Đề tài Mô hình liên kết giữa các ngân hàng và TĐKT trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và một số đề xuất hoàn thiện hóa

Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, các tổ chức kinh tế ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn. Bắt đầu là các xưởng sản xuất nhỏ lẻ, chúng dần lớn mạnh và ra đời các khái niệm công ty, doanh nghiệp và sự phát triển cao hơn là các TĐKT. Có thể hiểu TĐKT: là một tập hợp các thực thể pháp lý (một pháp nhân) độc lập dựa trên cơ sở liên kết là mối quan hệ về sở hữu, phân chia thị trường, liên kết sản xuất – kinh doanh. Theo Viện nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương CIEM thì: "Khái niệm TĐKT được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia." Từ định nghĩa trên, có thể rút ra nhận xét: - Mối liên kết giữa các thành viên trong TĐKT hình thành chủ yếu dựa trên những quan hệ về lợi ích kinh tế.

doc61 trang | Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình liên kết giữa các ngân hàng và TĐKT trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và một số đề xuất hoàn thiện hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHTM nhà nước, 6 ngân hàng liên doanh, 36 NHTM cổ phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 10 công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính và 998 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Tuy nhiên, đối với một nền kinh tế mà quy mô GDP của nó chỉ đạt mức 50 tỉ USD (tính đến thời điểm tháng 8 năm 2008) thì số lượng các tổ chức tín dụng như thế là quá nhiều. Điều này làm gia tăng rủi ro đối với hệ thống ngân hàng do tăng rủi ro phi hệ thống. Và trên thực tế, nguồn vốn trên thị trường đã trở nên căng thẳng từ tháng 11/2007, thể hiện rõ nhất khi lãi suất trúng thầu trên thị trường mở có lúc đội lên tới 17% mỗi năm. Cho đến đầu năm 2008, tình hình không khả quan hơn và diễn ra ở hầu hết ngân hàng thương mại, đến mức VP Bank đã dừng cho vay tiền đồng vì chưa tìm được nguồn cung. Hệ quả của nó là việc thống ngân hàng Việt Nam đã phải đối mặt với nguy cơ lớn là cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động của các NHTM. Cuộc chạy đua tăng lãi suất này bắt đầu từ thời điểm ngày 15/2/2008 với việc ABBank, VIBBank, Techcombank tuyên bố tăng lãi suất. Tình trạng khan hiếm tiền đồng đồng thời cũng đẩy lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng thời điểm ngày 15/2/2008 vọt lên mức kỷ lục 30% mỗi năm, cao nhất trong lịch sử ngành ngân hàng Việt Nam, trong khi hôm trước chỉ ở mức 25%. Và trong vòng 8 tháng liên tiếp (đến tháng 10/2008), lãi suất huy động vốn ở các NHTM tăng liên tục. ở thời điểm nóng lãi suất huy động cho kì hạn 1 năm của Ngân hàng Ocean bank lên tới 19% (tháng 6/2008). Việc này cũng đẩy lãi suất cho vay lên cao và làm gia tăng rủi ro tín dụng và rủi ro thanh toán đối với các ngân hàng. Ngay sau đó, khi lãi suất bắt đầu ổn định lại vào cuối năm 2008 thì khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ và gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế Việt Nam. Từ tháng 7 mức tăng CPI đã giảm, tính chung CPI 11 tháng so với cùng kỳ năm trước tăng 23,25% và so với tháng 12/2007 tăng 20,71%. Đây là chỉ số giá tiêu dùng cao nhất kể từ 1991 đến nay. Tốc độ tăng trưởng GDP (theo giá so sánh năm 1994) năm 2007 là 8,48%, năm 2008 khoảng 6,5%, thấp hơn mức bình quân của 3 năm gần đây 1,5 - 2 điểm phần trăm (số liệu năm 2007 lấy từ Niên giám thống kê, năm 2008 lấy từ Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp Quốc hội, tháng 10/2008). Nói tóm lại, sau thời kì phát triển mạnh mẽ năm 2006 – 2007, nền kinh tế nước ta năm 2008 đi vào suy thóai và khủng hoảng, trở thành bước cản lớn đối với sự phát triển của ngành ngân hàng, vốn là ngành có xu hướng vận động cùng chiều với sự phát triển kinh tế. Vậy thì, bối cảnh kinh tế đó đã tác động như thế nào đối với ngành ngân hàng và liệu các ngân hàng có hậu thuẫn là các TĐKT lớn có dễ dàng đối mặt với khủng hoảng hơn các NHTM khác không? Để trả lời câu hỏi đó, đề tài sẽ đi vào phân tích thực trạng mô hình liên kết NHTM – TĐKT ở Việt Nam trong phần 2.2.2 và 2.2.3. 2.2.2. Mô hình TĐKT góp vốn vào NHTM Một trong hai hình thức liên kết chính ở Việt Nam hiện nay là mô hình TĐKT góp vốn vào NHTM. Hình thức liên kết này đang ngày càng phát triển mạnh trong nền kinh tế Việt Nam và trở thành một trong những công cụ chính để thâm nhập vào các tổ chức tài chính trung gian như là các NHTM của các tập đoàn kinh tế lớn. Theo báo cáo của Bộ tài chính, đến thời điểm ngày 12/5/2008, có đến 28/70 tập đoàn, tổng công ty đầu tư (gọi tắt là tập đoàn) tham gia góp vốn thành lập các công ty chứng khoán, ngân hàng, công ty bảo hiểm, bất động sản với giá trị hơn 23.344 tỉ đồng. Đặc biệt là ngành ngân hàng, hàng loạt các tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam đầu tư số vốn lớn vào các NHTMCP như là Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) sở hữu 20% (tương đương 400 tỉ đồng) vốn góp của NHTMCP Đại dương (Ocean Bank), Công ty cổ phần tập đoàn T&T sở hữu trên 20% vốn cổ phần của NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB), Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam (VNPT) nắm giữ 19,91% vốn điều lệ của NHTMCP Hàng hải Việt Nam (Maritime bank) Để làm rõ thêm về hình thức liên kết này ở Việt Nam, đề tài sẽ tập trung đi vào nghiên cứu mô hình tổ chức Ngân hàng NHTMCP Hàng hải Việt Nam tên viết tắt là Maritime bank hay MSB. 2.2.2.1. Mô hình tổ chức ngân hàng Maritime bank Ngân hàng NHTMCP Hàng hải Việt Nam (Maritime bank) là NHTM được thành lập đầu tiên sau khi Pháp lệnh về NHNN và Pháp lệnh NHTM, hợp tác xã tính dụng và công ty tài chính được ban hành vào tháng 5 năm 1990. Năm 1991, Maritime bank chính thức khai trương và đi vào hoạt động. Mô hình quản trị của Maritime bank là mô hình tổ chức hỗn hợp, cho phép chuyên môn hóa quản lý. Hình2.1 – Sơ đồ cơ cấu tổ chức của NHTMCP Hàng hải Việt Nam (Maritime bank) Trong đó, danh sách cổ đông nắm giữ trên 5% vốn cổ phần của Maritime bank (theo danh sách chốt ngày 30/06/2008) bao gồm: Cổ đông Địa chỉ trụ sở chính (thường trú) Số cổ phần Tỷ lệ sở hữu Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam (VNPT) Tầng 10, Tòa nhà Ocean Park, số 1 Phố Đào Duy Anh, TP Hà Nội. 298.615.800.000 19,91% Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) Tầng 17, Tòa nhà Ocean Park, số 1 Phố Đào Duy Anh, TP Hà Nội 163.129.960.000 10,88% Công ty Cổ phần Đại lý Liên hiệp Vận chuyển (Gemadept) Tầng 15, số 35, Nguyễn Huệ, Quận I, TP Hồ Chí Minh. 99.830.944.000 6,66% Công ty Vận tải Biển Việt Nam (VOSCO) Số 215, Trần Quốc Toản, Q. Ngô Quyền, TP Hải Phòng 92.945.160.000 6,2% Hội đồng quản trị ngân hàng bao gồm: - Bà Lê Thị Liên - Chủ tịch HĐQT: Đại diện phần vốn góp của Tập đoàn VNPT. - Ông Lưu Tường Giai – Thành viên HĐQT: Đại diện phần vốn góp của Tổng công ty Gemadept. - Ông Lưu Thanh Bình – Thành viên HĐQT: Đại diện phần vốn góp của Công đoàn cục hàng không Việt Nam. - Ông Bùi Việt Hoài – Thành viên HĐQT: Đại diện phần vốn góp của công ty VOSCO - Các thành viên khác của hội đồng quản trị là các cá nhân tham gia góp vốn vào Maritime bank, gồm 2 người là ông Trần Anh Tuấn và ông Nguyễn Hữu Đức. Có thể thấy, do nắm giữ cổ phần lớn trong Maritime bank, 4/6 thành viên hội đồng quản trị là các đại diện của các tập đoàn, công ty lớn. Họ là đại diện tập đoàn mình tham gia quản lý Maritime bank, và có ảnh hưởng lớn đến các quyết định của ngân hàng. 2.2.2.2. Thực trạng hoạt động của Maritime bank thời kì 2007-2008 Để đánh giá hiệu quả về thực trạng hoạt động của Maritime bank thời kì 2007 – 2008, đề tài lựa chọn NHTM cổ phần nhà (viết tắt là Habubank) là ngân hàng thành lập cùng thời kì với Maritime bank để so sánh. a. Đánh giá khái quát hiệu quả hoạt động của Maritiem bank 2007: Để có cái nhìn tổng quát về tình hình tài sản – nguồn vốn, chúng tôi so sánh bảng cân đối kế toán năm 2007 của Maritimebank với Habubank: Bảng 2.2- Bảng so sánh quy mô, cơ cấu tài sản - nguồn vốn Maritimebank và Habubank năm 2007 (Đơn vị: tỉ đồng) Chỉ tiêu Maritime bank Habubank Chênh lệch Số tiền (A) Tỷ trọng (%) Số tiền (B) Tỷ trọng (%) A-B (A-B)/A (%) i. tài sản Tiền mặt tại quỹ 101 0.58 154 0.66 (52) (51.97) Tiền gửi tại NHNN 278 1.58 37 0.16 240 86.44 Tiền gửi và cho vay các TCTD 8,209 46.73 10,894 46.32 (2,684) (32.71) Tín dụng 6,493 36.96 9,285 39.48 (2,792) (43.00) Đầu tư 2,198 12.52 2,748 11.68 (549) (24.97) TSCĐ 103 0.59 98 0.42 4 4.66 Tài sản có khác 184 1.05 299 1.27 (115) (62.77) Tổng tài sản có 17,569 100.00 23,518 100.00 (5,949) (33.86) II. nG. VốN Vốn huy động 7,368 41.94 8,467 73.41 (1,098) (14.91) Vốn đi vay 7,853 44.70 697 6.05 7,155 91.12 Tài sản nợ khác 463 2.64 369 3.20 94 20.39 Vốn và các quỹ 1,883 10.72 2,000 17.34 (116) (6.17) Tổng nguồn vốn 17,569 100.00 11,533 100.00 6,035 34.35 (Nguồn số liệu: [8]; [10]) Nhìn vào bảng trên có thể thấy rằng tổng vốn của Habubank chỉ có 11,533 tỉ đồng, thấp hơn tổng vốn của Maritimebank (17,569 tỉ VNĐ). Nhưng tỷ trọng vốn huy động trên tổng vốn của Habubank lại lớn hơn vốn huy động của Maritimebank gấp gần 2 lần. Tỷ trọng tín dụng trên tổng tài sản cũng lớn hơn tuy không đáng kể (chỉ có 3,84%). Từ đây có thể thấy lượng giao dịch tại Habubank lớn hơn Maritimebank. Cũng tức là khả năng huy động vốn và cho vay từ các thành phần kinh tế của Habubank lớn hơn Maritimebank. Điều này tương ứng với giới hạn về số lượng khách hàng của mô hình liên kết NHTM – TĐKT mà nguyên nhân chủ yếu là do các mối quan hệ ràng buộc nội tại. Bảng 2.3- Bảng so sánh một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động Maritimebank và Habubank năm 2007 Chỉ tiêu Maritimebank Habubank EAT (nghìn VNĐ) 172,846 365,632 EPS (nghìn VNĐ/cổ phiếu) 2,050 2,229 ROE (%) 9 18 ROA 0.01 0.02 Hệ số an toàn vốn COOK (%) 19.49 11.51 Tổng dư nợ/tổng tài sản 0.42 0.36 Tổng dư nợ/vốn huy động 0.88 1.10 Tốc độ tăng thu nhập (%) 88.03 158.99 Tốc độ tăng chi phí (%) 99.03 149.19 (Nguồn số liệu: [8]; [10]) Một trong các lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng là thu hút tiền gửi và cho vay. Đồng thời, trong báo cáo kết quả kinh doanh của các NHTM cũng có thể thấy lợi nhuận thu được từ lãi vay luôn chiếm tỉ trọng lớn. Do đó dư nợ tín dụng của Habubank lớn hơn Maritimebank đã tạo ra mức lợi nhuận sau thuế và lợi tức trên cổ phiếu lớn hơn. Suất sinh lời (ROE) của Habubank là 18%, lớn hơn gấp đôi ROE của Maritimebank (9%) đồng thời, vòng quay vốn ở Habubank nhanh gấp đôi Maritimebank. Từ đó cho thấy hiệu quả hoạt động của Habubank cao hơn Maritimebank. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn ở Maritimebank là 19.94% cao hơn Habubank là 11.51%, đồng thời tổng dư nợ trên tổng tài sản của Maritimebank cũng cao hơn Habubank, cho thấy vốn của Maritimebank có mức độ đảm bảo khá cao. Tuy nhiên, tổng dư nợ trên vốn huy động của Maritimebank lại thấp hơn Habubank, chỉ đạt 88.03%. Như thế tức là một phần vốn huy động đã không được sử dụng với mục đích cho vay mà được sử dụng vào mục đích khác. Nói cách khác, khả năng chuyển thời hạn vốn của Maritimebank là không cao đồng thời hiệu quả sử dụng vốn của Maritime bank cũng kém hơn Habubank. Về khía cạnh quản lý, tốc độ tăng trưởng thu nhập của Maritimebank năm 2007 thấp hơn tốc độ tăng chi phí trong khi ở Habubank thì ngược lại. Điều này cho thấy việc quản lý các khoản thu chi ở Maritimebank là không hiệu quả, chi phí tăng quá nhanh sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Thực tế, việc EAT của Maritimebank thấp hơn của Habubank cũng một phần do nguyên nhân trên. b. Đánh giá hoạt động của Maritimebank trong khủng hoảng kinh tế: Tính đến thời điểm tháng 7/2008, trong cuộc khủng hoảng kinh tế, dư nợ tín dụng của Maritime đạt 8,261,239 triệu VNĐ, tăng 1,767,805 triệu VNĐ so với năm 2007, tương đương 27.23% trong khi vốn huy động tăng 3,868,125 triệu VNĐ, tương đương 50.02%. Như thế tức là có thêm một phần vốn lớn ngân hàng huy động được không dùng để cho vay. Một trong số các nguyên nhân là do từ đầu năm 2008, NHNN quy định tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM. Tuy nhiên, điều này làm tăng nhanh chi phí so với thu nhập. Mặt khác, dự phòng rủi ro cho vay khách hàng của Maritimebank lại tăng rất nhanh, từ chỗ chỉ có 34,497 triệu VNĐ (2007) tăng lên 74,902 triệu VNĐ (2008), tức là tăng gấp 2 lần. Điều này cho thấy tỉ lệ nợ thiếu đảm bảo của ngân hàng đang gia tăng. Bảng 2.4 - Một số chỉ tiêu hoạt động của Maritimebank 2007-2008 và so sánh với Habubank (2008) Chỉ tiêu Maritimebank Habubank 31/12/2007 31/7/2008 Chênh lệch Chênh lệch EAT 172,846 192,642 19,796 (13,465) EPS 2,050 2,285 235 (986) ROE 0.09 0.10 0.01 (0.07) ROA 0.01 0.01 0.00 0.00 Hệ số an toàn vốn CAR (%) 19.49 14.16 (5.33) 6.64 Tổng dư nợ/tổng tài sản 0.42 0.45 0.03 0.08 Tổng dư nợ/vốn huy động 0.88 0.75 (0.13) (0.17) (Nguồn số liệu: [8]; [10]) Dễ thấy từ bảng 2.4, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, lợi nhuận sau thuế của Maritimebank nói chung tăng chậm. Hệ số an toàn vốn giảm, cho thấy xu thế chung của khủng hoảng kinh tế làm gia tăng các rủi mang tính hệ thống. Có thể thấy các chỉ tiêu của Maritimebank đều có xu hướng giảm tuy nhiên, không suy giảm nhiều bằng ở Habubank. Đặc biệt còn có một số chỉ tiêu có xu hướng tăng là EAT, EPS và ROE, các chỉ tiêu này đảm bảo mức lợi tức đối với các chủ sở hữu. Tuy nhiên, hệ số an toàn vốn CAR ở Habubank thời kì này lại tăng lên và đạt 18.15%, tức là cao hơn hệ số này ở Maritimebank 6.64%. Điều này cho thấy trong khủng hoảng, Habubank có xu hướng đầu tư vào các tài sản có độ an toàn cao hơn Maritime bank. Nguyên nhân xảy ra hiện tượng này có thể là do các quan hệ nội bộ không cho phép Maritimebank cắt giảm một số các dự án có hiệu quả thấp hơn. Hay nói cách khác là công tác quản trị và thẩm định dự án ở Habubank thời kì này chặt chẽ hơn so với Maritime bank. Như vậy là các ngân hàng có sức mạnh hậu thuẫn của các TĐKT lớn dường như ít bị ảnh hưởng hơn trong khủng hoảng kinh tế nhưng lại có độ an toàn vốn thấp hơn do các rủi ro phi hệ thống. Tóm lại, về mặt mô hình, hình thức liên kết này là việc các tập đoàn góp vốn đầu tư vào một NHTMCP đã có mặt sẵn trên thị trường. Họ sẽ nắm giữ số lượng cổ phiếu đủ lớn và hợp lệ để có thể có ảnh hưởng đến các quyết định của Ngân hàng. Trên thực tế, việc điều hành ngân hàng vẫn thuộc về Ban quản trị ngân hàng nhưng do nắm số vốn lớn, các tập đoàn vẫn có thể gây ra những ảnh hưởng nhất định đến các quyết định của ngân hàng thông qua đại diện của mình trong HĐQT. Trong khi đó, các ngân hàng lại không phát huy được vai trò của mình trong quản lý vốn đầu tư một cách thống nhất làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng so với các NHTM độc lập hoặc có mối quan hệ ít sâu sắc hơn với các TĐKT. 2.2.3. Mô hình TĐKT đứng ra thành lập NHTM Gần đây nhất vào ngày 5/5/2008 NHNN đã cấp giấy phép số 123/GP-NHNN thành lập NHTM cổ phần Tiên Phong với sự tham gia thành lập của Tập Đoàn FPT, Công ty thông tin di động VMS và Tổng công ty tái bảo hiểm Việt Nam Vinare. Tiếp đến, ngày 11/12/2008 NHTM cổ phần Bảo Việt được cấp giấy phép thành lập số 328/GP-NHNN với Tập đoàn Bảo Việt, Công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk), Công ty cổ phần tập đoàn công nghệ CMC là 3 cổ đông sáng lập. Việc này đã làm xuất hiện ở Việt Nam một mô hình liên kết mới giữa NHTM với TĐKT: mô hình TĐKT đứng ra thành lập ngân hàng. Để hiểu rõ hơn về mô hình liên kết này, đề tài sẽ tập trung vào mô hình của ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong . 2.2.3.1 Sơ đồ tổ chức Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong với tên viết tắt là Tiên Phong bank với số vốn điều lệ là 1 tỉ đồng. Trong đó tập đoàn FPT là một trong 3 cổ đông sáng lập đã đóng góp 15% vốn điều lệ. Tiếp đến, 2 cổ đông đồng sáng lập là Công ty thông tin di động VMS (MobiFone) và Tổng công ty tái bảo hiểm Quốc gia Vinare cùng đóng góp 12,5% vốn điều lệ. Số vốn điều lệ còn lại huy động từ các cổ đông khác . Các bộ phận nghiệp vụ hỗ trợ Khối kinh doanh UB QL RủI RO UB NHÂN Sự Và LƯƠNG KIểM TOáN NộI Bộ BAN KIểM SOáT HộI ĐồNG TíN DụNG HộI ĐồNG ALCO HộI ĐồNG ĐầU TƯ HộI ĐồNG QUảN TRị BAN ĐIềU HàNH Khối Quản lý rủi ro Khối thị trường vốn ĐạI HộI ĐồNG Cổ ĐÔNG Sơ đồ 2.5- Sơ đồ tổ chức bộ máy của Tiên Phong bank Khi các TĐKT trở thành cổ đông sáng lập của Tiên Phong bank, bản thân ngân hàng, TĐKT và cả khách hàng đều nhận được những lợi ích nhất định, cụ thể là: Thứ nhất, tập đoàn FPT đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hỗ trợ về công nghệ cũng như kinh nghiệm khai thác các giải pháp công nghệ thông tin trong hoạt động của ngân hàng và khách hàng, là một thế mạnh của Tiên Phong Bank. Ngoài ra, Tiên Phong Bank cũng kế thừa từ FPT một môi trường văn hóa đặc trưng bởi sự năng động của tuổi trẻ. Khách hàng của Tiên Phong Bank được hưởng lợi khi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ khác của FPT như máy tính, điện thoại di động... nhờ các gói dịch vụ trọn gói của Tiên Phong Bank. Thứ hai, công ty thông tin di động VMS (MobiFone) đóng vai trò trong việc hỗ trợ các giải pháp về việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng thông qua kênh điện thoại di động (Mobile Banking) với chất lượng dịch vụ cao. Mobile Banking là một yếu tố không thể thiếu của một ngân hàng hiện đại nhằm phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Các khách hàng của MobiFone cũng sẽ được hưởng lợi khi có thêm sự lựa chọn trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng thông qua mạng di động chất lượng cao mà họ gắn bó. Thứ ba, tổng công ty tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam Vinare đóng góp quan trọng cho Tiên Phong Bank về tiềm lực tài chính, hệ thống các đối tác khách hàng rộng khắp và cả kinh nghiệm, chuyên môn sâu trong lĩnh vực quản trị tài chính. 2.2.3.2. Đánh giá thực trạng hoạt động của Tiên Phong bank Như đã giới thiệu ở trên, Tiên Phong bank là ngân hàng do tập đoàn FPT đứng ra thành lập và chính thức đi vào hoạt động năm 2008. Ngân hàng này nằm vào hình thức liên kết thứ 2: hình thức tập đoàn đứng ra thành lập ngân hàng mới. Để đánh giá hoạt động của ngân hàng này một cách chính xác hơn, chúng tôi sẽ so sánh các chỉ tiêu hoạt động của Tiên Phong bank với một ngân hàng có cùng quy mô hoạt động là NHTMCP Việt Nam Tín nghĩa (tên cũ là NHTMCP Thái Bình Dương). Bảng 2.6- Bảng so sánh quy mô, cơ cấu tài sản - nguồn vốn Tiên Phong bank và Tín Nghĩa bank năm 2008 (Đơn vị: tỉ đồng) Chỉ tiêu Tín Nghĩa bank Tiên Phong bank Chênh lệch Số tiền (A) Tỷ trọng (%) Số tiền (B) Tỷ trọng (%) (A-B) (A-B)/A (%) i. tài sản Tiền mặt tại quỹ 156 3.10 19 0.81 136 87.38 Tiền gửi tại NHNN 352 7.00 25 1.07 326 92.67 Tiền gửi và cho vay các TCTD 186 3.70 1,344 55.59 (1,158) (622.37) Tín dụng 3,905 77.62 275 11.38 3,630 92.95 Đầu tư 90 1.79 583 24.13 (493) (547.34) TSCĐ 22 0.45 58 2.42 (36) (160.09) Tài sản có khác 319 6.35 111 4.60 208 65.17 Tổng tài sản có 5,031 100.00 2,418 100.00 2,613 51.93 II. nG.VốN Vốn huy động 2,126 42.26 1,171 48.80 955 44.91 Vốn đi vay 2,167 43.08 196 8.17 1,971 90.95 Tài sản nợ khác 137 2.73 12 0.51 124 91.08 Vốn và các quỹ 600 11.93 1,020 42.52 (420) (70.06) Tổng nguồn vốn 5,031 100.00 2,400 100.00 2,631 52.29 (Nguồn số liệu: [7]; [9]) Quan sát bảng trên, ta thấy tỉ lệ tín dụng trên tổng tài sản của Tiên Phong bank chỉ có 11% là quá thấp so với 77.62% ở Tín Nghĩa bank. Điều này có thể lý giải là do Tiên Phong bank là một ngân hàng mới thành lập từ giữa năm 2008, thời gian hoạt động chưa lâu. Tuy nhiên, số vốn huy động được của Tiên Phong bank lại khá lớn (1,171,644 triệu VNĐ, chiếm 48.80% tổng nguồn vốn) và bằng 1/2 số vốn huy động được của Tín nghĩa bank. Điều này cho thấy lợi thế về uy tín mà ngân hàng được thừa hưởng từ các tập đoàn tham gia góp vốn. Bên cạnh đó, trong khi tổng nguồn vốn chỉ bằng một nửa thì vốn và các quỹ hay vốn tự có của Tiên Phong bank lại gần gấp 2 lần Tín Nghĩa bank. Đây là một minh chứng cho sự hậu thuẫn về vốn lớn từ phía các tập đoàn. Tỉ lệ vốn và các quỹ chiếm đến 42.52% tổng vốn của ngân hàng. Bảng 2.7- Bảng so sánh một số chỉ tiêu hoạt động của Tiên Phong bank và Tín nghĩa bank năm 2008 Chỉ tiêu Tín nghĩa bank Tiên Phong bank EAT 17,337 50,511 ROE 0.03 0.05 ROA 0.0046 0.0281 Hệ số an toàn vốn COOK (%) 14.81 38.29 Tổng dư nợ/tổng tài sản 0.78 0.37 Tổng dư nợ/vốn huy động 1.84 0.24 (Nguồn số liệu: [7]; [9]) Trong năm 2008, khủng hoảng kinh tế đã có tác động không nhỏ đến hệ thống ngân hàng, làm gia tăng các rủi ro mang tính hệ thống và làm giảm lợi nhuận chung của ngành. Tuy nhiên, trong khi tổng vốn chỉ bằng 1/2, Tiên Phong bank vẫn đạt được mức lợi nhuận 50,511 triệu VNĐ, lớn hơn gấp gần 3 lần mức 17,337 triệu VNĐ ở Tín Nghĩa bank. Nguyên nhân là do tỉ lệ tài sản tín dụng ở Tiên Phong bank rất thấp, chỉ chiếm 11.38% do đó giảm thiểu được các rủi ro tín dụng so với tỷ lệ cho vay 77.62% ở Tín Nghiã bank. Các hệ số ROE, ROA và đặc biệt là hệ số an toàn vốn COOK ở Tiên Phong bank là rất cao, đặc biệt, hệ số an toàn vốn đạt 38.29% (gấp 2 lần Tín Nghĩa bank) nguyên nhân là do Tiên Phong bank duy trì tỉ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu là 1.35 là tỉ lệ thấp (chỉ bằng 14% của Tín Nghĩa bank). Tuy thế nhưng 2 chỉ số cuối cùng của bảng 2.7 lại cho thấy Tín Nghĩa bank thực hiện việc chuyển thời hạn vốn và cho vay vốn đạt hiệu suất lớn hơn Tiên Phong bank. Chỉ tiêu tổng dư nợ trên vốn huy động của Tiên Phong bank chỉ đạt 0.24 tức là chỉ có 24% tổng số vốn huy động được đem đi cho vay. Phần còn lại được sử dụng vào việc khác, như là tăng dự trữ, đầu tư tài sản không sinh lợi Điều này làm gia tăng chi phí vốn của Tiên Phong bank. Đồng thời việc sử dụng vốn không hiệu quả còn có khả năng dẫn đến các rủi ro thanh toán đối với ngân hàng. Trên bảng 2.6, chúng ta có thể thấy tỉ trọng đầu tư của Tiên Phong bank là rất lớn, đặc biệt chứng khoán đầu tư chiếm đến 50% tổng đầu tư, cũng tức là một phần không nhỏ vốn huy động được từ khách hàng đã được mang đi đầu tư vào chứng khoán, ngành có rủi ro lớn nhất. Việc này làm tăng rủi ro mất vốn đối với ngân hàng và làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Nói tóm lại, phân tích các chỉ số trên cho thấy, trong điều kiện khủng hoảng, hoạt động của Tiên Phong bank tỏ ra có hiệu quả hơn Tín Nghĩa bank khi đảm bảo mức lợi tức và an toàn vốn cho chủ sở hữu. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh một ngân hàng thương mại, Tiên Phong bank không đạt được hiệu quả trong công tác huy động vốn từ tiền gửi cũng như công tác tín dụng ngân hàng. Hay, nói cách khác, hoạt động của Tiên Phong bank với tư cách một NHTM là không đạt hiệu quả cao. 2.2.4. Nhận xét chung Qua phân tích ở trên, chúng tôi đưa ra một số nhận xét chung sau: Một là, so sánh với các NHTM khác, các ngân hàng có quan hệ mật thiết với tập đoàn thường là có số vốn khá lớn và vẫn đạt được mức tăng trưởng nhất định trong điều kiện khủng hoảng. Điều này cho thấy sự liên kết này đã góp phần làm gia tăng sức mạnh của ngân hàng và giảm thiểu ảnh hưởng các rủi ro hệ thống. Hai là, tỉ lệ vốn tự có trên tổng vốn ở các ngân hàng này là khá lớn trong khi tỉ lệ vốn huy động lại không cao. Đồng thời, tỉ lệ tín dụng trên vốn huy động thường thấp hơn các NHTM khác. Điều này cho thấy lượng khách hàng của các ngân hàng này không lớn, chủ yếu là các công ty, xí nghiệp thành viên của các tập đoàn. Ba là, tỉ lệ tín dụng trên vốn huy động thấp hơn các NHTM khác cũng cho thấy nghiệp vụ cho vay tín dụng ở các ngân hàng này không đạt hiệu suất lớn. Vốn huy động được sử dụng vào các mục đích khác nhiều hơn. Tạo ra những rủi ro khác liên quan đến sử dụng vốn (như là việc đầu tư chứng khoán) đối với tiền gửi của khách hàng. Tóm lại, các NHTM cổ phần có hậu thuẫn là các TTĐKT lớn đã phát huy được những lợi thế của nó so với các ngân hàng khác trong khủng hoảng kinh tế. Bên cạnh những ưu điểm, vẫn còn tồn tại những vấn đề làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng với chức năng trung gian tài chính. Tuy nhiên, do những lợi thế lớn đã bộc lộ trong khủng hoảng, xu thế liên kết này trong tương lai sẽ phát triển. Cũng như trên thế giới, việc xuất hiện những liên kết tài chính sâu sắc giữa ngành ngân hàng và các tập đoàn kinh tế lớn là một tất yếu lịch sử. Nhưng cũng cần có những biện pháp hiệu quả cả ở vi mô và vĩ mô để tận dụng được tối đa ưu điểm và hạn chế khuyết điểm của mối liên kết này. CHƯƠNG III: GIảI PHáP HOàN THIệN MÔ HìNH LIÊN KếT NHTM VớI TĐKT TạI VIệT NAM 3.1. xây dựng mô hình liên kết tại việt nam 3.1.1. Điều kiện xác lập mô hình Thông qua phân tích lí luận cũng như thực trạng các mối liên kết NHTM với TĐKT, chúng tôi đưa ra một số điều kiện căn bản để xác lập và đảm bảo hiệu quả hoạt động của mô hình liên kết ngân hàng và TĐKT trong 3 tiểu mục 3.1.1.1 và 3.1.1.2 dưới đây. 3.1.1.1. Vi mô Trước tiên, để đảm bảo hiệu quả của mô hình liên kết NHTM – TĐKT, cần những điều kiện vi mô mang tính quyết định từ cá nhân các NHTM và TĐKT có ý muốn hợp tác. Mối quan hệ liên kết có bền vững và hiệu quả hay không là do các NHTM và TĐKT có đảm bảo được các yêu cầu căn bản này hay không. Về căn bản, để thành lập các liên kết sâu hơn giữa NHTM và TĐKT, các bên có ý muốn liên kết phải tự trả lời cho 2 vấn đề chính. Đó là: Đồng ý hay không đồng ý thâm nhập hay bị thâm nhập sâu hơn vào đội ngũ quản lý? Và dùng biện pháp nào để đạt được mục tiêu đó. Thứ nhất là các TĐKT muốn tham gia góp vốn vào NHTM cần có tiềm lực kinh tế đủ mạnh để có thể đối mặt với những tác động xấu của mối liên kết có thể xảy ra. Để làm được điều đó, TĐKT cũng phải đảm bảo thị phần và vị thế của mình trong ngành kinh doanh chính cũng nhưng tiềm năng khác về công nghệ, vốn, thông tin và xử lí thông tin... Thứ hai là các NHTM đồng ý có sự thâm nhập của TĐKT vào ban quản trị của mình cần giữ được tính độc lập nhất định và không để bị chi phối bởi các TĐKT. Để làm được điều đó, các NHTM cần có cơ sở vững mạnh bao gồm: đội ngũ quản trị viên giỏi, vận hành có hiệu quả các hoạt động của mình, các cổ đông lớn cũ giữ số lượng cổ phiếu đủ lớn để giữ được các vị trị quan trọng có tính quyết định. Thứ ba là các bên có ý muốn liên kết cụ thể là NHTM và TĐKT cần sử dụng thông tin định giá có độ tin cậy cao của các công ty định giá chuyên nghiệp. Thông tin được đưa ra từ bên thứ ba trung gian thường có độ khách quan cao hơn. Đồng thời, đối với các công ty phân tích và định giá chuyên nghiệp, công tác định giá và xử lý thông tin sẽ có tính chính xác cao hơn nhờ vào năng lực chuyên môn cao. Việc sử dụng các thông tin có độ tin cậy cao sẽ làm giảm rủi ro thông tin bất đối xứng xảy ra do mỗi bên tham gia có một chuyên môn riêng. Đối với các TĐKT có xu hướng chọn lựa phương thức tham gia góp vốn vào ngân hàng đã tồn tại lâu đời thì các thông tin này sẽ giúp cho việc ra quyết chọn ngân hàng nào để đầu tư. Còn về phía ngân hàng thì đó là cơ sở để họ đưa ra quyết định về TĐKT là cổ đông lớn nhất. Thứ hai là để có được phương án trả lời tối ưu cho các câu hỏi trên cũng cần phải có đội ngũ cán bộ thẩm định có năng lực. Đây là nhu cầu cần thiết của các doanh nghiệp cho dù nền kinh tế có hay không các doanh nghiệp định giá uy tín. Bởi vì cho dù các thông tin được bên thứ ba đưa ra là khách quan nhưng họ lại không có cái nhìn sâu sắc về các vấn đề nội bộ của hai bên như là những cán bộ trực thuộc hai bên. Do đó, việc sử dụng các cán bộ thẩm định trong nội bộ 2 bên tham gia là cần thiết để đưa ra phương án chính xác và phù hợp nhất với từng bên. Mặt khác, người đưa ra các quyết định là đội ngũ quản trị viên nhưng người sử dụng các thông tin và lập các kế hoạch lại chính là các phòng, ban chuyên môn. Do đó cần có sự định hướng phát triển những cán bộ nguồn từ chính nội bộ các bên tham gia. Thứ ba là đẩy mạnh quá trình niêm yết chứng khoán của các doanh nghiệp. Khi niêm yết trên thị trường chứng khoán, hoạt động của doanh nghiệp sẽ công khai, minh bạch hóa, việc liên kết sẽ hiệu quả hơn. Thêm vào đó, đối với các TĐKT có ý muốn thâm nhập sâu hơn vào NHTM hay ngược lại sẽ có cơ hội cao hơn và dễ dàng thực hiện hơn. 3.1.1.2. Vĩ mô Cơ sở pháp lý là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành các mô hình liên kết NHTM với TĐKT. Chúng ta đang xây dựng quốc gia pháp quyền XHCN, do đó để làm bất cứ chuyện gì cũng cần có cơ sở pháp lý rõ ràng. Do đó, yêu cầu đầu tiên để có thể xác lập và điều chỉnh các mối liên kết này là hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch. Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia. Đồng thời xác lập mức độ can thiệp của Nhà nước đối với các mô hình liên kết NHTM với TĐKT trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có những chính sách cụ thể khuyến khích thành lập các công ty định giá doanh nghiệp mang tính chuyên nghiệp. Kết quả định giá của các công ty được nhà nước công nhận là cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư. Thế nhưng trên thực tế ở Việt Nam, đây còn là một lĩnh vực mới và hoạt động kém hiệu quả. Một số công ty thẩm định giá đã được Bộ Tài chính công bố đủ điều kiện hoạt động thẩm định giá như là Công ty TNHH Thẩm định giá Vinacontrol, Công ty TNHH Một thành viên Thẩm định giá Sài Gòn Nhà đất, Công ty TNHH Thẩm định giá Đất Việt... nhưng năng lực định giá tài sản vô hình của các doanh nghiệp này vẫn còn hạn chế. Do đó đa số các doanh nghiệp cần định giá hiện nay vẫn sử dụng dịch vụ của các công ty nước ngoài với chi phí cao. Do đó việc hoàn thiện hoá các công ty định giá hiện có và thành lập các công ty chuyên nghiệp mới là rất quan trọng và cần có sự ủng hộ của Chính phủ. Hoạt động của các công ty kiểm toán độc lập cũng cần được tăng cường nhằm công khai minh bạch hóa thông tin. Đây là cơ sở đảm bảo cho các thông tin được sử dụng trong thẩm định và khi thực hiện liên kết giữa NHTM và TĐKT. Như chúng ta đều biết, các công ty thẩm định giá thực hiện các hoạt động nghiệp vụ của họ trên cơ sở các báo cáo tài chính và các báo cáo khác của doanh nghiệp. Họ không trực tiếp thực hiện công tác thẩm định tính chính xác và chân thực của báo cáo do đó. ở đây, người trực tiếp thực hiện công việc kiểm tra các báo cáo của doanh nghiệp là các công ty kiểm toán, còn các công ty thẩm định lại đóng vai trò người sử dụng thông tin. Nếu các báo cáo có sai sót sẽ là nguyên nhân của các nhận định sai lầm từ phía công ty thẩm định và có thể dẫn đến các quyết định sai lầm của nhà đầu tư. Vì thế, việc phát triển ngành kiểm toán theo hướng chuyên môn hoá và chuẩn hoá các quy định về kế toán kiểm toán là những yêu cầu bức thiết. 3.1.2. Yêu cầu đối với mô hình Nền kinh tế là một cơ thể lớn mà trong đó, mỗi cá thể tồn tại đều chịu ảnh hưởng và có ảnh hưởng nhất định đến những cá thể khác. Do đó, mỗi doanh nghiệp, mỗi mối liên hệ trong nền kinh tế đều phải bảo đảm lợi ích đối với chính chủ thể của nó và với cả nền kinh tế nói chung. Đồng thời, mỗi cá thể, mỗi mối quan hệ đó lại phải bảo đảm lợi ích cho chính chủ thể của nó nếu không nó sẽ bị đào thải. Mối quan hệ giữa NHTM với TĐKT cũng không phải là ngoại lệ. Cho dù là mô hình liên kết nào thì tựu trung lại, nó cũng phải tạo ra lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế nói chung và cho chính TĐKT và NHTM tham gia mô hình nói riêng. Vì thế, hoạt động của mô hình liên kết phải đảm bảo được những yêu cầu sau: Thứ nhất là hoạt động an toàn: Đây là một yêu cầu chung để tồn tại của bất cứ mô hình nào. Như đã giới thiệu ở trên, ngân hàng là ngành nghề đặc thù có rủi ro lớn mang tính lan truyền. Đặc biệt, Việt Nam là nền kinh tế mới nổi, hệ thống ngân hàng cũng như nền kinh tế còn chưa ổn định, vì thế rủi ro mang tính hệ thống đối với các ngân hàng là rất cao. Do đó các quyết định của ngân hàng và các quyết định đầu tư vào ngành ngân hàng cần được cân nhắc cẩn thận về các rủi ro có thể gặp phải của dự án. Đồng thời, để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan, tất cả các mối quan hệ, các mô hình liên kết có đối tượng chính là ngân hàng đều phải đảm bảo yêu cầu đầu tiên là sự an toàn trong hoạt động của nó. Bảo đảm tính an toàn của hoạt động cũng có nghĩa là bảo đảm an toàn vốn của chủ sở hữu và các chủ thể khác có liên quan. Thứ hai là hiệu quả hoạt động: Tiêu chí này bao gồm hiệu quả đối với nền kinh tế và hiệu quả đối với các bên liên quan. Bất cứ doanh nghiệp nào tồn tại trong nền kinh tế với mục đích tối đa hoá lợi nhuận hợp lý. Do đó, chỉ có các mối liên kết mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn đối với doanh nghiệp mới được lựa chọn. Mặt khác, như đã nói ở trên, nền kinh tế là một thể thống nhất, do đó mô hình liên kết NHTM và TĐKT muốn tồn tại và phát triển thì phải tạo được lợi ích đối với thị trường. Tất cả những điều đó được đo bằng kết quả hoạt động của NHTM và TĐKT trong mô hình liên kết. 3.2. Xây dựng mô hình liên kết Theo lộ trình đã cam kết khi gia nhập WTO, đến 01/07/2010, tất cả các doanh nghiệp nhà nước phải chuyển đổi hình thức hoạt động thành các công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Điều kiện này làm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, tạo cơ hội đầu tư cho các doanh nghiệp. Hội nhập kinh tế khiến cho cạnh trang trên thị trường Việt Nam ngày càng trở nên gay gắt hơn buộc các doanh nghiệp phải tìm cách gia tăng một cách hiệu quả sức mạnh và qui mô hoạt động. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần có số vốn lớn và cơ sở công nghệ cao. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc hình thành các TĐKT lớn và sau đó là sự hình thành các liên kết chặt chẽ hơn của nó với NHTM. 3.2.1. Đề xuất về mô hình liên kết Trong phần lí luận chung của đề tài đã đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình liên kết của Nhật Bản và Trung Quốc. Từ đó chúng ta có thể thấy mô hình keiretsu tuy là mô hình liên kết hiệu quả trong thời kì khôi phục kinh tế Nhật Bản nhưng đã không còn phù hợp với điều kiện hiện tại. ở cả 2 quốc gia Nhật Bản và Trung Quốc, các mô hình liên kết NHTM với TĐKT đều dần đi theo xu hướng nới lỏng mối quan hệ. Nguyên nhân là do xu thế hiện nay của nền kinh tế thế giới là xu hướng chuyên môn hoá, do đó, để hạn chế các yếu điểm làm giảm tính chuyên môn hoá của mô hình tính lỏng của các mối quan hệ ngày càng cao. Xu hướng này được biểu hiện khá rõ nét ở sự can thiệp lẫn nhau giữa TĐKT và NHTM cũng như trong số vốn góp của TĐKT vào NHTM. Tuy nhiên, xu hướng thế giới hiện nay cũng là hợp tác hoá do đó, các mô hình liên kết NHTM và TĐKT sẽ tiếp tục phát triển theo hướng hoàn thiện hoá. Trên cơ sở đó, bài nghiên cứu xin đưa ra đề nghị về mô hình liên kết này ở Việt Nam: mô hình TĐKT tham gia góp vốn vào NHTM. Nguyên nhân chúng tôi đề xuất mô hình này ở Việt Nam là vì nó có những đặc điểm phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam và có khả năng phát triển hiệu quả. Thứ nhất là ở Việt Nam hiện nay, các TĐKT chủ yếu vẫn chỉ được coi là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới, thị phần chưa cao và cũng chưa đủ vững mạnh để thâm nhập sâu vào lĩnh vực ngân hàng. Vì thế, nếu chỉ đơn thuần đóng vai trò cổ đông lớn của NHTM, các TĐKT vẫn đáp ứng được nhu cầu liên kết với NHTM như phân tích ở ưu điểm của mô hình. Trong khi đó, số vốn bỏ ra không nhất thiết phải lớn như việc thành lập ngân hàng mới. Như thế là, các TĐKT có thể tập trung vào các ngành nghề kinh doanh chủ chốt để nâng cao sức ảnh hưởng trên thị trường trong khi vẫn có được những hậu thuận ở phạm vi nhất định của ngân hàng. Đồng thời, thông qua việc đóng góp vào cùng một NHTM, các TĐKT có được các mối quan hệ sâu sắc hơn. Thứ hai là trong mô hình này, tính lỏng của các mối liên kết là khá cao. Đối với ngân hàng, việc nhận vốn góp từ TĐKT cũng tức là tạo mối quan hệ sâu sắc hơn đối với TĐKT. Nhưng do TĐKT chỉ được nắm giữ một số lượng cổ phiếu xác định, nên lại không bị lệ thuộc vào TĐKT. Như thế tức là NHTM vẫn giữ được tính trung gian trong các hoạt động tín dụng làm giảm thiểu rủi ro đối với các khoản cho vay. Trong khi đó, ngân hàng vẫn tranh thủ được những ưu thế từ không chỉ một mà tất cả các TĐKT tham gia góp vốn vào ngân hàng. Đó là lợi thế lớn và tạo nhiều thuận lợi cho ngân hàng trước những rủi ro thị trường. Thứ ba là việc các TĐKT mua vào cổ phiếu của các NHTM sẽ làm tăng tính thanh khoản của cổ phiếu trên thị trường, đồng thời có thể trở thành là động lực kích thích thị trường chứng khoán phát triển. Đối với một thị trường chứng khoán còn non trẻ với số lượng khá lớn các nhà đầu tư nhỏ lẻ như thị trường Việt Nam thì đây là một việt rất tốt. Thứ tư là do các TĐKT chỉ được nắm giữ một lượng cổ phiếu tối đa theo quy định, nên sự thâm nhập của TĐKT vào NHTM và ngược lại là không sâu sắc lắm. Do đó làm giảm thiểu khả năng xuất hiện các TĐKT – tài chính lớn làm lũng đoạn thị trường. Đồng thời, việc giám sát và quản lý của Nhà nước đối với mối liên kết này cũng dễ dàng hơn. 3.2.2. Yêu cầu của mô hình Thứ nhất là về điều kiện vĩ mô: tuy đây là mô hình phù hợp với Việt Nam nhưng để vận hành mô hình có hiệu quả, cần có giới hạn về tỷ lệ góp vốn của một TĐKT vào một NHTM. Hiện nay, mục 4b, trong điều 5, Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN [11] thì "Một cổ đông là tổ chức được sở hữu tối đa 20% vốn điều lệ của một ngân hàng". Số lượng cổ phần này vẫn còn là mức cao. Nên giảm xuống chỉ còn từ 10 – 15% cổ phần của ngân hàng. Như thế để đảm bảo tính tự chủ của ngân hàng và pha loãng các mối quan hệ ràng buộc nội bộ tạo ra do sự liên kết NHTM với TĐKT. Cũng cần đặt ra giới hạn dưới nhằm hạn chế việc các TĐKT có qui mô vốn nhỏ đầu tư dàn trải làm ảnh hưởng đến hoạt động chính của TĐ, tránh lãng phí nguồn lực do đầu tư sai mục đích. Giới hạn dưới của tỷ lệ góp vốn cũng sẽ hạn chế sự tham gia của các tổ chức kinh tế không đủ tiềm lực. Thứ hai là về TĐKT tham gia góp vốn vào NHTM: Để tránh được các rủi ro khi tham gia vào một lĩnh vực mới đầy rủi ro là lĩnh vực ngân hàng, các TĐKT cần phải có tiềm lực kinh tế mạnh và làm chủ được lĩnh vực kinh doanh chính của mình. Tức là các TĐKT trước khi có sự thâm nhập và liên kết sâu hơn bằng cách góp vốn vào NHTM, cần đầu tư mở rộng sản xuất và đảm bảo thị phần của mình trên thị trường chính. Có như thế mới đảm bảo được vị thế của tập đoàn trên thị trường. Mặt khác, các TĐKT cũng phải có những chuyên gia chuyên môn về lĩnh vực kinh doanh ngân hàng đại diện cho phần vốn góp của mình. Điều đó sẽ đảm bảo cho quyền lợi của tập đoàn. Các tập đoàn cũng nên có những suy nghĩ, cân nhắc kĩ trước khi gia nhập mô hình liên kết này. Thứ ba là về NHTM nhận vốn góp: NHTM phải có khả năng quản lý tốt, tính tự chủ cao để không bị chi phối khi gia nhập vào mô hình. Các ngân hàng tham gia trong mô hình phải có khả năng chuyển thời hạn vốn tốt để không bị ảnh hưởng xấu của các ràng buộc nội bộ của mô hình. Mặt khác, NHTM phải có các phương án sử dụng vốn hiệu quả để tạo ra doanh thu cao nhất mà không bị lãng phí vốn. Khi đã gia nhập vào liên kết, các NHTM phải giữ cho mình một chỗ đứng và tránh lệ thuộc vào TĐKT. Để đảm bảo được các yêu cầu về hoàn thiện mô hình liên kết giữa NHTM với TĐKT ở Việt Nam thì việc đầu tiên là phải hoàn thiện từ bản thân các TĐKT và các NHTM. Do đó bản thân NHTM và TĐKT có mong muốn phát triển mối liên kết này cần có những biện pháp cụ thể để tự hoàn thiện hoá trước khi tính đến việc liên kết với TĐKT hay NHTM khác. 3.2.3. Định hướng phát triển các TĐKT Việt Nam Hiện nay vẫn chưa có văn bản pháp lý nào thừa nhận sự tồn tại của TĐKT ở Việt Nam. Trong thực tế thì TĐKT Nhà Nước có một sự thừa nhận nào đó từ phía Nhà Nước vì nó là sự phát triển từ các tổng công ty 90/91 của Nhà Nước. Nhưng TĐKT tư nhân thì vẫn chưa tìm được tiếng nói cụ thể cho riêng mình. Điều quan trọng nhất bây giờ đối với các TĐKT là cần phải được hoạt động dựa trên hệ thống văn bản pháp lý rõ ràng và cụ thể mà không có bất cứ sự phân biệt nào. 3.2.3.1. TĐKT Nhà Nước Như đã phân tích ở trên, TĐKT Nhà Nước được hình thành dựa trên các tổng công ty 90/91 trước đây của Nhà Nước. Do đó, trên thực tế Nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chi phối, thường là trên 50% - 70%. Điều này làm giảm mức độ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vì với tổng số cổ phần của tất cả các cổ đông ngoài Nhà nước là dưới 50%, họ ít có khả năng tham gia vào các quyết định lớn của tập đoàn, cho dù có góp vốn bao nhiêu. Đồng thời, nó cũng tạo ra hiện tượng độc quyền Nhà nước, làm giảm tính cạnh tranh của các tập đoàn. Do đó, cho đến nay Nhà Nước vẫn cần phải đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước một cách vững chắc theo hướng hình thành các doanh nghiệp đa sở hữu nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Để thực hiện được mục tiêu trên, Nhà nước cần giảm bớt tỉ lệ vốn cổ phần nắm giữ trong các TĐKT Nhà nước mà chuyển bớt sang khu vực tư nhân. Thực hiện tự do kinh doanh để tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ngoài ra cần tiếp tục mở rộng diện cổ phần hóa đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh còn lại, nhằm tạo động lực phát triển, làm cho vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tăng lên và được sử dụng một cách có hiệu quả, tạo tiền đề huy động vốn xã hội vào phát triển doanh nghiệp. Tuy nhiên, cổ phần hóa cần có sự cân nhắc và chọn lựa thời điểm niêm yết cổ phiếu tránh để hoạt động kinh doanh bị ảnh hưởng xấu do giá cổ phiếu. Bên cạnh đó, các TĐKT cần thực hiện mở rộng quy mô đầu tư sản xuất để tăng lợi nhuận. Tuy các tập đoàn kinh doanh đa ngành, đa nghề nhưng vẫn phải đảm bảo đủ số vốn để đầu tư vào kinh doanh ngành nghề chủ đạo làm cơ sở. Ví dụ: Tập đoàn điện lực Việt Nam EVN, ngoài việc kinh doanh độc quyền trong lĩnh vực cung cấp điện lực, EVN còn tham gia vào các ngành viễn thông công cộng (EVNtelecom, E-tel, E-phone...), tài chính ngân hàng (góp vốn đầu tư vào Maritime bank...), chứng khoán và bảo hiểm... Nhưng ngành kinh doanh chủ yếu của EVN vẫn là cung cấp độc quyền điện lực. Do đó, cần phải chú trọng vào ngành kinh doanh này, tạo cho nó cơ sở hạ tầng tốt nhất, tạo điều kiện phục vụ tốt nhất đối với khách hàng và đạt hiệu suất làm việc cao nhất. Hiện nay, các TĐKT Việt Nam có thể nói là còn non trẻ, bản thân trong các ngành, lĩnh vực có các TĐKT nhưng các TĐKT này vẫn chưa có được vị thế xứng đáng trong bản thân ngành đó do bản thân sức cạnh tranh và thị phần chưa đủ lớn. Ngoại trừ các TĐKT hoạt động trong các lĩnh vực được Nhà nước bảo hộ độc quyền như EVN hoạt động trong ngành điện lực ra thì thực tế thị phần của các TĐKT chưa phải là chi phối, đồng thời cũng chưa vươn ra được tầm quốc tế cả về sản phẩm và lao động. Do đó, thay vì đầu tư vào một số ngành không chuyên khác như là ngành ngân hàng tài chính, các TĐKT Việt Nam nên chuyên tâm phát triển ngành chủ đạo và đưa TĐKT Việt Nam có vị thế lớn trong nội bộ ngành tại Việt Nam và trên thế giới. Có như thế, các TĐKT Nhà nước mới có thể đảm nhiệm tốt vai trò mà Nhà nước giao phó. 3.2.3.2 TĐKT tư nhân Hiện nay, Nhà Nước đang tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát triển nhưng lại chưa có một chính sách, định hướng cụ thể nào cho TĐKT tư nhân. Thậm chí chưa hề có một định nghĩa chính thức hay một hệ thống tiêu chí chính thức để xác định thế nào là TĐKT tư nhân. Chính vì thế TĐKT tư nhân vẫn đang phải dò dẫm trên từng bước đi. Hơn bao giờ hết, lúc này, Nhà Nước cần phải sớm xây dựng một hành lang pháp lý rõ ràng và minh bạch làm cơ sở giúp cho các TĐKT hoat động tốt hơn. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất đối với các TĐKT Việt Nam hiện nay lại không phải là hành lang pháp lý của Nhà nước mà là cơ sở liên kết của nội bộ tập đoàn. Trên thế giới, các TĐKT được thành lập dựa trên cơ sở các liên kết về sở hữu, về vốn, để mở rộng thị phần, tạo yếu tố đầu vào, đầu ra hoặc về các lợi ích khác đối với tập đoàn theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương. Còn ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là tự phát trên cơ sở các mối quan hệ đem lại lợi ích cho một số ít chủ sở hữu chứ không phải trên cơ sở quan hệ lợi ích đối với tập đoàn. Do đó, các TĐKT Việt Nam còn mang tính đa tạp, thiếu thống nhất và chưa đạt được hiệu quả cần thiết. Vì vậy, vấn đề đầu tiên là phải tái cấu trúc trong bản thân các TĐKT, xác định rõ các lợi ích của mối liên hệ đối với tập đoàn và thực hiện mở rộng tập đoàn trên cơ sở lợi ích tập đoàn. Bên cạnh đó, mô hình liên kết giữa các công ty trong TĐKT Việt Nam ở Việt Nam hiện nay vẫn còn là một vấn đề. Cần nhấn mạnh là: Tập đoàn không phải là một doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân độc lập. Do đó, các mệnh lệnh hành chính không được sử dụng trong điều hành các tập đoàn. Các doanh nghiệp là thành viên của tập đoàn đều có pháp nhân độc lập, có cơ quan quyền lực cao nhất như hội đồng thành viên (với công ty TNHH), đại hội cổ đông (với công ty cổ phần). Cũng tức là mỗi thành viên giống như một bộ máy độc lập mà để vận hành chúng thống nhất cần có một cơ chế điều hoà hợp lý. Trên thế giới, mối quan hệ này không nhất thiết là mối quan hệ công ty "mẹ"-"con". Nhưng ở Việt Nam, do hầu hết các TĐKT được hình thành dưới mối quan hệ này nên TĐKT được mặc định là hình thức liên kết công ty "mẹ"-"con" và điều này là không đúng. Do đó, cần xác định lại về mối quan hệ trong các TĐKT Việt Nam cho phù hợp từng tập đoàn, trong từng ngành nghề mà không bó buộc trong hình thức "mẹ"-"con". Một thực tế khác là các TĐKT lớn ở Việt Nam chỉ mới được tính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới. Trong khi các tập đoàn kinh tế trên thế giới thường chiếm phần lớn thị phần trong những mặt hàng chủ đạo của tập đoàn đó và vì vậy có doanh thu rất cao. Về lao động, các tập đoàn thường thu hút một số lượng rất lớn lao động ở chính quốc và ở các quốc gia khác. Ví dụ, tập đoàn Air France (Pháp) bao gồm 16 công ty con với 45.000 lao động; tập đoàn Danone (Pháp) chuyên sản xuất sữa tươi, bánh bích quy, thực phẩm, nước khoáng, bia, có 81.000 nhân viên và tập đoàn Fiat (Italia) có 242.300 nhân viên... Phần lớn các tập đoàn mạnh trên thế giới hiện nay là tập đoàn đa quốc gia, tức là có các chi nhánh, công ty con ở nhiều nước trên thế giới. Chẳng hạn, tập đoàn HENKEL (Đức) có 330 chi nhánh, công ty con ở nước ngoài. Tương tự, số chi nhánh, công ty con ở nước ngoài của tập đoàn Simens (Đức) là 300; tập đoàn Roche (Thụy Sĩ): 140, tập đoàn Tractebel (Bỉ): 100, tập đoàn Unilever (Anh): 90... Thì các TĐKT Việt Nam vẫn chỉ chiếm thị phần hạn chế. Như là thị phần cung cấp máy tính chủ theo doanh thu năm 2008 của Tập đoàn IBM (Mĩ) tại Việt Nam là 50.1%, chiếm 41,9% thị phần theo doanh thu tại Đông Nam á. Trong khi đó, trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ mạng, là một trong các ngành kinh doanh chủ lực của FPT thì tập đoàn chỉ đạt có 33%. Vì vậy, trước mắt các TĐKT tư nhân nên đầu tư vốn và nguồn lực để phát triển lĩnh vực kinh doanh mũi nhọn của tập đoàn nhằm. Mục tiêu đặt ra là đưa tập đoàn phát triển lớn mạnh xứng tầm một TĐKT lớn của quốc gia và xa hơn là được thừa nhận trên quốc tế. Nói tóm lại, TĐKT Việt Nam hiện nay chỉ là những TĐKT mới thành lập, thời gian hoạt động chưa lâu dài và hiệu quả hoạt động chưa cao. Để phát huy toàn diện vai trò và đảm bảo hiệu quả hoạt động các TĐKT tại Việt Nam đòi hỏi không chỉ là những biện pháp mang tính vĩ mô của nhà nước mà còn cả sự cố gắng trong nội bộ tập đoàn. Có như thế, các TĐKT mới có thể phát triển vững mạnh và đạt được những yêu cầu của mô hình liên kết với NHTM. 3.2.4. Định hướng phát triển đối với NHTM Hệ thống NHTM ở Việt Nam hiện nay về căn bản đã phát triển khá lớn mạnh. Tuy nhiên vẫn chưa có nhiều ngân hàng đảm bảo được các tiêu chuẩn quốc tế về ngân hàng. Do đó, để tránh các ảnh hưởng tiêu cực của mô hình kinh tế, các NHTM phải tự hoàn thiện mình trước. Đầu tiên, một NHTM tham gia vào mô hình liên kết sâu sắc với TĐKT phải bảo đảm được tiềm lực của mình để không bị phụ thuộc vào TĐKT. Vì thế, các ngân hàng nhỏ không nên tham gia hình thức liên kết này. Ngoài ra, cần hoàn thiện hoá hệ thống phân tích tài chính trong ngân hàng. Bởi đối với nhà quản trị ngân hàng phân tích tài chính đối với NHTM chính là con đường ngắn nhất để tiếp cận với bức tranh toàn cảnh tình hình tài chính của chính ngân hàng mình, thấy được cả ưu và nhược điểm cũng như nguyên nhân của những nhược điểm đó để có thể có định hướng kinh doanh đúng đắn trong tương lai. Một NHTM có hệ thống phân tích tài chính tốt sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn và làm giảm thiểu các yếu điểm gây ra do mô hình liên kết. Hơn nữa, các NHTM cũng không nên chỉ tập trung quan hệ vào một TĐKT mà nên đa dạng hoá mối liên hệ này. Như thế tức là mở rộng hơn quan hệ nội bộ và làm loãng hoá các mối quan hệ này. Đấy cũng là một trong những phương thức đảm bảo tính khách quan cho ngân hàng với tư cách một trung gian tài chính. Đối với các NHTM nhỏ muốn có mối liên hệ sâu hơn với TĐKT thì không nên lựa chọn mô hình liên kết này. Các NHTM nhỏ có tiềm lực kinh tế không cao, khả năng bị phụ thuộc lớn, do đó nên lựa chọn hình thức ngân hàng phát triển để tạo điều kiện tốt hơn cho điều chuyển vốn trong nội bộ TĐKT mà nó phục vụ. Kết luận Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, việc các NHTM liên kết với các TĐKT tạo ra các tập đoàn kinh tế – tài chính lớn là một tất yếu khách quan của nền kinh tế. Điều đó sẽ góp phần tạo ra một nền kinh tế vững mạnh và đa dạng. Nó cũng tạo ra sức mạnh kinh tế lớn hơn cho cả NHTM và các TĐKT mà biểu hiện rõ rệt nhât của nó là sự gia tăng tốc độ tăng trưởng, những lợi thế lớn trong cạnh tranh và mức lợi nhuận kì vọng cao. Tuy nhiên, mọi vấn đề đều có hai mặt của nó. Bên cạnh các yếu tố thuận lợi luôn tiềm ẩn những mặt trái. Và mặt trái của việc các TĐKT và NHTM xâm nhập lẫn nhau là nguy cơ xuất hiện các đầu sỏ tài chính lũng đoạn thị trường. Không chỉ thể, việc liên kết không phải lúc nào cũng thành công và đạt được hiệu quả như mong đợi. Do đó yêu cầu bản thân các TĐKT muốn gia nhập vào lĩnh vực ngân hàng hay những NHTM nhận vốn góp của các TĐKT cần phải có những sự phân tích sâu sắc về từng mô hình liên kết, từ đó đưa ra các quyết định chính xác. Đồng thời đi liền với nó cũng là sự giám sát thường xuyên từ chính ban quản trị NHTM, TĐKT và cao hơn là Chính phủ để các mô hình đạt được hiệu quả lớn nhất trong khi vẫn hạn chế được tối đa các yếu điểm của nó. Dựa trên nền tảng lý luận về TĐKT và NHTM cũng như mối liên hệ này trên thực tiễn, đề án đã trình bày tương đối kỹ về những tồn tại, phân tích các ưu và nhược điểm của từng mô hình liên kết đã và đang tồn tại ở Việt Nam; cũng như chỉ ra các nguyên nhân và hướng gợi mở cho NHTM và các TĐKT và cao hơn là các cấp vĩ mô trong việc nâng cao chất lượng mô hình liên kết ngân hàng – tập đoàn trong hiện tại và tương lai. Để có thể áp dụng có hiệu quả các mô hình liên kết này thì sự nỗ lực của bản thân các NHTM và TĐKT là hết sức quan trọng, bên cạnh đó cũng phải cần có sự quan tâm và chỉ đạo xát sao và kịp thời của NHNN Việt nam. Danh mục tài liệu tham khảo Đại học Kinh tế quốc dân (2007), Ngân hàng thương mại, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân. Đại học Kinh tế quốc dân (2007), Giáo trình kinh tế chính trị Mác-lênin, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân. Đại học Kinh tế quốc dân (2007), Giáo trình Lịch sử kinh tế, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân. Trần Thị Tuệ Linh (2003), Khoá luận tốt nghiệp: "Phân tích báo cáo tài chính ở Techcombank – thực trạng và giải pháp". Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (1998), Luật NHNN Việt nam và Luật các TCTD, Nxb Chính trị Quốc gia. Frederic S. Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb Khoa học kỹ thuật. Ngân hàng TMCP Tiên phong, Báo cáo thường niên và báo cáo tổng kết kinh doanh (kiểm toán) 2008. Ngân hàng TMCP Hàng hải, Báo cáo thường niên và báo cáo tổng kết kinh doanh (kiểm toán) 2007, 2008. Ngân hàng TMCP Việt Nam tín nghĩa, Báo cáo tài chính (kiểm toán) 2008. Ngân hàng TMCP Nhà, Báo cáo tài chính kiểm toán 2007, 2008. Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN, ban hành ngày 07/06/2007 quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần Wikipedia.org

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2259.doc
Tài liệu liên quan