Đề tài Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá tại Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC HÌNH VẼ LỜI MỞĐẦU Chương 1: Tỷ giá và chính sách tỷ giá 1 1.1 Tỷ giá 1.1.1 Khái niệm 1.1.2 . Các nhân tố tác động đến tỷ giá 1.1.3 . Các loại tỷ giá 1.1.3.1 Tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa 1.1.3.2 Tỷ giá song phương và tỷ giá trung bình5 1.1.4 Các học thuyết về tỷ giá 1.1.4.1 Học thuyết ngang giá lãi suất (Interest Rate Parity - IRP) 7 1.1.4.2 Học thuyết ngang giá sức mua (Purchasing Power Parity- PPP) 1.2 Chính sách tỷ giá 1.2.1 Khái niệm và mục tiêu của chính sách tỷ giá . 1.2.2 Phân loại chính sách tỷ giá 1.2.2.1 Chính sách tỷ giá cốđịnh . 1.2.2.2 Chính sách tỷ giá linh hoạt 1.2.3 Các công cụ của chính sách tỷ giá 1.2.4 Mối quan hệ giữa chính sách tỷ giá với các yếu tố khác trong nền kinh tế 1.3 Khảo sát chính sách tỷ giá của một số quốc gia 1.3.1 Phân loại chính sách tỷ giá của IMF 1.3.2 Chính sách tỷ giá của Thailand 1.3.3 Chính sách tỷ giá của Trung Quốc 1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Kết luận chương 1 Chương 2: Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam trong những năm qua 2.1 Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam từ 1999- 2006 2.1.1 Khái quát về bối cảnh kinh tế Việt Nam 1999 -2006 2.1.2 Phân tích thực trạng điều hành chính sách tỷ giá của NHNN 2.1.3 Tác động của tỷ giá đến nền kinh tế 2.1.3.1 Chính sách tỷ giá và cán cân vãng lai 2.1.3.2 Chính sách tỷ giá và cán cân vốn 2.1.3.3 Chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối 2.2 Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá từ 2006 đến nay 2.2.1 Bối cảnh kinh tế Việt Nam 2.2.2 Phân tích thực trạng điều hành chính sách tỷ giá của NHNN 2.2.2.1Mục tiêu của chính sách tỷ giá 2.2.2.2 Các công cụđiều hành chính sách tỷ giá 2.2.2.3 Diễn biến tỷ giá giai đoạn 2007 đến nay 2.2.3 Tác động của tỷ giá đến nền kinh tế 2.2.3.1Chính sách tỷ giá và cán cân vãng lai 2.2.3.2Chính sách tỷ giá và cán cân vốn 2.2.3.3 Chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối 2.3 Đánh giá thực trạng điều hành chính sách tỷ giá của NHNN 2.3.1 Những thành tựu 2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân Kết luận chương 2 Chương 3: Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam hiện nay 3.1 Chiến lược phát triển của Việt Nam 3.1.1 Cơ hội và thách thức 3.1.2 Định hướng của chính sách tiền tệ 3.2 Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá trong ngắn hạn 3.2.1 Điều hành linh hoạt tỷ giá cơ bản do NHNN công bố 3.2.2 Cần có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất 3.2.3 Sử dựng nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ một cách thận trọng 3.2.4 Phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 3.2.4.1 Gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia 3.2.4.2 NHNN cần thực hiện đúng chức năng là người mua bán cuối cùng 3.2.4.3 Đối với các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ 3.2.5 Kiểm soát và tiến tới loại bỏ thị trường ngoại tệ chợđen 3.3 Giải pháp điều hành tỷ giá trong dài hạn 3.3.1 Điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn tiến dần đến thả nổi tỷ giá 3.3.1.1 Loại bỏ dần các công cụ kiểm soát tỷ giá mang tính hành chính 3.3.1.2 Áp dụng tỷ giá trung bình để xác định giá trị bản tệ 3.3.2 Gia tăng tính độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN 3.3.3 Giám sát chặt chẽ nợ công 3.3.4 Ổn định hoạt động kinh tếđối ngoại 3.3.4.1 Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động XK hàng hoá, dịch vụ 3.3.4.2 Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài 3.3.5 Tham gia tích cực vào hoạt động tài chính, tiền tệ trong khu vực Kết luận chương 3 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO TÓM TẮT ĐỀ TÀI Sau khi gia nhập vào Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) năm 2007, nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động kinh tếđối ngoại nói riêng đón nhận nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức. Đó là tình trạng thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng, cán cân vốn đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn bị biến động mạnh. Thực trạng cán cân thanh toán toán tổng thể cộng với tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính 2008 đã ảnh hưởng đến nền tài chính tiền tệ của Việt Nam. Trong lãnh vực tiền tệ, Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) đã liên tục điều chỉnh chính sách tiền tệ, vừa thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát vào đầu năm 2008 thì đến cuối năm 2008 lại nới lỏng để chống suy thoái kinh tế. Các công cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc, tín dụng, quản lý ngoại hối v.v được điều chỉnh một cách linh hoạt. Chính sách tiền tệđã góp phần đáng kể trong thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô, ổn định thể chế chính trị trong những năm vừa qua. Bên cạnh thành tựu đáng ghi nhận như trên, trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều biến động, việc điều hành chính sách tiền tệ cũng tồn tại nhiều khiếm khuyết. Đó là lạm phát, tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM), hiện tượng dollar hóa nền kinh tế và vấn đề tỷ giá. Về chính sách tỷ giá, trong những năm qua, NHNN đã chuyển đổi điều hành tỷ giá theo cơ chế cốđịnh sang thả nổi có kiểm soát (2/1999). Mặc dù đã được điều chỉnh linh hoạt hơn nhưng dưới tác động của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh hiện nay tỷ giá VND/USD chưa phản ảnh đúng cung –cầu ngoại tệ trên thị trường, tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường chợđen vẫn có độ lệch lớn, hiện tượng găm giữ ngoại tệ vẫn gia tăng v.v Tỷ giá vẫn còn là nỗi lo ngại của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, của các nhà đầu tư nước ngoài, của chính NHTM và của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Mong muốn góp phần đưa tỷ giá trở thành công cụ hỗ trợ họat động kinh tếđối ngoại, ổn định giá trị VND góp phần tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay đó là mục đích của nhóm nghiên cứu khi chọn đề tài “Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá tại Việt Nam hiện nay”.

pdf121 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá, ngân hàng trung ương có thể nhanh chóng và chủ động trong việc đưa hoặc thu hồi tiền từ lưu thông. Với công cụ này, ngân hàng trung ương có thể đảm bảo nhu cầu vốn trong nền kinh tế và kiểm soát được giá trị đồng tiền. Trong những năm gần đây, lúc nền kinh tế căng thẳng về ngoại tệ, chủ yếu là USD, nhiều ý kiến cho rằng, NHNN nên ứng dụng nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ. Tương tự như trên, NHNN có thể điều tiết lượng USD trong nền kinh tế bằng việc mua bán các giáy tờ có giá bằng ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng. Khi cung ngoại tệ dồi dào, NHNN thu hút ngoại tệ trong nền kinh tế bằng cách bán giấy tờ có giá bằng USD; ngược lại, khi cầu ngoai tệ gia tăng, NHNN mua lại các chứng từ này. Bằng cách này, NHNN có thể điều tiết tỷ giá một cách hiệu quả, nhanh chóng. Tuy nhiên, vận dụng nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu lực của chính sách tiền tệ. Thật vậy, trước hết, nghiệp vụ thị trường mở chỉ có thể ứng dụng khi nó có đủ lượng hàng hóa đúng chuẩn. Đó là các giấy nợ của ngân hàng trung ương, của chính phủ như: tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc v.v…. Trong thị trường mở ngoại tệ, các giấy nợ này phải định giá bằng USD. Tại Việt Nam, nếu NHNN phát hành giấy nợ bằng USD, NHNN sẽ bị rủi ro tỷ giá khi USD tăng giá. Đối phó vời việc USD tăng giá là một việc làm phức tạp vì giá trị USD trên thị trường Thế giới phụ thuộc vào sự thăng trầm của nền kinh tế Mỹ, nền kinh tế nhỏ như Việt Nam không thể tác động đến nó. Kế tiếp, nếu vì lo ngại rủi ro tỷ giá của các khoản nợ bằng ngoại tệ của quốc gia mà NHNN không điều tiết tỷ giá VND/USD trong điều kiện tốc độ mất giá của VND cao hợn USD, điều này đồng nghĩa với việc NHNN tăng giá tương đối VND. Cán cân thương mại sẽ bị ảnh hưởng. Thứ hai, NHNN phải trả chi phí cho việc phát hành giấy nợ USD thông qua việc trả lãi cho các nhà đầu tư. Trong tiến trình hội nhập tài chính sâu rộng như hiện nay, lãi suất giấy nợ bằng USD do Chính phủ phát hành không thể tách biệt lớn với lãi suất USD trên thị trường Thế giới. Nếu lãi suất USD trên toàn cầu cao hơn nhiều so với lãi suất của các giấy nợ bằng USD do Việt Nam phát hành; một là, các nhà đầu tư sẽ từ chối mua các chứng từ này và thị trường mở ngoại tệ không có đủ hàng hóa để giao dịch. Hoặc, để hoàn thành kế hoạch phát hành giấy nợ, NHNN buộc phải sử dụng các giải pháp hành chính buộc các NHTM mua giấy nợ theo hạn mức, việc làm này có thể thực hiện trong ngắn hạn nhưng không phù hợp trong trung và dài hạn do nó đi ngược với các cam kết của Việt Nam trong hội nhập dịch vụ tài chính. Lãi suất USD thị trường Thế giới tác động đến lãi suất giấy nợ bằng USD do Việt Nam phát hành; đến lượt mình, lãi suất của các giấy nợ bằng USD của Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến chính sách lãi suất, làm giảm tính độc lập trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Thứ ba, việc các NHTM, các định chế tài chính trung gian trong nước nắm giữ các giấy nợ bằng USD của Chính phủ sẽ làm gia tăng hiện tượng dollar nền kinh tế, làm ảnh hưởng đến hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong tương lai. Tóm lại, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ hiệu quả trong việc bình ổn giá trị VND, kiểm soát lạm phát; nhưng trong điều hành tỷ giá, tác động của nó rất hạn chế Do vậy, như đã phân tích ở trên, NHNN không nên hoặc rất thận trọng trong việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ trong điều hành tỷ giá tại Việt Nam 3.2.4 Phát triển thị trường ngọai tệ liên ngân hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là viên đá sơ khai của thị trường hối đoái chuyên nghiệp. Trong thời gian qua, thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN đã đưa ít nhiều yếu tố thị trường vào trong tỷ giá bằng việc xác lập tỷ giá bình quân. Ngoài ra, thị trường là nơi NHNN can thiệp một cách hiệu quả vào tỷ giá qua hành động đặt lệnh mua bán tiền tệ cuối cùng. Sau hết, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã phác thảo một “sân chơi” đồng thời gợi mở các “luật chơi” phải hoàn thiện trong điều kiện thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam. Quan sát thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trong những năm qua nhận thấy, hoạt động của thị trường này vẫn còn nhiều khiếm khuyết; đó là, sự mất cân xứng giữa lệnh mua và lệnh bán ngoại tệ; số giao dịch vừa ít về lượng, vừa kém về doanh thu; nghiệp vụ kinh doanh quá đơn điệu.v.v.. Để tạo một sức sống mới cho thị trường, NHNN cần quan tâm đến các vấn đề sau. 3.2.4.1 Gia tăng qũy dự trữ ngoại hối quốc gia. Do cung cầu tiền tệ luôn biến động theo thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ; vì vậy, muốn thoả mãn mọi chu cầu ngoại tệ hợp lý của quốc gia, Chính phủ phải duy trì nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào. Quan sát qũy dự trữ ngoại hối của Việt Nam nhận thấy, năm 2007, qũy dự trữ ngoại hối đã gia tăng mạnh mẽ từ trên 11 tỷ lên trên 20 tỷ USD trong năm 2007 (tăng 82%) và 23 tỷ USD năm 2008. Dự trữ ngoại hối tính theo tuần nhập khẩu tăng từ 8.4 tuần năm 2006 lên 15.2 tuần năm 2008. Nguyên nhân chính của việc này là sự gia tăng nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, mức tăng quỹ dự ngoại hối quốc gia không bền vững, Sang năm 2009, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và những yếu kém của nền kinh tế, quỹ dự trữ ngoại hối giảm gần 40%, từ 23 tỷ USD xuống còn 14 tỷ USD, chỉ đáp ứng nhu cầu thanh toán của tương đượng 8 tuần nhập khẩu. Đến năm 2010, dự trữ ngoại hối quốc gia đạt 15,35 tỷ USD, tăng 10%; tuy nhiên, do giá trị nhập khẩu tăng mạnh nên nguồn dự trữ chỉ đảm bảo thanh toán 7,6 tuần nhập khẩu. Biểu đồ 3.1 : Qũy dự trữ ngoại hối Việt Nam từ 2006 – 2010 Đơn vị tính: triệu USD, tuần nhập khẩu Nguồn: Báo cáo năm 2010 của IMF Một vấn đề mà NHNN cũng cần quan tâm là việc đánh giá tồn qũy ngoại hối. Hiện nay, qũy dự trữ ngoại hối được xác định theo tuần nhập khẩu; nói cách khác, nguồn ngoại hối dự trữ chỉ mới dừng lại ở việc sẵn sàng cung ứng ngoại tệ để cân bằng cán cân thương mại. Điều này xuất phát từ thực trạng thường xuyên thâm hụt cán cân thương mại & dịch vụ trong những năm trước đây. Tuy nhiên, trong tương lai, cách tính này không an toàn vì nó không bao quát hết nhu cầu ngoại tệ của đất nước. Bởi vì, bên cạnh cán cân vãng lai, cán cân vốn cũng tạo một áp lực lớn về ngoại hối. Thật vậy, những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nguồn vốn nước ngoài chuyển vào Việt Nam không ngừng gia tăng trong khi chu cầu chuyển vốn ra nước ngoài của Việt Nam thấp. Cán cân vốn luôn thặng dư và mức thặng dư gia tăng theo thời gian. Tuy nhiên, ngày nay, đã hơn 20 năm tính từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế, thời gian ân hạn của một số khoản vay đã kết thúc, thời gian trả nợ đã đến gần, khoản lãi và gốc của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp cũng đến kỳ thanh toán, nhu cầu chuyển vốn ra nước ngoài kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đang có xu hướng tăng, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn trong tổng vốn nước ngoài ngày càng cao. Đây là những nhu cầu ngoại tệ hợp lý mà Chính phủ phải thỏa mãn. Nói cách khác, để tránh tình trạng căng thẳng ngoại tệ trong tương lai, NHNN cần thay đổi cách tính nguồn dự trữ bằng cách cộng thêm khoản dự phòng cho các nhu cầu ngoại tệ phát sinh từ cán cân vốn, đồng thời gia tăng nguồn ngoại hối cho mục tiêu ổn định tỷ giá khi thị trường tài chánh trong nước và quốc tế biến động. Muốn vậy, NHNN cần tiếp tục thực hiện chính sách cung tiền kèm với mục tiêu tăng qũy dự trữ ngoại hối của quốc gia, phối hợp với Bộ Tài chánh trong việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu dầu thô- mặt hàng xuất khẩu chiến lược của quốc gia, tăng cường các biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng v.v.. 3.2.4.2 NHNN cần thực hiện đúng chức năng là người mua bán cuối cùng . Một đặc điểm nổi bật của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là sự mất cân đối trong giao dịch. Tùy theo từng giai đoạn trong nền kinh tế, lúc thừa ngoại tệ tất cả các thành viên đều đặt lệnh bán (đầu năm 2007 và 2008), lúc căng ngoại tệ mọi NHTM đều đặt lệnh mua. Lẽ ra, để điều tiết sự mất cân xứng trong giao dịch, NHNN phải can thiệp thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ, nhưng điều này không được thực hiện như mong đợi. Ngoài ra, để được mua ngoại tệ của NHNN, các NHTM phải trình bày mục đích sử dụng ngoại tệ, nhưng không phải bất cứ mục đích hợp lý nào cũng được thỏa mãn, có giai đoạn ngoại tệ chỉ dùng để thanh toán những mặt hàng chiến lược. Khi cầu ngoại tệ hợp lý không được thoả mãn, các thành viên dần dần mất niềm tin vào thị trường. Hậu quả là khi cần mua ngoại tệ, họ tự thỏa thuận trực tiếp với nhau, ngân hàng chỉ giúp doanh nghiệp trong việc hợp thức hóa chứng từ cho khoảng chênh lệch giữa tỷ giá thực tế mua bán và tỷ giá niêm yết của NHTM. Vì vậy, để có thể điều tiết thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm can thiệp hữu hiệu vào tỷ giá, trước hết, NHNN phải sẵn sàng thỏa mãn mọi nhu cầu ngoại tệ hợp lý của thị trường; và ngược lại, theo tác động hai chiều của giao dịch, NHNN có thể thể thu gom ngoại tệ từ các NHTM. Hiển nhiên, yêu cầu này chỉ được thực hiện khi và chỉ khi NHNN quản lý tốt tài khoản ngoại tệ, gia tăng qũy dự trự ngoại hối và xây dựng cơ chế tỷ giá phù hợp. 3.2.4.3 Đối với các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ. 9 Về tỷ giá kỳ hạn và hoán đổi tiền tệ. Mặc dù NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ có kỳ hạn và hoán đổi tiền tệ; tuy nhiên, doanh số giao dịch ngoại tệ kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất thấp. Nguyên nhân của nó là do NHNN khống chế thời hạn và tỷ giá mua bán trong các hợp đồng kỳ hạn. NHNN quy định thời hạn tối đa và tối thiểu cho các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi tiền tệ; đồng thời, quy định nguyên tắc xác định tỷ giá trong các giao dịch hối đoái kỳ hạn. Theo đó, ứng với mỗi thời hạn nhất định, tỷ giá kỳ hạn không được vượt quá một tỷ lệ cố định so với tỷ giá trao ngay. Để năng động hoá thị trường, NHNN cần thiết lập cơ chế xác định tỷ giá kỳ hạn, phí hoán đổi tiền tệ hoàn toàn theo nguyên tắc thị trường. Kiến nghị này xuất phát từ các nguyên nhân sau đây: Trước hết, quan sát hoạt động kinh doanh tiền tệ nhận thấy, trước khi bị khống chế giá mua bán ngoại tệ kỳ hạn, lượng giao dịch kỳ hạn tại cácNHTM khá phong phú vì tỷ giá kỳ hạn đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra do rủi ro tỷ giá. Sau khi bị khống chế giá mua bán kỳ hạn, chênh lệch tỷ giá mua bán kỳ hạn trở nên quá thấp so với mức trượt giá của đồng Việt Nam. Giá cả không hợp lý đã làm giảm đáng kể doanh số giao dịch kỳ hạn. Các NHTM không thích cung ứng nghiệp vụ kỳ hạn về tiền tệ cho khách hàng do họ không tìm được lợi nhuận như mong muốn. Điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế đối ngoại; chẳng hạn, trong thương mại quốc tế, thời hạn thanh toán của các hợp đồng được rút ngắn do các nhà nhập khẩu Việt Nam sợ ngoại tệ lên giá. Các nhà xuất khẩu găm giữ ngoại tệ trên tài khoản vì lo ngại rủi ro tỷ giá. Hậu quả là giao dịch kỳ hạn giảm đáng kể, giao dịch trao ngay tăng, gây bất lợi đối với hoạt động quản lý ngoại hối. Thứ hai, về mặt lý luận, tỷ giá kỳ hạn phải được thiết lập dựa trên sự biến động của tỷ giá trao ngay và lãi suất của hai đồng tiền đó (điều kiện ngang giá lãi suất). Lãi suất và tỷ giá là các yếu tố luôn biến động theo cung cầu tiền tệ và cung cầu vốn trên thị trường. Như vậy, việc NHNN buộc các NHTM tuân theo những quy định cứng nhắc của mình là việc làm không đúng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Thiết nghĩ, NHNN không nên khống chế tỷ giá kỳ hạn mà nên để cho chính các NHTM và cung cầu tiền tệ trên thị trường quyết định. Được như vậy, hoạt động kinh doanh ngoại hối sẽ linh hoạt hơn và công việc quản lý vĩ mô thị trường hối đoái của NHNN cũng hiệu quả hơn. Thứ ba, hiện nay, đối tượng được phép ký hợp đồng kỳ hạn với các NHTM là các tổ chức xuất nhập khẩu chủ yếu dùng giao dịch kỳ hạn như một công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá. Trong tương lai khi nền kinh tế phát triển hoàn toàn theo cơ chế thị trường, giao dịch kỳ hạn còn được xem là một hoạt động đầu tư trên thị trường ngoại hối. Lúc này, đối tượng tham gia mua bán ngoại tệ kỳ hạn được mở rộng. Lượng khách hàng giao dịch lớn đòi hỏi tỷ giá phải phản ảnh đúng quy luật cung – cầu. Nếu không, nó sẽ không thoả mãn nhu cầu tiền tệ, làm kìm hãm tốc độ phát triển của thị trường hối đoái và làm ảnh hưởng tiến độ hội nhập của nền kinh tế. 9 Đề nghị ký qũy trong các giao dịch ngoại hối có kỳ hạn. Thị trường kỳ hạn là thị trường không chính thức và thông thường ngân hàng không buộc khách hàng điều chỉnh giá trị hợp đồng theo biến động thị trường (Marking- to- market). Nói cách khác, trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, giá trị hợp đồng không được đánh giá lại; do đó, ngân hàng thường không yêu cầu khách hàng ký qũy. Lợi điểm của cách làm này là giảm chi phí giao dịch cho các bên, song trong thực tế, nó làm gia tăng rủi ro do thiếu các giải pháp phòng ngừa. Thật vậy, bản chất hợp đồng kỳ hạn là một giao dịch song phương giữa người bán và mua kỳ hạn. Giao dịch này được thiết lập hoàn toàn dựa vào nhu cầu của hai bên đối tác mà chưa được tổ chức, chuẩn hoá như các giao dịch tương lai và quyền chọn. Việc thực hiện hợp đồng phụ thuộc vào tình hình tài chánh của hai bên. Trong trường hợp tỷ giá biến động theo chiều hướng bất lợi, gây ra một khoản lỗ lớn, vượt quá khả năng tài chánh của một bên tham gia có thể dẫn đến tình trạng đối tác này không thể thực hiện hợp đồng theo các điều khoản đã được thoả thuận, gây rủi ro cho thành viên còn lại. Đây là vấn đề đáng lo ngại trong các giao dịch kỳ hạn. Mặt khác, hợp đồng kỳ hạn không thể chuyển nhượng và thanh lý trước hạn để hạn chế rủi ro, đặc biệt trong trường hợp một trong hai bên đối tác không thể thực hiện các cam kết trong hợp đồng. Trong điều kiện thị trường hối đoái chưa phát triển cao như Việt Nam hiện nay, để hạn chế rủi ro này, thiết nghĩ, ngân hàng nên xây dựng một tỷ lệ ký qũy nhất định đối với khách hàng tham gia hợp đồng kỳ hạn. Về vấn đề ký qũy, để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của đối tác, ngân hàng có thể yêu cầu mức ký qũy bằng 1- 2% giá trị hợp đồng. Tài khoản ký qũy được trả theo lãi suất tiền gởi không kỳ hạn. Nếu tỷ giá biến động có lợi cho khách hàng, khoản tiền ký qũy không thay đổi. Nếu tỷ giá biến động theo hướng bất lợi cho khách hàng, ví dụ tỷ giá VND/USD giảm đối với người mua kỳ hạn USD hoặc tỷ giá VND/USD lên đối với người bán kỳ hạn USD, khách hàng bị lỗ. Khi khoản lỗ đạt đến một mức độ nhất định, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tiền ký qũy. Số tiền ký qũy phải bổ sung phụ thuộc vào sự đánh giá, xếp loại khách hàng của ngân hàng. Số tiền ký qũy sẽ là “cái van” an toàn giúp các bên thực hiện tốt hợp đồng kỳ hạn. 9 Cho phép thực hiện nghiệp vụ tương lai tiền tệ. Bên cạnh nghiệp vụ trao ngay, kỳ hạn, hoán đổi tiền tệ, và quyền chọn; thị trường tiền tệ phái sinh còn bao gồm giao dịch tương lai. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, hiện nay NHNN còn dè dặt với nghiệp vụ này; tuy nhiên, trong tương lai, khi Việt Nam hội nhập với nền kinh tế, tài chính thế giới; thiết nghĩ, NHNN cho phép các NHTM từng bước tiếp cận với các nghiệp vụ này, vì nó vừa làm đa dạng và sinh động thị trường ngoại hối vừa cung cấp nhiều công cụ kiểm soát và quản trị rủi ro tỷ giá ở mức độ cao hơn cho nền kinh tế. Để thực hiện giao dịch tương lai, bên cạnh hệ thống pháp lý, yếu tố nhân lực, Chính phủ cần thiết lập Sàn giao dịch tương lai. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập 2 Sàn Giao dịch chứng khoán tại TP. Hố Chí Minh và Hà Nội, Sàn Giao dịch Hàng hóa chính thức hoạt động vào 11/01/2011 với 3 mặt hàng cà phê, cao su và thép. Theo kinh nghiệm Thế giới, sàn giao dịch tiền tệ tương lai thường thực hiện các giao dịch phái sinh về hàng hóa. Tuy nhiên, do Sàn giao dịch hàng hóa của Việt Nam mới thành lập, những vấn đề về hệ thống quản trị, công nghệ, nguồn nhân lực v.v.. chưa ổn định và hoàn thiện. Do vậy, trước mắt, để giảm chi phí hoạt động, Sàn giao dịch tiền tệ tương lai có thể được thực hiện tại Sàn Giao dịch Chứng Khoán Tp. Hồ Chí Minh vì những lợi thế hiện có của Sàn Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh về công nghệ tiên tiến, thị trường năng động, năng lực quản trị điều hành hiệu quả v.v… 3.2.5 Kiểm soát và tiến tới loại bỏ thị trường ngoại tệ “chợ đen” Sự tồn tại của thị trường ngoại tệ “chợ đen” trong thời gian qua; trước hết là do sự thiếu đồng bộ, kém hiệu quả của các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Thứ hai là sự phát triển của hoạt động kinh tế ngầm ngày càng lớn cả về quy mô lẫn mức độ tinh vi. Một lượng lớn ngoại hối đã bị chảy ra nước ngoài qua con đường nhập lậu hàng hoá ở biên giới phía bắc, tây và tây nam. Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng cũng là một nhân tố thứ ba tác động đến sự tồn tại của thị trường này. Ngoài ra, việc người dân được phép cất giữ, sử dụng ngoại tệ một cách tự do cũng làm gia tăng quy mô và tần số giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do. Việc tồn tại thị trường ngoại tệ “chợ đen” làm ảnh hưởng đến hoạt động kiểm soát ngoại hối của NHNN, gây khó khăn trong việc xác định giá trị bản tệ và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Thu hẹp phạm vi hoạt động của thị trường ngoại tệ “chợ đen” nhằm tăng khả năng kiểm soát tiền tệ là việc cần làm trong việc thống nhất quản lý ngoại hối của Chính phủ. Mọi nguồn thu phải được tập trung về một mối để cân đối mọi nhu cầu ngoại tệ hợp lý và cân bằng cán cân thanh toán. Tuy nhiên, tập trung ngoại tệ vào ngân hàng mà không làm ảnh hưởng đến tâm lý người dân cũng như không gây khó khăn cho các tổ chức kinh doanh hợp pháp là việc làm không đơn giản. Cách gỉai quyết tốt nhất cho vấn đề này là, trước mắt, Chính phủ tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ thu được cho NHTM. Yêu cầu này sẽ được các doanh nghiệp tự giác chấp thuận khi và chỉ khi mọi nhu cầu ngoại tệ hợp lý của họ được thoả mãn, bản tệ tạo được niềm tin trong công chúng, khả năng chuyển đổi của đồng tiền được đảm bảo, các công cụ quản trị rủi ro tỷ giá hoạt động hiệu quả và nạn buôn lậu, gian trá thương mại được kiểm soát chặt chẽ. Bên cạnh đó, NHNN cần nghiêm cấm việc niêm yết, quảng cáo, thanh toán hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế bằng ngoại tệ. NHNN cần giám sát chặt chẽ việc cấp phép, tổ chức và kinh doanh của các bàn trao đổi tiền tệ 3.3. GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ TRONG DÀI HẠN Sau khi nền kinh tế vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế vĩ mô tương đối bình ổn, Chính phủ kiểm soát được thâm hụt ngân sách, ổn định lạm phát v.v. đất nước hướng đến mục tiêu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Định hướng điều hành tỷ giá trong giai đoạn này là linh hoạt, tiến dần đến thả nổi tỷ giá 3.3.1 Điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn tiến dần đến thả nổi tỷ giá 3.3.1.1 Loại bỏ dần các công cụ kiểm soát tỷ giá mang tính hành chánh Hiện nay, NHNN đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Chính phủ để điều hành chính sách tiền tệ. Theo đó, tỷ giá chính thức do NHNN được thiết lập trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tỷ giá kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại không được lớn hơn biên độ do NHNN quy định. Đây là cách điều tiết mang nặng tính áp đặt lên tỷ giá. Ưu điểm của cách tính này NHNN khống chế được sự biến động thất thường của tỷ giá; tuy nhiên, hạn chế của nó là tỷ giá không phản ảnh đúng cung- cầu tiền tệ trên thị trường, làm cho hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng gượng ép, giả tạo. Thiết nghĩ, trong tương lai, NHNN cần thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng gắn liền với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Nói cách khác, tỷ giá phải được thả nổi và hoàn toàn được xác định dựa trên cung – cầu tiền tệ, NHNN không được áp đặt trực tiếp lên tỷ giá mà chỉ được quyền tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Muốn vậy, bên cạnh việc điều chỉnh linh hoạt tỷ giá cơ bản, NHNN cần nới lỏng biên độ giao dịch trong xác định tỷ giá của các NHTM. Tạo điều kiện cho các NHTM kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường và quen dần với các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá. Sau đó, NHNN tiến đến việc loại bỏ hoàn toàn các quy định mang tính hành chánh trong xác định tỷ giá kinh doanh của các NHTM. Các NHTM được quyền tự quyết giá mua bán ngoại tệ trên cơ sở biến động cung – cầu của thị trường ngoại hối. Được như vậy, các NHTM mới phát huy tính tự chủ, năng động trong kinh doanh; qua đó nâng dần sức cạnh tranh tranh của họ trong lãnh vực kinh doanh tiền tệ. Khi nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia tương đối dồi dào, thị trường hối đoái được hòan thiện, chất lượng kinh doanh của các định chế tài chánh nâng cao, khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu gia tăng, nền sản xuất trong nước phát triển v.v.., NHNN sẽ giảm dần, tiến đến loại bỏ các biện pháp điều tiết tỷ giá mang tính hành chánh như: quy định tỷ lệ kết hối, khống chế tỷ giá kỳ hạn, giới hạn phí hoán đổi tiền tệ, hạn chế biên độ trong xác định tỷ giá kinh doanh v.v.. Nếu được thiết lập hoàn toàn trên quy luật cung- cầu, tỷ giá có thể phản ảnh trung thực giá trị bản tệ, thị trường hối đoái sẽ ngày càng năng động, các công cụ quản trị tỷ giá ngày càng đa dạng v.v. Các yếu tố này sẽ đẩy nhanh tiến trình cải cách nền tiền tệ. 3.3.1.2 Áp dụng tỷ giá trung bình để xác định giá trị bản tệ Trong những năm qua, giá trị đồng tiền Việt Nam chủ yếu được đánh giá thông qua sự biến động của nó với USD. Điều này phản ảnh đúng thực trạng giao dịch ngoại hối của Việt Nam là các hoạt động mua bán bằng USD chiếm tỷ trọng cao. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào một đồng tiền duy nhất để xác định giá trị bản tệ là việc làm khá mạo hiểm đối với các nhà thiết lập chính sách vĩ mô. Thiết nghĩ, bên cạnh việc theo dõi diễn biến tỷ giá VND/USD, để xác định cung- cầu USD trên thị trường, NHNN nên quan tâm đến sự biến động của VND so với nhiều ngoại tệ mạnh khác; nói cách khác, Chính phủ nên áp dụng tỷ giá trung bình trong việc xác định giá trị đồng tiền Việt Nam. Phương pháp tính tỷ giá trung bình cho VND có thể tiến hành như sau: thứ nhất chọn rổ các đồng tiền đặc trưng. Trong điều kiện hiện nay của nền kinh tế, rổ tiền tệ chuẩn của Việt Nam có thể bao gồm: USD, EUR, JPY, SDR, CNY v.v.. Thứ hai, tính chỉ số trung bình của các tỷ giá song phương. Các nhà kinh tế có thể dựa vào tỷ trọng thương mại và chuyển đổi về vốn của các đồng tiền trong rổ với VND để phân bổ tỷ trọng cho các tỷ giá song phương tham gia tính tỷ giá trung bình. Công thức tính tỷ giá trung bình của VND là: n E (VND) = S (E (VND/j) x R j) j=1 Trong đó: - E (VND) : Tỷ giá trung bình của VND; - E (VND/j) : Tỷ giá song phương giữa VND và ngoại tệ j; - Rj : Tỷ trọng tỷ giá song phương giữa VND và ngoại tệ j trong rổ tiền tệ; - n : số ngoại tệ trong rổ tiền tệ. Gỉa sử, Việt Nam quan hệ thương mại và vốn với các nước trên thế giới theo tỷ trọng USD: 50%, EUR: 25%, JPY: 10%, SDR: 8%, CNY: 7%, công thức tính tỷ giá trung bình của VND được xác định như sau: E (VND) = E (VND/USD) x 50% + E (VND/EUR) x 25 % + E (VND/JPY) x 10% + E (VND/SDR) x 8% + E (VND/CNY) x 7% Bên cạnh việc sử dụng tỷ giá song phương của bản tệ so với từng đồng tiền mạnh, việc tham khảo tỷ giá trung bình trong xác định giá trị bản tệ mang lại nhiều lợi điểm. Trước hết, cách tính này giúp đánh giá sự biến động của giá trị đồng tiền Việt Nam một cách khách quan và chính xác hơn. Thứ hai, nó góp phần hạn chế tâm lý sùng bái đô- la Mỹ trong nền kinh tế. Thứ ba, qũy dự trữ ngoại tệ quốc gia có thể được đa dạng hoá. Cuối cùng, rủi ro tỷ giá và chi phí qủan trị rủi ro được hạ thấp do việc phân tán rủi ro trong kinh doanh tiền tệ của doanh nghiệp và ngân hàng thương mại. 3.3.2 Gia tăng tính độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN NHNN thuộc Chính phủ có nhiệm vụ chính là ban hành và thực hiện chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ được quyết định bởi mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô. Để điều hành kinh tế vĩ mô, chính phủ sử dụng nhiều chính sách: đầu tư, thương mại, tài chính, tiền tệ, ngoại giao vv.. Do đặc điểm riêng có, mỗi chính sách đều được triển khai với những thời gian khác nhau và có mức độ tác động khác nhau đến nền kinh tế. Tùy vào hoàn cảnh cụ thể mà Chính phủ phối hợp hài hòa các chính sách; đôi lúc chú trọng chính sách này hơn chính sách kia và ngược lại. Tuy nhiên, việc lạm dụng một chính sách nào đó trong một thời gian dài sẽ đem lại nhiều bất lợi cho nền kinh tế mà chính sách tiền tệ là một minh chứng. Nhìn lại năm 2008, vào 6 tháng đầu năm 2008, khi lạm phát trong nước tăng mạnh, Chính phủ đề ra 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, trong đó có chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, Chính phủ đã tận dụng chính sách tiền tệ để thu hút một lượng tiền lớn từ lưu thông như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt nuộc, phát hành trái phiếu bắt buộc 20.300 tỷ VND, giảm tăng trưởng tín dụng, giảm lãi suất tái cấp vốn lãi suất tái chiết khấu và áp dụng lãi suất cơ bản.v.v… Cung tiền giảm nhanh, lạm phát được kiểm soát nhưng việc giảm mạnh vốn trên thị trường tiền tệ làm nhiều NHTM bị rủi ro thanh khoản, lãi suất, giảm khả năng sinh lời và nguy cơ bất ổn. Đến cuối năm 2008, do tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính, nền kinh tế trong nước và toàn cầu suy giảm, Chính phủ cũng đưa ra các gói kích thích nhằm kích cầu nền kinh tế. Trong giai đoạn này, 5 giải pháp chiến lược được đề ra, trong đó có chính sách tiền tệ. Trong thời gian ngắn, bằng chính sách hỗ trợ lãi suất 4%, Chính phủ đã bơm một lượng vốn ra nền kinh tế giúp nhiều doanh nghiệp không phá sản, giảm thất nghiệp góp phần vực dậy nền kinh tế. Đó là thành quả, tuy nhiên, mặt trái của việc này là mức độ an toàn của hệ thống NHTM giảm sút; thị trường chứng khoán phát triển thiếu bền vững; thách thức về lạm phát, áp lực tỷ giá hiện nay; thâm hụt ngân sách lớn cũng như sự lãng phí trong sử dụng vốn, tài nguyên và vấn đề nợ nước ngoài. Thị trường tiền tệ là thị trường cấp cao, năng động và diễn biến phức tạp. Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ nói chung và tỷ giá nói riêng; Chính phủ nên giao cho NHNN mục tiêu chung như tỷ lệ lạm phát mục tiêu, mức tăng trưởng cung tiền trong từng năm (hoặc từng quý) tài chính Việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng trưởng tín dụng, biên độ xác định tỷ giá kinh doanh, việc công bố tỷ giá cơ bản .v.v… là hoạt động thường xuyên hằng ngày của NHNN. NHNN chủ động trong việc điều hành các công cụ trên theo biến động của thị trường và bám sát các chỉ số mục tiêu do Chính phủ hoạch định. Chính phủ tăng cường hệ thống giám sát qua hệ thống đánh giá và dự báo kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Được như vậy, trách nhiệm và nghĩa vụ của NHNN được nâng lên. Hiệu quả của chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá được nâng cao đáng kể 3.3.3 Giám sát chặt chẽ nợ công Nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ chính phủ bảo lãnh cho các tổ chức cá nhân khác vay và nợ của các tổ chức sở hữu công. Trong quản lý nợ, nợ công thường phân thành nợ trong nước và nợ nước ngoài; nợ ngắn hạn và nợ dài hạn và theo đồng tiền vay mước. Trước hết, đối với các khoản nợ của Chính phủ. Với phần lớn quốc gia trên Thế giới, đặc biệt là với các nước đang phát triển, nhu cầu chi ngân sách thường vượt xa mức thu ngân sách. Phần thiếu hụt được bù đắp từ việc vay mượn dưới hình thức ODA; phát hành tín phiếu, trái phiếu chính phủ; từ vay NHTW. Chi ngân sách hiệu quả sẽ làm tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm vừa ổn định cuộc sống nhân dân, ổn định đất nước vừa tăng thu nhập tạo cơ sở gia tăng thu ngân sách góp phần cân bằng ngân sách trong tương lai. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Thâm hụt NSNN trong những năm qua không ngừng gia tăng. Thâm hụt ngân sách góp phần làm thâm hụt cán cân thương mại kéo dài, làm cung – cầu ngoại tệ mất cân đối, làm ảnh hưởng xấu đến điều hành tỷ giá của NHNN Về lý thuyết, mối quan hệ giữa thâm hụt thương mại và ngân sách được thể hiện qua cân đối sau: TB = (S – I) + (T – G) Trong đó:TB là cán cân thương mại, S là ký hiệu của tiết kiệm, I là đầu tư, T và G là biểu hiện của thu và chi ngân sách Với cách tính như trên, hai nguyên nhân làm gây TB thâm hụt là đầu tư vượt trội tiết kiệm và/ hoặc thâm hụt ngân sách lớn. Trước hết, nếu TB thâm hụt chỉ vì lượng vốn dành cho đầu tư vượt quá tiền tiết kiệm của nền kinh tế thì các nhà lãnh đạo không phải lo ngại; bởi vì, đầu tư hiệu quả sẽ góp phần tạo ra sản phẩm có khả năng xuất khẩu và TB có thể quân bình trong tương lai. Tuy nhiên, nếu TB thâm hụt do đầu tư nhiều nhưng kém hiệu quả và/ hoặc bội chi ngân sách lớn thì muốn giảm thâm hụt TB, chính phủ cần thắt chặt chi tiêu và kiểm soát đầu tư. Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế Việt Nam tăng vượt trội; tuy nhiên hiệu quả đầu tư vẫn chưa đáp ứng sự kỳ vọng của nền kinh tế. Tình trạng lãng phí trong đầu tư còn phổ biến, chiến lược kinh doanh không tốt v.v.. kết quả cuối cùng là năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Thế giới chưa cao. Về chi tiêu ngân sách, trong những năm gần đây, Chính phủ đã đưa ra nhiều gói hỗ trợ để kích thích nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm 2010 đã lên đến con số 5,8%/GDP. Hiệu quả chi ngân sách chưa cao, các dự án về đô thị, hạ tầng kém chất lượng; chương trình cải tổ thể chế, thủ tục hành chính chậm chạp, tham nhũng v.v… tạo sức ì, làm giảm lòng tin của công chúng, làm cản trở tiến trình tăng trưởng bền vững của quốc gia, và làm căng thẳng ngoại tệ. Để cân bằng cán cân thương mại, ngày 17.8.10, NHNN buộc phá giá VND 2%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng lên 18.932 VND/USD. Với mức giá này, ngày 18.8.10 các NHTM được phép mua bán USD ở mức giá 19500 VND/USD, tăng 400VND/USD so với ngày trước đó. Hậu quả là USD trên thị trường chợ đen biến động mạnh. Gía vàng trong nước tăng nhanh so với mức tăng của thị trường Thế giới. Chỉ số chứng khóan đang trong giai đoạn giảm tiếp tục bị điều chỉnh sâu. Nhà đầu tư hoang mang. Các doanh nghiệp lo lắng. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, để ổn định tỷ giá, nâng cao hiệu quả đầu tư và kiểm soát chặt chẽ chi ngân sách là điều Chính phủ cần làm ngay. Kế tiếp, đối với các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh. Đến cuối năm 2009, nợ được Chính phủ bảo lãnh trên 1,1 tỷ USD chiếm gần 22% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ. Toàn bộ các khoản bảo lãnh này là các khoản vay thương mại với lãi suất thỏa thuận và có kỳ hạn ngắn. Các đơn vị được bảo lãnh chủ yếu là các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn đang thực hiện các dự án chiến lược của quốc gia. Như đã nói ở trên, vì đây là các khoản nợ ngắn hạn nên áp lực của nó đến cung – cầu ngoại tệ trong nền kinh tế rất lớn. Ngoài ra, nhiều tổng công ty, tập đoàn, doanh nghiệp sở hữu nhà nước kinh doanh kém hiệu quả. Mặc dù nhận được nhiều sự hỗ trợ về vốn, chính sách, đất đai, tài chuyên của Chính phủ nhưng các tổ chức này đầu tư không trọng điểm, chiến đầu tư dàn trãi, kém hiệu quả, nhân lực kém, có hiện tượng tham ô, lãng phí vv.. Các tổ chức này không những không hoàn thành nhiệm vụ “đầu tàu” trong nền kinh tế mà còn có nguy cơ lỗ, mất vốn- mà Vinashin là một điển hình. Khoản nợ 750 triệu USD trái phiếu quốc tế của Chính phủ phát hành chuyển năm 2005 cho Vinashin đang được sử dụng đến nay như thế nào? Khả năng trả nợ ra sao vẫn còn chờ kết quả kiểm toán của các tổ chức có thẩm quyền. Nguồn vốn của nhà nước không được sử dụng hiệu quả, không tạo lợi nhuận và nguy cơ mất tạo áp lực gia tăng nợ công của Việt Nam Quản lý công nợ quốc tế không chỉ là nhiệm vụ của Bộ Tài chánh, của NHNN mà là nhiệm vụ chung của các cơ quan quản lý vĩ mô, của các bộ, các ngành, các địa phương có liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế. 3.3.4 Ổn định họat động kinh tế đối ngọai 3.3.4.1 Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ . Trong nền kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, xuất khẩu là hoạt động kinh tế quan trọng của đất nước và đem lại nguồn ngoại hối chính cho nền tài chính quốc gia. Trong những năm vừa qua, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến. Tuy nhiên, so với tiềm năng của nền kinh tế và mức độ phát triển của các nước trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn nằm ở mức độ thấp. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là tài nguyên, nông, hải sản, dầu thô, hàng may mặc, giầy da v.v.. Thị trường hàng xuất khẩu còn hạn hẹp và thiếu ổn định. Như vậy, điều hành nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay là việc làm khó khăn, nó đòi hỏi nhiều nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ. Bối cảnh hiện nay tạo ra nhiều thách thức cho mục tiêu phát triển Việt Nam, nhưng chính nó cũng mang lại nhiều cơ hội. Nếu làm tốt, khả năng cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên thị trường Thế giới được cải thiện. Bốn biện pháp nên được tiến hành trong giai đoạn này là: Thứ nhất, thực hiện nhanh chương trình đổi mới cơ cấu kinh tế đã được thông qua trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần XI. Việt Nam nên tận dụng thời cơ kinh tế toàn cầu đang tăng trưởng chậm để cải tổ nền sản xuất trong nước nhằm giảm chi phí, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư tư nhân nâng cao khả năng cạnh tranh. Thứ hai, phát triển khu vực kinh tế tư nhân nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Cụ thể, các ngân hàng cần hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xoá bỏ những hạn chế trong cấp phép kinh doanh của một số ngành, tạo điều kiện thành lập các hiệp hội kinh doanh tư nhân v.v. Thứ ba, giữ vững và nâng cao tính an toàn của Việt Nam. Thật vậy, sự ổn định về kinh tế, chính trị là yếu tố quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trên Thế giới. Những thành quả trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam được Thế giới đánh giá cao. Thứ tư, thăm dò thị trường mới. Bên cạnh các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật với những chuẩn mực cao với nhiều hàng rào phi mậu dịch, các doanh nghiệp Việt Nam cần mở rộng thị trường mới với mức độ cạnh tranh thấp hơn như Nam Mỹ, Châu Phí, Nam Á, Trung Đông. Chính phủ nên mở rộng chính sách hỗ trợ xuất khẩu; gia tăng qũy bình ổn, nâng cao chất lượng và mở rộng nguồn thông tin từ các Tham tán thương mại đang hoạt động ở hải ngoại; giảm tỷ trọng hàng thô trong tổng kim ngạnh xuất khẩu; hạn chế nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, lương thực, thực phẩm; khuyến khích nhập các mặt hàng thuộc nhóm tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị; đấu tranh triệt để đối với hoạt động buôn lậu, gian trá trong thương mại quốc tế v.v. Nếu các giải pháp này được thực hiện một cách đồng bộ, Việt Nam sẽ vừa tận dụng lợi thế so sánh của quốc gia vừa bảo vệ, ổn định nền sản xuất trong nước, làm lành mạnh hoá nền tài chính, tiền tệ. 3.3.4.2 Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài Để tăng trưởng kinh tế, vốn là yếu tố quan trọng. Mặc dù nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định nhưng cần phải nhìn nhận rằng khả năng huy động vốn trong nước của Việt Nam trong thời gian sắp tới sẽ gặp không ít khó khăn. Bởi vì, thứ nhất, nguồn vốn ngân sách hạn chế do tình trạng NSNN bị thâm hụt kéo dài, các khoản nợ công ngày càng lớn. Thứ hai, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp không cao do nhiều đơn vị đang gặp khó khăn do khủng hoảng, khả năng tự tích lũy thấp. Thứ ba, nguồn vốn trong dân cư thiếu ổn định do nhu cầu đầu tư vào vàng, ngoại tệ, bất động sản v.v.. đang gia tăng. Như vậy, Chính phủ Việt Nam luôn khẳng định nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng và là nguồn cung cấp ngoại tệ lớn cho nhu cầu ổn định và tăng trưởng nền kinh tế. Ngoài ra, mức thặng dư trên cán cân vốn trong tương lai có nguy cơ giảm sút mà nguyên nhân chủ yếu là cạnh tranh trong việc thu hút và sử dụng hiệu quả khoản vay ODA đã hết thời gian ân hạn; các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài chuyển cổ tức, lợi nhuận, trả nợ vốn vay v.v.. sau một thời kỳ kinh doanh; các doanh nghiệp trong nước có nhu cầu chuyển vốn ra nước ngoài đầu tư v.v.. Tất cả sẽ tạo áp lực lớn lên cán cân thanh toán. 9 Đối với nguồn vốn ODA ODA là nguồn vốn quốc tế ưu đãi và là nguồn cung ngoại tệ lớn cho quốc gia. Trong nền kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, tính cạnh tranh trong huy động vốn ODA ngày càng gia tăng. Tại Việt Nam, nguồn ODA trong những năm qua có tăng nhưng tỷ lệ giải ngân thấp, tốc độ giải ngân chậm. Trong phạm vi toàn cầu, vốn ODA nguồn ODA có xu hướng suy giảm. Nguyên nhân của vấn đề, trước hết là do sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu. Nhật- nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam vẫn chưa thoát sự trì trệ nền kinh tế. Ngoài ra, sự thiếu ổn định và không đồng bộ trong chính sách phát triển kinh tế vĩ mô, sức trì trệ của tệ quan liêu, sự chậm chạp trong cải cách thủ tục hành chánh, v.v.. đã ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn và làm nản lòng các nhà tài trợ quốc tế. Vì vậy, để có thể khơi tăng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, ngay từ bây giờ, Chính phủ phải quan tâm các lãnh vực sau: Thứ nhất, tiếp xúc với nhà tài trợ. Mỗi nhà cung cấp ODA có mục tiêu tài trợ khác nhau; chẳng hạn, Nhật quan tâm đến các lãnh vực năng lượng, giao thông, cơ sở hạ tầng v.v., ADB thích các dự án về cải cách chính sách và phát triển thể chế, phát triển nông thôn, phát triển nguồn nhân lực v.v., WB thiên về các chương trình xóa đói, giảm nghèo; môi trường; xã hội v.v.. Tìm hiểu, tiếp xúc với từng nhà đầu tư và thuyết phục họ cung ứng vốn là hoạt động còn mới lạ đối với nhiều địa phương, nhiều ngành. Chính phủ cần phân định rõ chức năng của cơ quan trung ương và địa phương theo hướng, đơn vị trung ương là đầu mối trong việc tiếp cận và giới thiệu nhà tài trợ cho các địa phương, cơ quan địa phương được chủ động trong việc quản lý và sử dụng vốn. Thứ hai, cải cách thủ tục phê duyệt trong nước và phân cấp mạnh mẽ hơn trong việc lập kế hoạch giải ngân và đấu thầu dự án. Trình duyệt một dự án là điều không đơn giản mà vấn đề khó khăn lại xuất phát từ nội bộ Việt Nam. Thực tế đã chứng minh rằng có nhiều quan điểm khác nhau về cách lập báo cáo khả thi, tiêu chí ưu tiên lựa chọn đầu tư, tiêu chuẩn kỹ thuật v.v.. làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. Ngoài ra, có quá nhiều cấp, ngành tham gia vào quá trình phê duyệt và quản lý dự án mà hậu quả của nó là giảm, thậm chí mất cơ hội nhận vốn. Cơ quan trung ương nên giao thêm quyền chủ động cho địa phương trong việc phê duyệt, đánh giá dự án. Cấp trung ương chỉ nên chịu trách nhiệm giám sát và điều hành tổng thể dự án. Thứ ba, quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ trong việc thực hiện dự án cấp địa phương, đặc biệt, về các lãnh vực: quản lý hợp đồng, thủ tục giải ngân, quản lý đấu thầu. Đây chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng đấu thầu kém hiệu quả, thậm chí có trường hợp kết quả đấu thầu không được WB công nhận, không được giải ngân. Đó là chưa kể tình trạng tham ô, móc ngoặc trong đấu thầu. Quản lý kém cũng là nguyên nhân làm giảm chất lượng công trình, thực hiện không đúng thiết kế, vật liệu không đủ tiêu chuẩn, tư vấn giám sát thiếu trách nhiệm, nhà thầu không thực hiện đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, chạy theo lợi nhuận. Ngoài ra, Chính phủ nên khuyến khích nhân dân địa phương tham gia vào quá trình giám sát thi công, duy trì bảo dưỡng công trình nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; đồng thời, triệt để xoá bỏ tệ quan liêu, tham nhũng trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn ODA. 9 Đối với nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong lãnh vực ngoại hối, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ là nguồn cung ngoại tệ cho nền kinh tế mà còn làm nảy sinh cầu ngoại tệ trong kỳ. Thật vậy, sau một thời gian kinh doanh, các chủ đầu tư có nhu cầu chuyển ngoại tệ ra hải ngoại để thanh toán cổ tức, trả nợ gốc và lãi vay, chuyển lợi nhuận về nước, hoặc thanh lý dự án đầu tư v.v..Theo tính toán của IMF, cầu ngoại tệ phát sinh từ lãnh vưc này trong vài năm kế tiếp khá lớn, nếu không được quan tâm đúng mức nó sẽ tạo áp lực xấu lên cán cân thanh toán của quốc gia. Vì vậy, để tiếp tục thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng nguồn ngoại hối cho quốc gia, trước hết, bên cạnh việc thiết lập một chính sách đối ngoại phù hợp, Chính phủ cần cải cách triệt để bộ máy hành chánh, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các thành phần, loại hình kinh tế theo cơ chế thị trường v.v. được như vậy, thị trường Việt Nam mới thật sự trở thành điểm đến của các nhà đầu tư quốc tế, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quy mô sản xuất. Thứ hai, Chính phủ cần chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất, tránh tình trạng mỗi tỉnh đều có một hoặc một vài khu chế xuất gây lãng phí trong đầu tư; thiết lập chiến lược phát triển dài hạn giúp các nhà đầu tư thuận lợi trong khảo sát, xây dựng dự án đầu tư; nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn đầu tư; cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho chủ đầu tư, nhằm tạo sức hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế. Thứ ba, về cơ cấu vốn đầu tư. Thông thường vốn nước ngoài phải được dùng vào đầu tư phát triển, gia tăng giá trị. Nhưng trong thời gian qua, Việt Nam tập trung vào những ngành thâm dụng lao động, thâm dụng vốn như sản xuất hàng gia công, sơ chế nông hải sản, khai thác tài nguyên. Những yếu tố này không còn là lợi thế của Việt Nam trong tương lai. Vì vậy, Chính phủ cần thiết lập chính sách thu hút nguồn vốn vào các ngành tạo ra giá trị gia tăng, tận dụng “chất xám” của nền kinh tế. Mặt khác, do thiếu một chiến lược phát triển tổng thể về kinh tế- xã hội nên hiệu quả hoạt động của các khu chế xuất, khu công nghiệp thấp; quá nhiều dự án đầu tư vào các lãnh vực tiêu dùng, một số công trình chậm đưa vào sử dụng hoặc không phù hợp nhu cầu của xã hội, gây lãng phí lớn cho nền kinh tế. Thứ tư, tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Môi trường đầu tư tốt, ổn định tạo tâm lý tốt cho các nhà đầu tư quốc tế. Trong thời gian qua, Chính phủ đã ban nhiều văn bản pháp lý để tạo điều kiện phát triển đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống luật của Việt Nam vẫn chưa theo kịp và phù hợp với thông lệ quốc tế, điều này ít nhiều kiềm hãm khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Trong tương lai, Chính phủ cần thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi với cơ sở hạ tầng đầy đủ, hiện đại; hệ thống luật pháp công minh, rõ ràng, ổn định, môi trường xã hội an toàn v.v.. Thứ năm, nâng cao khả năng sinh lợi của vốn đầu tư. Hiệu quả đầu tư là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều công trình sử dụng vốn nước ngoài không được thẩm định kỹ càng nên không phát huy tốt hiệu quả kinh doanh. Hệ số sử dụng công suất thấp, hệ số thất thoát kinh phí đầu tư cao v.v. làm nản lòng các nhà tài trợ và giảm sức hấp dẫn với thị trường vốn quốc tế. Ngoài ra, Chính phủ cần đấu tranh triệt để với tệ quan liêu, cửa quyền trong thủ tục cấp phép, thẩm định dự án đầu tư của Việt Nam; nâng cao tay nghề, năng suất, kỷ luật làm việc của đội ngũ công nhân, giảm các chi khác như đi lại, thông tin… 9 Đối với nguồn vốn đầu tư gián tiếp Trong những năm gần đây Việt Nam đã thu hút một nguồn vốn đầu tư gián tiếp đang kể. Vốn đầu tư gián tiếp đã đóng góp đang kể vào việc làm thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng phát triển ngoạn mục. Thị trường chứng khoán phát triển đã đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, làm chu chuyển vốn trong nền kinh tế hiệu quả hơn, đó là thành quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, một đặc điểm nổi trội của luồng vốn đầu tư gián tiếp là ngắn hạn, dễ đảo chiếu khi thị trường có dấu hiệu bất ổn. Điều này tạo áp lực mạnh và bất ngờ lên tỷ giá. Đối với quốc gia thả nổi tỷ giá thì đây không phải là lo ngại lớn, nhưng đối với đất nước còn kiểm soát chặt tỷ giá như Việt Nam đây là vấn đề đặc biệt quan tâm. Khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 2007 vẫn là bài học lớn cho nhiều nước trên Thế giới. Đó là không thể cùng lúc vừa ổn định (hoặc kiểm soát chặt tỷ giá), vừa tự do giao dịch vốn, vừa độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ. Điều này có nghĩa, trước mắt, khi tỷ giá còn bất ổn, chính phủ không nên khuyến khích phát triển luồng vốn này. Khi tỷ giá được thả nổi, nền tiền tệ ổn định, đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ trở thành nguồn vốn lớn cho quốc gia. 3.3.5 Tham gia tích cực vào các họat động tài chính tiền tệ trong khu vực Bên cạnh các nỗ lực trong nước, Việt Nam cần dựa vào sức mạnh của khối ASEAN để phát triển nền kinh tế và tạo vị thế riêng cho mình. Trong những năm vừa qua, các nước Đông Nam Á cùng với Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đang đẩy nhanh tiến trình hoà nhập tài chánh- tiền tệ trong khu vực mà bước đầu là thiết lập Qũy Tiền tệ Châu Á với số vốn ban đầu dự kiến khoảng 1 tỷ USD. Nếu dự án này được thực hiện, việc thiết lập một hệ thống tiền tệ chung phục vụ cho các giao dịch nội khối là việc làm mang tính khả thi. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố vị thế đồng tiền Việt Nam trên thương trường quốc tế. Sự phối hợp chặt chẽ giữa lợi thế của khu vực với các chính sách trong nước sẽ góp phần gia tăng sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam trong một tương lai không xa. KẾT LUẬN CHƯƠNG III Dựa vào kết quả phân tích thực trạng điều hành tỷ giá hiện nay, đề tài đã gợi ý một số giải pháp góp phần hoàn thiện việc điều hành tỷ giá trong ngắn và dài hạn ở Việt Nam. Một số giải pháp gắn liền với việc hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN; một số khác lại liên quan mật thiết đến hoạt động quản lý nền kinh tế vĩ mô của Chính phủ nhằm khơi tăng nguồn ngoại hối quốc gia. Các giải pháp vừa tác động lẫn nhau, vừa tạo điều kiện cho nhau phát triển. Vì vậy, trong điều hành tỷ giá, các nhà quản lý vĩ mô cần quan tâm đến mối tương tác qua lại giữa các giải pháp nhằm phối hợp hài hoà và thiết lập từng bước đi thích hợp trong điều hành tỷ giá. Được như vậy, hiệu quả chính sách tỷ giá của NHNN ngày càng cao góp phần đáng kể vào tiến trình cải cách kinh tế và hội nhập của quốc gia. KẾT LUẬN --- Tỷ giá hối đoái là một công cụ hữu hiệu, linh hoạt trong quản lý và điều hành chính sách tiền tệ. Đây là nhân tố vô cùng nhạy cảm, có tác động sâu rộng đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của một quốc gia, tỷ giá cũng được xem là chiếc cầu nối quan trọng giữa kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và trên thế giới thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư và tài chính quốc tế; do đó, việc đi sâu nghiên cứu để có cơ sở vững chắc nhằm định hướng chính sách và các đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái là vấn đề quan trọng hiện nay. Trong xu hướng hội nhập, chính sách tỷ giá phải không ngừng được hoàn thiện nhằm phù hợp với những biến động của nền kinh tế, Việc điều hành tỷ giá cần phải có sự thận trọng nhất định và việc thực hiện các biện pháp quản lý cần phải đặt trong mối quan hệ hữu cơ hình thành nên hệ thống đan xen và hỗ trợ lẫn nhau để có được sự kết hợp linh hoạt, đồng bộ nhằm khai thác thế mạnh và hạn chế nhược điểm của từng biện pháp. Qua nghiên cứu, nhóm tác giả đã đánh giá quá trình điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam từ năm 1999 đến nay, nghiên cứu những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại trong chính sách tỷ giá, từ đó đề ra những giải pháp quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện chính sách tỷ giá ngày càng phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, góp phần phát triển kinh tế một cách bền vững. Có thể nói, việc nghiên cứu tỷ giá là vấn đề mang tính chiến lược trong phát triển kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, đây là một vấn đề vĩ mô, cần được nghiên cứu lâu dài mới có thể đưa ra những nhìn nhận và đánh giá sát thực hơn. Vì thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự đóng góp của quý độc giả để đề tài hoàn chỉnh hơn. oOo TÀI LIỆU THAM KHẢO ---------- 1. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 2. Dự thảo Báo cáo của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 3. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 -2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (Theo Website Chính phủ) 4. Lê Phan Thị Diệu Thảo, “Bộ ba bất khả thi trong điều hành chính sách tiền tệ” Tạp chí Công Nghệ Ngân Hàng, số 46- 47 tháng 1- 2/2010 5. Lê Phan Thị Diệu Thảo, “Cải thiện cán cân thương mại bằng cách điều chỉnh tỷ giá- Kỳ vọng và kết quả”, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, số 17- 2010 6. Lê Phan Thị Diệu Thảo, “Chính sách tỷ giá của Việt Nam trong thời gian qua”, Tạp chí Công Nghệ Ngân Hàng, tháng 6/2006 7. Lê Phan Thị Diệu Thảo, “Điều hành tỷ giá trong tiến trình hội nhập dịch vụ tài chính ngân hàng”, Tạp chí Công Nghệ Ngân Hàng, số 22, tháng 02/2008 8. Lê Phan Thị Diệu Thảo, luận án Tiến Sỹ “Biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý ngoại hối ở Việt Nam” năm 2002, Tp. Hồ Chí Minh 9. Báo cáo của IMF về kinh tế Việt Nam năm 2008, 2010 www.imf.org 10. Báo cáo của Ngân Hàng Citi Bank, Báo cáo của JP. Morgan. 11. Bộ Công Thương 12. Bộ kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn 13. Bộ Tài chính, 14. Kênh thông tin Kinh tế- Tài chính và Thị trường chứng khoán, 15. Ngân hàng nhà nước: www.sbv.org.vn 16. Thông báo tỷ giá giao dịch, 17. Tổng cục thống kê 18. Tổng cục thống kê Việt Nam, 19. Trang báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 20. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng, 21. Viet Nam: Statistical Appendix, 22. World Bank: www.worldbank.org 23. Foreign Exchange Policy and Intervention in Thailand, BIS Paper, 24, pp.276- 282, May. 24. Global Financial Data, Ngân hàng Nhà nước và tổng hợp của Trường Fulbright oOo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNoi dung de tai chinh sach ty gia_Thao.pdf
Tài liệu liên quan