Đề án Lạm phát và những giải pháp kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế nước ta hiện nay

Việc giải quyết các vấn đề về nhân lực và xã hội vừa là yêu cầu nội dung , vừa là điều kiện cần thiết hàng đầu để đảm bảo sự thành công của chính sách chống lạm phát triệt để . Có ba vấn đề nổi bật cần ưu tiên giải quyết đó là : - Giải quyết việc làm , giảm thiểu nạn thất nghiệp . Có thể nói rằng Việt Nam không thiếu vốn và tài nguyên , không thiếu các cơ hội kinh doanh cả trong và ngoài nước nhưng hiện đang thừa lao động vì thiếu một cơ chế đào tạo , tập hợp và trọng dụng nhân tài – tức là những lao động có trình độ cao , các nhà khoa học , các chuyên gia cao cấp , các nhà tổ chức và kinh doanh tài ba Hoạt động của họ sẽ là chất keo kết dính các nhân tố và tạo ra động lực mạnh mẽ hàng đầu cho sự phát triển đời sống kinh tế – xã hội Việt Nam hiện đại - Phát triển hệ thống an sinh xã hội . Đặc biệt cần phát triển các loại hình bảo hiểm xã hội cho toàn thể lượng lao động không phân biệt trong hay ngoài quốc doanh - Phát triển nguồn nhân lực , khuyến khích và trọng dụng nhân tài . Phát hiện , lựa chọn và sử dụng đúng những nhân tàI đầu đàn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng . Nếu chọn sai đầu đàn thì cả đội ngũ sẽ kém hiệu lực .Cần tái lựa chọn liên tục , lấy hiệu quả công việc làm cơ sở đánh giá và lựa chọn chứ không phải bằng cấp , học vị , chức tước.

doc38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lạm phát và những giải pháp kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Trong một thời gian rất ngắn , nền kinh tế sẽ chuyển động đến điểm 1’ và sản phẩm tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên , tức là đạt tới Y1 ( Y1>Yn ) .Điều đó dã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên , tiền lương tăng lên và làm giảm tổng cung - đường tổng cung dịch chuyển vào đến AS2 . Tại đây nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn . Ở điểm cân bằng mới ( điểm 2 ) , mức giá cả tăng từ P1 đến P2 . Cung tiền tệ tiếp tục tăng lên , đường tổng cầu lại dịch chuyển ra, đến AD3 và đường tổng cung lại tiếp tục dịch chuyển vào đến AS3 , nền kinh tế đạt tới mức cân bằng mới tại điểm 3 . Tại đây , mức giá cả đã tăng lên đến P3 . Nếu cung tiền tệ vẫn tiếp tục tăng thì sự dịch chuyển của đường tổng cầu và đường tổng cung như trên lại tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn , lạm phát tăng cao. 1.3.2. Chỉ tiêu công ăn việc làm cao. Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số Chính phủ các nước theo đuổi cũng thường gây nên lạm phát , đó là mục tiêu công ăn việc làm cao. Có hai loại lạm phát là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao , đó là lạm phát chi phí - đẩy và lạm phát cầu-kéo . 1.3.2.1. Lạm phát do chi phí đẩy. Lạm phát chi phí đẩy xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do kết quả của những cuộc đấu tranh đòi tăng lương gây ra. . Lúc đầu , nền kinh tế ở tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1 , với mức sản lượng tự nhiên ( sản lượng tiềm năng ) và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên . Do mong muốn có một mức sống cao hơn hoặc do cho rằng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao , những người công nhân đấu tranh đòi tăng lương. Vì tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên những đòi hỏi tăng lương của công nhân dễ được giới chủ chấp nhận. ảnh hưởng của việc tăng lương ( cũng giống như ảnh hưởng của những cú sốc cung tiêu cực ) làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển vào đến AS2 . Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 đến điểm 1’ – giao điểm của đường tổng cung mới AS2 và đường tổng cầu AD1 . Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiên Y’ (Y’<Yn) và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, đồng thời mức giá cả tăng lên đến P1’ .Vì mục đích muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại , Chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động làm tác động lên tổng cầu , làm tăng tổng cầu , lúc này đường tổng cầu AD1 dịch chuyển ra AD2 , nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại điểm cân bằng mới - điểm 2 , mức giá cả tăng lên đến P2. Các công nhân đã được nhượng bộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp tục đòi tăng lương lên cao hơn . Đồng thời , những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sự chênh lệch về mức lương trong tầng lớp công nhân , tình trạng đòi tăng lương lại tiếp diễn , kết quả là đường tổng cung lại di chuyển vào đến AS3 , thất nghiệp lại tăng lên cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên và Chính phủ lại tiếp tục phải thực hiện các chính sách đIũu chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu ra AD3 để đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên , mức giá cả cũng tăng lên đến P3. Nếu quá trình này cứ liên tục tiếp diễn thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả , đây chính là tình trạng lạm phát chi phí đẩy. 1.3.2.2. Lạm phát do cầu kéo Một trường hợp khác vì mục tiêu công ăn việc làm cao , cũng dẫn đến lạm phát cao , đó là lạm phát cầu kéo. Giả sử ban đầu , nền kinh tế đang đạt tới mức sản lượng tiềm năng , và tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên , nền kinh tế đạt mức cân bằng ở điểm 1. Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ hoạch định và theo đuổi một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên . Để đạt được mục tiêu này , các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng, mức chỉ tiêu sản lượng cần đạt được đó là Yt (Yt > Yn) . Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ tác động lên tổng cầu và làm tăng tổng cầu , đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra đến AD2, nền kinh tế chuyển đến điểm 1’ ( giao điểm giữa đường tổng cầu mới AD2 và đường tổng cung ban đầu AS1) . Sản lượng bây giờ đã đạt được tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng và mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiênđă đạt được . Vì hiện nay tỷ lệ thất nghiệp thực tế trong nền kinh tế là thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ di chuyển vào đến AS2 , đư nền kinh tế từ điểm 1’ chuyển sang điểm 2’. Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 cao hơn P1. Đến lúc này tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu mà các nhà hoạch định chính sách cần đạt được .Do đó họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách làm tăng tổng cầu . Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn. 1.3.3. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái . Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát . Khi tỷ giá tăng , đồng nội tệ mất giá , trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước , muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái . Thứ hai khi tỷ giá tăng , giá nguyên liệu , hàng hoá nhập khẩu cũng tăng cao , đẩy chi phí về phía nguyên liệu tăng lên , lại quay trở về lạm phát phí đẩy như đã phân tích trên đây . Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hoá nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền , làm tăng giá cả ở rất nhiều các hàng hoá khác , đặc biệt là hàng hoá của các ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những nghành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ( nguyên liệu của ngành nayg là sản phẩm của ngành khác …) . 1.3.4. Lạm phát do thâm hụt ngân sách . Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao . Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bằng biện pháp phát hành tráI phiếu Chính phủ ra thị trường tàI chính để vay vốn trong dân chúng , bù đắp cho phần bị thiếu hụt . Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó , không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát . Một biện pháp khác Chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước là phát hành tiền . Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ , do đó tăng cung ứng tiền , đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát . Tuy nhiên , ở các nước đang phát triển , do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt ngân sách nhà nước là rất khó thực hiện . Đối với các Quốc gia này , con đường duy nhất đối với họ là “ sử dụng máy in tiền “ . Vì thế , khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng . ở các nước kinh tế phát triển ( như ở Mỹ ) , thị trường vốn phát triển , vì vậy một khối lượng lớn trái phiếu chính phủ có thể được bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách nhà nước được thực hiện từ nguồn vốn vay của chính phủ . Tuy nhiên , nếu Chính phủ cứ liên tục phát hành trái phiếu ra thị trường , cầu về vốn vay sẽ tăng, do đó , lãi suất sẽ tăng cao . Để hạn chế việc tăng lãi suất thị trường , ngân hàng trung ương sẽ phải mua vào các trái phiếu đó , điều này lại làm cho cung tiền tệ tăng. Do vậy , trong mọi trường hợp , tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao , kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát. 1.3.5. Lạm phát do yếu tố tâm lý. Yếu tố tâm lý nhiều khi là nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát . Khi tiền tệ bị mất giá , tài sản cũng bị mất giá theo . Ngưòi ta sẽ đổi sang các tài sản có giá trị như nhà cửa , đất đai , kim khí quý , ngoại tệ mạnh…để đảm bảo tài sản của họ . Khi đó ,đồng tiền trong lưu thông tăng do người ta đồng loạt rút tiền trong ngân hàng làm cho số lượng tiền trong lưu thông lớn hơn số lượng tiền cần thiết trong lưu thông làm cho đồng tiền bị giảm giá . Trong tình hình đó ngân hàng trung ương cần phải giảm lãi suất tiền gửi đồng ngoại tệ , tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ và cấm trao đổi ngoại tệ . Tóm lại các nguyên nhân gây ra lạm phát rất đa dạng và bao quát cả trong lĩnh vực cung và cầu, cả sản xuất , lưu thông , phân phối và tiêu dùng , cả chính sách tài chính-tiền tệ lẫn các yếu tố tâm lý , cả các nhân tố bên trong lẫn các nhân tố bên ngoài , các nhân tố khách quan và chủ quan…mà tuỳ theo các đIũu kiện cụ thể , lạm phát nảy sinh với tư cách là kết quả trực tiếp và gián tiếp của tổ hợp các nguyên nhân trên hoặc chỉ do một vài nguyên nhân trong số đó. 1.4. Tác động của lạm phát. Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế , làm thay đổi mức độ và hình thức sản lượng , đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội . Hơn nữa , lạm phát tác động đến nền kinh tế theo cả hướng tiêu cực và tích cực. 1.4.1. Lạm phát và lãi suất Từ thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới, các nhà kinh tế cho rằng : lạm phát cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh tế , chính trị và xã hội của mọi quốc gia. Tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất. Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng phải luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có của mình , tức là phải luôn luôn giữ cho lãi suất thực ổn định . Ta biết rằng lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát . Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao , nếu muốn cho lãi suất thực ổn định , lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát . Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng. 1.4.2. Lạm phát và thu nhập thực tế. Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi , lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế của người lao động . Với 600.000 đồng tiền lương một tháng hiện nay , một công nhân sẽ mua được 2 tạ gạo ( với giá gạo 3000 đ/1kg ) . Vào năm sau , nếu tiền lương của công nhân này không đổi , nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế vào năm sau tăng thêm 50% so với năm trước , tức là giá gạo đã tăng lên 4500đ/1kg , thì với số tiền lương nhận được trong một tháng , người công nhân này chỉ có thể mua được 133,3 kg gạo . Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi ( tức tiền mặt ) mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi , tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi , các khoản lợi tức . Điều đó xảy ra là do chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa . Khi lạm phát tăng cao , những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao , điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao ( mặc dù thuế suất vẫn không tăng ) . Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng ( thu nhập sau thuế ) , thực ( sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát ) mà người cho vay nhận được bị giảm đi . Suy thoái kinh tế , thất nghiệp gia tăng , đời sống của người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ và những hậu quả về chính trị , xã hội có thể xảy ra. 1.4.3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng. Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay , khi lạm phát tăng cao , người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là người được lợi . Điều này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay . Hơn thế nữa , nó còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi . Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế , đẩy lãi suất lên cao . Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có , dùng tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hoá , tài sản , nạn đầu cơ xuất hiện , tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường , giá cả hàng hoá cũng lên cơn sốt cao hơn . Cuối cùng những người dân nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn . Họ thậm chí không mua nổi những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu , trong khi đó , những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hoá và trở nên càng giàu có hơn . Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập , về mức sống giữa người giàu và người nghèo. 1.4.4. Lạm phát và nợ quốc gia. Lạm phát cao làm cho chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân , nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn . Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài . Lý do là vì : lạm phát đã làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ. Như vậy là căn bệnh mãn tính của nền kinh tế thị trường , lạm phát có cả tác hại lẫn ích lợi . Nếu một nước nào đó có thể duy trì , kiềm chế , điều tiết được mức lạm phát vừa phải phù hợp và có lợi cho thúc đẩy , tăng trưởng kinh tế của mình, thì ở đó lạm phát không còn là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế nữa . Khi đó , lạm phát trở thành công cụ điều tiết kinh tế khá đắc lực . Ngược lại lạm phát phi mã hay siêu lạm phát không thể dự đoán và điều tiết được đã gây tác hại rã rệt cho nền kinh tế và trở thành căn bệnh hiểm nghèo cần điều trị tích cực và đúng cách. CHƯƠNG II : THỰC TIỄN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 2.1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam qua các thời kỳ phát triển đất nước. Xét dưới góc độ quan đIểm và chính sách chính thức đối với vấn đề lạm phát ở Việt Nam , có thể chia diễn biến quá trình này ở Việt Nam từ năm 1976 (năm đầu tiên thống nhất đất nước ) đến nay thành bốn thời kỳ sau : 2.1.1.Thời kỳ thứ nhất từ năm 1979 đến năm 1980 . Thời kỳ này được coi là không có lạm phát trong quan hệ kinh tế chính trị phổ biến trong các nước XHCN đương thời và không được phản ánh trong các thống kê chính thức . Tuy nhiên , trên thực tế ở Việt Nam khi đó có lạm phát , thể hiện ở sự khan hiếm hàng hoá , dịch vụ và sự giảm sút chất lượng của chúng ; đồng thời được ghi nhận trong sự diễn biến gia tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị trường xã hội ở mức trên dưới 20% trên năm 2.1.2.Thời kỳ thứ hai từ năm 1981 đến năm 1988. Thời kỳ lạm phát đã chuyển từ dạng “ ẩn” sang dạng “ mở “ song vẫn chưa được thừa nhận trong các văn kiện chính thức . Vấn đề này chỉ quy vào xử lý các khía cạnh “ giá - lương – tiền “ , mà lại chủ yếu bằng các giải pháp hành chính , như xem xét và đIều chỉnh đơn giản giá cả trong khu vực thị trường có tổ chức những năm 1981 , 1985 , 1987 và “ bù giá vào lương “ , đổi tiền năm 1985…Đây là thời kỳ xuất hiện siêu lạm phát với 3 chữ số kéo dài suốt 3 năm ( 1986-1988) và đạt đỉnh cao nhất trong lịch sử kinh tế hiện đại nước ta suốt nửa thế kỷ nay. 2.1.3. Thời kỳ thứ ba từ tháng 5 năm 1988 đến 1991. Đây là thời kỳ mà lần đầu tiên lạm phát được chính thức thừa nhận bằng Nghị quyết số 11 của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh với lạm phát . Ngay sau khi nghị quyết ra đời , những chương trình chống lạm phát được soạn thảo ở nhiều cơ quan thuộc các cấp , các nghành khác nhau ; vài chục dự án chống lạm phát ra đời , bổ sung , thậm chí cả mâu thuẫn nhau về quan đIúm đánh giá tình hình và đề xuất các giải pháp thực tế . Các biện pháp chống lạm phát được gắn với quá trình đổi mới , thực hiện các cải cách thị trường ở Việt Nam . Song chúng mới ở dạng thử nghiệm , chưa đồng bộ , ngập ngừng , lúc tiến , lúc lùi , với những đợt “ sốc “ nhỏ , đã thu được thành công đáng kể năm 1989 , sau đó bị chững lại do tình hình trong nước và quốc tế có biến động mạnh . Việt Nam bước vào thời điểm thử thách khó khăn nhất của đất nước kể từ năm 1975. 2.1.4.Thời kỳ thứ tư từ cuối năm 1991 đến nay. Đây là thời kỳ mà chống lạm phát được đưa lên vị trí hàng đầu và gắn quyện hữu cơ với chính sách đổi mới toàn diện đất nước . Kết quả thu được là khả quan và khá vững chắc , từ đó đã rút ra được nhiều bài học quý cho việc định hướng chính sách chống lạm phát và những cải cách thị trường trong tương lai .Đây cũng là thời kỳ tiêu biểu và chứa đựng khá đầy đủ đặc điểm cuộc đấu tranh chống lạm phát ở Việt Nam . Vì vậy ,nó đáng được ưu tiên tập trung nghiên cứu nhất trong cả bốn thời kỳ đã nêu trên. Chỉ số tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị trường xã hội trong thời kỳ 1976 - 2002 Năm Tốc độ cả năm Năm Tốc độ cả năm Năm Tốc độ cả năm 1976 121,9 1985 191,6 1994 114,4 1977 118,6 1986 774,7 1995 112,7 1978 120,9 1987 223,1 1996 104,5 1979 119,4 1988 393,8 1997 103,6 1980 125,2 1989 134,7 1998 109,2 1981 169,6 1990 167,1 1999 100,1 1982 195,4 1991 167,5 2000 99,4 1983 149,5 1992 117,5 2001 100,8 1984 164,9 1993 105,2 2002 103,5 Căn cứ vào các số liệu trên bảng ta thấy về cơ bản thời kỳ 1976-1986 là thời kỳ lạm phát tăng liên tục tuy không đều và đạt đỉnh cao nhất vào năm 1986 , hai năm tiếp theo lạm phát cũng ở mức rất cao với 3 con số . Từ năm 1989 đến 1991 , lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với mức tăng 67% liên tục trong 2 năm 1990 và 1991 . Phải từ năm 1992 trở đi tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995 . Lạm phát cao đã gây ra những hậu quả rất tai hại . Nền kinh tế bị chao đảo mạnh , đồng tiền mất giá nhanh , niềm tin vào giá trị đồng bạc Việt Nam không còn , các hoạt động đầu tư bị đình trệ , đời sống của một bộ phận dân cư , nhất là người ăn lương hết sức điêu đứng . Các hoạt động buôn lậu phát triển rất nhanh , khu vực công nghiệp sống quen vào nguồn vật tư cung ứng theo chỉ tiêu kế hoạch không thích ứng nổi với tình hình nên bị đình đốn hàng loạt . Song , mười năm từ sau cơn đại lạm phát năm 1986 ,nền kinh tế Việt Nam vào năm 1996 xuất hiện hiện tượng mới là sự suy giảm chỉ số giá hàng tiêu dùng . CPI bị âm liên tiếp trong nhiều tháng khiến chỉ số giá của tháng 12-1996 so với cùng kỳ năm trước chỉ tăng 4,5% , thấp nhất trong vòng 20 năm kể từ 1976 . Hiện tượng này đã kéo dàI qua năm 1997 , giảm giá bắt đầu sớm hơn và kết thúc với chỉ số giá tăng 3,6% . Năm 1998 , CPI tăng 9,2% nhờ xuất khẩu gạo tăng mạnh ( về lượng và giá cả) và đIều chỉnh nhiều lần tỷ giá ngoại tệ . Năm 1999 mức độ giảm giá lại trầm trọng hơn hai năm 1996 và 1997 . Chỉ số giá giảm liên tục trong 8 tháng , kể từ tháng 3 đến tháng 10 , có thể xem đây là năm đánh dấu giai đoạn giảm phát tồi tệ khi chỉ số giá chỉ tăng 0,1% , mặc dù hiện tượng suy giảm chỉ số giá đã xuất hiện từ 1996. Năm 2000 tình hình cũng không khác gì năm 1999 , thậm chí trên một số mặt còn tiêu cực hơn . CPI cũng liên tiếp giảm trên nhiều nhóm hàng hơn so với các năm trước . Chỉ số giá cả năm chỉ còn 99,4% ,giảm 0,6% so năm 1999 Năm 2001 không còn hiện tựơng giảm phát nữa , chỉ số giá cả năm so với năm 2000 đã tăng 1,4% .Tuy mức độ tăng giá chưa cao nhưng đã phần nào góp phần cải thiện tình hình kinh tế nước ta . Sang năm 2002 chúng ta đã thoát khỏi tình trạng suy thoái về giá cả để cùng nhịp với đà tăng trưởng đang chuyển động đi lên . 2.2. Đặc điểm của lạm phát ở Việt Nam qua các thời kỳ. Lạm phát ở Việt Nam có những đặc điểm tương đồng với lạm phát ở các nước phương Tây những năm 70 ; chẳng hạn như mức độ tăng giá chung vượt đáng kể mức tăng tổng sản phẩm xã hội làm mất giá tiền tệ , giảm sút tiền lương thực tế gây thiệt hại cho các khoản tiền gửi tiết kiệm và cho vay , phát hành tiền ( nhất là trước năm 1992 ) gia tăng vượt mức tăng trưởng kinh tế và có sự khan hiếm bởi mất cân đối cung – cầu … Tuy nhiên lạm phát ở Việt Nam cũng có những điểm khác biệt với lạm phát ở các nước phương Tây ở chỗ : lạm phát ở các nước phương Tây là lạm phát trong nền kinh tế thị trường dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất , nhà nước có vai trò điều chỉnh nền kinh tế , song không phải bằng các biện pháp hành chính mệnh lệnh , nền kinh tế thị trường ở các nước này hoạt động khá hiệu quả mặc dù không phải với mức độ như nhau giữa các nước ; ở các nước này thường xuyên xuất hiện sự mất cân đối trong nền kinh tế , nhưng chúng không mang tính nghiêm trọng và được hiệu chỉnh lại chủ yếu bởi thị trường và cả bởi ảnh hưởng của nhà nước. Còn ở Việt Nam , lạm phát chuyển từ dạng “ẩn” sang dạng “mở” với tốc độ cao và không ổn định trong suốt thời kỳ khá dài tới hàng chục năm . Lạm phát diễn ra trong bối cảnh mất ổn định của nền kinh tế , đồng thời chính là tác nhân khá mạnh gây ra sự bất ổn định đó . Lạm phát được tăng cường bởi sự thiếu hụt ngân sách , mất cân đối cán cân thanh toán , ngoại thương , nợ nước ngoài nặng nề . Lạm phát đó như là sản phẩm của cơ chế hành chính , mệnh lệnh , phân phối và duy ý chí . Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế , nơI độc quyền nhà nước còn mang đậm tính chất phi kinh tế và được dung dưỡng bởi những chỉ thị của nhà nước và tồn tại thống trị phổ biến trong tất cả các lĩnh vực . Trong những năm 80 , khu vực kinh tế nhà nước chiếm khoảng 85 –87% vốn cố định , 95% lao động lành nghề mà chỉ tạo ra có 30 – 37% tổng sản phẩm xã hội . Trong khi đó , khu vực kinh tế tư nhân chỉ chiếm 13,2% sức lao động xã hội và suốt thời kỳ dài trước năm 1986 bị nhiều sức ép kiềm chế , song lại sản xuất ra tới 23 – 43% tổng sản phẩm xã hội . Các quan hệ kinh tế thị trường hoặc bị thủ tiêu hoặc được áp dụng không đầy đủ , và bị bóp méo cả trong quan hệ kinh tế trong nước lẫn quan hệ kinh tế đối ngoại . Hơn nữa , lạm phát ở Việt Nam diễn ra trong một nền kinh tế đóng cửa , phụ thuộc một chiều vào các nguồn viện trợ bên ngoàI . Trên thực tế trước năm 1988 không có đầu tư trực tiếp nước ngoàI vào Việt Nam . Các biên giới đều bị khép lại với chế độ xuất – nhập cảnh cũng như lưu thông hàng hoá rất nghiêm ngặt , phiền phức . Cơ cấu kinh tế chủ yếu có tính hướng nội, khép kín, thay thế hàng nhập khẩu và không khuyến khích xuất khẩu. Năm 1988, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt mức 16,2 rúp / đôla trên đầu người, tức là thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước đang phát triển của năm đó, khoảng 150 USD / người. Còn mức nhập khẩu trung bình là 43,2 rúp / đôla / người tức là cao hơn mức xuất khẩu tới 2,6 lần. Chính sách phong toả, cấm vận kinh tế của Mỹ trong quan hệ đối với Việt Nam, những xung đột biên giới bằng quân sự và sự xấu đi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Campuchia đã gây ra phương hại toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị cho Việt Nam. Luồng viện trợ từ bên ngoài thường chủ yếu một chiều từ các nước xã hội chủ nghĩa, không có ODA từ phía các nước phi xã hội chủ nghiã. Đầu tư lại chủ yếu tập chung cho thực hiện các dự án công nghiệp lớn, dài hạn, chậm hoàn vốn và đòi hỏi những chi phí đối ứng to lớn về vật chất và nhân lực trong nước. Người ta tính toàn rằng, để hấp thụ được 3 rúp viện trợ nước ngoài dưới dạng thiết bị tổng hợp Việt Nam cần chi 1 - 2 rúp đối ứng từ nguồn tiền trong nước để xây dựng và trả công cho người lao động. Vì thế, mặc dù đã có những tác động tích cực cho phát triển kinh tế Việt Nam, song viện trợ nước ngoài cũng trở thành một nhân tố làm tăng tình trạng thiếu hụt ngân sách và tăng gánh nặng nợ nần Nhà nước kinh niên ở Việt Nam. Thiếu hụt ngân sách còn bị làm sâu sắc thêm bởi những chi phí không nhỏ để khắc phục hậu quả của những cuộc chiến tranh kéo dài ( bao gồm cả việc nuôi dưỡng quân đội khá đông đảo, trợ cấp hưu trí, trợ cấp nạn nhân chiến tranh ) và của những trận thiên tai thường xuyên hàng năm. Ngoài ra, do chính sách định hướng phát triển và đầu tư có nhiều bất cập, nên cơ cấu kinh tế Việt Nam còn bị mất cân đối và không hợp lý nghiệm trọng giữa công nghiệp - nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, nhất là ngành sản xuất hàng tiêu dùng, giữa sản xuất - dịch vụ. Chúng làm ra tăng xu hướng khan hiếm và giảm sút chất lượng hàng hoá - dịch vụ trong khi đầu tư từ những nguồn vốn lạm phát có xu hướng tăng nhanh liên tục. Tất cả những đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam được nêu ra trên đây cũng chính là cuội nguồn và nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp, ở mức độ này hay khác, gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ, tăng chi phí sản xuất, thiếu hụt ngân sách triền miên, tăng mức cung tiền không tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ...và do đó, gây ra lạm phát. Đồng thời lạm phát ở Việt Nam còn bị làm trầm trọng thêm bởi những bất cập với thực tế cả về nhận thức lẫn hành động trong đối xử với lạm phát nói riêng cũng như trong vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế nói chung. Có thể chỉ ra : Thứ nhất, chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản miền Nam và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp mang tính hình thức thời kỳ 1976 - 1980 đã gây tác động tiêu cực đến năng lực sản xuất hàng tiêu dùng của Việt Nam và đưa nền kinh tế Việt Nam lâm vào trạng thái trì trệ : sản xuất công nghiệp tăng bình quân 0,6 % / năm, nông nghiệp 1,9 % / năm, GDP 0,4 % / năm trong khi dân số tăng 1 triệu người / năm, làm căng thẳng quan hệ cung - cầu trên tị trường xã hội. Thứ hai, trong thời kỳ 1981 - 1985 những sai lầm trên được nhận thức lại Đại hội V của Đảng năm 1982 đã đặt lại quan niệm về chặng đường đầu tiên, về nội dung công nghiệp hoá, về vấn đề kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ này ở miền Nam Việt Nam. Liên tiếp một loạt chủ trương và quyết định quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng được đưa ra : Chỉ thị 100 của ban Bí thư về khoán trong nông nghiệp cho phép khoán sản phẩm đến từng người lao động, tạo ra sự đổi mới cơ bản mô hình hợp tác xã, mặc dù vẫn giữ nnguyên hình thức của nó. Quyết định 25 / CP ngày 21 - 1 - 1981 cho phép các xí nghiệp quốc doanh ngoài việc bảo đảm phần kế hoạch do Nhà nước giao có vật tư bảo đảm, được tự cân đối sản xuất và tiêu thụ, đồng thời còn được phép sản xuất phụ. Quyết định này đã gợi ý cho những đổi mới trong lĩnh vực giá cả, lợi nhuận, tiền thưởng... Kết quả, sản xuất xã hội ² bung ra “ rõ rệt : bình quân tốc độ phát triển nông nghiệp đạt 4,9 %, công nghiệp đạt 9,5 % hàng năm. Nhưng do bao cấp qua ngân sách quá lớn và do nhiều khúc mắc khác về cơ chế chưa được giải toả, nên nền kinh tế đất nước vẫn rất khó khăn . Chưa bao giờ tình trạng đầu cơ lại nở rộ và gặt hái được nhiều lợi nhuận như thời kỳ này ở nước ta. Cuối cùng, Nhà nước Việt Nam, với quỹ hàng hoá trống rỗng, với ngân sách thâm hụt hơn do các đợt điều chỉnh và trợ cấp mang đậm tính chỉ thị, mệnh lệnh gây ra, với hy vọng mơ hồ có thể giảm khối lượng tiền to lớn trong lưu thông ( nhưng ngoài vòng tay kiểm soát của mình ) đang gây ra áp lực tăng lượng cầu, cũng như với tính toán đơn giản rằng Nhà nước sẽ tăng thu ngân sách nếu tăng giá hàng hoá và do ảo tưởng về quyền lực tuyệt đối của Chính phủ với đồng tiền, nên đã tăng giá hàng bán ra trên thị trường khu vực Nhà nước lên 10 lần và tiến hành đổi tiền vào cuối năm 1985 đầu năm 1986. Sự đổ vỡ lòng tin vào đồng tiền bùng nổ, lạm phát bùng lên trở thành siêu lạm phát tới 3 chữ số kéo dài đến năm 1988 và hẳn sẽ còn kéo dài nữa nếu nhà nước không thay đổi quan điểm và cách thức điều chỉnh của mình với nền kinh tế và tiền tệ. .(( Cơ cấu kinh tế chủ yếu có tính hướng nội, khép kín, thay thế hàng nhập khẩu và không khuyến khích xuất khẩu. Năm 1988, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt mức 16,2 rúp / đôla trên đầu người, tức là thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước đang phát triển của năm đó, khoảng 150 USD / người. Còn mức nhập khẩu trung bình là 43,2 rúp / đôla / người tức là cao hơn mức xuất khẩu tới 2,6 lần. Chính sách phong toả, cấm vận kinh tế của Mỹ trong quan hệ đối với Việt Nam, những xung đột biên giới bằng quân sự và sự xấu đi quan hệ Việt Nan - Trung Quốc, Việt Nam - Campuchia đã gây ra phương hại toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị cho Việt Nam. Luồng viện trợ từ bên ngoài thường chủ yếu một chiều từ các nước xã hội chủ nghĩa, không có ODA từ phía các nước phi xã hội chủ nghiã. Đầu tư lại chủ yếu tập chung cho thực hiện các dự án công nghiệp lớn, dài hạn, chậm hoàn vốn và đòi hỏi những chi phí đối ứng to lớn về vật chất và nhân lực trong nước. Người ta tính toàn rằng, để hấp thụ được 3 rúp viện trợ nước ngoài dưới dạng thiết bị tổng hợp Việt Nam cần chi 1 - 2 rúp đối ứng từ nguồn tiền trong nước để xây dựng và trả công cho người lao động. Vì thế, mặc dù đã có những tác động tích cực cho phát triển kinh tế Việt Nam, song viện trợ nước ngoài cũng trở thành một nhân tố làm tăng tình trạng thiếu hụt ngân sách và tăng gánh nặng nợ nần Nhà nước kinh niên ở Việt Nam. Thiếu hụt ngân sách còn bị làm sâu sắc thêm bởi những chi phí không nhỏ để khắc phục hậu quả của những cuộc chiến tranh kéo dài ( bao gồm cả việc nuôi dưỡng quân đội khá đông đảo, trợ cấp hưu trí, trợ cấp nạn nhân chiến tranh ) và của những trận thiên tai thường xuyên hàng năm. Ngoài ra, do chính sách định hướng phát triển và đầu tư có nhiều bất cập, nên cơ cấu kinh tế Việt Nam còn bị mất cân đối và không hợp lý nghiệm trọng giữa công nghiệp - nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, nhất là ngành sản xuất hàng tiêu dùng, giữa sản xuất - dịch vụ. Chúng làm ra tăng xu hướng khan hiếm và giảm sút chất lượng hàng hoá - dịch vụ trong khi đầu tư từ những nguồn vốn lạm phát có xu hướng tăng nhanh liên tục. Tất cả những đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam được nêu ra trên đây cũng chính là cuội nguồn và nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp, ở mức độ này hay khác, gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ, tăng chi phí sản xuất, thiếu hụt ngân sách triền miên, tăng mức cung tiền không tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ...và do đó, gây ra lạm phát. Đồng thời lạm phát ở Việt Nam còn bị làm trầm trọng thêm bởi những bất cập với thực tế cả về nhận thức lẫn hành động trong đối xử với lạm phát nói riêng cũng như trong vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế nói chung. Có thể chỉ ra : Thứ nhất, chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản miền Nam và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp mang tính hình thức thời kỳ 1976 - 1980 đã gây tác động tiêu cực đến năng lực sản xuất hàng tiêu dùng của Việt Nam và đưa nền kinh tế Việt Nam lâm vào trạng thái trì trệ : sản xuất công nghiệp tăng bình quân 0,6 % / năm, nông nghiệp 1,9 % / năm, GDP 0,4 % / năm trong khi dân số tăng 1 triệu người / năm, làm căng thẳng quan hệ cung - cầu trên tị trường xã hội. Thứ hai, trong thời kỳ 1981 - 1985 những sai lầm trên được nhận thức lại Đại hội V của Đảng năm 1982 đã đặt lại quan niệm về chặng đường đầu tiên, về nội dung công nghiệp hoá, về vấn đề kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ này ở miền Nam Việt Nam. Liên tiếp một loạt chủ trương và quyết định quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng được đưa ra : Chỉ thị 100 của ban Bí thư về khoán trong nông nghiệp cho phép khoán sản phẩm đến từng người lao động, tạo ra sự đổi mới cơ bản mô hình hợp tác xã, mặc dù vẫn giữ nnguyên hình thức của nó. Quyết định 25 / CP ngày 21 - 1 - 1981 cho phép các xí nghiệp quốc doanh ngoài việc bảo đảm phần kế hoạch do Nhà nước giao có vật tư bảo đảm, được tự cân đối sản xuất và tiêu thụ, đồng thời còn được phép sản xuất phụ. Quyết định này đã gợi ý cho những đổi mới trong lĩnh vực giá cả, lợi nhuận, tiền thưởng... Kết quả, sản xuất xã hội ² bung ra “ rõ rệt : bình quân tốc độ phát triển nông nghiệp đạt 4,9 %, công nghiệp đạt 9,5 % hàng năm. Nhưng do bao cấp qua ngân sách quá lớn và do nhiều khúc mắc khác về cơ chế chưa được giải toả, nên nền kinh tế đất nước vẫn rất khó khăn. Lạm phát năm 1981 so với năm 1975 lên tới 313,7 % và năm 1985 còn cao hơn nhiều. Nạn khan hiếm hàng hoá và thiếu hụt ngân sách đưa Việt Nam đứng trước nguy cơ khủng hoảng. Đặc biệt, thời kỳ này do chưa nhận thức đầy đủ về sự có mặt, tác hại và tính chất nhiều nguyên nhân, nhất là bản chất tiền tệ của lạm phát ( mặc dù đã toát lên qua các cuộc tranh cãi trong cả giới khoa học và quản lý những cảm nhận bước đầu về vai trò của các yếu tố tiền tệ, giá cả trong thị trường ), nên suốt nửa đầu thập kỷ80 vấn đề xoá bao cấp qua ² giá - lương “ và xử lý quan hệ ² giá - lương - tiền “ luôn được xem như khâu đột phá có tính quyết định để chuyển nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa ( chứ chưa phải là chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường - một phát triển về chất trong nhận thức quản lý kinh tế vĩ mô của Đảng ta như thời kỳ sau ). Thu hẹp vấn đề lạm phát lại chỉ còn là vấn đề ² giá - lương - lưu thông tiền tệ “, suốt thời kỳ này, Nhà nước loay hoay tập trung vào điều chỉnh rồi tổng điều chỉnh giá cả giữa hai khu vực thị trường, và tìm cách bù giá vào lương sao cho tương ứng với những điều chỉnh đó ( trong khi vẫn duy trì mức lãi suất thực âm, duy trì chính sách phát hành bù đắp thiếu hụt ngân sách, ngân hàng có nhiệm vụ bao cấp tín dụng chứ không kinh doanh tiền tệ, chính sách tài chính chỉ chuyên lo ² vắt kiệt “ nguồn thu chứ chưa phải nuôi dưỡng, củng cố nguồn thu ). Trò chơi ² đuổi bắt “ này kéo dài giữa một bên là khu vực thị trường tự do năng động và bướng bỉnh không chịu tuân theo lệnh ² đông cứng giá “ của nhà nước đưa ra, với bên kia là khu vực thị trường nhà nước do nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Thực ra, dù biểu hiện bên ngoài, khu vực thị trường nhà nước tỏ ra có ² kỷ luật hơn “, song cũng luôn tìm mọi cách phản ứng lại những chỉ thị của Chính phủ để hòng thu lợi nhuận từ chênh lệch giá phát sinh giữa những đợt đong cứng giá, giữa mỗi lần điều chỉnh lương và giữa bản thân hai khu vực thị trường đem lại. Chưa bao giờ tình trạng đầu cơ lại nở rộ và gặt hái được nhiều lợi nhuận như thời kỳ này ở nước ta. Cuối cùng, Nhà nước Việt Nam, với quỹ hàng hoá trống rỗng, với ngân sách thâm hụt hơn do các đợt điều chỉnh và trợ cấp mang đậm tính chỉ thị, mệnh lệnh gây ra, với hy vọng mơ hồ có thể giảm khối lượng tiền to lớn trong lưu thông ( nhưng ngoài vòng tay kiểm soát của mình ) đang gây ra áp lực tăng lượng cầu, cũng như với tính toán đơn giản rằng Nhà nước sẽ tăng thu ngân sách nếu tăng giá hàng hoá và do ảo tưởng về quyền lực tuyệt đối của Chính phủ với đồng tiền, nên đã tăng giá hàng bán ra trên thị trường khu vực Nhà nước lên 10 lần và tiến hành đổi tiền vào cuối năm 1985 đầu năm 1986. Sự đổ vỡ lòng tin vào đồng tiền bùng nổ, lạm phát bùng lên trở thành siêu lạm phát tới 3 chữ số kéo dài đến năm 1988 và hẳn sẽ còn kéo dài nữa nếu nhà nước không thay đổi quan điểm và cách thức điều chỉnh của mình với nền kinh tế và tiền tệ. Trong suốt thời kỳ này, toàn bộ nền kinh tế bị chấn động mạnh, lưu thông hàng hoá tiền tệ bị rối loạn ; các hoạt động kinh tế - xã hội trở nên bất bình thường và định hướng vào các hoạt động mang tính đầu cơ, buôn bán lòng vòng, ngắn hạn. Các hoạt động sản xuất, đầu tư kinh doanh dài hạn bị coi nhẹ. Tình trạng phá sản và hoạt động cầm chừng của các doanh nghiệp là phổ biến. Đời sống của công nhân viên chức và những người có thu nhập cố định thấp bị giảm sút nghiêm trọng. Các khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền cho vay tính bằng đồng Việt Nam bị giảm giá trị thê thảm gây ra những thiệt hại to lớn về vật chất và tinh thần của các chủ tài khoản tiết kiệm và chủ nợ. Có thể nói, lạm phát lúc này là cơn bão có sức phá hoại khủng khiếp và toàn diện đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội và cả chính trị của đất nước. Tình trạng tham nhũng được dịp nảy nở và làm nhân bội tác hại của lạm phát, làm suy giảm thành tích và lòng tin vào công cuộc đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHAT TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY Có thể chỉ ra những giải pháp chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng và kết quả kiềm chế lạm phát của nước ta hiện nay như sau : 3.1. Tham gia đầy đủ vào các hoạt động hợp tác của ASEAN , APEC Tham gia đầy đủ vào các hoạt động hợp tác của ASEAN , APEC nói riêng và quá trình thúc tiến hội nhập vào thế giới nói chungtrong xu hướng tự do hoá và toàn cầu hoá là một nhân tố bên ngoài mới lạ , có tác động hai chiều khá linh hoạt và phức tạp đến động thái lạm phát ở nước ta . Một mặt dưới giác độ tích cực làm dịu lạm phát , mặt khác giúp chúng ta nhập được nguồn hàng rẻ , dồi dào từ bên ngoài , trực tiếp làm tăng tổng cung trên thị trường , điều hoà cân đối cung cầu . Nó cũng làm tăng động lực cạnh tranh và hòan thiện các yếu tố thị trường , cũng như bổ sung các nguồn vốn , công nghệ , kỹ năng thị trường của nước ngoàI trong toàn bộ nền kinh tế ; đồng thời tạo ra những cơ hội kinh doanh mới , đa dạng hơn cho doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường khu vực và quốc tế . Mặt khác , nó cũng gây ra những thách thức lớn cho nền sản xuất nội địa vốn chưa phát triển . Nừu không có giảI pháp thích đáng , thì không những sẽ làm Việt Nam trở thành một “ô đất trũng “ nhập và tiêu xàI toàn toàn hàng rẻ của ngoại (hiện tại ASEAN chiếm 70% lượng nhập siêu của Việt Nam “ , mà nền sản xuất trong nước sẽ bị o ép , thu hẹp hơn , làm mất đi thực lực và nhân tố ổn định của nền kinh tế nói chung , của khả năng làm chủ và ổn định hoá giá cả xã hội của chúng ta nói riêng . Sự cần thiết ở đây là vừa phải tích cực đổi mới công nghệ , khơI thông các nguồn nội lực , phát triển lực lượng sản xuất trong nước , hoàn thiện cơ chế thị trường để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và môi trường trong nước . Phải tuân thủ các cam kết , thông lệ quốc tế . Điều quan trọng nổi bật là cần chủ động khai thông các nguồn vốn bên ngoài an toàn ( FDI , ODA…) , đồng thời với hạn chế các luồng vốn kém an toàn ( vay thương mại , chứng khoán…) để giảm thiểu các cú sốc tài chính – tiền tệ do sự rút chạy hoặc đình hoãn các dự án có vốn đầu tư bên ngoài . Việc chống đầu cơ và buôn lậu có có hiệu quả thực tế , cả bằng biện pháp kinh tế và tài chính , phải được coi là mũi nhọn trong các biện pháp bảo đảm an toàn trong quá trình mở cửa của đất nước. 3.2. Cân đối ngân sách nhà nước . 3.2.1.Bịt chặt lỗ hổng thất thu , thất thoát ngân sách nhà nước qua mọi kênh , hình thức. - Thất thu từ thuế ( nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân ) do sự không hoàn thiện và bất cập của hệ thống thuế và công tác thuế , nhất là từ chất lượng của cán bộ thuế - Thất thoát từ các dự án đầu tư nhà nước do cơ cấu đầu tư chưa phù hợp và sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, do những chi phí gián tiếp , những thiệt hại gắn với tình trạng tham nhũng và cơ chế đấu thầu , thực hiện dự án đầu tư còn chưa hoàn thiện và thiếu công khai. Để cải thiện căn bản cơ cấu và hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, trước mắt cần : + giảm dần đầu tư xây dựng cơ bản, tăng đầu tư vào thiết bị máy móc , đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm … + tập trung đầu tư ngân sách nhà nước cho : khắc phục sự chênh lệch quá xa về trình độ phát triển giữa các vùng đáp ứng những nhu cầu đầu tư mà không hấp dẫn vốn tư nhân phát triển những yếu tố kích thích đầu tư tư nhân - Xử lý căn bản những khoản nợ khó đòi đã tồn đọng trong quá khứ , đồng thời đang có xu hướng phình ra trong tương lai . Biểu hiện rõ nét nhất là khối lượng to lớn các khoản nợ thuế hay các nghĩa vụ tàI chính khác mà các doanh nghiệp nhà nước phảI nộp cho ngân sách nhà nước ; cũng như ở tỷ lệ nợ khó đòi trong hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước và tư nhân. 3.2.2.Bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Việc bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước cần kiên quyết không sử dụng con đường phát hành lạm phát, mắt khác cũng cần giảm dần những khoản vay tín dụng thương mại nhà nước, bởi lẽ : Tác động tiêu cực của phát hành lạm phát đến quá trình thúc đẩy lạm phát là hết sức rõ ràng . Thực tiễn nhiều năm qua đã khẳng định tác động tích cực của việc không phát hành bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước , cũng như khả năng Chính phủ khống chế được lạm phát, cân đối được ngân sách nhà nước không thông qua phát hành . Việt Nam còn có thể và có nhiều cơ hội khai thác các nguồn vốn đầu tư tiềm năng ( ODA, FDI và nhất là vốn tư nhân trong nước và của Việt kiều ở nước nước ngoàI ) để giảm các khoản đầu tư không cần thiết từ ngân sách nhà nước, từ đó giảm thâm hụt ngân sách nhà nước. Thực tiễn trong nước và thế giới đã, đang và sẽ chứng tỏ rằng, một khi chính phủ tạo được sự ổn định và lành mạnh về mặt chính trị, cũng như duy trì được một khuôn khổ kinh tế – xã hội đúng đắn, thì khu vực tư nhân sẽ chính là động lực chủ yếu , dồi dào và hiệu quả nhất tạo ra sự thịnh vượng cho đất nước Một cách khái quát nhất có thể nhận thấy để tiến tới cân đối vững chắc ngân sách nhà nước thì việc nuôi dưỡng và phát triển các nguồn thu đi đôi với thu hẹp và định hướng lại cũng như nâng cao hiệu quả các khoản chi ngân sách nhà nước sẽ phải là công tác nền tảng cho công tác ngân sách nhà nước chứ không phải là tiếp tục tận thu và tăng chi tiêu ngân sách nhà nước một cách chủ quan , duy ý chí . 3.3.Cải cách khu vực kinh tế nhà nước. Quá trình thanh lọc và cải cách các doanh nghiệp nhà nước phải đảm bảo được ba yêu cầu dưới giác độ của chính sách kiềm chế vững chắc lạm phát của nước ta - “ thu nhỏ “ khu vực doanh nghiệp nhà nước lại và giảm thiểu bao cấp ngân sách nhà nước cho chúng , để giành vốn chi ngân sách nhà nước cho những ưu tiên chiến lược và tăng hiệu quả sử dụng vốn xã hội - Tăng cường cơ chế quản lý thị trường và nhà nước pháp quyền cho các doanh nghiệp nhà nước còn hoạt động - Bảo đảm sự hoạt động bình thường của guồng máy sản xuất xã hội . Không được phép “ gây sốc “ và làm giảm sút sản xuất, giảm sút tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách nhà nước; cũng không được phép làm tăng vọt tỷ lệ thất nghiệp xã hội . Ba yêu cầu trên có quan hệ mật thiết với nhau nhằm duy trì được mức cung xã hội – cơ sở cho sự ổn định kinh tế . Điều rất quan trọng là quá trình thu hẹp khu vực nhà nước phải được tiến hành đồng thời với quá trình khuyến khích phát triển khu vực phi nhà nước. Cho phép và hỗ trợ sự hình thành những tập đoàn kinh tế mạnh cả trong khu vực nhà nước lẫn trong khu vực phi nhà nước, sao cho chúng đủ sức trở thành đối tác bình đẳng với các công ty nước ngoài không chỉ trên thị trường nội địa mà còn cả trên thị trường khu vực và quốc tế 3.4. Thiết lập một hệ thống ngân hàng lành mạnh , hiện đại và thị trường vốn phát triển. - Lạm phát sẽ được kiềm chế chắc chắn hơn nếu “ bịt “ được các lỗ hổng làm tăng xung lực lạm phát như + Thay việc Ngân hàng nhà nước tái cấp vốn với lãi suất thấp cho các ngân hàng thương mại quốc doanh , bằng việc tái cấp vốn với lãi suất bám sát thị trường và với thời hạn ngắn hơn + Hạn chế và chấm dứt cho vay bằng ngoại tệ , tăng cường quản lý ngoại tệ , đẩy lùi nạn “ đô la hoá “ và tình trạng đầu cơ tín dụng do chênh lệch lãi suất bản tệ và ngoại tệ + Chấm dứt việc ngân hàng nhà nước cho ngân sách vay trực tiếp dưới mọi hình thức + Đề cao việc sử dụng các công cụ đIều tiết tiền tệ của Ngân hàng nhà nước như quy định về hạn mức tín dụng, về dự trữ bắt buộc , nghiệp vụ thị trường mở …. + giảm bớt khối lượng sử dụng tiền mặt và ngoại tệ trong thanh toán xã hội . Việc thanh toán qua ngân hàng phải trở nên chủ yếu và phổ biến , bao quát rộng rãi các lĩnh vực hơn so với mức khoảng 60% trong tổng thanh toán xã hội như hiện nay - Thực hiện lãi suất thực dương bằng cách sử dụng nguyên tắc lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất vay và lãi suất vay lớn hơn tốc độ lạm phát , đồng thời việc điều chỉnh lãi suất cho vay và lãi suất vay được tiến hành liên tục , sát với thị trường - Đặc biệt trong tương lai , các ngân hàng cũng phải phát triển các hoạt động tham gia đầu tư , chứ không chỉ đơn thuần làm việc huy động , cho vay vốn và cung cấp phương tiện , dịch vụ thanh toán xã hội . Phát triển hệ thống cơ sở tín dụng ở nông thôn và thị xã ,ở các vùng xa trung tâm , phải là hướng ưu tiên trong địa bàn hoạt động của các ngân hàng , nhất là ngân hàng thương mại quốc doanh . Bởi lẽ , một mặt đIều đó làm tăng hiệu quả hoạt động quản lý và kinh doanh tiền tệ của ngân hàng , mặt khác đó chính là sự tiếp lực trực tiếp và cần thiết cho việc phát triển theo chiều sâu của các khu vực này , nhất là các cơ sở sản xuất nhỏ , kinh tế trang trại , hộ gia đình… - Tham gia vào các hoạt động của thị trường chứng khoán là nhân tố mới lạ trên thị trường vốn nói riêng , trong nền kinh tế nói chung của nước ta . Trong điều kiện có sự hoạt động sôi nổi của thị trường chứng khoán , các hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng nhà nước , cũng như hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại khác sẽ gia tăng tầm ảnh hưởng cả về bề rộng lẫn bề sâu. Đồng thời hoạt động huy động vốn của ngân hàng sẽ vấp phải sự cạnh tranh trực tiếp từ thị trường chứng khoán với tư cách là công cụ huy động vốn nhanh và rẻ của các doanh nghiệp . Mối tương quan giữa hoạt động ngân hàng với thị trường chứng khoán là mật thiết và cùng ảnh hưởng tới nền kinh tế nói chung , đến động thái của lạm phát nói riêng ,nên vai trò điều phối , giám sát của Chính phủ đối với các hoạt động trên sẽ càng trở nên cần thiết và phức tạp hơn 3.5. Chống tham nhũng. Tham nhũng làm tăng các xung lực lạm phát và làm trầm trọng thêm những hậu quả của lạm phát , làm giảm kết quả những chính sách chống lạm phát của Chính phủ . Vì thế , một chính sách chống lạm phát triệt để của Việt Nam trong tương lai không thể không bao hàm nội dung chống tham nhũng triệt để . Nhằm mục đích đó cần phải : - Lấp kín những lỗ hổng luật pháp mà có thể là nơi xuất phát và ẩn nấp của tệ tham nhũng . Hệ thống luật pháp phải rõ ràng , đồng bộ và nhất quán , đồng thời mang tính hiện đại , theo kịp trình độ phát triển luật pháp và thông lệ quốc tế . Các thủ tục hành chính phải đơn giản hoá , công khai , công bằng , thống nhất , nhanh chóng và trực tiếp - Tạo lập cơ chế phòng ngừa và trấn áp tham nhũng có hiệu lực . Phát triển hệ thống tư pháp và thực hiện rộng rãi tự do báo chí , ngôn luận . Mọi khiếu nại của công dân và doanh nghiệp phảI được xéẫtử nhanh và thoả đáng trên cơ sở pháp luật . Xây dựng đội ngũ công an kinh tế và công an hình sự mạnh , chỉ hành động theo pháp luật và bản thân cũng phảI được sự bảo vệ của pháp luật - Thường xuyên tiến hành “ làm trong sạch “ bộ máy nhà nước từ trên xuống . Tập trung quyền lực cho người đủ uy tín và năng lực , kiên quyết loại bỏ những phần tử và cả những bộ phận quan chức tham nhũng . Mặt khác , ngày càng cải thiện đời sống cho quan chức nhà nước , bảo đảm sự tin tưởng và an toàn vào cuộc sống tương lai của họ để họ an tâm công tác , không cần tham nhũng vì túng thiếu. 3.6. Giải quyết các vấn đề về nhân lực và xã hội . Việc giải quyết các vấn đề về nhân lực và xã hội vừa là yêu cầu nội dung , vừa là điều kiện cần thiết hàng đầu để đảm bảo sự thành công của chính sách chống lạm phát triệt để . Có ba vấn đề nổi bật cần ưu tiên giải quyết đó là : - Giải quyết việc làm , giảm thiểu nạn thất nghiệp . Có thể nói rằng Việt Nam không thiếu vốn và tài nguyên , không thiếu các cơ hội kinh doanh cả trong và ngoài nước nhưng hiện đang thừa lao động vì thiếu một cơ chế đào tạo , tập hợp và trọng dụng nhân tài – tức là những lao động có trình độ cao , các nhà khoa học , các chuyên gia cao cấp , các nhà tổ chức và kinh doanh tài ba…Hoạt động của họ sẽ là chất keo kết dính các nhân tố và tạo ra động lực mạnh mẽ hàng đầu cho sự phát triển đời sống kinh tế – xã hội Việt Nam hiện đại - Phát triển hệ thống an sinh xã hội . Đặc biệt cần phát triển các loại hình bảo hiểm xã hội cho toàn thể lượng lao động không phân biệt trong hay ngoài quốc doanh - Phát triển nguồn nhân lực , khuyến khích và trọng dụng nhân tài . Phát hiện , lựa chọn và sử dụng đúng những nhân tàI đầu đàn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng . Nếu chọn sai đầu đàn thì cả đội ngũ sẽ kém hiệu lực .Cần tái lựa chọn liên tục , lấy hiệu quả công việc làm cơ sở đánh giá và lựa chọn chứ không phải bằng cấp , học vị , chức tước. Tóm lại, trong thời gian tới ở Việt Nam, lạm phát vẫn mang tính chất của nền kinh tế chuyển đổi, nhưng là lạm phát trong sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những xung lực lạm phát và những biện pháp đối phó với lạm phát sẽ ngày càng mang đậm nét kinh tế thị trường hơn, gắn bó sâu sắc hơn . Do vậy, diễn biến lạm phát, dù khó định lượng, song tốc độ cao vọt như những năm cuối thập kỷ 80 - đầu thập kỷ 90 rất khó có khả năng tái diễn. Điều quyết định ở đây là Việt Nam không được ngưng lại hoặc đảo chiều công cuộc đổi mới vĩ đại của mình theo mục tiêu và hành trình của Đảng, Nhà nước và nhân dân cả nước đã chọn. KẾT LUẬN. Toàn bộ đề án đã một phần làm rõ đặc điểm, diễn biến, thực trạng cũng như một số biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam . Có thể nói cho đến nay về cơ bản , Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng ,bước vào thời kỳ mới , ổn định và phát triển. Tuy nhiên ,cần chỉ ra rằng , dù đã làm được nhiều việc và đã thu được thành tích đáng khâm phục và khích lệ , song chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm trong tương lai . Lạm phát đã được kiềm chế , nền kinh tế đã có sự tăng trưởng rõ rệt , nhưng chủ yếu mới dựa vào sự trợ giúp bên ngoài và khai thác những nhân tố bề rộng trong nước. Trong thời kỳ tới cùng với sự tiếp tục quá trình chuyển đổi của nền kinh tế , lạm phát ở nước ta sẽ vẫn tiếp tục mang tính chất đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi . Động thái của lạm phát sẽ chịu sự quy định của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài , ngắn hạn và dài hạn , “ quen “ và “ lạ “ , liên quan đến quá trình tiếp tục hoàn thiện mô hình cơ chế nền kinh tế thị trường Việt Nam trong xu hướng mở cửa , hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới . Do đó việc áp dụng các giải pháp thị trường nhằm kiềm chế lạm phát cần phải xem xét tính hai mặt của các giải pháp này . Cân nhắc và tính đến đầy đủ các tác động trái chiều mà chúng có thể bộc lộ ngay hoặc âm ỉ , lâu dài cũng như tính đến bối cảnh cụ thể trong và ngoài nước , tính đến phản ứng linh động của các đối tượng điều chỉnh mà chính sách vĩ mô hướng đến , để từ đó có quan điểm áp dụng chính sách đồng bộ , nhất quán và mềm dẻo , phù hợp yêu cầu thị trường quá độ là điều kiện đảm bảo cho sự thắng lợi của kiềm chế lạm phát và sự thành công của công cuộc chuyển đổi nền kinh tế . Những vấn đề trên đặt ra một yêu cầu là chúng ta cần cố gắng để góp phần đưa nền kinh tế phát triển lành mạnh và văn minh, nhưng vẫn có thể kiềm chế được lạm phát ở mức độ hợp lý. Chúng ta mong đợi và tin tưởng rằng quá trình phát triển kinh tế của đất nước ta sẽ đi đến thắng lợi. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1- Giáo trình Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ . ( T.s Nguyễn Hữu Tài ) 2-Lý thuyết lạm phát, giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam ( Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2000) 3-Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường Tài chính ( Frederic S.Mishkin) 4- Tạp chí Ngân hàng. 5- Tạp chí Phát triển kinh tế. 6- Tạp chí công nghiệp . 7- Tạp chí tài chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29588.doc
Tài liệu liên quan