai đoạn hiện nay kinh tế nhà nước đặc biệt là đầu tư mới của nhà nước vâvx là lực lượng chủ chốt đi đầu trong quá trình chuyển nước ta thành nước công nghiệp hiện đại văn minh tiến bộ.Ngoài việc phải nỗ lực hết mình trong quá trình đầu tư ,tích luỹ thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì kinh tế nhà nước phải thu hút lôi kéo định hướng tất cả các thành phần kinh tế khác cùng tham gia quá trình này. Thứ tư:kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí than chốt trong nền kinh tế nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cũng như tạo đà tăng trưởng lâu dài,bền vững và hiệu quả cho nền kinh tế. Đó chính là các lĩnh vực như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng ,các ngành công nghiệp mũi nhọn,kết cấu hạ tầng vật chất cho nền kinh tế như giao thông,bưu chính, năng lượng…các ngành có ảnh hưởng to lớn đến kinh tế đối ngoại như các liên doanh lớn ,xuất nhập khẩu quy mô lớn ,hoặc các lĩnh vực liên quan đến quốc phòng an ninh và trật tự xã hội.Yuy vậy nhà nước không độc quyền cứng nhắc trong các lĩnh vực ấy mà cần có hợp tác liên doanh hợp lý với các thành phần kinh tế khác,nhất là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng,xuất nhập khẩu và công nghiệp.Hơn nữa sự cần thiết để nhà nước kiểm soát từng lĩnh vực cụ thể cũng được xem xét trong từng thời kỳ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn. Kinh tế nhà nước phải tạo ra lượng hàng hoá và dịch vụ khả dĩ chi phối được giá cả thị trường , đãn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp.Mặt khác trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế,cuộc cách mạng công nghệ thông tin các nền kinh tế dễ dàng xâm nhập lẫn nhau,nếu kinh tấ nhà nước không thực sự đủ sức mạnh có thể đẫn đến nền kinh tế bị lệ thuộc vào nước ngoài. II.Kinh tế nhà nước và các vấn đề đặt ra: Kinh tế Nhà nước thuộc sở nhà nước ,sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh.Theo chủ trương của Đảng ta kinh tế Nhà nước cần tập trung vào những ngành,lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội,hệ thống tài chính,ngân hang,những cơ xở sản xuất kinh doanh,thương mại,dịch vụ quan trọng,những cơ sở kinh tế phục vụ an ninh quốc phòng và vấn đề xã hội, để đảm bảo những cân đối lớn,chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để đảm bảo những mục tiêu kinh tế-xã hội.Trước hết cần hoàn thiện chế độ,chính sách ,pháp luật đảm bảo doanh nghiệp Nhà nước thật sự là một đơn vị sản xuất hàng hoá có tư cách pháp nhân.Phân định dứt khoát quyền sở hữu nhà nước với quyền đại diện chủ sở chủ sở hữu nhà nước;quyền sở hữu nhà nước với quyền sử dụng quản lý…;tách bạch rõ ràng chức năng quản lý kinh tế với quản lý tài sản của nhà nước và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy vấn đề then chốt trong đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay đó là phải giải quyết được hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. 1.Bản chất và vai trò của doanh nghiệp Nhà nước: Hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã có hơn 40 năm xây dựng và phát triển.Trong thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta ,các doanh nghiệp nhà nước(mà trước đây là các xí nghiệp quốc doanh)là lực lượng chủ đảôtng nền kinh tế quốc dân.Các doanh nghiệp này được hình thành từ ba nguồn sau: Thứ nhất:xây dựng từ nguồn vốn của ngân sách nhà nước,nguồn viên trợ hay đi vay(của Liên Xô cũ,Trung Quốc và các nước XHCN khác) Thứ hai:quốc hữu hoá xí nghiệp của các nhà tư sản mại bản,tư sản đân tộc đã bỏ ra nước ngoài hoặc các xí nghiệp nhà nước của chế độ cũ. Thứ ba:khuyến khích mua lại hoặc đưa các xí nghiệp tư nhân thành các xí nghiệp công tư hợp doanh và sau đó là thành các xí nghiệp quốc doanh. Trong thời kỳ tồn tại nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung,cũng giống như các nước theo nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khác Việt Nam đã vận dụng học thuyết Mác-Lênin để thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ,coi chế độ công hữu là nền tảng kinh tế để xoá bỏ sự phân hoá giàu nghèo,bất công xã hội do nền kinh tế thị trường và chế độ công hữu gây ra, để xây dựng một chế độ công hữu do hnân dân lao đoọng làm chủ.Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta nhấn mạnh vào nhiẹm vụ và vai trò kinh tế nhà nước,coi đó là hiện thân của chế độ công hữu có sức mạnh toà năng trong việc tổ chức mọi hoạt động kinh tế của xã hội đồng thời phủ nhận kinh tế thị trường ,các thành phần kinh tế khác.Sau một thời gian dài,nền kinh tế kế hoạch hoá với những chính sách đã làm thui chột khả năng làm chủ nền kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước,các doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình cảnh làm ăn thua lỗ trầm trọng khiến cho nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái.Biể hiện yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ này: Năng suất ,chất lượng hiệu quả thấp.Toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước không vượt qua được ngưỡng tái sản xuất giản dơn. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thực thanh thực chi,giao đủ nộp đủ.Nhà nước bao cấp và quyết định giá đầu vào, đầu ra nên doanh nghiệp không phải tính toán hiệu quả kinh doanh,hoạt động thua lỗ,các doanh nghiệp trở nên thụ động trong hoạt động kinh doanh của mình và phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước. Sự phân phối thu nhập trong doanh nghiệp theo cách bình quân đã làm suy yếu động lực kích thích lao động ,làm việc có năng suất ,chất lượng hiệu quả. Bộ máy doanh nghiệp cồng kềnh,nhiều cấp trung gian vưói chức nưng chồng chéo.Các cơ quan quản lý can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,hệ thống kinh tế quốc doanh với nòng cốt là các doanh nghiệp quốc doanh vẫn được xác định là giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,cần phải được củng cố và phát triển nhất là trong ngành và lĩnh vực then chốt quan trọng có tác dụng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Là thành phần chính tạo lập nên kinh tế nhà nước thì các doanh nghiệp nhà nước có chức năng ,vai trò thực hiện các chức năng mà kinh tế nhà nước phải thực hiện.ai trò này thể hiện trên ba khía cạnh:kinh tế,chính trị và xã hội.Nội dung của vai trò này được thể hiện như sau: Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững sự ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở đường,hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển thúc đẩy sự tăng trưởng nhsnh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Đảm nhận các lĩnh vực hoạt đọng có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế-xã hội:cung ứng các hang hoá,dịch vụ thiết yếu,nhất là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng(giao thông, thuỷ lợi, điện,nước,thông tin liên lạc…),xã hội(giáo dục,y tế…) và an ninh quốc phòng. Góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường .Những lĩnh vực mới,các lĩnh vực kết cấu hạ tầng,công trình công cộng…rủi ro cao, đòi hỏi vốn lớn ,thu hồi chậm ,lợi nhuận thấp là những ngành cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển sản xuất ,nhưng các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư ,hoặc chưa có khả năng , điều kiện làm thị doanh nghiệp nhà nước cần phẩi đi đầu mở đường ,tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế,thúc đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước. Là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước,chống sự lệ thuộc vào nướcngoài về kinh tế trong điều kiện mở cửa và hội nhập với khu vực và thế giới. Thực hiện một số chính sách xã hội,như tạo việc làm cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương: ở các khu vực khó khăn,kém phát triển như biên giới ,hải đảo ,miền núi… Như vậy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường nước ta Tóm lại,khu vực kinh tế nhà nước và hệ thống doanh gnhiệp nhà nước là những phạm trù kinh tế cùng bản chất tuy khác nhau về cấp độ ,do đó vai trò và nhiệm vụ của chúng có nội dung cơ bản giống nhau nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau.Việc xác dịnh vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước và vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo nội dung nêu trên sẽ giúp chúng ta định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế nhà nước hiện có , đề ra cơ chế ,chính sách phù hợp ,biện pháp quản lý hữu hiệu đối với khu vực kinh tế nhà nước nói chung và các doanh ngiệp nhà nước nói riêng, đồng thời thiết lập các định chế yểm trợ phát triển chung. 2.Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay và một số hướng giải quyết: Sau hơn mười lăm năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt dược những thành tựu đáng kể ,về cơ bản nền kinh tế đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng ,sức tăng trưởng đạt khá với tốc độ trung bình là 7% , đặc biệt là sức phát triển của hai ngành dịch vụ và công nghiệp.Từ đó làm thay đổi về cơ bản bộ mặt của đất nước, đời sống của người dân.Trong quá trình thay đổi đó các doanh nghiệp nhà nước , được coi là nòng cốt của đổi mới kinh tế đã có nhiều thành công trong việc đưa nền kinh tế từ hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Được xác định là thành phần kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn nhất trong quá trình chuyển đổi,các doanh nghiệp nhà nước từ chỗ được bao cấp hoàn toàn giờ phải tự thân vận động ,hoạch toán hoạt động kinh doanh của mình.Chính trong quá trình chuyển đổi đã minh chứng cho nội lực đáng kể của thành phần kinh tế nhà nước ,từ chỗ hoạt động không hiệu quả đến nay đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn có lãi thoát khỏi tình trạng thua lỗ káo dài ,nhiều doanh nghiệp có hướng phát triển tốt không những hoạt đọng trong thị trường trong nước mà con tích cực tìm kiếm cơ hội làm ăn ở thị trường nước ngoài.Về cơ bản các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các ngành lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đã dần giữ được vị thế của minh ,tránh được sự lệ thuộc vào nước ngoài. Tuy nhiên hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước vẫn có nhiều vấn đề đáng bàn ,những đổi mới trong thời gian tới là hết sức cần thiết dối với các doanh nghiệp nhà nước đặc biệt khi nền kinh tế nước ta bước vào hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Nước ta trong thời gian dài thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp nên tồn tại một số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước mà hầu hết hoạt động không có hiệu quả trở thành gánh nặng thực sự cho ngân sách nhà nước.Theo số liệu của tổng cục thống kê tính đến 1-9-1990 cả nước có 12.084 doanh nghiệp trong tất cả các ngành ,các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhận thức được sức cản của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không có hiệu quả,Chính phủ đã ra các quyết định 315/HĐBT ngày 1-9-1990 thực hiện tổ chức sắp xếp lại, đòng thời để thành lập lại các doanh nghiệp nhà nước theo quyết định 388/HĐBT ngày 20-11-1991.Sau hang loạt cải cách cho đến nay doanh nghiệp nhà nước vẫn còn khoảng 5800 doanh nghiệp(theo số liẹu của vụ đăng kí kinh doanh -bộ kế hoạch đầu tư).Trong đó có khoảng 30% là doanh nghiệp nhà nước do các bộ ngành trung ương quản lý và khoảng 70% doanh nghiệp do uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quản lý. Đến năm 1995 ,số lượng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ so với cá doanh nghiệp ngoài quốc doanh:trong lĩnh vực công nghiệp là 78,8%;xây dựng cơ bản 49%;ngân hàng ,bảo hiểm 99,6%;giao thông vận tải bưu điện 54%,thương nghiệp vật tư 46,5%. Sau 15 năm năm đổi mới và đièu hành ,số lượng các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta giảm dần nhưng vẫn còn quá nhiều .Các doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn còn tồn tại ở hầu hết các ngành ,lĩnh vực , điều đó là không thực sự cần thiết.Hơn nữa với số lượng doanh nghiệp nhà nước như hịân nay làm vượt quá khả năng nguồn lực về vốn và các cán bộ quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và đối Việt Nam nói riêng.Trong những năm đầu bắt tay vào xây dựng đất nước doanh nghiệp nhà nước được hình thành đã thúc đẩy được quá trình phát triển đi lên của đất nước vì nó tập trung vốn rất lớn,nhà nước có thể thông qua các doanh nghiệp nhà nước để thực hiện các chính sách mục tiêu của mình.Doanh nghiệp nhà nước có vai trò dẫn đưòng cho các thành phần kinh tế khác. Vì cậy trong mọi thời đại doanh nghiệp nhà nước vẫn luôn là một thành phần kinh tế quan trọng không thể thiếu được trong mỗi quốc gia,Nhưng trong đà phát triển của nước ta hiện nay doanh nghiệp nhà nước vẫn tỏ ra hoạt động chưa hiệu quả trong khi chúng được hưởng nhiều đặc quyền hơn các doanh nghiệp tư nhân.Các doanh nghệp nhà nước hoạt động không hiệu quả không hoàn toàn là do các nhà quản lý mà còn có nhiều lý do khác: Một là các doanh nghiệp nhà nước thường bị đòi hỏi quá nhiều mục tiêu,trong đó có những mục tiêu mâu thuẫn nhau.Chẳng hạn các doanh nghiệp nhà nước phải thu được nhiều lợi nhuận trong khi lại phải đảm bảo việc làm cho một số lượng công nhân viên điều này kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước. Hai là các doanh nghiệp nhà nước thường phải chịu áp lực quản lý hoặc điều tiết của chính phủ như giá bán hay nguồn cung cấp ngyên vật liệu .Họ không chủ động lựa chọn các mặt hàng kinh doanh và phương án đầu tư. Đòng thời để có một quyết định kinh doanh được thông qua cần có sự đồng ý của nhiều cơ quan quản lý. Ba là các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước không có được một cơ chế khuyến khích làm việc. Điều này làm mất đi đọng lực của người lao động họ không hăng hái với sản xuất dẫn đến năng suất thấp. Thứ tư là hiện nay phần lớn các doanh nghiệp nhà nước ta có quy mô nhỏ và hoạt động kém hiệu quả. Theo số liệu thống kê của bộ tài chính tổng số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là 70.184 tỷ đồng ;bình quân một doanh nghiệp có 11,6 tỷ dồng tương đương với một doanh nghiệp loại nhỏ của các nước cùng khu vực Đông nam Á.Vốn thực tế hoạt động của doanh nghiệp chỉ bằng 80% vốn hiện có do kinh doanh thua lỗ,công nợ khó đòi,tài sản mất mát kém phẩm chất chưa được xử lý. Đồng thời do quy mô vốn nhỏ nên không có khả năng đầu tư sử dụng các loại máy móc hiện đại ,hang hoá sản xuất ra có sức cạnh tranh yếu.Theo đánh giá của bộ khoa học và công nghệ môi trường :máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp nhà nước lạc hậu so với thế giớitừ 10-12 năm.Nhiều hiết bị trong các doanh nghiệp sau 14-15 năm mới được thay đổi công nghệ thạm chí mmột số ngành vẫn sử dụng máy móc từ những năm 1938-1940.Trong khi đó thời gian đổi mới thiết bị ở các nước khác trung bình là 5 năm.Máy móc cũ kĩ,lạc hậu năng suất thấp,hiệu quả kinh tế đạt dược chưa cao. Từ những năm 1989 đến nay,nền kinh tế đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường.Các chính sách kinh tế,tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước đã được thay đổi theo hướng tự do hoá giá cả,chi phí ngân sách cho bù lỗ ,bù giá,bổ xiung vốn lưu động cho khu vực này đã giảm đáng kể.Nhưng tư tưởng bao cấp trong đầu tư vẫn còn nặng nề.Hàng năm 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được dành cho doanh nghiệp nhà nước vay.HHầu hết các doanh nghiệp nhà nước đầu tư.Theo báo cáo của tổng cục thống kê nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước mới chỉ bảo tồn được vốn lưu động,còn vốn cố định mới bảo toàn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát.Hai ngành chiếm giữ nguồn vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp(72,52%)lại là ngành có tỷ lệ thất thoát vốn lớn nhất(16,41% và 14,95%).Vấn đề nợ nần vòng vo mất khả năng thanh tôáncnf diễn ra khá nghiêm trọng do tình trạng quản lý của nhà nước về tài chính còn lỏng lẻo,từ đó nạn tham nhũng lãng phí diễn ra mức báo động. Từ sự phân tích trên ta có thể rút ra kết luận về thực trạng của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay: Số lượng các doanh nghiệp nhà nước quá nhiều và bố trí không hợp lý. Quy mô của doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ bé. Kỹ thuật và công nghệ ở các doanh nghiệp nhà nước còn lạc hậu . Việc quản lý đối với hệ thống doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém. Hiệu quả sản xuất kinh doanh nhà nước còn thập. Từ những phân tích trên đòi hỏi cần đổi mới các hoạt động của hệ thống doanh nghiệp nhà nước là nột bước phát triển tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Để đổi mới và tiếp tục phát triển kinh tế nhà nước phải phân loại và sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo hướng: Một là xác định các doanh nghiệp công ích cần thiết công ích cần thiết,hoạt động không vì mục đích lợi nhuận là chính(như các doanh nghiệp phục vụ an ninh,quốc phòng,giao thông công cộng,trường học,bệnh viện...)cần có chính sách ,cơ chế phù hợp để quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được đầu tư , đảm bảo mục tiêu chính trị-xã hội trong quá trình tăng trưởng và phát triển nâng cao đời sống nhân dân. Thứ hai,những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả có khả năng cạnh tranh cần được củng cố đầu tư hướng trở thành các doanh nghiệp đi đầu trong công nghệ ,kỹ thuật ,chất lượng sản phẩm,từ đó phát huy sức mạnh ảnh hưởng có lợi đến nền kinh tế. đối với doanh nghiệp nhỏ và quá nhỏ,những doanh nghiệp không có vai trò quan trọng,làm ăn thua lỗ ,yếu kém cần xử lý thích hợp như chuyển hình thức cở hữu ,cổ phàn hoá,cho thuê,khoán ,giải thể hoặc phá sản theo luật địnhTiến hành cổ phần hoá tích cực và chắc chắn. Xác định rõ trách nhiệm ,quyền hạn và sự điều tiết của nhà nước đối với các doanh nghiệp mang tính độc quyền hay những doanh nghiệp có chức năng ổn định thị trường,giá cả. Ba là mạnh dạn nghiên cứu và ứng dụng các hình thức tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước.Tăng cường hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực phân phối lưu thông,từng bước xây dựng văn minh thương nghiệp, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Bốn là phải nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước thông qua chính sách tuyển dụng đãi ngộ một cách hợp lý.tăng cường áp dung công nghệ mới trong hoạt động kinh doanh. Như vậy có thể thấy trong thờ gian tới nhà nước rất chú trọng đến vấn đề đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước,và một biện pháp rất được coi trọng đó là thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. III Cæ phÇn ho¸ Doanh NghiÖp Nhµ N­íc Cæ phÇn ho¸ mét bé phËn doanh nghiÖp nhµ n­íc lµ mét trong nh÷ng gi¶i ph¸p c¬ b¶n cña viÖc tæ chøc s¾p sÕp , ®æi míi c¬ chÕ qu¶n lý c¸c doanh nghiÖp nhµ n­íc nh»m t¨ng c­êng ®éng lùc thóc ®Èy ph¸t triÓn s¶n xuÊt kinh doanh cña c¸c doanh nghiÖp cã hiÖu qu¶ h¬n. 1. C¸c quan ®iÓm vÒ cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc cña §¶ng vµ nhµ n­íc. ChØ vµi n¨m sau khi chuyÓn ®æi nÒn kinh tÕ tõ c¬ chÕ tËp trung bao cÊp sang c¬ chÕ thÞ tr­êng ®Þnh h­íng XHCN , §¶ng vµ nhµ n­íc ta ®· b­íc ®Çu cã chñ tr­¬ng vÒ cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp quèc doanh. §iÒu ®ã chøng tá nhËn thøc ®óng cña §¶ng vµ nhµ n­íc ta vÒ vai trß míi cña c«ng ty cæ phÇn trong nÒn kinh tÕ thÞ tr­êng ,®¸nh gi¸ ®óng thùc tr¹ng ho¹t ®éng cña c¸c doanh nghiÖp Quèc Doanh vµ chän h­íng ®i ®óng trong viÖc c¶i c¸ch c¸c doanh nghiÖp nµy. Chñ tr­ong cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc ®· ®­îc §¶ng ta ®Ò ra tõ ®Çu thËp kØ 90 cña thÕ kØ 20. Cô thÓ lµ : NghÞ quyÕt Héi NghÞ lÇn thø 2- Ban chÊp hµnh trung ­¬ng kho¸ VII (11/1991): ”ChuyÓn mét sè doanh nghiÖp quèc doanh cã ®iÒu kiÖn thµnh c«ng ty cæ phÇn vµ thµnh mét sè c«ng ty quèc doanh cæ phÇn míi , ph¶i lµm thÝ ®iÓm , chØ ®¹o chÆt chÏ, rót kinh nghiÖm chu ®¸o tr­íc khi më réng trong ph¹m vi thÝch hîp”. - NghÞ quyÕt Héi nghÞ ®¹i biÓu toµn quèc gi÷a nhiÖm kú kho¸ VII(11-1994) ®· nªu môc ®Ých, h×nh thøc cæ phÇn ho¸ vµ møc ®é së h÷u nhµ n­íc t¹i doanh nghiÖp nhµ n­íc cæ phÇn ho¸ : “§Ó thu hót thªm vèn , t¹o thªm ®éng lùc, ng¨n chÆn tiªu cùc, thóc ®Èy doanh nghiÖp nhµ n­íc lµm ¨n cã hiÖu qu¶, cÇn thùc hiÖn c¸c h×nh thøc cæ phÇn ho¸ cã møc ®é thÝch hîp víi tÝnh chÊt vµ lÜnh vùc s¶n xuÊt - kinh doanh ; trong ®ã së h÷u nhµ n­íc chiÕm tØ lÖ cæ phÇn chi phèi”. - NghÞ quyÕt cña Bé ChÝnh trÞ vÒ tiÕp tôc ®æi míi ®Ó ph¸t huy vai trß chñ ®¹o cña doanh nghiÖp nhµ n­íc (sè10/NQ-TW, ngµy 17-3-1995) ®· bæ sung thªm vÒ ph­¬ng ch©m tiÕn hµnh cæ phÇn ho¸, tû lÖ b¸n cæ phÇn cho ng­êi trong vµ ngoµi doanh nghiÖp “Thùc hiÖn tõng b­íc v÷ng ch¾c cæ phÇn ho¸ mét bé phËn doanh nghiÖp mµ nhµ n­íc kh«ng cÇn gi÷ 100% vèn. Tuú tÝnh chÊt, lo¹i h×nh doanh nghiÖp mµ tiÕn hµnh b¸n mét tû lÖ cæ phÇn cho c«ng nh©n viªn chøc lµm viÖc t¹i doanh nghiÖp ®Ó t¹o ®éng lùc bªn trong trùc tiÕp thóc ®Èy ph¸t triÓn vµ b¸n cæ phÇn cho c¸c tæ chøc hay c¸ nh©n ngoµi doanh nghiÖp ®Ó thu hót thªm vèn, më réng qui m« s¶n xuÊt - kinh doanh”. - Trong kÕt luËn cña Bé ChÝnh trÞ vÒ kÕ ho¹ch ph¸t triÓn kinh tÕ-x· héi 5 n¨m 1996-2000(sè 301BBK/BCT ngµy 12-9-1995) ®· bæ sung thªm môc tiªu gi÷ v÷ng ®Þnh h­íng x· héi chñ nghÜa cña cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc vµ ph©n lo¹i doanh nghiÖp nhµ ®Ó cæ phÇn ho¸. - NghÞ quyÕt §¹i héi §¶ng toµn quèc lÇn thø VIII (6-1996) chØ ®¹o: “Tæng kÕt kinh nghiÖm, hoµn chØnh khu«n khæ ph¸p luËt ®Ó triÓn khai tÝch cùc, v÷ng ch¾c cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc nh»m huy ®éng thªm vèn, t¹o ®éng lùc míi thóc ®Èy doanh nghiÖp lµm ¨n cã hiÖu qu¶, lµm tµi s¶n nhµ n­íc ngµy mét t¨ng lªn, lµ sù kÕt hîp gi÷a kinh tÕ nhµ n­íc víi kinh tÕ nh©n d©n ®Ó ph¸t triÓn ®Êt n­íc chø kh«ng ph¶i ®Ó t­ nh©n ho¸. Bªn c¹nh nh÷ng doanh nghiÖp 100% vèn nhµ n­íc, sÏ cã nhiÒu doanh nghiÖp mµ nhµ n­íc n¾m cæ phÇn chi phèi. Gäi thªm cæ phÇn hoÆc b¸n cæ phÇn cho ng­êi lao ®éng t¹i doanh nghiÖp, cho c¸c tæ chøc vµ c¸ nh©n ngoµi doanh nghiÖp tuú tr­êng hîp cô thÓ ; vèn thu ®­îc ph¶i dïng ®Ó ®Çu t­ më réng s¶n xuÊt - kinh doanh”. - Trªn c¬ së ®¸nh gi¸ tiÕn tr×nh cæ phÇn ho¸, ngµy 4-4-1997 Bé ChÝnh trÞ ra th«ng b¸o sè 63/TB-TW yªu cÇu c¸c cÊp uû ®¶ng vµ chÝnh quyÒn ph¶i qu¸n triÖt vµ tuyªn truyÒn, gi¶i thÝch trong nh©n d©n chñ tr­¬ng, chÝnh s¸ch cña §¶ng vÒ cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc; nhÊn m¹nh môc ®Ých yªu cÇu cña chñ tr­¬ng cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc, cã chÝnh s¸ch khuyÕn khÝch ng­êi lao ®éng t¹i doanh ngiÖp cæ phÇn ho¸ mua cæ phÇn, hç trî c«ng nh©n nghÌo mua cæ phÇn nh»m gãp phÇn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo cÊp cho ng­êi lao ®éng trong doanh nghiÖp cæ phÇn ho¸ mét sè cæ phÇn tuú theo thêi gian cèng hiÕn cña mçi ng­êi ; cã c¬ chÕ ®Ó hµng n¨m gäi thªm cæ phÇn. §ång thêi yªu cÇu ph¶i t¨ng c­êng vai trß cña c¸c tæ chøc ®¶ng, tæ chøc quÇn chóng t¹i c¸c doanh ngiÖp cæ phÇn ho¸; tiÕn hµnh ph©n lo¹i doanh nghiÖp nhµ n­íc ®Ó lùa chän doanh nghiÖp cæ phÇn ho¸ ; ¸p dông c¸c h×nh thøc cæ phÇn ho¸ ®a d¹ng, phï hîp víi tõng ®iÒu kiÖn cô thÓ; hoµn chØnh c¸c chÝnh s¸ch vÒ cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc. - Héi nghÞ lÇn thø t­ Ban ChÊp hµnh Trung ­¬ng kho¸ VIII ( th¸ng 12-1997) nªu râ gi¶i ph¸p cæ phÇn ho¸ nh­ sau: “Ph©n lo¹i doanh ngiÖp c«ng Ých vµ doanh ngiÖp kinh doanh, x¸c ®Þnh danh môc lo¹i doanh nghiÖp cÇn gi÷ 100% vèn nhµ n­íc, lo¹i doanh nghiÖp nhµ n­íc cÇn n¾m gi÷ cæ phÇn chi phèi, lo¹i doanh nghiÖp nhµ n­íc chØ n¾m gi÷ cæ phÇn chi phèi, lo¹i doanh nghiÖp nhµ n­íc chØ n¾m cæ phÇn ë møc thÊp nhÊt” vµ “§èi víi doanh nghiÖp mµ nhµ n­íc kh«ng cÇn n¾m 100% vèn cÇn lËp kÕ ho¹ch cæ phÇn ho¸ ®Ó t¹o ®éng lùc ph¸t triÓn , thóc ®Èy lµm ¨n cã hiÖu qu¶ ‘’ Nh­ vËy chñ tr­¬ng cña §¶ng vÒ cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc lµ nhÊt qu¸n vµ ngµy cµng ®­îc cô thÓ ho¸ vÒ môc tiªu , ph­¬ng thøc , ®èi t­îng vµ gi¶i ph¸p cæ phÇn ho¸. C¨n cø vµo c¸c nghÞ quyÕt cña §¶ng, ChÝnh phñ ®· tõng b­íc cã c¸c v¨n b¶n chØ ®¹o tæ chøc thùc hiÖn cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc 1.1:Cơ cở lý luận và thực tiễn của vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay : Cổ phần hoá doanh nghiệp là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu thành công ty cổ phần tức là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu .Cổ phần hoá nói chung là một quá trình đa dạng hoá sở hữu tại doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần ,trong đó nhà nước có thể vẫn giữ tư cách cổ đông ,tức là nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận tài sản của doanh nghiệp .Cổ phần háo doanh nghiệp nhà nước không chỉ là quá tình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu của các cổ đông mà còn là hình thức doanh nghiệp nhà nước thu hút thêm vốn thông qua bán cổ phiếu để trở thành công ty cổ phần. Tuy nhiên cần phải phân biệt quá trình cổ phần hoá với tư nhân hoá ,tư nhân hoá đó là chuyển toàn bộ sở hữu sang sở hữu tư nhân,nó cũng là một hình thức đa dạng hoá sở hữu ở nước ta hiện nay nhưng về bản chất thì nó khác với cổ phần hoá. Từ những năm 70 của thế kỉ XX trên thế giới đã diễn ra quá trình nhà nước giảm bớt sự can thiệp của mình vào nền kinh tế thông qua tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghịêp nhà nước; đến đầu những năm 90 quy mô tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước diễn ra chưa từng thấy, đến năm 1995 đã có hơn 100.000 doanh nghiệp nhà nước được tư nhân hoá và cổ phần hoá;hơn 80 nước cam kết thực hiện tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Cơ sở của việc xuất hiện hiện tượng này là: Thứ nhất ,các doanh nghiệp nhà nước phát triển tràn lan ,lại không được tổ chức và quản lý tốt .Quản lý kinh tế theo kiểu hành chính ,qua nhiều cấp trung gian ;hệ thống kế hoạch ,tài chính cứng nhắc,thiếu khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường .Tính chủ động trong sản xuất –kinh doanh bị gò bó bởi nhiều qui chế xuất phát từ quyền sở hữu của nhà nước .Sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước đuọc pháp luật bảo vệ.Tất cả những cái đó đã đánh mất động lực kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước,làm kết quả hoạt động của chúng yếu kém triền miên. Thứ hai ,do hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiẹp nhà nước trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước.Nhà nước thường xuyên phải sử dụng ngân sáh trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho chúng, điều đó dẫn đến ngân sáh nhà nước bị thiếu hụt. Thứ ba,về nhận thức lý luận ,có sự thay đổi quan điểm về vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường .Hiện nay phổ biến mô hình kinh tế “nền kinh tế hỗn hợp giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân “của Samuelson.Quan điểm này đã làm thay đổi tư duy kinh tế của các chính phủ,dẫn đến xu hướng đánh giá lại vai trò và hiệu quả kinh tế-xã hội của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.Cổ phàn hoá doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp mà hầu hết các quốc gia đều coi trọng . Thứ tư,sức hấp đãn của công ty cổ phần.So với các doanh nghiệp khác ,thì công ty cổ phần có sức sống mạnh hơn,hiệu quả kinh tế cao hơn rõ rệt và vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế-xã hội, đáp ứng yêu cầu mới của phát triển kinh tế thị trường .Thực tế phát triển của kinh tế thị trường cho thấy loại hình doanh nghiệp đơn sở hữu (dù là sở hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước )sẽ bị hạn chế trong đầu tư hay cạnh tranh. Suy cho cùng,công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất xã hội và nền kinh tế thị trường phát triển .Việc chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần là do tính xã hội hoá của sản xuất ,do quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường quyết định và thúc đẩy, đó là quá trình khách quan,không phải do ý muốn chủ quan của bất kì thể hế chính trị hay bất cứ cá nhân nào. Từ đó có thể khẳng định rằng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng phát triển tất yếu hợp quy luật trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở nước ta hiện nay. 1.2:Những yếu tố thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay: Chính phủ trên cơ sở quan điểm của Đảng về quá trình cổ phần hoá đã nhận thức tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhằm thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ,như luật công ty,quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế nhà nước,quyết dịnh 202-HĐBT và chỉ thị 84-TTg của thủ tướng chính phủ về thí điểm cổ phần hoá ở một số doanh nghiệp nhà nước… Điều kiện môi trường pháp lý về cơ bản được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực giá cả thị trường được duy trì tương đối ổn định .lạm phát đã được kiềm chế đồng tiền VND đã giữ được giá ,lãi suất ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh.Tạo điều kiện tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Đội ngũ các nhà quản lý nắm bắt được tác phong làm việc trong nền kinh tế thị trường ,tạo hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiểp tronh điều kiện cạnh tranh về năng suất ,chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn ,góp phần thuận lợi cho việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Với luật đầu tư nước ngoài và sự xuất hiện nhiều chi nhánh ngân hang kinh doanh của người nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điệu kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các doanh nghiệpnhà nước được tiến hành cổ phần hoá. Việt Nam có được nhiều kinh nghiệm quý giá từ thực tiễn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở các nước cùng khu vực. 1.3:Một số vấn đề thống nhất trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Thứ nhất:cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một quá trình gắn liền vớt sự phát triển lực lượng sản xuất. Nước ta phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa,lấy chế độ công hữu làm nền tảng,kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,các xí nghiệp quốc doanh được xây dựng quá nhiều trong thời kì bao cấp,do đó việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước dưới nhiều hình thức trong đó có cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước cũng tất yếu diễn ra với số lươngj lớn.Tuy nhiên chúng ta phải gắn quá trình cổ phần hoá với điều kiện kinh tế khách quan ,quy luật kinh tế nước ta hiện nay chứ kgông nên nóng vội mà tổ chức triển khai một cách ồ ạt. Thứ hai:cổ phần hoá phải gắn với viẹc đa dạng hoá quan hệ sở hữu.Trong mối quan hệ này chế độ kinh tế cổ phần được hiểu là một phương thức,phương pháp để xử lý một cách khoa học quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp.Cần phân biệt rõ ràng cổ phần hoá và tư nhân hoá Thứ ba :cổ phần hoá và vấn đề lao động-việc làm.Tình trạng dư thừa lao động trong các doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ gây không ít khó khăn cho các doanh ngiệp cổ phần hoá ,việc nhiều công nhân sẽ bị mất viêc trong quá trình cổ phần hoá là không thể tránh khỏi,tuy nhiên qua đó mà lực lượng lao động sẽ được sắp xếp lại hợp lý hơn. Như vậy có thể thấy rằng quan điểm của Đảng và Nhà Nước về vấn đề cổ phần hoá là rất rõ ràng và nhất quán thể hiện quyết tâm thay đổi bộ mặt kinh tế nhà nước. Vậy quá trình thực hiện cổ phần hoá ở nước ta được giải quyết theo phương hướng nào trong các năm qua và các năm sắp tới. 2.Các giải pháp cơ bản tiến hành cổ phần hoá: 2.1:Các giải pháp cổ phần hoá: Trong quá trình thực hiện cổ phần hoá một bô phận doanh nghiệp nhà nước ,Chính phủ đã đưa ra những giải pháp cơ bản sau: Tập trung chỉ đạo cải cách tổ chức thực hiện cổ phần hoá: đây là một giải pháp cư bản đầu tiên mà chúng ta cấn thực hiện một cách hiệu quả . Để làm tốt được việc này ,Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước được giao các thẩm quyền ,chức năng lớn hơn để có thể tổ chức , điều hành phối hợp hoạt động giữa các bộ ngành liên qua,giữa các bộ ngành với địa phương để thống nhất chương trình,kế hoạch biện pháp tháo gỡkhó khăn thúc đẩy cổ phần hoá tiếp tục tiến lên với nhịp độ khẩn trương hơn.Tổ chức tốt công tác tư vấn cổ phần hoá với việc đào tạo và tập hợp đội ngũ chuyên viên giỏi , đồng bộ để giú doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá một cách đồng bộ làm cho cổ phần hoá thực sự phát huy hiệu quả. Hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế chính sách liên quan đến cổ phần hoá: Soạn thảo và sớm ban hành các văn bản pháp lý về cổ phần hoá để thể chế chủ trương cổ phần hoá về các vần đề :cổ phần khống chế,tiến hành định giá … Nới rộng tỷ lệ mua cổ phần đối với những cá nhânvà tổ chức nước ngoài đã đăng kí thường trú tại Việt Nam,tạo sự công băng trong đầu tư đồng thời giải quyết việc làm cho người lao động. Đẩy mạnh tuyên truyền cho cổ phần hoá: đây là công việc quan trọng với mục tiêu là làm cho các cấp,các ngành,từng doanh nghiệp nhận thức rõ ràng,sâu sắc về cổ phần hoá từ đó tích cực ,yên tâm thực hiện cổ phần hoá, đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương quan trọng này của Đảng và Nhà nước. Mở rộng thị trường chứng khón để các công ty cổ phần tham gia thị trường vốn dài hạn:việc phát triển thị trường chứng khoán trong giai đoạn này là hết sức cần thiết, ở nước ta thị trường chứng khoán mới xuất hiện trong mấy năm gần đây và vẫn chưa phát triển ,được để thực hiện được mục tiêu cổ phần hoá cần cá những giải pháp xây dựng thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đưa cổ phiếu của mình vào giao dịch tại thị trường có tổ chức và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư mua bán chứng khoán một cách thuận tiện , được pháp luật bảo vệ và từng bước thu hẹp thị trường tự do.TẠo điều kiện cho các công ty mở rộngquy mô và khả năng hoạt động của mình.Việc tổ chức thị trường giao dịch cổ phiếu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đáp ứng các nguyên tắc: Thứ nhất :phải đảm bảo nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán đó là nguyên tắc trung gian , định giá theo qui luật của cung cầu và công khai. Thứ hai:khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước trong việc huy đọngvốn và thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc giao dịch mua bán cổ phiếu. Thứ ba: đảm bảo khả năng giám sát của các cơ quan quản lý có chức năng bảo vệ người đầu tư ,ngăn ngừa hoạt động tiêu cực của thị trường. Ban hành chính sách thuế đối với hoạt động chuyển nhượng cổ phần:hiện nay việc chuyển nhượng cổ phần diễn ra rất tự do,cơ quan quản lí không thể kiểm soát hết được do vậy cần cải cách tổ chức quản lí hoạt động chuyển nhượng cổ phần của người đầu tư mua bán cổ phần ở công ty cổ phần khi chuyển nhượng cổ phần cần phải kê khai ,nộp thuế lợi tức theo luật thuế.Mặt khác vận động người lao động giữ cổ phần lập quỹ cầm cố cổ phần lãi thấp nhằm bảo vệ quyền lợi thừa kế cho các thế hệ gia đình người lao động trong công ty. Tiếp tục giải quyết những tồn đọng trong quá trình cổ phần hoá :khi chuyển thành công ty cổ phần các cổ đông phải chuyển quyền sở hữu tài sản cho coong ty theo quy định của luật doanh nghiệp .Nhưng trên thực tế công việc này không được tiến hành một cách có trình tự đủ giấy tờ về quyền sở hữu …do vậy có các biện pháp mạnh mẽ hơn giải quyết những vấn đề này .Cần sử dụng hết lao động hiện có đúng ngành nghề,có thu nhập không thấp hơn mức kương cơ bản do nhà nước quy định .Các thủ tục hành chính cần có sự thay đổi,thực hiện nhanh chóng ,không rườm rà từ đó làm tăng tốc độ cổ phàn hoá. Cải tiến chế độ quản lí tài sản nhà nước ,phân biệt quyền sở hữu và quyềnkinh doanh của doanh nghiệp:việc quản lí tài sản nhà nước cải cách theo hướng tách biệt quyền sở hữu tài sản ,quyền kinh doanh và quyền điều hành vĩ mô,bằng các biện pháp :sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần ,tổng công ty theo mức vốn tham gia vào công ty cổ phần để hưởng quyền lợi của người chủ sở hữu và gánh vác trách nhiệm hữu hạn đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá.Công ty cổ phần trong điều kiện ràng buộc của quyền sở hữu ,với tư cách là chủ thể doanh nghiệp ,tự chủ kinh doanh theo pháp luật và tự chịu lỗ. Những vấn đề quản trị và điều hành của công ty sau cổ phần hoá:một số công ty chưa hoạt động đúng với loại hình công ty cổ phần, điều hành công ty cổ phần còn lung túng ,không sử dụng đúng và hết các thẩm quyền do luật và điều lệ qui định. Bộ máy quản lí không đổi mới,nhiều công ty cổ phần vẫn áp dụng bộ máy cũ làm việc cồng kềnh kém hiệu quả .Tình trạng doanh nghiệp không muốn cổ phần hoá hết vốn nhà nước mặc dù không thuộc diện nhà nước cần nắm giữ , đẻ con dựa vào nhà nước , ảnh hưởng của nhà nước để tiến hành hoạt động kinh doanh. Đòng thời trong các doanh nghiệp đã cổ phần nhà nước cần tăng cờng người của mình vào để thực hiện quản lí chặt chẽ doanh nghiệp đó giúp cho quá trình cổ phần hoádiễn ra nhanh chóng, đúng đắn ,sớm đạt được mục tiêu. 2.2:Thực trạng hoạt đông của các công ty cổ phần và một số kiến nghị: Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được Đảng ta đề ra từquyếthội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ hai(khoá VII)tháng 11/1991 và đến giữa năm 1992 đã bắt đầu thực hiện thông qua ban hành quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng chính phủ)Trong quá trình thực hiện Chính Phủ đã không ngừng ra các chỉ thị ,nghị định bổ sung như chỉ thị 81/TTg,nghị định số 28/CP,nghị định số 44/CP…để triển khai việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và từng bước nhằm khắc phục một số chính sách còn bất cập đã làm ảnh hưởng đến tốc độ cổ phần hoá. Từ năm 1992-1995 thực hiện thí điểm với 5 doanh nghiệp nhà nước. Giai đoạn 1996-1997 mở rộng cổ phần hoá 13doanh nghiệp. Năm 1998 cổ phần hoá được 82 doanh nghiệp đạt 54,6% chỉ tiêu đặt ra. 8 tháng đầu năm 1999 đã thực hiện cổ phần hoá them 102 doanh nghiệp nhà nước đạt 25,5% kế hoạch. Như vậy mặc dù số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá tăng nhưng tiến thực hiện nhìn chung còn chậm. Sau khi chuyển thành công ty cổ phần hoạt động của các doanh nghiệp có hiệu quả hơn so với trước.Có thể nêu ra một số nét nổi bật : Năng suất lao động và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiẹp tăng lên rõ rệt khi mà trong các công ty cổ phần lợi ích cá nhân luôn đi liền với lợi ích tập thể.Bên cạnh đó các doanh nghiệp ngày càng thu hút thêm được nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển. Các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá tạo thêm được nhiều việc làm cho người lao động,góp phần giải quyết vấn đề việc làm và tăng thu nhập cho người lao động,thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Chất lượng lao động như trình độ tay nghề ,kỹ thuật ,trình độ quản lý…ngày càng được nâng ca. Ngân sách nhà nước có phần tăng lên do có nguồn thu khá lớn từ thuế,tiền bán cổ phàn ,từ lợi tức cổ phần .Ngoài ra nhà nước còn thu hồi lại các khoản tài sản tồn kho mà lâu nay các doanh nghiệp nhà nước không sử dụng và giảm tối đa các khoản chi bao cấp cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên kết quả ban đầu đạt được vẫn chưa thể khẳng định được chiều hướng phát triển tốt đẹp của nó.Hàng loạt các vấn đề khókhăn vướng mắc nảy sinh ,cản trở đến tốc độ và hiệu quả của quá trình cổ phần hoá hiện nay,thể hiện cụ thể ở các mặt sau: Thứ nhất :nhận thức ,hiểu biết của đội ngũ cán bộ quản lí và người lao động chưa thích ứng kịp thời với những vấn đề về cổ phần hoá Một số cán bộ quản lý,người lao động do chưa hiểu sâu xa về chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của đảng và nhà nước nên có tư tưởng lo ngại về công việc cũng như việc làm của mình bị ảnh hưởng khi doanh nghiệp cổ phần hoá.Nhiều cán bộ chủ chốt còn nghi ngờ về hiệu quả của quá trình cổ phần hoá ,từ đó có hành động cản trở quá trình thực hiện cổ phần hoá ở doanh nghiệp nhà nước . Người lao xem được làm việc trong doanh nghiệp nhà nước mặ dù có đồng lương thấp và bất hợp lý hơmn nhưng ổn định hơn là làm việc trong các công ty cổ phần . Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện cổ phàn hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Với tình hình chung hiện nay đa phần người lao động chưa thích ứng với loại hình công ty cổ phần,chưa hiểu biết gì về đầu tư cổ phiếu . Đồng thời việc đầu tư vào lĩnh vự này mang tính rỉu ro nhiều cho nên rất khó được người lao động chấp nhận. Năng lực quản lí của đội ngũ quản lí trong ccông ty cổ phần là nhân tố trọng yếu ,quyết định đến sự phát triển hay không của công ty cổ phần .Bởi vậy khi bước sang hoạt động với hình thức công ty cổ phần năng lực của đội ngũ quanlí là khó khăn lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp này. Để có được đội ngũ quản lí thực sự có năng lực kinh nghiệm và đầy đủ phẩm chất đạo đứclà một khó khăn đối với công ty cổ phần THứ hai :tình hình tài chính của đa số các doanh nghiệp nhà nước hiện rất khó khăn cho công tác tiến hành cổ phần hoá. Đa số các doanh nghiệp nhà nước làm ăn với nhau đều quan niệm không sợ mất vốn ,chính vì vậy mà công nợ ở phần này rất lớn chồng chéo lẫn nhau và mang tính dây chuyền từ công ty này sang công ty khác. Đây còn là nhân tố không kích thích cho doanh nghiệp chuyển sang hình thức mới –công ty cổ phần.Công nợ chồng chéo ,hoạch toán không rõ ràng ,nhập nhằng trong sở hữu tài sản ,thủ tục định giá giá trị tài sản doanh nghiệp rườm rà,kéo dài gây không ít khó khăn trong quá trình xác định lại giá trị doanh nghiệp để chuyển sang công ty cổ phần. Từ năm 1997 trở lại đây nhịp độ phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước xuất hiện tính ỳ,hầu hết các doanh nghiệp nhà nước có mức tăng trưởng giảm và thấp hơn mức tăng bình quân của xã hội.Cho nên để các doanh nghiệp yếu kém chuyển sang công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả ngay là điều rất khó khăn,trong khi đó chúng ta chưa có biện pháp củng cố các doanh nghiệp này trước khi cổ phần hoá cho nên không kích thích người đầu tư bỏ vốn vào công ty cổ phần. Thứ ba:môi trường tài chính chưa thực sự thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay ,việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đang trong tình trạng nền kinh tế ở trạng thái giảm phát,người dân có xu hướng tiết kiệm.Vì thế các doanh nghiệp nhà nước mới chuyển sang công ty cổ phần hoạt dộng rất khó khănvà không huy động được nhiều nguồn vốn xã hội , điều đó cung không khuyến khích được các doanh nghiệp nhà nước khác tiến hành cổ phần hoá. Sự ưu đãi bất hợp lí đối với doanh nghiệp nhà nước cũng làm cho việc cổ phần hoá diễn ra chậm chạp,không kích thích các doanh nghiệp chuyển sang hoạtđộng dưới hình thức công ty cổ phần. Thị trường chứng khoán chưa hoạt động và phần lớn công ty cổ phần chưa đủ điều kiện niêm yết cổ phiếu,cho nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán cổ phiếu,làm cho việc đầu tư vào công ty cổ phần chưa có sự khác biệt gì so với tiền gửi ngân hàng. Một số kiến nghị: để giải quyết được những khó khăn trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước : Phải nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động:tăng cường công tác tuyên truyền,công khai hoá thông tin về các biến số ảnh hưởng đến quá trình phát triển sau này của doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá như tình hình tài chính,phương án hoạt động…Nhà nước cân có sự can thiệp thông qua chính sách ,chế độ thích hợplà công cụ hữu hiệu ổn định tâm lý người lao động Về tình hình tài chính của doanh nghiệp:Cần phải tăng cường hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn cụ thể ,rõ ràng xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, đảm bảo phù hợp với giá cả thị trường.Củng cố các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trước khi cổ phần hoá như đầu tư công nghệ ,sát nhập các doanh nghiêp nhỏ theo hướng tích cực. Về môi trường tài chính:tiến hành điều chỉnh mức lãi suất cho phù hợp.Việc hạ thập lãi suất sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện huy động them vốn đầu tư.Nhà nước nên có chính sách ưu đãi thuế cho các công ty cổ phần tỏng những năm đầu để khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá và tạo điều kiện ban đầu thuận lợi cho các công ty cổ phần. Ngoài ra trong quá trình tiến hành cổ phần hoá cũng càn giải quyết tốt một số vấn đề sau: -Các cấp ,ban ,ngành có liên quan phải tạo điều kiện thuận lợi,giải quyết nhanh gọn các thủ tục thành lập công ty cổ phần. -Nên quy định cụ thể về cơ chế quản lí vốn góp của nhà nước tại công ty cổ phần. -Có biện pháp khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư chứng khoán vào các công ty cổ phần. -Quan tâm thoả đáng lợi ích của người lao động ,nhà quản lí,nhà đầu tư. -Nên có mức qui định cụ thể về chi phí thành lập công ty và nên tính theo tỉ lệ vốn thực tế của doanh nghiệp. -Thông qua việc lồng gép hoạt động của Đảng, Đoàn,các tổ chức xã hội vào hoạt động của công ty để hướng các công ty cổ phần hoạt động theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. -Hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lí và tiếp tục điều chỉnh luật công ty hợp lý nhằm tạo ra môi trường pháp lí bình đẳng để công ty cổ phần hoạt động một cách thuận lợi . Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo chủ trương của Đảng và Nhà Nước hiện đang được tiếp tục tiến hành và từng bước điều chỉnh ,song,nó vẫn là vấn đề mới mẻ,trong quá trình thực hiệnchắn chắn sẽ có nhiều khó khăn vướng mắc xảy ra.Do đó việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn chỉnh những vấn đề liên quan đến quá trình cổ phần hoá là hết sức cần thiết. Kết luận. Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa tồn tại nhiều thanh phần kinh tế như ở nước ta hiện nay ,vai trò của thành phần kinh tế nhà nước là vô cùng quan trọng , đây là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển nền kinh tế và hôi nhập với nền kinh tế thế giới của nước ta, đồng thời đây là một thành phần kinh tế cung cấp cho Nhà Nước các công cụ vật chất quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế . Xuất phát từ ý nghĩa lí luận kết hợp với thực tiễn hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng còn nhiều bất cập,chưa thực sự tương xứng với vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân mà yêu cầu đặt ra phải có nhưng thay đổi cho phù hợp với sự phát triển kinh tế ,tạo ra hiệu quả trong hoạt động kinh tế của thành phần kinh tế nhà nước. Nắm bắt được những yêu cầu tất yếu này, Đảng và Nhà Nước đã có những chủ trương nâng cao hiệu quả của thành phần kinh tế này,tạo ra nhẵng bước đi đúng trong phát triển kinh tế.Một trong những giải pháp cơ bản đổi mới hoạt động của kinh tế nhà nước đó là chủ trương tiến hành cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Qua hơn mười năm thực hiện quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần đã đạt được những thành công nhất định,bên cạnh đó vẫn không thiếu những khó khăn đối với hoạt động của các công ty cổ phần,cũng như quá trình chuyển đổi một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.Vì vậy trong những năm tới cùng với việc tiếp tục thực hiện quá tầinh chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần chúng ta vẫn phải tiệp tục nghên cứu,sửa đổi cho quá trinh này thực sự tạo ra những hiệu quả kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34567.doc
Tài liệu liên quan