Đề tài Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty Detesco Việt Nam

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty giai đoạn 1998 đến 8 tháng đầu năm 2001 đã tăng lên với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 9,2%. Kim ngạch XNK 8 tháng 2001 tăng 1847210,33 USD so với năm 1998. Cụ thể là: - Năm 1998 tổng kim ngạch XNK của công ty đạt: 6139531,2 USD. Năm 1999 tổng kim ngạch XNK của công ty đạt : 7029491,3 USD tăng so với năm 1998 là : 889960,1 USD hay 14,15%. Năm 2000 tổng kim ngạch XNK đạt là: 7558529,48 USD tăng so với năm 1999 là: 529038,18 USD hay tăng 7,5%. Kế hoạch năm 2001 công ty cần đạt được 9500000 USD. Nhưng trong tám tháng qua công ty đã đạt được 7986741,53 USD tăng so với năm 2000 là: 428212,05 USD hay tăng 5,7%. Mặc dù trong tám tháng công ty đã đạt được cao hơn năm 2000 nhưng trong những tháng còn lại công ty cần thực hiện nốt kế hoạch đã đặt ra. Nói chung ta thấy kim ngạch XNK của công ty tăng đều qua các năm từ 1998 - 2001, điều đó chứng tỏ công ty đã thành công trong lĩnh vực xuất nhập khẩu ngành kinh doanh này có xu hướng ngày càng phát triển và là ngành kinh doanh chủ lực của công ty.

doc76 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty Detesco Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XNK của công ty tăng nên mức đóng góp ngân sách Nhà nước cũng tăng lên hàng năm. Nộp ngân sách Nhà nước năm 1998 là 20542 triệu đồng. Đây là mức khá lớn so với một công ty nhỏ như công ty DETESCO Việt Nam. Năm 1999 nộp ngân sách Nhà nước là 23163 triệu đồng tăng so với năm 1998 là 2621 triệu đồng hay tăng 12,76%. Năm 2000 nộp ngân sách Nhà nước là 25326 triệu đồng tăng so với năm 1999 là 2163 triệu đồng hay tăng 9,34%. Số liệu về sự đóng góp của công ty vào ngân sách Nhà nước là thể hiện sự cố gắng vượt bậc của công ty trong việc làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Sở dĩ mức đóng góp vào ngân sách Nhà nước của công ty như vậy là do công ty trong lĩnh vực kinh doanh XNK đa số là nhập khẩu hàng tiêu dùng. Mà nhập khẩu hàng tiêu dùng là mức thuế sẽ cao. Nó cũng thể hiện một điều là khuyến khích xuất khẩu, nhập khẩu vật tư thiết bị hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ của chính phủ thông qua mức thuế khác nhau. b3/ Lợi tức gộp Lợi tức gộp của công ty thể hiện nếu trong kinh doanh nếu doanh thu thuần tăng giá vốn hàng bán giảm thì lợi tức gộp sẽ cao. Ta thấy doanh thu thuần tăng đều qua các năm làm cho lợi tức gộp cũng tăng đều qua các năm. Năm 1998 lợi tức gộp công ty đạt 1704 triệu đồng. Năm 1999 lợi tức gộp công ty đạt 1988 triệu đồng tăng so với năm 1998 là 2284 triệu đồng hay tăng 16,6%. Năm 2000 đạt 2374 triệu đồng tăng so với năm 1999 386 triệu đồng hay tăng 19,4%. Ngoài ra tỷ lệ lợi tức gộp/ doanh thu thuần cũng tăng đều qua các năm. Điều này chứng tỏ công ty kinh doanh XNK có hiệu quả đạt được lợi nhuận cao cho công ty làm tăng mức thu nhập cho cán bộ công nhân viên đóng góp đáng kể vào ngân sách của Nhà nước. Đánh giá hoạt động XNK ở công ty DETESCO Việt Nam Qua phân tích tình hình hoạt động kinh doanh XNK của công ty ta có thể đưa ra một số đánh giá về hoạt động kinh doanh XNK của công ty như sau: Hoạt động kinh doanh XNK của công ty do trung tâm thương mại đảm nhiệm trong 3 năm qua về ưu điểm trung tâm đã làm đúng các chức năng nhiệm vụ được giao. Trung tâm đã có nhiều năng động trong việc tham mưu cho giám đốc công ty giúp cho việc kinh doanh thương mại phát triển đem lại phần lợi nhuận đáng kể cho công ty. Trung tâm đã tổ chức thực hiện được cơ bản những kế hoạch chỉ tiêu mà công ty đã giao hàng năm. Cán bộ công nhân viên trong trung tâm đã được nâng cao một bước về trình độ nghiệp vụ cũng như tác nghiệp, hạn chế được nhiều sai sót và mất mát.. Tuy nhiên nó vẫn còn có những hạn chế. 2.1/ Bộ máy tổ chức quản lý Phương pháp quản lý kinh doanh, quản lý lao động còn mang nặng tính bao cấp, thiếu các biện pháp chính sách động viên tính sáng tạo, kìm hãm sự phát triển của trung tâm. Trung tâm chưa tìm được kinh tế viên chính có khả năng và trình độ cao có nghiệp vụ thành thạo sáng tạo, quyết liệt, say mê với công việc. Trình độ ngoại ngữ của cán bộ công nhân viên chưa cao, nghiệp vụ kinh tế XNK còn nhiều hạn chế. 2.2/ Về thị trường và nghiên cứu thị trường Trải qua quá trình kinh doanh cho đến naycông ty đã đạt được quan hệ với một số thị trường và cũng trở thành bạn hàng thường xuyên của họ như thị trường Nga, Nhật, Trung Quốc, Hồng Kông,... Về bạn hàng trong nước công ty cũng đã khai thác và phát triển quan hệ với các Doanh nghiệp sản xuất và Doanh nghiệp thương mại, từ đó đã có một hệ thống bạn hàng rộng rãi trong nước. Thành công của công ty trong phát triển thị trường là rất lớn, tuy nhiên cũng cần phải xem xét lại quan điểm của công ty về nghiên cứu thị trường. Công ty chưa có sự chú trọng tới việc nghiên cứu thị trường, chưa thấy được nghiên cứu thị trường là tiền đề quan trọng nhất để phát triển hoạt động kinh doanh, nó cần được thực hiện một cách có tổ chức có kế hoạch. Nếu có được một giải pháp tốt chi việc nghiên cứu thị trường thì kết quả kinh doanh của công ty có thể đạt mức cao hơn nữa. 2.3/ Mặt hàng xuất nhập khẩu Công ty đã có những mặt hàng xuất khẩu mang tính chiến lược như cà phê, hạt điều,... chiếm tỷ trọng cao và ổn định trong kim ngạch nhưng công ty cũng chưa phát huy được cao trong việc xuất khẩu. Hơn nữa công ty có những mặt hàng nhập khẩu mang tính chiến lược như thép, kính xây dựng,...tỷ trọng không cao nhưng có sự tăng ổn định trong kim ngạch, thị trường đầu vào và đầu ra ổn định, thường xuyên. Ngoài ra, công ty cũng đã phát triển một số mặt hàng mới có giá trị lớn. Với các mặt hàng này công ty cần có một sự quan tâm đặc biệt, giữ gìn và phát triển quan hệ với bạn hàng, khách hàng bởi nếu mặt hàng này giảm sút sẽ gây tổn thất nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh, đến kim ngạch XNK và lợi nhuận của công ty. 2.4/ Hoạt động xuất nhập khẩu - Đàm phán và ký kết hợp đồng. Việc đàm phán và ký kết hợp đồng với phía nước ngoài công ty thường thực hiện qua FAX, rất ít khi gặp gỡ trực tiếp để gặp gỡ đàm phán. Chính vì lý do đó chi phí cho việc đàm phán là rất nhỏ tuy nhiên hiệu quả lại thấp kém ít có khả năng mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ với bạn hàng mới. Hợp đồng công ty sử dụng để ký kết thường là dưới dạng các hợp đồng mẫu. Trong quá trình hoạt động kinh doanh các năm qua chưa xảy ra vấn đề gì lớn về hợp đồng, tuy nhiên qua nghiên cứu các hợp đồng của công ty cho thấy một số điều khoản trong hợp đồng chưa chặt chẽ, nội dung hợp đồng chưa đầy đủ, thiếu một số điều khoản cần thiết. Đối với các bạn hàng mới, hoặc các bạn hàng cũ nhưng quan hệ đã xấu đi thì việc sử dụng hợp đồng như vậy sẽ gây khó khăn cho công ty trong việc thực hiện hợp đồng cũng như khiếu nại. Qua quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu của công ty DETESCO Việt Nam trong thời gian qua nói chung là tốt. Thư tín dụng được mở kịp thời, nội dung đầy đủ phù hợp với yêu cầu của hợp đồng. Quá trình sử lý các chứng từ tài liệu được thực hiện nhanh chóng kịp thời đảm bảo cho việc nhận hàng. Thủ tục hải quan và đóng thuế được thực hiện theo đúng yêu cầu đề ra, tuy nhiên cũng có một vài lần thủ tục hải quan bị chậm trễ, nhưng đây là do lỗi của cơ quan hải quan đã tính thuế sai và chậm trễ trong việc thông tin giữa cơ quan hải quan địa phương và tổng cục hải quan, điều này đã gây ra những rắc rối trong quá trình làm thủ tục hải quan và đóng thuế, nhận hàng trong các lần nhập khẩu tiếp. Việc nhận hàng và giải phóng hàng đã được thực hiện nhanh chóng, giải phóng vốn nhanh chóng cho công ty, tăng nhanh vòng quay của vốn. Quá trình thanh toán được thực hiện kịp thời đầy đủ tạo được uy tín đối với các nhà xuất khẩu. 2.5/ Đánh giá tổng kết hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Việc đánh giá tổng kết kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được trung tâm thương mại thực hiện một cách thường xuyên theo tháng, quí, năm. Điều này tạo điều kiện tốt cho công ty thường xuyên kiểm tra hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của trung tâm thương mại. Mặt khác đây cũng là cơ hội cho trung tâm thương mại tự đánh giá hoạt động kinh doanh của mình để rút ra các bài học, tích luỹ kinh nghiệm từ đó khắc phục điểm yếu và phát huy điểm mạnh. Nói chung trong những năm qua tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty do trung tâm thương mại thực hiện đã thể hiện được sự vững vàng của công ty trong điều kiện khó khăn hiệc nay, đồng thời cũng thể hiện năng lực và sự cố gắng vươn lên không ngừng của đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu trong trung tâm thương mại cũng như công ty. PHẦN III PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN, MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GÓP PHẦN THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY TRONG NHỮNG NĂM TỚI Qua nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty trong những năm qua. Công ty đã đưa ra định hướng phát triển và những nhiệm vụ cụ thể của trung tâm thương mại trong những năm tới đặc biệt là năm 2001. 1. Phương hướng chung Trong năm 2001 và vài ba năm tiếp theo hoạt động của trung tâm thương mại vẫn là hoạt động chính của Công ty DETESCO VN. Trung tâm thương mại phải mở rộng, đẩy mạnh kinh doanh cả hai hướng xuất khẩu và nhập khẩu, tổ chức tự doanh, thực hiện chỉ tiêu hạn ngạch được cấp và khai thác nguồn hàng, bạn hàng để thực hiện xuất nhập khẩu ủy thác. Đồng thời tổ chức các hoạt động kinh doanh nội địa, phấn đấu dạt doanh số và lợi nhuận cao cho Công ty. Muốn vậy trung tâm thương mại phải không ngừng phát triển hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá kinh doanh để hoạt động. Thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu tăng cường kim ngạch theo hướng tăng tỷ trọng hàng vật tư, thiết bị, giảm tỷ trọng hàng tiêu dùng. Sử dụng tốt các biện pháp tổ chức hành chính, giáo dục đào tạo, lợi ích kinh tế để tạo ra động lực làm việc cho người lao động. Phát triển xuất nhập khẩu của Công ty với mức tăng trưởng cao, ổn định tạo ra uy tín cao trước bạn hàng trong và ngoài nước. Củng cố vị trí của trung tâm trong Công ty. Duy trì kinh doanh có hiệu quả nâng cao đời sống cán bộ công nhân trong công ty, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, vào quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước và phát triển nền kinh tế. 2. Nhiệm vụ cụ thể a. Thực hiện nhiệm vụ xuất khẩu Tích cực nghiên cứu thị trường, nguồn hàng, bạn hàng, chú trọng khai thác các thị trường Đông âu cũ, Trung Đông, Châu Phi, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Mỹ, Canada để xuất khẩu uỷ thác các ngành hàng: thủ công mỹ nghệ, nông lâm thổ sản, lương thực-thực phẩm, hàng may mặc cho các địa phương, các Công ty trong nước. Tích cực tích luỹ thông tin, kinh nghiệm, mối quan hệ bạn hàng để tự thực hiện các hợp đồng xuất khẩu vào những năm sau. b. Thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu b1. Phần tự doanh Trước hết nghiên cứu các chỉ tiêu hạn ngạch đã cấp, ưu tiên các chỉ tiêu thuận lợi cho phần tự doanh như: - Nhập toàn bộ chỉ tiêu hạn ngạch CKD xe máy bố trí lao động của trung tâm lắp xe và bán sản phẩm, có thể bán buôn hoặc bán lẻ. - Nghiên cứu nhu cầu của thị trường, tính toán thời gian phù hợp tự nhập và tiêu thụ tiêu dùng hết hạn ngạch được cấp. b2. Nhập ủy thác Xây dựng mối quan hệ bạn hàng đã quen. Nhận nhập uỷ thác các mặt hàng được cấp hạn ngạch dưới hai hình thức: - Trung tâm và bạn hàng cùng góp vốn nhập hàng và cùng tiêu thụ như các ngành hàng : văn phòng phẩm, vật liệu xây dựng để tạo lợi nhuận cao hơn. - Hình thức thư hai : Nhận nhập uỷ thác các ngành hàng mà trung tâm chưa có điều kiện tự doanh được như : sắt thép, điện lạnh, kính xây dựng... Phải tích cực thực hiện cả hai hình thức trên để nhập hết chỉ tiêu đã được cấp trong hạn ngạch. c. Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh tiểu ngạch-đường biên và nội địa. - Nghiên cứu thị trường đường biên giữa Việt Nam với các nước trung Quốc, Lào, Campuchia qua các cửa khẩu : Móng Cái Quảng Ninh, Tây Ninh, Đà Nẵng. Tìm hiểu nhu cầu hàng hoá của các bên, tổ chức thực hiện các hợp đồng kinh tế tiểu ngạch. - Nghiên cứu thực hiện các hợp đồng kinh tế hàng tiêu dùng Bắc-Nam. - Mở rộng đại lý cung cấp các bình Gas cho các cửa hàng tiêu thụ lẻ, tiến tới cung cấp cho người tiêu dùng trước mắt ở Hà nội và phát triển sang các Tỉnh : Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. - Mở cửa hàng bán lẻ nội thất. d. Nghiên cứu thị trường, bạn hàng đàm phán, ký kết hợp đồng dịch vụ quá cảnh, tạm nhập tái xuất cho Trung Quốc. Trước mắt xin ngành hàng tạm nhập tái xuất xe ô tô cho Trung Quốc. e. Trung tâm thương mại giữ cầu nối giữa hai chi nhánh TP Hồ Chí Minh và Hải Phòng giải quyết các thủ tục xuất, nhập cho hai chi nhánh, phối hợp thực hiện tốt các hợp đồng. Chỉ số phấn đấu năm 2001 * Doanh số phấn đấu đạt 100 tỷ * Trong đó: - Tự doanh : 42 tỷ - Uỷ thác : 50 tỷ - KD nội địa : 2 tỷ. II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI THUỘC CÔNG TY DETESCO VN Qua quá trình phân tích thực trạng kinh doanh XNK của trung tâm thương mại thuộc Công ty DETESCO VN phần trên. Tôi thấy vấn đề thúc đẩy hoạt động kinh doanh là một vấn đề mang tính lâu dài, thiết thực và cấp bách. Việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh XNK của trung tâm thương mại là điều kiện tiền đề để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bởi đây là ngành kinh doanh chính của Công ty. Để hoạt động kinh doanh XNK của trung tâm trong thời gian tới tiếp tục tồn tại và phát triển, đạt được hiệu quả cao thì cách tốt nhất là trung tâm và Công ty cần xác định đúng hướng đi, lựa chọn chiến lược kinh doanh đúng đắn và phù hợp với từng thị trường, ứng xử linh hoạt với từng tình huống cụ thể. Để thực hiện được điều đó, Công ty cần có một số giải pháp thích hợp tạo điều kiện cho việc XNK của trung tâm thương mại đạt hiệu quả cao thì trong quá trình thực tập tại trung tâm thương mại thuộc Công ty DETESCO VN, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp chủ yếu nhằm góp phần vào việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh XNK của Công ty DETESCO VN. Hy vọng rằng các biện pháp này sẽ giúp ích cho trung tâm thương mại và hợp tác đầu tư phát triển trong thời gian tới. 1. Kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý cán bộ Thực tiễn đã chứng minh rằng, bất kỳ một hoạt động nào muốn mang lại hiệu quả cao, thì vấn đề đặt ra là ai sẽ đứng ra đảm đương công việc đó? Do đó để hoạt động có hiệu quả cao thì yếu tố đặt lên hàng đầu là con nguời. Hiện nay những người được tuyển vào Công ty đều do quen biết không có kiểm tra năng lực cụ thể. Vì vậy Công ty cần mạnh dạn đứng ra tuyển người tài thực sự cho Công ty bằng những chính sách khuyến khích nhaan tài như đưa ra chế độ thưởng phạt công minh, tuyển người cần phải tổ chức thi tuyển để kiểm tra năng lực thực sự đồng thời phải mạnh dạn tinh giảm những người không có năng lực, không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giải quyết chế độ hưu trí cho những người đã đến tuổi nghỉ hưu. Để khuyến khích cán bộ công nhân viên trong Công ty hăng say làm việc cần quán triệt nguyên tắc "phạt không kéo dài, thưởng đừng chậm chễ" trong công tác quản lý Công ty, thưởng- phạt là hai thứ công cụ quan trọng, tác dụng của phạt là ngăn những thói xấu của con người bởi vậy sự phạt nhất thiết phải công khai và công bằng. Tác dụng của thưởng là khuyến khích cái tiến bộ, khích lệ tính tích cực của sản xuất ở mỗi con người, nó có tính thời hiệu rất mạnh, chỉ có khen thưởng một cách xác đáng, kịp thời mới có thể phát huy được tác dụng của khen thưởng. Mặt khác, Công ty cần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho cán bộ, công nhân viên để họ luôn luôn có tinh thần phấn đấu vươn lên không có thì sẽ bị tụt hậu so với đồng nghiệp của mình, phải làm sao cho họ luôn cảm thấy mình đang bị lạc hậu so với thời đại nếu họ không cố gắng vươn lên về trình độ nghiệp vụ cũng như về khả năng giao tiếp hàng ngày của họ. Công ty cần đào tạo và đào tạo lại nghiệp vụ cho cán bộ-công nhân viên, cần tạo điều kiện cho họ nâng cao trình độ về mọi mặt bằng cách gửi vào các trường đại học trong nước hay nước ngoài. Hiện nay trình độ ngoại ngữ của cán bộ công nhân viên chưa được cao, do vậy mà nhiều trường hợp có thể hiểu sai ý đối tác đi đến một kết quả không tốt cho cả mối quan hệ lẫn những lợi ích kinh tế. Nhiều khi do trình độ ngoại ngữ kém nên các hợp đồng có những ràng buộc bất lợi cho Công ty nhưng Công ty không biết. Do vậy các cán bộ cần củng cố thêm về kiến thức ngoại ngữ để theo kịp với sự đòi hỏi hết sức cấp bách của thời đại ngày nay. Cụ thể việc kinh doanh XNK thì trung tâm thương mại thuộc Công ty DETESCO VN cần đổi mới công tác tổ chức và quản lý như sau: + Về tổ chức cán bộ cần : - Tìm nguồn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ để trong năm nay và những năm tiếp theo phải có những kinh tế viên chính về nghiệp vụ xuất nhập khẩu đảm nhận được nhiệm vụ chính của trung tâm. - Tăng cường cán bộ quản lý cho trung tâm, trước mắt bố trí một phó giám đốc trung tâm, phụ trách kinh doanh nội địa và dịch vụ. - Bố trí lại lực lượng lao động sao cho phù hợp với công việc tạo điều kiện ổn định tương đối, giúp cán bộ làm quen với công việc, tích luỹ kinh nghiệm làm việc. - Về cán bộ vài ba năm sau phải tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ (có trình độ đại hoạc chuyên ngành, có kinh nhgiệm làm việc, dám nghĩ, dám làm, say mê với công việc). - Bố trí cán bộ cho hợp lý Hiện nay trung tâm có 20 lao động trong đó 5 lao động khó bố trí công việc. Không có chuyên viên chính, cần tuyển thêm 1 kinh tế viên chính có trình độ và năng lực để giúp cho giám đốc trung tâm. Hoạt động kinh doanh XNK của trung tâm chưa phân chia rõ ràng nên trước mắt trung tâm chia thành 3 mảng hoạt động : - Bộ phận XNK. - Bộ phận phụ lắp ráp xe máy. - Bộ phận dịch vụ và kinh doanh nội địa. * Trung tâm cần đổi mới nhiệm vụ quản lý - Trung tâm cần xây dựng quy chế quản lý và làm việc sau đó trình lên giám đốc Công ty phê duyệt để thực hiện. - Cần nghiên cứu và làm thí điểm việc khoán công việc, khoán doanh số và khoán lợi nhuận cho các bộ phận. - Trung tâm nên đề xuất chế độ thưởng, phạt để khuyến khích người lao động trình lên giám đốc phê duyệt. Tóm lại, vấn đề kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ hiện nay là vấn đề hết sức cấp bách. Công ty cần phải triển khai ngay. Nó là vấn đề cấp bách vì là cong người luôn là yếu tố hàng đầu quyết định đến sự thành công hay thất bại của bất kỳ một tổ chức sản xuất kinh doanh nào. Nếu sắp xếp đúng thì việc làm ăn se thành công. 2. Chú trọng đến nghiên cứu thị trường Trong cơ chế thị trường thì thị trường đã trở thành trung tâm của mọi hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với thị trường sự tồn tại và phát triển của từng Công ty gắn với mức độ nắm vững thị trường, hiểu biết nhu cầu thị trường và các xu thế biến đổi của nó. Nghiên cứu thị trường có tính chất quyết định bởi nó là tiền đề cho mọi hoạt động kinh doanh. Đại tuyệt đối với Công ty có quy mô vừa và nhỏ thì không thể tác động làm thay đổi thị trường. Vì vậy nghiên cứu thị trường càng trở nên quan trọng hơn trong cơ chế thị trường công tác nghiên cứu thị trường cho phép ta có thê nắm được nhu cầu của khách hàng trên thị trường, giá cả, dung lượng thị trường, các tham số thuộc về môi trường kinh doanh. Từ đó có thể lựa chọn được mtắ hàng kinh doanh, đối tượng giao dịch, phương thức kinh doanh sao cho phù hợp đạt được hiệu quả cao nhất. Nghiên cứu thị trường bao gồm các bước quan sát, phân tích và dự đoán về tình hình thị trường bên cạnh việc dự đoán về sản phẩm còn phải dự đoán về tình hình chung như phát triển kinh tế -xã hội ở các nước và khu vực có liên quan, dung lượng thị trường, tình hình tài chính tiền tệ, chính sách và tập quán buôn bán. Để kinh doanh có hiệu quả, củng cố và mở rộng thị trường nhiều hơn nữa thì Công ty cần phải tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Qua quá trình quan sát và nghiên cứu tại Công ty DETESCO VN cho thấy Công ty chưa thật sự coi trọng vấn đề nghiên cứu thị trường như là một động lực, tiền đề để phát triển kinh doanh. Theo quan điểm của tôi thì Công ty cần phải có các biện pháp sau đây để tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu cũng như hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường. + Thứ nhất là thành lập bộ phận chuyên ngành nghiên cứu thị trường để cung cấp thông tin cho toàn Công ty. Thực tiễn Công ty cho thấy rằng Công ty chưa có một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường mà việc này thường được thực hiện bởi các cán bộ nhân viên của phòng kinh doanh của trung tâm thương mại. Điều này có nhiều vấn đề chưa hợp lý bởi các cán bộ kinh doanh thì không thể có kiến thức chuyên môn về nghiên cứu thị trường do đó thực hiện việc này không tốt sẽ dẫn đến hiệu quả kinh doanh giảm. Mặt khác không thể lập bộ phận nghiên cứu thị trường trong từng đơn vị kinh doanh vì chi phí sẽ lớn. Chính vì vậy việc lập bộ phận nghiên cứu và cung cấp thông tin thị trường cho các bộ phận kinh doanh trong Công ty là hợp lý và mang lại hiệu quả cao. Ưu điểm của bộ phận này là có kiến thức chuyên môn cao, có thể được những thông tin riêng một cách đầy đủ chính xác. Tuy nhiên, bộ phận này cũng chỉ có thể tồn tại cùng với một nguyên tắc là tuyệt đối bí mật với các thông tin riêng từ bộ phận kinh doanh. Thực hiện được nguyên tắc này hay không phụ thuộc vào việc tuyển chọn nhân sự và công tác thông tin của bộ phận này. Đối với nghiên cứu thị trường nước ngoài thì Công ty cần xác định các thị trường trọng điểm. Đây là các thị trường có quan hệ chặt chẽ với công ty thể hiện kim ngạch chiếm tỷ trọng lớn, sự thay đổi của nó có ảnh hưởng trầm trọng đến kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Nghiên cứu theo dõi chặt chẽ thị trường này đảm bảo cho Công ty một nguồn hàng nhập khẩu ổn định làm cơ sở cho việc phát triển các thị trường khác. Nghiên cứu thị trường nước ngoài không phải là nghiên cứu về hàng hoá như khối lượng, chất lượng, quy cách, giá cả, xu hướng thay đổi... mà cần phải nắm bắt và hiểu về luật pháp, chính sách thương mại, các thông tin buôn bán và tình hình kinh tế chính trị... của thị trường đó. Đây là phần việc mà nếu bộ phận chuyên môn nghiên cứu thị trường thì sẽ rất hiệu quả. + Đối với thị trường trong nước Công ty cần nghiên cứu nhu cầu đồng thời dự đoán xu hướng thay đổi nhu cầu để nhập khẩu hàng hoá đúng lúc và phù hợp. Mặt khác là Công ty phát triển kinh tế kỹ thuật thì Công ty cần theo dõi quá trình sản xuất trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu vật tư kịp thời và chớp được thời cơ kinh doanh. Xác định sự cạnh tranh trong nước, mức độ hoạt động của các Công ty xuất nhập khẩu trong nước. + Xử lý thông tin: nghiên cứu thị trường không phải chỉ là đưa ra các thông tin mà hệ thống các thông tin đó phải được các cán bộ kinh doanh phân tích xử lý để nhận diện ra một thương vụ kinh doanh. Đây là mục tiêu và cũng là kết quả của quá trình nghiên cứu thị trường, thương vụ có tính chất khả thi càng cao thì chứng tỏ quá trình nghiên cứu thị trường tốt. Để làm tốt công tác thị trường thì cần phải tăng cường đội ngũ cán bộ giỏi tinh thông nghiệp vụ và có trình độ ngoại ngữ, tin học để có thể nắm bắt được thông tin kịp thời và xử lý thông tin được tốt. Như vậy, công tác nghiên cứu thị trường phải được tiến hành song song cả trong phạm vi nội địa và quốc tế, bởi vì có nghiên cứu tốt thị trường nội địa thì Công ty có thể thu gom hay mua các đầu vào cần thiết một cách tốt nhất để phục vụ kinh doanh xuất nhập khẩu có lợi ích nhất cho Công ty. Có như vậy mới đứng vững trong điều kiện quốc tế hoá và phát huy chiến lược đa dạng hoá kinh doanh của mình một cách có hiệu quả nhất. 3. Củng cố quan hệ với bạn hàng, khách hàng - Củng cố giữ mối quan hệ với khách hàng, bạn hàng cũ. trong cơ chế thị trường thì vấn đề cạnh tranh trở nên gay gắt do đó trong cơ chế cạnh tranh như hiện nay thì có được khách hàng là rất khó. Giữu được mối quan hệ với bạn hàng, khách hàng cũ đã hiểu và có sự tin tưởng với nhau còn khó hơn. Cái cốt yếu để giành chiến thắng trên thị trường hiện nay là có sự tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các bạn hàng, khách hàng tạo mối quan hệ lâu dài thường xuyên. Đây là chỗ dựa cho hoạt động kinh doanh của Công ty, muốn đạt được điều đó thì phong cách làm ăn, cư xử của Công ty phải thể hiện chữ tín, sự sòng phẳng giúp đỡ lẫn nhau trong điều kiện khó khăn. Chỉ có sự chân thành và sòng phẳng mới có thể tạo được quan hệ làm ăn lâu dài, ổn định, không nên để một lợi ích nhỏ trước mắt mà làm mất đi khách hàng, mất đi lợi ích lớn sau đó. Tuy nhiên Công ty cũng cần thường xuyên đánh giá lại triển vọng của các bạn hàng mà đặc biệt là khả năng tài chính để từ đó có sự lựa chọ sàng lọc xem mối quan hệ mà cần được oi trọng phát triển, mối quan hệ nào cần được cắt đứt hay hạn chế để đem lại hiệu quả cao hơn trong hợp tác kinh doanh hiện tại và lâu dài. - Tìm hiểu mở rộng quan hệ với khách hàng, bạn hàng mới trong sự đa dạng và phát triển của kinh doanh không cho phép hoạt động kinh doanh chỉ hạn hẹp trong một số chủ thể nhất định. Do cạnh tranh, cùng với việc mất đi một bạn hàng, khách hàng thì việc tìm hiểu và phát triển quan hệ với bạn hàng mới là điều tất yếu không thể thiếu. Phát triển quan hệ kinh doanh có thể thông qua các bạn hàng cũ, qua các tài liệu quảng cáo... Việc tìm hiểu khách hàng là rất khó khăn nhưng không thể vì thế mà bỏ qua sự thận trọng trong kinh doanh. Chính vì thế trước khi đặt quan hệ với khách hàng mới cần phải tìm hiểu về họ, các yếu tố cơ bản là: tình hình tài chính của khách hàng, tình hình kinh doanh và triển vọng phát triển. Người chịu trách nhiệm trong quan hệ kinh doanh của Công ty... Nghiên cứu vấn đề này đảm bảo cho Công ty sự an toàn trong kinh doanh và xây dựng các đối sách cần thiết khi tiến hành kinh doanh. 4. Giải pháp giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng. Việc giao dịch đàm phán có một vai trò quan trọng trong ký kết hợp đồng, là cơ sở cho hoạt động kinh doanh, đàm phán để thành công phải dựa trên nghiên cứu thị trường tìm hiểu đối tác ngoài ra còn phụ thuộc không gian, thời gian khung cảnh và nghệ thuật đàm phán. Sách lược chung là dấu kín bối cảnh của mình tìm hiểu bối cảnh của đối phương. Điều cần ghi nhớ khi đàm phán là đàm phán nhằm đạt được sự thoả thuận có lợi cho ta và cho đối phương chứ không phải tiến đến chỗ chấm dứt quan hệ do đó không nên gây sức ép quá mạnh. Khung cảnh của cuộc đàm phán là rất quan trọng, một khung cảnh tốt sẽ làm hai bên giảm căng thẳng và dễ đi tới sự thoả thuận. Thực tế tại Công ty DETESCO VN ít khi đàm phán với đối tác nước ngoài tại Công ty, nhưng khi đàm phán Công ty chưa tạo được một khung cảnh tốt, Công ty chưa có phòng chuyên dụng, cơ sở vật chất phục vụ cho đàm phán còn chưa tốt đẽ gây ấn tượng xấu về Công ty cho đối tác nước ngoài. Theo ý kiến của tôi thì Công ty nên có một phòng dành riêng cho đàm phán với trang thiết bị tốt gây ấn tượng tốt từ đầu cho đối phương. Về giao dịch Công ty thường sử dụng thư thương mại qua Fax. Để dễ đi đến thở thuận thư thương mại cần có một quy chuẩn nhất định, nội dung thư nên đưa phần có lợi ích cho đối phương lên đầu, phần yêu cầu của ta xuống sau như vậy đối phương sẽ cảm thấy ta quan tâm tới lợi ích của họ. 5. Đối với đối thủ cạnh tranh Kinh doanh trong cơ chế thị trường Công ty phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ nhiều phía. Cạnh tranh như một con dao hai lưỡi. Một mặt nó là động lực thúc đẩy doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh, phát huy mọi tiềm lực, quản lý hiệu quả hoạt động kinh doanh. Mặt khác tham gia hoạt động cạnh tranh cũng là hành động dẫn doanh nghiệp đến chỗ phá sản, bị đào thải khỏi thương trường giành chỗ cho doanh nghiệp khác trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như vậy để tồn tại được doanh nghiệp phải nắm được thông tin thị trường, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh từ đó đưa ra các đối sách thích hợp. Chiến lược chung cho cạnh tranh là lớn hơn né tránh, ngang bằng hợp tác, nhỏ hơn đè bẹp. Trong thị trường nhập khẩu, Công ty chịu sự cạnh tranh mạnh nhất từ các Công ty xuất nhập khẩu, để chiến thắng trên thị trường này Công ty cần có những đối tác cạnh tranh thích hợp. Đó là các điều kiện mua bán, thanh toán, tín dụng tiện lợi hơn đối thủ, là sự giữ chữ tín, luôn đúng hạn các yêu cầu được thực hiện đầy đủ cả trong quan hệ với các bạn hàng, ngân hàng và các cơ quan chức năng trong cạnh tranh các Công ty của ta cần được giữ các bí mật đồng thời phải khai thác các thông tin của đối thủ đó là các thông tin về kế hoạch ngày về của hàng hoá, các khó khăn, thuận lợi... khai thác được thông tin của đối thủ là vô cùng quan trọng đối với việc kinh doanh. Thời gian trong cạnh tranh là yếu tố cực kỳ quan trọng, công ty cần rút ngắn thời gian thực hiện, chớp thời cơ trong những trường hợp cần thiết. Chẳng hạn khi hai lô hàng cùng loại của Công ty và đối thủ cùng về thì việc bỏ ra thêm chi phí để rút ngắn thời giam làm thủ tục, thời gian bốc xếp...để tung hàng ra thị trường trước đối thủ sẽ mang lại hiệu quả rất lớn. 6. Xác định lượng XNK tối ưu Nhà kinh doanh phải xác định được số lượng hàng xuất nhập khẩu tối ưu trên cơ sở tối ưu hoá cả về giá trị sử dụng và giá trị. Toàn bộ chi phí liên quan đến hàng hoá xuất nhập khẩu gồm có: chi phí thu mua, vận chuyển gồm có các khoản mục chi phí liên hệ giao dịch, chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng, chi phí cho việc tiếp nhận hàng về số lượng và chất lượng, chi phí tiền mua hàng và hạch toán tăng, chi phí bảo quản... trong các lượng chi phí kể trên có những khoản thay đổi theo lượng hàng mua bán như chi phí về tiền mua hàng, vận chuyển bốc dỡ... lượng hàng hoá càng nhiều chi phí càng lớn. Nhưng cũng có những khoản chi phí không thay đổi theo lượng hàng hoá mua bán, chúng tương đối cố định như chi phí theo lượng hàng hoá mua bán cũng tương đối cố định như chi phí về thủ tục xuất nhập khẩu, hạch toán nhập kho, chi phí tiếp nhận hàng và số lượng, chất lượng (trong một chừng mực nào đó). Lượng hàng đặt mua một lần càng lớn thì chi phí thu mua và vận chuyển cho một đơn vị mua hàng là càng ít và ngược lại. Cho nên xét về chi phí thu mua vận chuyển, mua kượng hàng càng lớn càng có lợi. Nhưng lượng mua càng lớn thì chi phí bảo quản càng cao. Vấn đề đặt ra cho các Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu nên đặt mua hay xuất khẩu một lần bao nhiêu để tổng chi phí là thấp nhất. Có thể áp dụng mô hình toán kinh tế sau : Gọi N là : nhu cầu xuất (nhập) khẩu hàng năm. D : Lượng hàng đặt mua của mỗi đơn hàng. C1 : Phần chi phí thu mua tương đối cố định cho một lần đặt mua. C2 : Chi phí bảo quản một lô hàng lưu động trong kho một năm : g : Đơn giá mua hàng. Ta tính được tổng chi phí Công ty cho lô hàng là : N D C = C1 . + C2 . g . N D 2 Tối thiểu hoá chi phí bằng cách lấy vi phân hàm số C và cho vi phân hàm số C = 0 ta có : C1 . N C2 C ' = + D2 2 2C1N D= C2 Nên: VD : Nhu cầu nhập khẩu năm 2000 của Công ty về sắt thép là 32.000 tấn. Chi phí đặt mua hàng 1 lần là 20.000; chi phí bảo quản 1 tấn hàng trung bình trong một năm là 2.000. Với số liệu trên ta có thể xác định lượng hàng nhập khẩu tối ưu là: 2 . 20 . 3.200 D = = 800 (tấn) 2 7. Công ty cần thay đổi cơ cấu nhập khẩu Hoạt động kinh doanh của Công ty thì chủ yếu là hoạt động nhập khẩu cho nên để phát triển hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, tạo ra mức lợi nhuận cao cho Công ty trên cơ sở tiết kiệm vốn và vận dụng tối đa khả năng về cơ sở vật chất và năng lực của cán bộ trong Công ty, Công ty cần phải thay đổi cơ cấu nhập khẩu. Cụ thể là thay đổi hình thức cơ cấu nhập khẩu, thay đổi cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó Công ty cũng cần phải phát triển các hình thức nhập khẩu mới, các mặt hàng nhập khẩu mới. a. Tăng tỷ trọng nhập khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng nhập khẩu uỷ thác Qua phân tích về hoạt động của Công ty cùng với sự quan sát tìm hiểu tại Công ty cho thấy hoạt động nhập khẩu theo hình thức trực tiếp có đặc điểm là tỷ xuất lợi nhuận cao, Công ty hoàn toàn chủ động trong việc hình thành ý tưởng cũng như thực hiện hoạt động kinh doanh, Công ty có thể khai thác tối đa năng lực của cán bộ cho mục tiêu sinh lợi. Mặt khác nhập khẩu trực tiếp phải sử dụng vốn của Công ty hoặc vay vốn của ngân hàng dẫn đến chi phí kinh doanh cao. Ngược loại hoạt động nhập khẩu uỷ thác có đặc điểm là: lợi nhuận thấp, tỷ xuất lợi nhuận ở mức cố địnhct không phải sử dụng vốn của mình, chi phí kinh doanh do bên uỷ thác chịu. Từ đặc điểm của hai hình thức nhập khẩu này ta thấy rằng để đạt được mục tiêu tăng mức lợi nhuận, tăng tỷ xuất lợi nhuận, vươn tới hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn Công ty cần phải tăng tỷ trọng nhập khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng nhập khẩu uỷ thácnhằm nâng cao tỷ xuất lợi nhuậnvà tận dụng tối đa khả năng vốn của Công ty. Bên cạnh đó Công ty cũng nên vận dụng các cơ hội nhập khẩu uỷ thác để nâng mức lợi nhuận tuyệt đối cuả Công ty và giải quyết sự thiếu hụt vốn kinh doanh. Đạt được sự thay đổi cơ cấu này không thể nâng kim ngạch nhóm này hạn chế tỷ trọng kim ngạch nhóm khác một cách đơn thuần mà nó đòi hỏi Công ty cũng như từng cán bộ có sự cố gắng nỗ lực hết mình để phát triển thị trường, khách hàng từ đó phát triển kinh doanh tăng kim ngạch nhập khẩu trực tiếp. Quan trọng nhất là Công ty phải rất chú trọng đến hoạt động nghiên cứu thị trường. b. Thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu - đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh Hiện nay ta thấy rằng mặt hàng nhập khẩu như xe máy, máy vi tính ngày một tăng lên còn mặt hàng sắt thép, điện lạnh có xu hướng giảm. Điều đó chứng tỏ Công ty có chỗ đứng về mặt hàng xe máy, máy vi tính trên thị trường trong nước. Còn đối với mặt hàng tủ giấy ta thấy kim ngạch ít và chiếm tỷ trọng ít, hơn nữa lợi nhuận từ mặt hàng này không nhiều do đó ta có thể tăng tỷ trọng nhập khẩu xe máy, máy vi tính, giảm nhập khẩu mặt hàng điện lạnh, sắt thép và tủ giấy. Bên cạnh thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu Công ty nên đa dạng mặt hàng nhập khẩu. Đa dạng hoa mặt hàng nhập khẩu tức là khai thác mọi cơ hội kinh doanh không căn cứ mặt hàng, ngành hàng nhằm tăng kim ngạch và lợi nhuận. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh kết hợp với việc xác định các mặt hàng chiến lược, chủ lực sẽ tạo cho Công ty khả năng hoạt động rộng, tăng quy mô kinh doanh nhưng đồng thời có tính ổn định cao. Hiện nay Công ty chủ yếu nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng nhưng ngoài ra Công ty có thể nhập khẩu thêm mặt hàng máy móc thiết bị bởi nước ta đang thực hiện chủ trương hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước hơn nữa đây là Công ty phát triển kinh tế kỹ thuật do đó nhập khẩu thêm mặt hàng máy móc, công nghệ thiết bị là phù hợp với nền kinh tế nước ta và tạo lợi nhuận cho Công ty. Chiến lược kinh doanh này hoàn toàn phù hợp với hoạt động kinh doanh của Công ty. Để có thể mở rộng, đa dạng hoá mặt hàng đòi hỏi công tác nghiên cứu thị trường của Công ty phải mạnh, đội ngũ cán bộ chuyên môn phải thường xuyên được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ giỏi và Công ty phải có đầu tư thích đáng cho nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. 8. Công ty cần tăng cường xuất khẩu Hiện nay mặt hàng xuất khẩu của Công ty đều là mặt hàng mà các nước trên thế giới ưa chuộng vì chất lượng tốt. Hơn nữa, đây là những mặt hàng có thế mạnh ở Việt Nam. Do đó Công ty cần tăng cường tìm kiếm bạn hàng ký kết hợp đồng xuất khẩu để tăng cường xuất khẩu tạo lợi nhuận cao cho doanh nghiệp phù hợp với quan điểm của nhà nước ta. Đại hội lần thứ 8 đã nhấn mạnh "... xây dựng một nền kinh tế mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm sản xuất trong nước có hiệu quả." Để tăng cường xuất khẩu Công ty cần có các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu như: - Nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải tiến cơ cấu xuất khẩu. - Nhóm biện pháp tài chính. - Nhóm biện pháp thể chế tổ chức. III. CÁC TIỀN ĐỀ CHO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY DETESCO VN 1. Vốn kinh doanh Qua nghiên cứu thực tế ở Công ty DETESCO VN cho thấy một số vấn đề nổi trội là Công ty có lượng vốn kinh doanh ít so với mức hoạt động kinh doanh. Khi thực hiện hoạt động kinh doanh đặc biệt là nhập khẩu, Công ty cần một lượng vốn ngoại tệ tương đối lớn. Công ty cần có một lượng vốn để tài trợ cho hoạt động này, Công ty thường không có sẵn nên tìm tài trợ từ ngân hàng. Với khoản vay này Công ty buộc phải tính đến một lượng lãi suất ngân hàng và điều này làm cho chi phí kinh doanh tăng lên, giảm lợi nhuận và khả năng cạnh tranh của Công ty. Để tạo vốn cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Công ty có thể sử dụng các hình thức sau : + Tăng tỷ lệ tích lũy để tăng nguồn vốn. Để thực hiện cách tạo vốn này đòi hỏi phải có thời gian dài mặt khác cần nghiên cứu một cách đầy đủ trước khi thực hiện bởi một tỷ lệ tích luỹ quá cao sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động khác của Công ty. + Sử dụng tín dụng thương mại: trong quá trình xuất khẩu của các Công ty nước ngoài có vốn lớn có thể cung cấp những khoản tín dụng thương mại Công ty DETESCO VN có thể sử dụng nguồn vốn này để tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên tình hình tạo nguồn vốn này chỉ có thể sử dụng với các điều kiện thứ nhất là các chi phí cho khoản tín dụng này như: chênh lệch giá lãi suất hoa hồng môi giới, sự thiệt hại trong các điều khoản phải nhỏ hơn hoặc bằng chi phí phải trả cho ngân hàng nến không sử dụng khoản tín dụng này. Mặt khác thời gian của khoản tín dụng không quá dài, xu hướng biến đổi của tỷ giá cần được nghiên cứu kỹ để tránh chi phí cho tín dụng tăng lên khi trả nợ. + Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên: Việc huy động vốn này có thể thực hiện dưới hai hình thức vay hoặc góp vốn cùng chi lợi nhuận. So sánh với ngân hàng thì chi phí cho việc huy động vốn từ cán bộ công nhân viên xấp xỉ như chi phí trả cho việc vay vốn ngân hàng bởi vì người ta sẽ không bao giờ chịu bỏ vốn ra khi nguồn lợi thu về quá ít. Thậm chí không bằng quỹ ngân hàng tuy nhiên huy động vốn bằng cách này có một điều lợi là: cán bộ công nhân viên sẽ được hưởng phần lãi suất mà lẽ ra phải cho ngân hàng do đó làm tăng thu nhập khi trong kinh doanh có sử dụng một phần vốn của mình thì người cán bộ sẽ vận dụng hết khả năng của mình để ddảm bảo an toàn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ đó hiệu quả kinh doanh chung của Công ty sẽ tăng lên. Sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một cách thức làm gia tăng nguồn vốn kinh doanh. Quản lý vốn chặt chẽ để bảo toàn vốn là một việc làm hết sức cần thiết nhưng đối với từng trường hợp cụ thể như do nguyên nhân bất khả kháng, do khó khăn của bạn hàng cũng cần có sự linh động vê thời gian để có thể giữ gìn thời gian để có thể giữ gìn bạn hàng, hãy tận dụng cơ hội kinh doanh. Đẩy mạnh vòng quay của vốn là biện pháp hiệu quả để tiết kiệm vốn. Đối với công ty DETESCO VN thì vấn đề vốn là vấn đề có tính cấp bách cần được giải quyết nhanh chóng để tạo nên một sức cạnh tranh mạnh mẽ, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh. 2. Nguồn nhân lực cho vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty Thị trường biến đổi rất nhanh chóng đòi hỏi người cán bộ kinh doanh phải năng động hơn, biết thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh mới. Trung tâm thương mại thuộc Công ty DETESCO VN có một đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực, có sức sáng tạo cao. Nhưng do xuất phát từ một căn bản là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, họ đã không được đào tạo một cách có chuẩn mực về trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ... trong quá trình kinh doanh họ đã tự đào tạo, tự tích luỹ kinh nghiệm cho riêng mình, nhưng trước sự thay đổi đến chóng mặt của cơ chế thị trường, của khoa học kỹ thuật thì việc bắt kịp một cách có hiệu quả với điều kiện kinh doanh là không thể. Để có nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng được mọi đòi hỏi của điều kiện kinh doanh, Công ty cần có chính sách đào tạo lại. Việc đào tạo lại cần tập trung vào các trọng tâm chính là ngoại ngữ, nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế, kỹ thuật sử dụng các công cụ phục vụ kinh doanh như máy tính... để đào tạo có hiệu quả Công ty cần lập kế hoạch đào tạo thường xuyên, có trích một tỷ lệ nhất định trong lợi nhuận để lập ngân sách đào tạo. Cán bộ công nhân viên sau khi đào tạo điều tra đánh giá kết quả của quá trình đào tạo và phải được bố trí công việc phù hợp, phát huy được kết quả đào tạo, tránh lãng phí chất xám. Bên cạnh kế hoạch đào tạo thường xuyên Công ty cần khuyến khích quá trình đào tạo. Ngoài đào tạo để phát triển nguồn nhân lực Công ty cón có thể sử dụng một số biện pháp khác là nhận thêm người ngoài Công ty. Biện pháp này có thể mang lại hiệu quả với chi phí không lớn và thời gian không lâu. Nguồn nhân lực này có khả năng công tác tốt vì được đào tạo đầy đủ từ các trường học về cả trình độ ngoại ngữ, nghiệp vụ, vi tính. Phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo ra năng lực nội sinh cho sự phát triển đầu tư vào con người là lĩnh vực mang lại hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy mà Công ty cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong lâu dài. 3. Một số kiến nghị đối với nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu cho Công ty Cũng như mọi hoạt động khác, hoạt động xuất nhập khẩu muốn phát triển được nhanh chóng thì vấn đề những chính sách của nhà nước khuyến khích hay kìm hãm nó sẽ tác động trực tiếp đến việc phát triển nhanh hay chậm của hoạt động xuất nhập khẩu. Do vậy để cho hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty có điều kiện nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ cho Công ty. - Khi bước ra thương trường, nhất là ở phạm vi quốc tế các doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc thu thập các thông tin đáng tin cậy. Vấn đề thông tin là vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi doanh nghiệp bởi vì nếu doanh nghiệp có đủ lượng thông tin đáng tin cậy để xử lý, đưa ra những bước đi thích hợp với từng tình huống cụ thể. Do đó phòng thông tin thương mại cần phải cải cách lại phương thức hoạt động để làm đúng chức năng nhiệm vụ là nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, cung cấp cho những doanh nghiệp những thông tin mới nhất về giá cả và xu hướng biến động, nhu cầu và kế hoạch của các nước khác trên thế giới, phương hướng đầu tư kinh doanh của các tập đoàn trên thế giới. Muốn vậy, Bộ thương mại cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, bảo đảm cho phòng thương mại có những thông tin mới nhất về thị trường. Có như vậy nó mới giúp các doanh nghiệp có được bước đi đúng đắn và phù hợp với từng môi trường kinh doanh. - Nhà nước cần thành lập trung tâm tư vấn pháp luật quốc tế: Bộ tư pháp cùng các cơ quan có thẩm quyền thành lập một trung tâm thông tin pháp luật quốc tế với mục đích cung cấp hiểu biết về pháp luật quốc tế cho các doanh nghiệp, các cán bộ xuất nhập khẩu ở Việt Nam giúp họ nắm vững các luật pháp và thông lệ thương mại hiện hành của các nước trên thế giới nhanh chóng tiếp cận với các thay đổi. Nắm vững pháp luật nước đối tác là điều kiện đầu tiên giúp doanh nghiệp thành công trong ký kết hợp đồng cũng như xây dựng quan hệ làm ăn lâu dài tránh các hiểu lầm đáng tiếc do không hiểu biết pháp luật. - Nhà nước cần tăng cường mức độ cập nhật thông tin trong công tác hải quan giữa các địa phương và tổng cục hải quan tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá. - Nhà nước cần giảm bớt các cơ quan quản lý nhập khẩu: cho đến nay mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện cơ chế quản lý nhập khẩu nhưng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan việc bình giảm ngay lập tức các cơ quan quản lý khó có thể thực hiện được. Theo thống kê hiện nay các cơ quan quản lý nhập khẩu lên tới 16 cơ quan từ Trung Ương đến địa phương tạo thành mạng lưới chằng chịt buộc các doanh nghiệp phải tuân theo các quy định chồng chéo. - Giảm dần các thủ tục nhập khẩu hàng hoá đặc biệt là kiểm tra hồ sơ hải quan. Hiện nay làm thủ tục này mất 4-5 ngày trong quy định chỉ 2 ngày. - Nhà nước cần đảm bảo và thực hiện tín dụng xuất khẩu. Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu là hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách nhà nước đứng ra lập quỹ bảo hiêmr xuất khẩu. Quỹ này gánh vác mọi rủi ro, mạo hiểm mà các nhà xuất khẩu bán hàng hoá cho nước ngoài với phương thức thanh toán trả chậm hoặc tín dụng dài hạn. Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu là hình thức mở rộng xuất khẩu bằng cách nhà nước với quy mô lớn với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng hóa của nước cho vay. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách nhà nước và việc cho vay thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi cho nước cho vay. Hình thức này giúp Công ty đẩy mạnh xuất khẩu vì có sẵn thị trường tiêu thụ. - Nhà nước cần trợ cấp xuất khẩu : trợ cấp này có hai loại là trợ cấp trực tiếp là sự thực hiện ưu đãi cho nhà kinh doanh sản xuất hàng hoá xuất khẩu sử dụng đầy đủ với giá hạ các công trình hạ tầng, điện, nước, phương tiện thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu, phương tiện vận tải... Trợ cấp gián tiếp là hình thức nhà nước sử dụng các biện pháp quản lý hành chính để hỗ trợ xuất khẩu. Chính phủ sử dụng các biện pháp gián tiếp như điều tiết cung cầu bằng cách hỗ trợ về tài chính thông qua hệ thống kho đềm của Chính phủ. + Một số kiến nghị khác: - Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khi tỷ giá thu đổi ngoại tệ bị biến động lớn. - Chế độ chính sách của nhà nước cần được nhanh chóng ổn định trong kinh doanh xuất nhập khẩu bởi cơ chế quản lý xuất nhập khẩu nước ta thay đổi thường xuyên làm cho doanh nghiệp không kịp xoay sở bị đọng, lúng túng trong hoạt động kinh doanh một số doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm đầu tư vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. - Nhà nước cần hoàn thiện hẹ thống pháp luật (nhất là pháp luật về xuất nhập khẩu), tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Mặt khác, nhà nước phải tạo ra môi trường kinh doanh ổn định, ngăn cấm và nghiêm trị những hành vi kinh doanh phi pháp như buôn lậu, nạn hàng giả... bằng cách tăng cường hoạt động quản lý về mặt hành chính như tinh giảm mức tối đa những thủ tục hành chính như thủ tục hải quan mà không cần thiết. Kiểm tra đôn đốc hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động xuất nhập khẩu, tránh hiện tượng xuất nhập khẩu tràn lan gây nên thiệt hại cho quốc gia cũng như các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu theo đúng pháp luật. Qua nhiều đợt tìm hiểu với các chủ doanh nghiệp cho biết do hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay chưa đồng bộ và chưa hoàn thiện nên khi bước ra thương trường buộc họ phải làm ăn phi pháp bởi vì theo họ nếu làm ăn theo đúng pháp luật thì xẽ bị thua lỗ do cạnh tranh được với bọn buôn lậu, bọn làm hàng giả và những người làm ăn phi pháp khác. Họ phàn nàn rằng, thời buổi ngày nay làm ăn rất khó khăn làm cho họ thật là mệt mỏi vì phải tìm cách làm ăn phi pháp, đối với các quan chức nhà nước... và họ cũng phàn nàn rằng, họ buộc phải làm ăn phi pháp mặc dù họ không hề muốn vì họ có thẻ bị ngồi tù, nhưng tình thế buộc họ phải làm. Qua đó ta thấy nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì hậu quả khó mà lường trước được. Do vậy nhà nước cần đưa ra những khung hình phạt cao hơn đối với những kẻ vi phạm pháp luật. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra những người bảo vệ luật pháp cũng như những người phải tuân theo pháp luật. Tóm lại, môi trường vĩ mô có vai trò quyết định đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, bởi vậy, một môi trường vĩ mô thuận lợi sẽ khuyến khích doanh nghiệp hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. KẾT LUẬN Trong quá trình tồn tại và phát triển, Công ty DETESCO VN đã không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức cũng như chiến lược kinh doanh của mình, tăng lợi nhuận đồng thời với việc đảm bảo đời sống cán bộ công nhân viên góp phần đảm bảo sự ổn định và cân bằng xã hội. Việc đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu luôn là mộ vấn đề quan trọng đối với Công ty. Trong bài viết này tôi đã cố gắng phân tích đánh giá thực trạng về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty DETESCO VN, tìm ra những giải pháp đổi mới mang ý nghĩa thiết thực có tính khả thi nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty. Với việc nghiên cứu như trên đã trau dồi những kiếm thức cơ bản về lý luận, mấu chốt cho những sinh viên kinh tế sau khi ra trường đặc biệt là những người ham thích hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngoại thương, nắm rõ các nghiệp vụ, trình tự và cách thức tiến hành các hình thức xuất nhập khẩu từ đó hoà nhập với công việc đem lại hiệu quả công tác cao. Bài viết bao hàm những nội dung, kiến thức quan trọng dùng để tham khảo với những người muốn tìm hiểu hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Nó không những nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty mà nó còn góp phần vào việc thực hiện thành công mục tiêu "mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại" mà nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra. Tuy nhiên đó đều là những suy nghĩ chủ quan của bản thân tôi ở một góc độ nhất định nên tôi kính mong nhận được dự góp ý kiến chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn, Ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ công nhân viên phòng thương mại của Công ty để chuyên đề này mang tính thiết thực hơn. Mục lục Lời nói đầu Phần I : Những vấn đề cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất nhập khẩu I. Khái niệm, vai trò, chức năng, các công cụ quản lý xuất nhập khẩu 1. Hoạt động xuất khẩu 2. Hoạt động nhập khẩu II. Nội dung hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1. Chuẩn bị trước khi ký kết hợp đồng 2. Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng 3. Thực hiện hợp dồng xuất nhập khẩu 4. Đánh giá kết quả hoạt động xuất nhập khẩu III. Các yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1. Các yếu tố trong doanh nghiệp 2. Các yếu tố ngoài phạm vi doanh nghiệp Phần II: Nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu tại Công ty DETESCO VN I. Khái quát về Công ty DETESCO VN 1. Lịch sử hình thành và phát triển củaCông ty 2. Chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức bộ máy của Công ty 3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu II. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1. Quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu 2. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu a. Cơ cấu xuất nhập khẩu b. Kim ngạch nhập khẩu theo mặt hàng c. Kim ngqạch nhập khẩu theo thị trường d. Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng e. Kim ngqạch xuất khẩu theo thị trường 3. Phương thức xuất nhập khẩu của Công ty III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty 1. Kết quả chung 2. Đánh giá hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty DETESCO VN 2.1. Bộ máy tổ chức quản lý 2.2. Thị trường và nghiên cứu thị trường 2.3. Mặt hàng xuất nhập khẩu 2.4. Hoạt động xuất nhập khẩu 2.5. Đánh giá tổng kết hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Phần III : Phương hướng phát triển, một số biện pháp nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty DETESCO VN I. Phương hướng phát triển của Công ty trong những năm tới 1. Phương hướng chung 2. Nhiệm vụ cụ thể II. Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty DETESCO VN 1. Kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý cán bộ 2. Chú trọng đến nghiên cứu thị trường 3. Củng cố quan hệ với bạn hàng, khách hàng 4. Giải pháp giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng 5. Đối sách với đối thủ cạnh tranh 6. Xác định lượng xuất nhập khẩu tối ưu 7. Thay đổi cơ cấu nhập khẩu 8. Tăng cường xuất khẩu III. Các tiền đề cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty 1. Vốn kinh doanh 2. Nguồn nhân lực 3. Một số kiến nghị đối với nhà nước Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình thương mại quốc tế (PTS. Nguyễn Duy Bột- NXB Thống kê - hà nội 2000) 2. Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế (PTS. Trần Chí Thành-NXB Giáo dục 12-1999) 3. Giáo trình kinh tế ngoại thương -NXB Giáo dục 1996 - ĐH Ngoại thương 4. Giáo trình Marketing thương mại quốc tế 5. Hỏi đáp về kỹ thuật thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu (PTS. Võ Thành Thư) 6. Kinh tế đối ngoại Việt Nam nội dung- giải pháp- hiệu quả (NXB Thống kê 1996) 7. Các tài liệu của Công ty DETESCO VN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0414.doc
Tài liệu liên quan