Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển của ngành Dệt - May Việt Nam

Cần phải kết hợp giữa việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với những biện pháp điều chỉnh hình thức, địa bàn đầu tư cũng như quy định tỷ lệ xuất khẩu cho phù hợp với mục tiêu của chiến lược phát triển ngành - Đảm bảo cung cấp nguyên liệu tại chỗ cho ngành dệt may - Nên cho phép đưa vào những máy móc, thiết bị đã qua sử dụng với điều kiện máy móc đó không gây ô nhiễm môi trường, hoặc có hại cho sức khoẻ người lao động để tận dụng giá trị sử dụng còn lại, tạo thêm việc làm cho các địa phương còn nhiều khó khăn - Tăng cường hỗ trợ đầu tư vốn từ mọi nguồn để đầu tư theo chiều sâu - Nghiên cứu các chính sách trên cơ sở tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài - Đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp FDI nhằm tạo nguồn vốn đầu tư và đổi mới quản lý

doc87 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển của ngành Dệt - May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
to lớn của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Dệt- may Việt Nam. Bảng 11: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may/ tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam Đơn vị: % Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 Dệt may 13,1 13,1 16,5 18,3 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam năm 2000 đạt 1,31%, năm 2003 đạt 18,3%, điều này thể hiện xu hướng phát triển ngày càng cao của ngành, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. 2.3.2 Ưu điểm Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành dệt may những năm qua có một số những ưu điểm như sau: Thứ nhất, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn để phát triển ngành dệt may Việt Nam Khối lượng vốn đầu tư từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Việt nam rất lớn (khoảng 44% trong tổng vốn đầu tư của toàn ngành dệt may trong thời gian qua). Cùng với quá trình bổ sung nguồn vốn, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mang lại một khối lượng lớn tài sản, thiết bị và công nghệ được đưa vào ứng dụng trong sản xuất giá trị tài sản cố định tăng và năng lực sản xuất cũng tăng theo. Thứ hai, hoạt động này góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng Để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng sâu, vùng xa, địa bàn khó khăn thì nhà nước cần phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh cuả dự án. Mặt khác, khi đi vào triển khai, chính các dự án FDI lại tác động ngược trở lại làm cho cơ sở hạ tầng Việt Nam hoàn chỉnh hơn, hiện đại hơn. Thứ ba, hoạt động này góp phần mở rộng quan hệ ngoại thương, tăng cường xuất khẩu Các doanh nghiệp dệt may có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu khoảng trên 60% sản phẩm sản xuất ra và chiếm tỷ lệ cao khoảng 68% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Để có thể xuất khẩu, các công ty này đều phải có uy tín trên thị trường quốc tế bởi vì thực tế hàng trong nước do các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu đều phải qua nứơc thứ ba rồi từ các nước này mới xuất khẩu dược vào các thị trường như EU do thị trường này rất khắt khe về chất lượng và nhãn hiệu cho nên việc các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu hàng dệt may đã làm tăng giá trị xuất khẩu đồng thời mở rộng quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam. Thứ tư, đã thúc đẩy ngành dệt may phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Ngành dệt may đã có từ lâu đời, tuy nhiên chỉ tổ chức sản xuất dưới hình thức các xí nghiệp nhỏ, sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống. Để đạt mục đích phát triển ngành dệt may trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn như hiện nay thì việc tổ chức sản xuất với mô hình như vậy không đáp ứng được yêu cầu. Việc đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may đã cải thiện phần lớn trang thiết bị sản xuất, công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại và đặc biệt là trình độ quản lý đối với hoạt động của dự án đã làm thay đổi bộ mặt của ngành dệt may. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may nhằm phát triển ngành dệt may theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thứ năm, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may trong nước Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp đều phải chấp nhận cạnh tranh và cạnh tranh khốc liệt để phát triển. Trước đây, các doanh nghiệp trong nước được bảo hộ thua lỗ thì được cấp phát, hỗ trợ, nhưng khi có doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài thì thị trường trở nên sôi động với sản phẩm đa dạng, chất lượng ngày càng cải thiện, giá cả hợp lý hơn, thậm chí bị cạnh tranh trong việc thu hút lao động có tay nghề. Nếu các doanh nghiệp trong nước không tìm ra các biện pháp để cạnh tranh tất yếu sẽ bị thua lỗ, thậm chí phá sản. Đây là một động lực của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các doanh nghiệp trong nước. Thứ sáu, đóng góp vào ngân sách Nhà nước Những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài khi đi vào sản xuất kinh doanh không những mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư, lợi ích trực tiếp cho bên liên doanh, cho người lao động Việt Nam mà còn đóng góp cho ngân sách nhà nước, làm tăng nguồn thu cho ngân sách, góp phần vào việc khắc phục thâm hụt ngân sách. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành dệt may đã đóng góp cho ngân sách trên 60 triệu USD, góp phần đáng kể vào việc cải thiện ngân sách Nhà nước, do đó tăng nguồn vốn trở lại cho hoạt động đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước. Thứ bảy, tạo công ăn việc làm, đồng thời hoạt động FDI trong ngành dệt may đã và đang góp phần đào tạo, nâng cao nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác cho lao động Việt Nam Ngành dệt may là ngành có công nghệ ở mức trung bình nên sử dụng tương đối nhiều lao động. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và cơ hội làm việc cho người lao động, hơn thế FDI không chỉ tạo việc làm trực tiếp mà còn tạo việc làm gián tiếp. Theo tổ chức ngân hàng thế giới (WB), đã xác nhận rằng mỗi việc làm do FDI trực tiếp tạo ra thì thêm cho một đến hai việc làm gián tiếp. Thực tế thời gian qua cho thấy, số dự án được cấp phép đầu tư vào ngành dệt may tăng liên tục và số lao động sử dụng cũng tăng theo. FDI đã tạo việc làm cho khoảng 70 vạn người lao động trực tiếp. 2.3.3. Nhược điểm Bên cạnh những mặt tích cực mà hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may đem lại, nó cũng bộc lộ một số mặt còn hạn chế như sau: Một là, với quá trình đầu tư đạt kết quả của khu vực doanh nghiệp dệt may có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp trong nước về lao động kỹ thuật, về thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu buộc nhiều doanh nghiệp trong nước phải thu hẹp đầu tư Hai là, cơ cấu đầu tư theo khu vực mất cân đối, các dự án chủ yếu tập trung ở các tỉnh và thành phố lớn, đặc biệt là tập trung quá nhiều ở thành phố Hồ Chí Minh. Điều này dẫn đến chênh lệch về thu nhập và mức sống của người dân ở các khu vực khác nhau. Đồng thời làm tăng quá trình đô thị hoá, dân số tập trung quá nhiều ở các thành phố lớn gây ra nhiều tệ nạn xã hội. Đồng thời không khai thác được tiềm năng ở các vùng khác. Tuy nhiên, việc tìm tòi và khai thác khả năng thiết nghĩ là thuộc tầm quản lý của Nhà nước nhằm khơi dậy những mong muốn đầu tư vào khu vực đó. Ba là, tốc độ triển khai thực hiện dự án còn chậm dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp giải thể do mất cơ hội đầu tư hoặc do thấy không thuận lợi trong hoạt động đầu tư. Một số dự án bị thua lỗ, giải thể nhiều làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Nguyên nhân nhiều nhưng yếu tố đáng cảnh báo là từ khâu đánh giá khả năng sản xuất kinh doanh để cấp giấy phép và do thiếu thông tin trong đánh giá tài sản, máy móc thiết bị của dự án đầu tư mang lại. Bốn là, chưa có tầm nhìn chiến lược trong hợp tác về đầu tư xây dựng các vùng nguyên liệu lâu dài như trồng bông, các loại cây xơ cho công nghiệp sợi hoặc xây dựng nhà máy chế biến để có thể góp phần chủ động nguồn sợi tổng hợp tại chỗ. Các nhà đầu tư còn chần chừ không dám bỏ vốn đầu tư khi chưa nhìn thấy hiệu quả ngay. Năm là, mối quan hệ dệt - may còn lỏng lẻo. Mối quan hệ này thể hiện ở mối liên hệ liên kết ngang và liên kết dọc. Liên kết ngang là liên kết giữa các doanh nghiệp sợi và các doanh nghiệp dệt, mối quan hệ này không được thực hiện hoặc thực hiện không chặt chẽ do sợi sản xuất ra không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp dệt về chất lượng, chủng loại, giá cả… đặc biệt là vấn đề chất lượng sợi. Liên kết dọc là liên kết giữa các doanh nghiệp dệt và doanh nghiệp may trong việc cung cấp nguyên liệu cho ngành may. Mối quan hệ này hết sức lỏng lẻo cũng do những nguyên nhân về chất lượng, giá cả, số lượng và thời gian đáp ứng cho các doanh nghiệp may. Các doanh nghiệp không có mối liên hệ lâu dài. Sự thiếu liên kết giữa các doanh nghiệp Sợi - Dệt - May dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trong việc tạo ra giá trị của ngành. Vì các doanh nghiệp Dệt - May có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài do nguyên liệu phụ may thiếu và không đảm bảo chất lượng xuất khẩu nên các doanh nghiệp này phải nhập khẩu hàng năm khoảng 80% nguyên phụ liệu. Như vậy giá trị thực chất làm ra trong nước chỉ có khoảng 20-30%. Việc tăng cường mối liên kết dệt - may là việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay để nâng cao hiệu quả đầu tư vào ngành dệt may, tăng tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu có trong nước. Sáu là, việc sử dụng và quản lý lao động còn chưa hợp lý, nguyên nhân do hiểu sai các quy định của nhà nước về lương tối thiểu của người lao động nên nhiều cơ sở có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã lợi dụng để giảm tiền lương của công nhân. Ngoài ra chế độ khác như thời gian lao động, chế độ bảo hiểm, bảo vệ môi trường chưa được thực hiện đầy đủ hoặc không được chấp hành nghiêm chỉnh cũng là nguyên nhân gây ra tranh chấp giữa nhà đầu tư và người lao động và có một số nhà đầu tư đối xử thô bạo với công nhân Bảy là, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành may mặc dù đã phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á nhưng khối lượng vốn đầu tư vào ngành vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng và chịu sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc. Đồng thời, năng lực quản lý của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may nói riêng chưa cao do các nhà đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là Châu á không phát triển hơn ta nhiều trong lĩnh vực dệt may. Mặt khác, các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thiếu hấp dẫn cùng với môi trường đầu tư chưa thuận lợi nên không thu hút được các tập đoàn kinh tế lớn, đây mới là nguồn kinh nghiệm của thế giới trong lĩnh vực quản lý 2.3.4. Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành Dệt - May Việt Nam * Nguyên nhân suy giảm của đầu tư trực tiếp nước ngoài Các nhà đầu tư đến từ Châu á chiếm 92,69% trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam nên những biến động của tình hình kinh tế khu vực và thế giới năm 1997 là nguyên nhân dẫn đến nguồn vỗn FDI vào Việt Nam có xu hướng sụt giảm. Các công ty lớn đều lo duy trì sản xuất trong nước và các thị trường chính của họ nên không thể có đủ tiềm lực tài chính để có thể đầu tư sang Việt Nam hay tăng cường vốn cho các sự án đã thực hiện. Các công ty vừa và nhỏ một mặt phải chống chọi với cuộc khủng hoảng, mặt khác do tâm lý lo ngại những rủi ro cũng sẽ xảy ra ở Việt Nam như một số nước Châu á bị khủng hoảng nên đã làm tăng thêm đà sụt giảm của FDI vào Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn có một đối thủ cạnh tranh lớn đó là Trung Quốc. Với những ưu thế về phát triển ngành Dệt - May lâu đời và có một thị trường khổng lồ trong nước, kết hợp với chính sách kinh tế cởi mở cùng với tiến trình gia nhập tổ chức WTO, nổi lên như một tâm điểm cạnh tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong khi đó, Việt Nam rơi vào tình trạng thiểu phát năm 1999, sức mua giảm sút, các chính sách tỏ ra vô hiệu nên càng làm cho thị trường kém hấp dẫn. Chính vì vậy cần phải có một chính sách đồng bộ, có sự ổn định kinh tế vĩ mô cũng như vi mô để cải thiện môi trường đầu tư. * Nguyên nhân của cơ cấu FDI không hợp lý Hiện nay, địa bàn đầu tư và lĩnh vực đầu tư có sự không cân đối về cơ cấu. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Dệt - May chủ yếu tập chung ở các tỉnh phía Nam và có sự không cân bằng giữa các dự án ở ngành May và ngành Dệt. Nguyên nhân của sự bất hợp lý trên trước tiên phải nói đến đó là vấn đề quản lý, quy hoạch và xúc tiến đầu tư. Công tác quy hoạch thiếu sự đồng bộ giữa chiến lược phát triển của đất nước với lợi thế tiềm năng của từng vùng; sự không nhất quán và thực hiện không tốt việc phân cấp thẩm quyền giữa trung ương và địa phương. Những ưu đãi về thuế thu nhập, thuế nhập khẩu của những vùng và lĩnh vực cần thu hút FDI chưa cao lại thường đi kèm với những ràng buộc nên thuờng làm nản lòng các nhà đầu tư. Mục tiêu của các nhà đầu tư là lợi nhuận vì vậy mà nơi nào, ngành nào đem lại cho họ nhiều lợi nhuận hơn thì họ sẽ đầu tư vào đó. Do vậy, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng tạo ra sự chênh lệch trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư . * Nguyên nhân chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn Ngành dệt may Việt nam cũng đã thu hút được các nhà đầu tư lớn như Nhật Bản, Mỹ, EU... cũng đã đầu tư vào lĩnh vực dệt may Việt Nam nhưng con số đó còn quá nhỏ bé so với mong muốn của ngành dệt may Việt Nam. Sau đây là một số những nguyên nhân chính: - Nguyên nhân khách quan là do vị trí, phong tục tập quán khác nhau giữa các quốc gia đem lại, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư đến từ Châu Âu và Châu Mỹ. Chính vì vậy mà sự am hiểu về thói quen tiêu dùng cũng như thị trường, thị hiếu của họ đối với người tiêu dùng Việt Nam còn nhiều hạn chế - Nguyên nhân chủ quan là thị trường Việt Nam còn qúa nhỏ bé, sức mua, mức sống và thu nhập trung bình chưa cao. Các sản phẩm của các tập đoàn kinh tế lớn của Châu Âu và Châu Mỹ thường là các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao, hàm lượng chất xám cao nhằm thu nhiều lợi nhuận. Trong ngành dệt may, yếu tố kỹ thuật và chất xám không cao nên thiếu vắng của các nhà đầu tư lớn. Tuy vậy, các tập đoàn kinh tế lớn của Châu á vẫn là mục tiêu thu hút của ngành dệt may Việt Nam vì các nhà đầu tư này có kinh nghiệm trong việc phát triển ngành dệt may. * Nguyên nhân dẫn đến mối quan hệ Dệt - May không hiệu quả - Sản phẩm của ngành dệt còn đơn điệu, chưa đa dạng, chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành may về mẫu mã, chất liệu… - Các doanh nghiệp dệt không đủ sức đáp ứng đòi hỏi của doanh nghiệp may cả về chủng loại, số lượng và thời gian gia hàng - Các doanh nghiệp dệt không thể đáp ứng yêu cầu các khách hàng về điều chỉnh mẫu mã, các yếu tố kỹ thuật - Một số doanh nghiệp may chỉ định nhà cung cấp vải từ nước thứ ba nên các doanh nghiệp dệt mất cơ hội tiếp cận các doanh nghiệp may. * Nguyên nhân của một số vấn đề tồn tại khác Do Việt Nam còn thiếu các chuyên gia kỹ thuật, các nhà tư vẫn có đủ trình độ để thẩm định, đánh giá thiết bị …nên hầu hết các thiết bị được sử dụng trong ngành dệt may Việt Nam hiện nay đều là cũ kỹ, lạc hậu gây thiệt hại cho bên Việt Nam dẫn đến một số mâu thuẫn trong liên doanh. Mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam là khuyến khích hoạt động FDI vào ngành, tăng cường khả năng xuất khẩu. Nhưng thực tế cho thấy thực trạng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng bỏ ra, ngành dệt và ngành may đều nhập khẩu tới gần 90% nguyên phụ liệu và hoá chất dùng cho sản xuất nên cán cân thương mại cũng không caỉ thiện được bao nhiêu, tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp mới chỉ thực hiện ở khoảng 50-65%. Chương 3 Triển vọng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam 3.1. Triển vọng phát triển ngành dệt may Việt Nam Ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước nhiều nhân tố cả thuận lợi lẫn khó khăn mà những nhân tố này có tác động tực tiếp hay gián tiếp đến sự phát triển ngành dệt may Việt Nam - Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực vào năm 2001 đã tạo cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ và Bắc Mỹ. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, đồng thời nó tác động tới việc thúc đẩy các nhà đầu tư thực hiện vốn và dự án đầu tư mới. Việc ký kết được Hiệp định thương mại Việt Mỹ sẽ góp phần thu hút được nhiều nhà đầu tư khác quan hệ với Việt Nam. Từ đó sẽ mở ra cho ngành dệt may Việt Nam nhiều cơ hội mới, tăng được số vốn đầu tư vào ngành, mở rộng sản xuất, nâng cao được năng lực cạnh tranh, …Do vậy mà ngành dệt may Việt Nam có cơ hội phát triển hơn - Việt nam là một trong những ứng cử viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Cũng như các nước và vùng lãnh thổ đang tiến hành thương lượng gia nhập WTO, Việt Nam rất quan tân việc thực hiện các thoả thuận mà các vòng đàm phán của WTO thông qua. Trước vòng đàm phán Doha, theo quy định, các nước buộc phải cắt giảm thuế quan, nhưng trong thực tế các nước giàu vẫn duy trì thuế suất cao đối với hàng nhập khẩu. Đối với hàng dệt may, mặt hàng mang tính chất chiến lược của các nước đang phát triển, theo cam kết các nước phát triển phải giảm mức thuế suất bình quân là 17%, nhưng trong thực tế EU chỉ giảm 3,6%, Mỹ giảm 1,3% . Vòng đàm phán Doha diễn ra yêu cầu các nước phát triển phải giảm thuế đánh vào các mặt hàng công nhiệp và giảm nhẹ những hạn chế phi thuế quan. Tuy vậy, Mỹ và các nước Châu Âu bãi bỏ yêu cầu phải dỡ bỏ nhanh các hạn ngạch dệt may, vẫn tiếp tục tăng thuế và áp dụng các quy chế chống bán phá giá đối với hàng dệt may. Do đó, Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác vẫn gặp không ít những khó khăn trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang các nước phát triển. Trong thực tế, tuy nhiều nước đang phát triển chưa được lợi từ WTO nói chung, Doha nói riêng, nhưng cũng có không ít nước, nhất là các nước đang phát triển đã tranh thủ được những quy định có lợi của WTO để tăng nhanh sự phát triển của ngoại thương, từ đó đẩy mạnh sự phát triển kinh tế trong nước. Tham gia WTO, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, kinh nghiệm nhiều nước đang phát triển đã tham gia WTO cho thấy cái lợi trước tiên có lẽ là việc thay đổi, điều chỉnh cách chơi của mình cho phù hợp với luật chơi quốc tế phổ biến. Những cam kết giảm trợ cấp, mở rộng hạn ngạch xuất khẩu của các nước, nhất là nhóm nước phát triển tại hội nghị Doha có thể giúp Việt Nam giành được nhiều thị trường hơn, tăng xuất khẩu nhiều hơn các mặt hàng dệt may. Tuy vậy, điều quan tâm lớn nhất của các doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài ở mọi lĩnh vực kinh doanh nói chung và lĩnh vực dệt may nói riêng là liệu đến năm 2005 Việt Nam đã là thành viên của tổ chức WTO hay chưa. Nếu như vẫn đứng ngoài tổ chức thương mại quốc tế quan trọng này thì hàng dệt may Việt Nam sẽ mất hẳn sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bởi vì lúc đó các nước là thành viên của WTO được xuất khẩu tự do còn Việt Nam thì vẫn bị áp dụng hạn ngạch. Nếu đến tháng 7/2005 Việt Nam là thành viên của WTO thì chúng ta vẫn chậm mất một năm, và không chỉ cho một năm trễ đó mà là lâu dài bởi ngoài Hiệp định ATC, chúng ta còn phải theo các lộ trình khác như AFTA. - Việc EU mở rộng ( thêm 10 thành viên) cũng tạo điều kiện rất thuận lợi cho ngành dệt may phát triển mạnh hơn. Trong 10 thành viên mới của EU, phần lớn lại có quan hệ gần gũi và chặt chẽ với Việt Nam trong Hội đồng tương trợ kinh tế trước đây. Điều này rất có ý nghĩa vì phần lớn các nước mới này đều là bạn hàng truyền thống với Việt Nam, Việt Nam có thể sử dụng các thị trường này như là một khu vực kết nối để tiếp cận và mở rộng sang thị trường khổng lồ EU. Song, việc EU mở rộng cũng tạo ra khó khăn đối với hàng dệt may Việt Nam đó là việc giao lưu thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên mới của EU với các hình thức như hiện nay sẽ khó được duy trì, thậm chí nhiều cam kết song phương sẽ bị huỷ bỏ, tiêu chuẩn xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước này sẽ đòi hỏi phải cao hơn. Mặt hàng Dệt may Việt Nam vào các nước thành viên mới không bị hạn ngạch cũng sẽ áp dụng hạn ngạch. Tuy vậy, theo dự tính của Bộ kế hoạch và Đầu tư thì ngành dệt may Việt Nam năm 2004 sẽ có thể xuất khẩu được khoảng 1 tỷ USD vào thị trường EU. - Hiệp định đa sợi (MFA) được ký kết năm 1974, với việc thiết lập hệ thống hạn ngạch khắt khe của các nước nhập khẩu. Xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại trong Vòng đàm phán Uruguay đã đưa đến việc ký kết hiệp định Dệt - May (ATC) giữa các nước thành viên với việc loại bỏ dần hạn ngạch từ 1/1/1995 và tiến dần tới loại bỏ hoàn toàn vào 31/12/2004. Thương mại dệt may đang tiến dần tới thời điểm 1/1/2005, cột mốc quan trọng đánh dấu sự chấm dứt chế độ hạn ngạch kéo dài suốt 30 năm từ 1974 với Hiệp định hàng đa sợi và sự bắt đầu thời kỳ mới tự do hoá thương mại dệt may. Các chuyên gia nhận định, sau năm 2004, cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ khốc liệt hơn và toàn diện hơn. Xuất khẩu của một số nước sẽ suy giảm, nhiều doanh nghiệp sẽ bị phá sản. Thời điểm Hiệp định ATC giữa các nước thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO hết hiệu lực đang đến gần. Theo khuôn khổ Hiệp định này, đến 31/12/2004, các nước nhập khẩu hàng dệt may sẽ bỏ hạn ngạch cho các nước xuất khẩu là thành viên của WTO. Đây có thể coi là cơn "đại hồng thuỷ" của ngành dệt may, đặc biệt là với Việt Nam - một nước chưa gia nhập WTO. Sau thời điểm 31/12/2004, do Việt Nam vẫn chưa là thành viên của WTO nên vẫn chưa được bỏ hạn ngạch; trong khi đó, một số nước như ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia…đã là thành viên của tổ chức này thì sẽ có điều kiện thuận lợi hơn. Do vậy mà dệt may Việt Nam sẽ không có lợi thế ngang bằng với họ, sẽ có nhiều khó khăn hơn là cơ hội. - Nước ta có tình hình kinh tế, chính trị tương đối ổn định, được coi là địa điểm 'an toàn" về đầu tư cũng như có môi trường pháp lý về đầu tư tương đối hoàn chỉnh. Điều này có vai trò rất lớn trong việc thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động kinh doanh trên thị trường Việt Nam trong các lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và ngành dệt may Việt Nam nói riêng. - Việc Trung Quốc gia nhập WTO đã tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc nhiều hơn. Trong khi đó, ở trong nước từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và sau nhiều lần bổ sung, sửa đổi năm 2000 thì ngành dệt may đã có sẵn một số điều kiện cơ bản để thu hút FDI - Nguồn nhân lực: lực lượng lao động dồi dào với trình độ kỹ thuật, kỹ năng tay nghề khá, đáp ứng yêu cầu trình độ kỹ thuật của ngành và đối tác đầu tư nước ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh có kinh nghiệm tiếp cận, đàm phán hợp tác với nước ngoài. Giá nhân công rẻ tương đối so với một số nước trong khu vực. Tuy vậy, trong lĩnh vực dệt may thì ta vẫn phải nhập khẩu tới 70% nguyên liệu, hàng chủ yếu lại gia công, năng suất thấp, giá thành cao… - Việc triển khai các biện pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết 09 của Chính phủ đã và đang góp phần cải thiện môi trường đầu tư cả về môi trường pháp lý và thủ tục hành chính tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc sửa đổi này cũng nhằm mục đích tạo cơ hội cho Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO. Từ đó tạo đà cho sự phát triển ngành dệt may Việt Nam. Việc Việt Nam được là thành viên chính thức của WTO sẽ thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam phát triển, và cũng thu hút được thêm cho mình nhiều nhà đầu tư lớn hơn vào lĩnh vực dệt may. - Nền kinh tế thế giới, nhất là các nước ASEAN đang được phục hồi, cùng với xu hướng tăng cương hội nhập kinh tế quốc tế sẽ góp phần làm tăng luồng vốn đầu tư ra nước ngoài và tạo điều kiện để Việt Nam có thể tăng xuất khẩu sang các nước này Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 Theo nhuồn tin từ : Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 55/2001/QD-TTg ngày 23 tháng 04 năm 2001 phê duyệt chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển Ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các nội dung sau: 1. Mục tiêu: Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. 2. Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010: a) Đối với ngành dệt, bao gồm: sản xuất nguyên liệu dệt, sợi dệt, in nhuộm hoàn tất: - Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo; khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này - Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường, quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sơi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị lớn - Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, trình độ chuyên môn hoá cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệ Việt Nam trên thị trường quốc tế - Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt, nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước b) Đối với ngành may - Đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động - Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may. Tập trung đầu tư, cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá thành sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường quốc tế c) Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, dâu tằm, các loại câu có xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hóa chất, thuốc nhuộm cung cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật liệu và phụ liệu thay thế nhập khẩu d) Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, để phát triển cơ khí dệt may, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt may trong nước 3. Các chỉ tiêu chủ yếu Cũng theo nguồn tin từ www.mpi.gov.vn thì Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 55/2001/QD-TTg đã chỉ ra một số chỉ tiêu cần phải đạt được của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 như sau: a) Sản xuất - Đến năm 2005, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 30.000 tấn; xơ sợi tổng hợp 60.000 tấn; sợi các loại 150.000 tấn; vải lụa thành phẩm 800 triệu m2; dệt kim 300 triệu sản phẩm; may mặc 780 triệu sản phẩm - Đến năm 2010, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 80.000 tấn; xơ sợi tổng hợp 120.000 tấn, sợi các loại 300.000 tấn; vải lụa thành phẩm 1.400 triệu m2; dệt kim 500 triệu sản phẩm; may mặc 1.500 triệu sản phẩm b) Kim ngạch xuất khẩu - Đến năm 2005: 4.000 đến 5.000 triệu USD - Đến năm 2010: 8.000 đến 9.000 triệu USD c) Sử dụng lao động - Đến năm 2005: Thu hút 2,5 đến 3,0 triệu lao động. -Đến năm 2010: Thu hút 4,0 đến 4,5 triệu lao động d) Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu - Đến năm 2005: trên 50% - Đến năm 2010: trên 75% e) Vốn đầu tư phát triển - Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005 khoảng 35.000 tỷ đồng, trong đó Tổng công ty Dệt may Việt Nam khoảng 12.500 tỷ đồng - Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2006-2010 khoảng 30.000 tỷ đồng, trong đó tổng Công ty Dệt May Việt Nam khoảng 9.500 tỷ đồng - Tổng vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trồng bông đến năm 2010 khoảng 1.500 tỷ đồng ố Với chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 như trên thì Nhà nước đã đề ra một số cơ chế, chính sách để hỗ trợ thực hiện như sau: 1. Nhà nước hỗ trợ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm; đầu tư các công trình xử lý nước thải; quy hoạch các cụm công nghiệp dệt, xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp mới; đào tạo và nghiên cứu của các viện, trường và trung tâm nghiên cứu chuuyên ngành dệt may 2. Các dự án đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất: sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may: a. Được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, trong đó 50% vay với lãi suất bằng 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại thời điểm rút vốn, thời gian vay 12 năm, có 3 năm ấn hạn; 50% còn lại được vay theo quy định của Quỹ hỗ trợ phát triển b. Được coi là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và được hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nứơc 3. Bộ Tài chính nghiên cứu trình Chính phủ đệ trình uỷ ban Thường vụ quốc hội cho phép áp dụng cơ chế đối với vải và phụ liệu may sản xuất trong nước nếu bán cho các đơn vị sản xuất gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam được hưởng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng như đối với hàng xuất khẩu 4. Đối với các doanh nghiệp nhà nước sản xuất sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may: a. Trong trường hợp cần thiết, được chính phủ bảo lãnh khi mua thiết bị trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc tổ chức tài chính trong và ngoài nước b. Được cấp lại tiền thu sử dụng vốn trong thời gian 5 năm ( 2001-2005) để tái đầu tư c. Được ưu tiên cấp bổ sung một lần đủ 30% vốn lưu động đối với từng doanh nghiệp 5. Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch và đấu thầu hạn ngạch dệt may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các Tổ chức dệt may quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may 6. Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. 3.2. Giải pháp nhằm thu hút FDI vào ngành dệt may Việt Nam Từ các chỉ tiêu mà Đảng và Nhà nước đẫ đề ra đối với sự phát triển của ngành dệt may việt nam đến năm 2010 như trên, cùng với việc nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài có hiệu quả hơn, Nhà nước và ngành dệt may cần quan tâm đến một số vấn đề sau: 3.2.1. Từ phía nhà nước Thứ nhất, Nhà nước cần phải có các biện pháp hoàn thiện môi trường đầu tư Khó khăn lớn nhất hiện nay đối với các ngành kinh tế nói chung và ngành dệtmay nói riêng là vấn đề thiếu vốn. Do vậy, ngành dệt may Việt Nam cần huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế để thực hiện chiến lược phát triển tăng tốc ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010. Nên vấn đề đặt ra là cần có giải pháp hữu hiệu nhằm thu hút mạnh hơn nữa đầu tư nước ngoài trong bối cảnh suy giảm vốn đầu tư trên toàn thế giới và sự cạnh tranh của các quốc gia khác trên thị trường đầu tư thế giới Một là, thủ tục xét duyệt và cấp giấy phép cho các dự án FDI Thủ tục hành chính trong xét duyệt và cấp giấy phép còn nhiều phiền hà, phức tạp trong khi chúng ta đang đứng trước cuộc cạnh tranh trên thị truờng đầu tư. Thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với việc thu hút đầu tư và quyết định tiến độ thực hiện dự án. Thủ tục rườm rà tạo những khe hở để quan chức địa phương sách nhiễu, gây phiền hà,… đối với nước đầu tư. Kinh nghiệm quốc tế trong những năm qua và thực tế nguyên nhân triển khai thực hiện dự án chậm dẫn đến một số dự án giải thể trong ngành dệt may cho thấy mặc dù thông thoáng về môi trường luật pháp như nhau nhưng ở nước nào có thủ tục đầu tư đơn giản, gọn nhẹ thì ở đó thu hút được đầu tư mạnh hơn. Đối với nước ta, thủ tục đầu tư đã và đang là vấn đề gây trở ngại việc thu hút đầu tư. Tình hình cải thiện hành chính theo chiều hướng đơn giản hoá diễn ra chậm chạp. Thực tế đặt ra là các địa phương còn thiếu cán bộ có đủ trình độ trong xét duyệt và thẩm định các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều này dẫn đến tình trạng phổ biến ở nhiều địa phương là đẩy lên cấp cao hơn hoặc là xét duyệt nhưng thiếu sự đánh giá đúng về các dự án dẫn đến bỏ qua những dự án hiệu quả và cấp phép cho những dự án không hiệu quả. Do đó, cần phải đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, tăng cường các biện pháp chống tham nhũng nhằm đơn giản hoá thủ tục hành chính. Hai là, chính sách khuyến khích đầu tư Chính sách khuyến khích đầu tư có mối liên hệ chặt chẽ với việc tạo lập đối tác, lựa chọn đối tác nước ngoài, địa bàn đầu tư và các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây thực sự là một đòn bẩy kinh tế và vai trò của các chính sách kinh tế là ở chỗ nó quyết định trực tiếp tới mức lợi nhuận cuả các nhà đầu tư. Chính sách thuế cởi mở với tỷ suất thuế thấp, giá thuê đất thấp cùng với mức tiền lương hợp lý phù hợp với chất lượng lao động, sẽ làm cho chi phí sản xuất giảm điều này có lợi cho nhà đầu tư Hiện nay, Việt Nam đã đưa ra danh mục các dự án khuyến khích đầu tư, trong đó bao gồm các dự án sử dụng nhiều lao động, các dự án sản xuất hàng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nhiều sản phẩm. Đồng thời đã có những nỗ lực trong việc xoá bỏ dần cơ chế hai giá áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, có những tiến bộ trong việc giảm giá điện, nước, cước viễn thông. Tuy vậy các doanh nghiệp vẫn cho rằng việc duy trì cơ chế hai giá cho đến năm 2005, thuế thu nhập cá nhân qúa cao làm tăng chi phí lao động so với các nước trong khu vực, các chi khác như chi phí vận tải, chi phí điện thoại, chi phí thanh toán chuyển khoản của ngân hàng… quá cao đều dẫn dến làm tăng chi phí và giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, chính phủ cần nhanh chóng xoá bỏ cơ chế hai giá, đặc biệt là giá máy bay, giá điện, hạ thấp thúê thu nhập cá nhân tương đương mức khu vực Ba là, nâng cao kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật Kết cấu hạ tầng là nhân tố quyết định đến chi phí sản xuất, tiến độ đầu tư và chất lượng sản phẩm. Điều đó tác động trực tiếp đến lợi nhuận của nhà đầu tư. Kết cấu hạ tầng thể hiện ở hệ thống đường bộ, biển, hàng không, hệ thống thông tin liên lạc… thực tế cho thấy, nguồn vốn đầu tư chỉ chảy vào nơi có môi trường đầu tư thuận lợi mà trước hết thể hiện ở hệ thông cơ sở hạ tầng hiện đại. Điều này để giải thích tại sao các nhà đầu tư thích đầu tư các dự án dệt may tại các tỉnh thành phố lớn có cở sở hạ tầng phát triển. So với yêu cầu phát triển cơ sở hạ tàng thì Việt Nam còn yếu kém. Do vậy, trước tiên cần phải đầu tư thích hợp cho việc nâng cao phát triển cơ sở hạ tầng. Nhưng khả năng của ngân sách nhà nước đầu tư vào lĩnh vực này là hạn chế. Vì vậy lượng vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng chủ yếu dựa vào nguồn ODA. Hiện tại, đầu tư trực tiếp thông qua hình thức BOT cũng đang được khuyến khích để thu hút thêm đầu tư nước ngoài cho phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm vốn viện trợ, vốn vay, FDI và vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân Bốn là, đối xử công bằng giữa doanh nghiệp Các doanh nghiệp vẫn cho rằng vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, thể hiện qua việc doanh nghiệp nhà nước nhận được sự ưu đãi tài chính qua việc trợ cấp tín dụng, Trong khi doanh nghiệp tư nhân ( bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) thì không được hưởng. Điều này tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế Điều này dẫn đến làm mất đi tính hấp dẫn của thị trường đầu tư Việt Nam. Do đó chính phủ cần hạn chế bảo hộ để tạo sức ép cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp lành mạnh, chấm dứt hoạt động các doanh nghiệp kém hiệu quả bằng cách phá sản, bán lại, cổ phần hoá… Năm là, điều chỉnh kịp thời, hoàn thiện môi trường luật pháp Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết phải thể hiện ở lụât đầu tư. Đối với mọi quốc gia, luật đầu tư nước ngoài là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Cùng với Luật, các văn bản dươí luật trong hệ thống văn bản pháp luật cũng rất quan trọng. Nhưng thực tế thời gian kể từ khi luật hay nghị định của chính phủ ban hành đến khi có đầy đủ hướng dẫn của các bộ, Tổng cục, uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố… thì mất quá nhiều thời gian và nhiều khi các quy định của cấp dưới lại đưa thêm nhiều quy định khác với quy định của cấp trên. Rút ngắn thời gian, đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản từ Trung ương đến địa phương để các quy định của nhà nước đi vào cuộc sống kinh doanh là điều hết sức cần thiết Việc điều chỉnh phải theo tiến độ phù hợp, bám sát chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển ngành dệt may nhằm thu hút đầu tư nước ngoài cân đối theo từng lĩnh vực và vùng lãnh thổ. Việc điều chỉnh và ban hành mới các cơ chế, chính sách nên có sự tham khảo, học hỏi của nước ngoài nhưng có cải tiến phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. .. *Thứ hai, Nhà nước cần có các biện pháp nhằm xây dựng và quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Nhằm nhanh chóng khắc phục tình hình giảm sút đầu tư ào ngành dệt may trong thời gian qua, bên cạnh việc hoàn thiện và tăng tính hấp dẫn của các văn bản thì việc sớm công bố quy hoạch trở nên cấp bách. Quy hoạch này cố gắng đảm bảo độ chuẩn xác cao với tình hình mất cân đối trong thu hút đầu tư về ngành dệt may giữa cac vùng, mất cân đối giữa các hình thức đầu tư. Trong thực tế, thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đúng chiến lược phát triển ngành dệt may và vùng lãnh thổ là mong muốn của không chỉ ngành dệt may mà của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, thực hiện lại rất khó. Khi mà đa phần các nhà đầu tư đều đặt mục tiêu lợi nhuận , doanh thu , lợi thế cạnh tranh, thị phần,… lên hàng đầu. Vì vậy, khi lập dự án họ đều có sự lựa chọn rất cẩn thận về môi trường đầu tư, lĩnh vực đầu tư… Do đó, nhà nước cần có chính sách ưu đãi tương xứng hơn với mức độ chênh lệch về các điều kiện kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng…Đồng thời cần phải tìm cách huy động nguồn ODA cùng với vốn ngân sách nhằm chủ động đầu tư vào những vùng, cơ sở hạ tầng, nơi mà có ít hoặc không có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng có khả năng phát triển ngành dệt may. *Thứ ba, việc phát triển khu công nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Số lượng các KCN, KCX đã được nhà nước phê duyệt trong thời gian qua là 68. Đây là con số lớn , tuy nhiên để nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, tạo ra sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trước hết ta phải tập trung hơn cho việc hoàn thành xây dựng cơ bản của các KCN đã được phê duyệt, hình thành một cách cân đối các KCN với quy mô khác nhau. *Thứ tư, phát triển vùng nguyên liệu cung cấp sản phẩm đủ chất lượng cho ngành dệt may Các nhà đầu tư nước ngoài còn chần chừ không dám bỏ vốn ra đầu tư xây dựng các nguồn nguyên liệu lâu dài như trồng bông, cá loại cây lấy xơ cho công nghiệp sợi hoặc nhà máy chế biến dầu thô để tiến tới có thể góp phần giải quyết nguồn nguyên liệu tại chỗ, nâng cao hiệu quả đầu tư cho ngành công nghiệp dệt may nói chung và các dự án thuộc khu vực đầu tư nước ngoài nói riêng Việt Nam là nước được đánh giá có thể trồng được bông. Do vậy phải có chiến lược đồng bộ về cơ chế tổ chức giữa các vùng nguyên liệu và chế biến để các nhà đầu tư thấy hết được các lợi thế đầu tư vào lĩnh vực này Nhà nước cần có các biện pháp đầu tư và quản lý chặt chẽ, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ để bông xơ của Việt Nam có thể đáp ứng phần lớn nhu cầu của công nghiệp kéo sợi. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi phải có quy hoạch các vùng sản xuất tập trung, giải quyết vấn đề giống cây bông và chính sách hỗ trợ đầu tư * Thứ năm, Nhà nước cần ưu tiên hơn trong việc thu hút các nhà đầu tư thuộc các công ty xuyên quốc gia lớn Phần lớn các dự án của các đối tác không phải xuất phát từ công ty mẹ mà xuất phát từ các công ty thuộc chi nhánh công ty nước thứ hai đầu tư vào nước ta, có rất ít các công ty xuyên quốc gia lớn. Do đó, cho đến nay đa phần các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dệt may là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ bắt đầu bộc lộ những bất cập về vốn, công nghệ phát triển ngành dệt may theo hướng công nghiệp hoá, hện đại hoá. Vì vậy cần có những biện pháp để thu hút các công ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư, điều này đòi hỏi không chỉ có sự phát triển lâu dài của ngành mà còn là yếu tố quyêt định sự phát triển ngành trong giai đoạn tới. Một trong những điều kiện có tính chất quyết định khả năng thu hút các công ty xuyên quốc gia lớn là phải có các doanh nghiệp đối tác trong nước đủ mạnh về nhiều mặt như tài chính, công nghệ, quản lý…và để có được doanh nghiệp này nhà nước cần có sự lựa chọn, hỗ trợ, đầu tư, xây dựng tạo cho những điều kiện, cơ hội thử thách và phát triển * Thứ sáu, thực hiện chương trình cổ phần hoá, sắp xếp lại cá doanh nghiệp dệt may Mục đích là nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may đang gặp khó khăn, năng lực tài chính của bên Việt Nam trong liên doanh rất hạn chế, nhiều dự án sản xuất vải, sợi tạm ngừng triển khai, nhất là các dự án mà chủ đầu tư thuộc các nước bị khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, chính phủ, bộ KH&ĐT cần cho phép những doanh nghiệp lỗ vốn nhiều, mâu thuẫn khó giải quyết được chuyển đổi sang hình thức 100% vốn nước ngoài với điều kiện đảm bảo việc làm cho người lao động và bảo toàn vốn cho phía Việt Nam. Mặt khác, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa giúp các doanh nghiệp tự túc được nguồn vốn kinh doanh và có thể sẽ tạo điều kiện thu hút được vốn đầu tư nước ngoài một cách gián tiếp thông qua việc bán cổ phiếu *Thứ bảy, vấn đề sở hữu trí tuệ Đối với doanh nghiệp dệt may, nhãn mác hàng hóa là vấn đề quan trọng. ở Việt Nam hiện nay, có tình trạng vi phạm nhãn hiệu hàng hoá, thương hiệu của sản phẩm ảnh hưởng đến uy tín sản phẩm dệt may xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Nếu tình trạng này không được cải thiện thì dẫn đến tâm lý e ngại đầu tư vào ngành dệt may. Mặt khác, nạn hàng giả, hàng lậu ảnh hưởng rất nhiều đến các nhà sản xuất. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung các điều khoản liên quan trong bộ luật dân sự với các quy định hướng dẫn thi hành về bản quyền, nên có nghị định hướng dẫn thông tư riêng cho nhãn hiệu hàng hoá và các quyền liên quan. Đồng thời nhà nước cần phải tăng cường năng lực chống hàng giả, hàng nhập lậu và cho phép thành lập một hiệp hội chống hàng giả, hàng nhập lậu để phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong cuộc đấu tranh chống tệ nạn này. * Thứ tám, tập trung phát triển các ngành sản xuất nguyên phụ liệu và ngành dệt Hàng năm nước ta nhập khẩu khoảng gần 90% nguyên phụ liệu để sản xuất hàng dệt may. Như vậy giá trị làm ra ở trong nước là thấp , đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài cũng không tận dụng được nguồn nguyên liệu sản xuất ở trong nuớc. Chất lượng vải dệt và nguyên phụ liệu trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu của ngành dệt may hiện nay nên cũng khiến các nhà đàu tư e dè khi quyết định đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam Một mặt cần đầu tư xây dựng các cụm công nghiệp kéo sợi, dệt, nhuộm, hoàn tất và sản xuất phụ liệu may. Đồng thời cần chú trọng đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ và học tập kinh nghiệm cũng như nâng cao trình độ kỹ thuật trong công đoạn nhuộm và hoàn tất. Như vậy mới nâng cao giá trị sản xuất trong nước của sản phẩm dệt may và các nhà đầu tư yên tâm về nguồn cung cấp nguyên phụ liệu đối với ngành may và ngành dệt. Hơn nữa, cũng cân khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào việc phát triển các ngành dệt và phụ liệu may 3.2.2. Từ phía doanh nghiệp * Tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Yếu tố con người bao giờ cũng là yếu tố quyết định đến mức độ thành công của hoạt động. Trong thời gian vừa qua, chúng ta vẫn chưa dành sự chú ý cho việc tuyển dụng , đào tạo, bồi dưỡng cán bộ …cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Để hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả thì vấn đề quan trọng là cần phải có kế hoạch quy hoạch đào tao cân bộ, công nhân kỹ thuật để đáp ứng kịp thời cho nhu cầu trước mắt, chuẩn bị lâu dài cho sự phát triển kinh tế đất nước Riêng đối với lao động, cần phải thực hiện một số giải pháp: - Đầu tư cơ sở vật chất cho các trường đào tạo cùng với việc thay đổi nội dụng và chương trình đào tạo để theo kịp với các nước khác - Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ - Xây dựng tiêu chuẩn tuyển dụng lao động, đào tạo cơ bản qua trường dạy nghề * Giải pháp về thị trường Thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là nguồn đầu tư của quá trình sản xuất kinh doanh, thị trưòng là vấn đề hết sức quan trọng mang tính sống còn của các doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng may mặc trước hết phải nghiên cứu thị trường một cách chu đáo Thực tế ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may đã vấp phải vấn đề khó khăn đó là thị trường trong nước sức mua thấp lại chịu sự cạnh tranh của hàng nhập lậu giá rẻ. Vì vậy cần có biện pháp đê mở rộng thị trường. Hoạt động nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải nắm bắt được những thông tin thiết yếu về nhu cầu, khả năng tiêu thụ cũng như điều kiện thâm nhập thị trường của hàng dệt may. Trên quan điểm đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế của ngành nói chung và cá doanh nghiệp dệt may nói riêng, tích cực tìm kiêm thị trường tiêu thu quốc tế, tìm hiểu sở thích, tập quán, khả năng tiêu thụ trên thị trường để có những giải pháp kịp thời và thích hợp sao cho phù hợp với yêu cầu của từng thị trường. Biện pháp mở rộng và phát triển thị trường thành công có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đầu ra của các dự án dệt may nên là một trong những biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả * Cần huy động vốn bằng mọi hình thức Một trong những nguyên nhân thất bị của liên doanh là do tỷ lệ góp vốn. Nên huy động vốn của bên Việt Nam vào liên doanh đúng tiến độ và tỷ lệ là một trong những vấn đề quan trọng để thực hiện dự án liên doanh có hiệu quả Cần huy động mọi nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát truển của ngành như huy dộng vốn trong dân, các tổ chức kinh tế khác thông qua phát hành trái phiếu, tín phiếu, vốn tự có của doanh nghiệp để khi cần thiết doanh nghiệp muốn đầu tư đổi mới thiết bị hay mở rộng nâng cấp thiết bị thì bên Việt Nam cũng sẵn sàng đáp ứng, tránh tình trạng phải giải thể liên doanh làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Hoặc Việt Nam phải bán lại cổ phần cho người nước ngoài thành doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đối với những doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong phát triển ngành dêt may * Tăng cường mối quan hệ giữa ngành dệt và ngành may Cần có biện pháp tổ chức và quản lý các doanh nghiệp dệt may sao cho có sự phối hợp giữa ngành dệt và ngành may, đảm bảo thực hiện " may là lối ra cho dệt ", giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu, tăng cường khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp dệt may. Vì vậy , ngành dệt phải tổ chức cải tiến mẫu mã, chất lượng hạ giá thành sản phẩm để sản phẩm của mình có đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng cững chắc ở thị trường trong nước, để khi hàng ngoại rẻ, phong phú về chủng loại tràn vào thì sản phẩm của ngành dệt vẫn trụ vững và là nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho ngành may xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu tại chỗ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất hàng dệt may và thu hút các dự án mới vào ngành công nghiệp dệt may. 3.3. Một số kiến nghị nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành dệt may - Cần phải kết hợp giữa việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với những biện pháp điều chỉnh hình thức, địa bàn đầu tư cũng như quy định tỷ lệ xuất khẩu cho phù hợp với mục tiêu của chiến lược phát triển ngành - Đảm bảo cung cấp nguyên liệu tại chỗ cho ngành dệt may - Nên cho phép đưa vào những máy móc, thiết bị đã qua sử dụng với điều kiện máy móc đó không gây ô nhiễm môi trường, hoặc có hại cho sức khoẻ người lao động để tận dụng giá trị sử dụng còn lại, tạo thêm việc làm cho các địa phương còn nhiều khó khăn - Tăng cường hỗ trợ đầu tư vốn từ mọi nguồn để đầu tư theo chiều sâu - Nghiên cứu các chính sách trên cơ sở tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài - Đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp FDI nhằm tạo nguồn vốn đầu tư và đổi mới quản lý - Tăng cường công tác thị trường - Hỗ trợ các trường đại học, trung tâm dạy nghề để đào tạo cán bộ quản lý theo phương thức hiện đại, theo yêu cầu của ngành dệt may và đào tạo công nhân có tay nghề cao. Kết luận Qua những phân tích trên ta thấy ngành dệt may là ngành công nghiệp truyền thống lâu đời của nhân dân ta và cũng là ngành có nhiều triển vọng trong tương lai. Suất đầu tư của ngành dệt may không lớn nhưng là ngành đòi hỏi nhiều lao động, đây cũng chính là lợi thế của Việt Nam để cùng hợp tác phát triển. Do vậy, phát triển ngành dệt may tạo điều kiện cho việc phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao thì đòi hỏi sản phẩm có chất lượng đang là một thách thức lớn cho ngành công nghiệp Việt Nam nói chung và cho ngành dệt may nói riêng. Vì vậy, vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam đang được đặt ra như một vấn đề then chốt để có thể phát triển được ngành dệt may Việt Nam, đưa sản phẩm dệt may Việt Nam lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm trên thị trường quốc tế. Để có thể vươn lên, khẳng định đựơc chính mình, cạnh tranh được với thị trường nước ngoài và tiến tới hội nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới thì với những đặc điểm kinh tế riêng phù hợp với tình hình kinh tế xã hội nước ta, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam được đánh giá là ngành có triển vọng trong việc phát triển sản xuất và xuất khẩu, đem lại nguồn thu lớn cho nền kinh tế. Do đó mà việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may là một hướng phát triển đúng đắn cho công nghiệp Việt Nam, tạo đà thuận lợi cho nền kinh tế được phát triển vững chắc, hướng tới một thời kỳ mới trong công cuộc xây dựng một nền kinh tế giàu mạnh ngang tầm với các nước trong khu vực. Tài liệu tham khảo 1. Tô Xuân Dân, Giáo trình kinh doanh quốc tế, Trường Đại hoạc kinh tế quốc dân, NXB Giáo dục, Hà Nội 2. PTS. Nguyễn Khắc Trân, PGS.TS. Chu Văn Cấp, Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 3. Chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010 và quyết định phê duyệt chiến lược và một số cơ chế chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010 - 55/2001/QĐ-Ttg 4. TS.Bùi Tuấn Anh, Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, NXB Thống kê 5. TS. Nguyễn Thanh Đức, Hội nhập kinh tế quốc tế (VIEW mạng quốc gia) ngày 03/01/2004:" Việt Nam và WTO: những lợi ích và thách thức khi gia nhập", Viện Kinh tế Thế giới 6. Kim Hoa, Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: thách thức, trở ngại và giải pháp tháo gỡ, Kinh tế dự báo, số 3/01 7. Anh Trung, Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp - hiện trạng và những kiến nghị, tạp chí công nghiệp Việt Nam số 01+2/03 6. Những vấn đề kinh tế thế giới , Số 3, 5 năm 2000 7. Kinh tế Việt Nam và thế giới 2003-2004 8. Thời báo kinh tế Việt Nam số 118/2003 9. Thời báo kinh tế Việt Nam số 201/2003 10. Các website http:// www.Mpi.gov.vn http:// www.mot.gov.vn http:// www.vir.com.vn http:// www.vntextile.com http:// www.vietnam-export-import.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0017.doc
Tài liệu liên quan