Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

 Nghiên cứu thực hiện chiến lược, phân loại khách hàng, đề xuất chính sách ưu đãi với khách hàng.  Tổ chức phân tích kinh tế, lựa chọn biện pháp tín dụng tối ưu; tìm kiếm khai thác, tiếp cận để phát triển khách hàng mới; thẩm định và đề xuất cho vay dự án.  tiếp nhận, thực hiện chương trình dự án thuộc các nguồn vốn.  xây dựng và thực hiện các mô hình tín dụng thí điểm, theo dõi, đánh giá và đề xuất phương án khắc phục. Nhiệm vụ của Phòng Thẩm định  Thu thập, quản lý, cung cấp thông tin phục vụ cho việc thẩm định và phòng ngừa rủi ro tín dụng; tham mưu trong việc lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao.  thẩm định và đề xuất các khoản vay.

doc73 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 906 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n vào Tờ trình, báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) và trình giám đốc quyết định. - Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội cho vay căn cứ báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) do phòng tín dụng trình lên, xem xét quyết định cho vay hoặc không cho vay và giao cho phòng tín dụng: + Nếu không cho vay thì thông báo cho khách hàng biết. + Nếu cho vay thì Chi nhánh cùng khách hàng lập hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay ( trường hợp cho vay có bảo đảm ). + Khoản vay vượt quyền phán quyết thì thực hiện theo qui định hiện hành của Ngân hàng Nông nghiệp VN. - Nếu khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay và xác định rõ số tiền cho vay, lãi suất cho vay, thời hạn cho vay và các điều kiện khác nếu có thì bộ phận tín dụng chuyển hồ sơ cho bộ phận kế toán thực hiện nghiệp vụ hạch toán kế toán, thanh toán hoặc chuyển quỹ để giải ngân nếu cho vay bằng tiền mặt. - Sau khi thực thiện giải ngân, cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay theo quy định. - Thời gian thẩm định cho vay: + Các dự án trong phán quyết : trong thời gian không quá 10 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không quá 45 ngày làm việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ khi chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng DN theo yêu cầu của NHNo ; Chi nhánh phải quyết định và thông báo việc cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng. Trường hợp quyết định không cho vay, phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản, nêu rõ lý do từ chối cho vay. + Các dự án, phương án vượt quyền phán quyết: Trong thời gian không quá 5 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không quá 25 ngày làm việc đối với cho vay trung và dài hạn kể từ khi chi nhánh nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của NHNNo, chi nhánh phải làm đầy đủ thủ tục trình lên NHNNo cấp trên. Trong thời gian không quá 5 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và 20 ngày làm việc đối với cho vay trung và dài hạn kể từ ngày nhận đủ hồ sơ trình, NHNNo cấp trên phải thông báo chấp thuận hoặc không chấp thuận. Các dự án, phương án mức phán quyết thuộc quyền của Phó Tổng Giám đốc phụ trách tín dụng, Tổng giám đốc NHNNo hoặc Hội đồng quản trị, chi nhánh trình thẳng trung tâm điều hành, không qua văn phòng đại diện. 2.2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội những năm gần đây Thực hiện theo chiến lược đổi mới chung của đất nước, NHNNo & PTNT Việt Nam những năm gần đây cũng chuyển mình hướng tới nhiều thành phần kinh tế, lĩnh vực ngành nghề, tập trung nhiều hơn cho khu vực ngoài quốc doanh mà hầu hết là các DNVVN. Mục đích không chỉ là khuyến khích, tạo điều kiện cho các DNVVN vươn lên trong nền kinh tế thị trường, đầu tư mở rộng cả quy mô và chiều sâu các dự án đầu tư, tiến hành các phương án SXKD mà còn giúp Ngân hàng chia sẻ rủi ro, mở rộng phạm vi hoạt động và năng cao cạnh tranh. Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội cũng nhất quán theo chủ trương đó. Bảng 1: Tình hình cho vay đối với DNVVN ở Chi nhánh NHNNo & PTNT Hà Nội Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 6 tháng cuối năm 2006 6 tháng đầu năm 2007 6 tháng cuối năm 2007 Doanh số cho vay DNVVN 2,452 3210 3460 Tỷ trọng dsố cho vay/tổng dsố 52% 53% 54% Dư nợ cuối kì 2310 5325 3120 Tỷ lệ dư nợ /tổng dự nợ 56% 53,2% 56,5% (Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2007 của Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội ) Từ khi thành lập đến cuối năm 2007, Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội đạt doanh số cho vay là 4715 tỷ đồng. Đây là một con số rất đáng nể.Nửa năm sau, doanh số cho vay tăng 30.9%, đạt 3210 tỷ đồng, chiếm 53% trên tổng doanh số cho vay. Trong cả năm 2007, Chi nhánh đạt doanh số cho vay đối với DNVVN tổng cộng là 6670 tỷ đồng trên tổng số 15325 tỷ đồng cho vay, chiếm 56,5%. Tính đến 30/6/2007, Chi nhánh có mức tăng trưởng tín dụng cao đối với DNVVN, thể hiện ở dư nợ đạt 5325 tỷ đồng. Tuy còn phải xem xét nhiều chỉ tiêu và số liệu khác để có cái nhìn chính xác về chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh song có thể khẳng định vị trí của DNVVN trong hoạt động tín dụng, đó là khách hàng quan trọng của Chi nhánh và Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội đang ngày càng mở rộng cho vay đối với DNVVN. Bảng 2: Thực trạng đầu tư tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội giai đoạn 2005-2007 Chỉ tiêu 2005 2006 2007 I Tổng dư nợ 2467 2457 3462 1 Trong đó phân theo thời gian 2467 2457 3462 a Dư nợ ngắn hạn 1527 1336 2025 Nội tệ ngắn hạn 914 1093 1508 Ngoại tệ ngắn hạn 613 243 517 b Dư nợ trung hạn 305 433 492 Nội tệ trung hạn 262 350 417 Ngoại tệ trung hạn 43 83 75 c Dư nợ dài hạn 635 688 945 Nội tệ dài hạn 573 601 734 Ngoại tệ dài hạn 62 87 211 2 Trong đó phân theo loại tiền tệ 2.467 2.457 3.462 Dư nợ nội tệ 1.749 2.044 2.659 Dư nợ ngoại tệ 718 413 803 (Nguồn: Báo cáo kết quả tín dụng năm 2004 tại Chi nhánh NHNo & PTNT HN). Qua bảng số liệu trên có thể thấy trong tổng số dư nợ thì dư nợ ngắn hạn vẫn là chủ yếu. Dư nợ ngắn hạn chiếm 61.68% tại 31/12/2005, 54.37% tại 30/12/2006 và cuối năm 2007 đạt 58.49%. Tuy tỷ trọng dư nợ ngắn hạn của các DNVVN là cao song có xu hướng giảm dần. Doanh số cho vay trung dài hạn từ 305 tỷ vào cuối năm 2005 tăng đạt 433 tỷ trongnăm 2006 và 492 tỷ vào 6 cuối năm 2007. Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay trung dài hạn tăng nhanh dần đều, thể hiện sự ổn định trong cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, xét về quy mô thì tỷ lệ này vãn còn là một con số nhỏ so với tiềm năng của NHNo&PTNT Hà Nội,chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư lâu dài của các DN. Dư nợ dài hạn cũng tăng qua các năm, đặc biệt năm 2007 dư nợ dài hạn tăng đột biến, từ 688 tỷ đồng lên 945 tỷ đồng, thể hiện quy mô phát triển, uy tín của NHNo&PTNT Hà Nội ngày càng mở rộng. Bảng 3: Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội năm 2007 Đơn vị : Tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2007 Tăng giảm so với năm 2006 Số dư % tổng nợ quá hạn Tổng dư nợ quá hạn 55 Tỷ lệ NQH/Tổng dư nợ 0.56% Nợ quá hạn DNVVN 41 NQH tư nhân, hộ gđ 10 Nợ chờ xử lí 3 Nợ khoanh 1 (Nguồn : Tổng kết hoạt động kinh doanh và kết quả hoạt động tín dung 2004 tại Đông HN.) Tóm lại, với các bảng biểu số liệu cùng sự phân tích sơ bộ trên đây chúng ta có thể thấy được bức tranh khái quát về tình hình và chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội . Chi nhánh tập trung hoạt động tín dụng của mình vào DNVVN là chủ yếu. Điều này được biểu hiện ở quy mô cho vay chiểm tỷ trọng cao trên tổng cho vay. Tỷ lệ nợ quá hạn rất thấp 0.56%.. Nói chung, xét trên chỉ tiêu dư nợ và nợ quá hạn thì có thể nói chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội được đảm bảo.. Để nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN đòi hỏi phải tìm hiểu kỹ lưỡng hơn, phát hiện ra những nguyên nhân gốc rễ để khắc phục. 2.3 Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội 2.3.1 Những kết quả đạt được Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội gặp không ít khó khăn như sự cạnh tranh giữa các NHTM trên địa bàn thủ đô rất quyết liệt, luôn tiềm ẩn rủi ro; giá vàng, giá dầu, giá phân bón trên thị trường trong và ngoài nước biến động đáng kể.... Tuy nhiên được sự quan tâm giúp đỡ của HĐQT, Tổng giám đốc và Ban ngành của NHNNo & PTNT VN, cùng với những biện pháp điều hành có tính chiến lược, năng động hiệu quả của Ban lãnh đạo Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội và sự nỗ lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nên trong những năm vừa qua,, chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội đã đạt được những kết quả vượt bậc, trở thành một trong những NHTM làm ăn hiệu quả nhất, uy tín cao nhất về hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng đối với DNVVN nói riêng. Tỷ lệ nợ quá hạn ở mức rất thấp cùng với tỷ trọng dư và tốc độ tăng trưởng cao lên là những chỉ tiêu rất đáng mơ ước đối với bất kì một NHTM nào.Đây cũng là chỉ tiêu quan trọng phản ánh quy mô, khả năng mở rộng tín dụng và mức độ an toàn tín dụng đối với DNVVN. Thu nhập từ hoạt động tín dụng nói chung đạt 80% và từ tín dụng với DNVVN đạt 62% càng khẳng định sự đóng góp quan trọng của tín dụng đối với khách hàng DNVVN vào kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội . Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội đi đúng định hướng chiến lược khách hàng của NHNNo & PTNT VN. Ngay từ khi ra đời đến nay, Ban lãnh đạo Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội luôn nhất quán chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đối xử bình đẳng với mọi khách hàng. Cụ thể, tập trung vào các DNVVN mà hầu hết nằm ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đây là đối tượng khách hàng có số lượng lớn, năng động, giàu tiềm năng song hiện còn rất thiếu vốn. Cấp tín dụng cho khách hàng này để tạo động lực và khuyến khích họ tiến hành các phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, dự án khả thi là mục tiêu của Ngân hàng. Đồng thời cũng phải tăng cường quản lý tín dụng, khắc phục tình trạng gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn nợ để giảm nợ quá hạn. Nhất quán chủ trương trên là điều kiện trước tiên để có thể phấn đấu nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN. Ngoài ra, việc quan tâm tới chiến lược khách hàng và phân tích tài chính doanh nghiệp được coi trọng để có thể khai thác các dự án đầu tư khả thi, hiệu quả. Để thu hút thêm nhiều DN như hiện nay, Chi nhánh cũng đang vận dụng linh hoạt cơ chế lãi suất cho vay và cả đi vay, đang tiến hành phân tích đánh giá xếp loại khách hàng từ đó định hướng đầu tư tín dụng thích hợp cho từng nhóm DNVVN. Trong quá trình lập hồ sơ xét duyệt cho vay, Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội thực hiện đúng quy chế tín dụng của NHNNo & PTNT VN cũng như các nguyên tắc, điều luật của Ngân hàng Nhà Nước và các cơ quan có thẩm quyền. Chi nhánh cũng cải tiến lề lối làm việc, giảm bớt phiền hà cho DN bằng cách tiến hành nhanh chóng các thủ tục song vẫn đảm bảo tính an toàn và đúng pháp luật. Nhất là cơ chế đảm bảo tiền vay bằng tài sản đang từng bước được tháo gỡ những khó khăn vướng mắc tạo điều kiện cho DNVVN vay vốn thuận tiện hơn. Điều này giúp Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội có được tín nhiệm từ phía các DN và cũng giúp DN tiết kiệm thời gian, chi phí hơn. Nhằm phát huy tính chủ động trong kinh doanh nhưng gắn với trách nhiệm của từng cá nhân, Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội phân quyền phán quyết đến Chi nhánh cấp 2 trên cơ sở Quyết định của HĐQT giao cho Chi nhánh. Nâng cao sự chủ động và cả tinh thần trách nhiệm là điều kiện để mở rộng quy mô và giảm bớt rủi ro tín dụng với DNVVN. Chi nhánh đang bổ sung, chỉnh sửa các sai sót đã nêu ra trong biên bản kiểm tra chuyên đề tín dụng. Trên cơ sở trình độ và năng lực từng cán bộ mà tiến hành phân nhiệm. Chi nhánh mở một số lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng. Vì vậy đã phát huy được tối đa khả năng của từng người và xây dựng một bộ máy làm việc nhuần nhuyễn, hiệu quả. Chi nhánh tiếp tục cố gắng nâng cao chất lượng thông tin và dự báo rủi ro trong kinh doanh. Các cán bộ tín dụng đi sâu đi sát trong việc xử lý và thu hồi nợ gốc đến hạn, đôn đốc DN trả lãi hàng tháng để giảm nợ quá hạn tới mức thấp nhất, nâng cao chất lượng tín dụng. 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1 Một số mặt hạn chế trong tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh Bên cạnh những kết quả tích cực cần phát huy đã đạt được thì Chi nhánh NHNNo & PTNT Hà Nội cũng còn một số tồn tại cần khắc phục để chất lượng tín dụng được nâng cao hơn. Một là: Các nghiệp vụ tín dụng tại Chi nhánh còn chưa đa dạng, mới hướng vào cho vay là chủ đạo, chưa tiến hành nghiệp vụ thuê mua. Hai là: Nguồn tiền kém tính ổn định và bền vững là yếu tố đáng lo ngại để có thể duy trì và mở rộng tín dụng tới DNVVN. Hiện nay, tại Chi nhánh chủ yếu là cho DNVVN vay ngắn hạn, vay trung dài hạn có tăng trưởng cao nhưng về quy mô vẫn còn nhỏ. Đồng thời, đối tượng cho vay của Chi nhánh còn không cân đối và thiếu đa dạng, tập trung vào thương mại dịch vụ là chính. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp song vẫn tồn tại và DNVVN là khách hàng phát sinh nợ quá hạn nhiều nhất. Đồng thời khi thời gian quá ngắn, nhiều khoản vay chưa đến kỳ hạn và nhiều thay đổi cũng chưa phát sinh. Tình trạng che dấu nợ quá hạn vẫn còn xuất hiện. Qua các cuộc kiểm tra kiểm toán nội bộ cho thấy nhiều khoản vay, nhiều vụ việc sai phạm do cán bộ tuỳ tiện, bỏ qua quy trình chế độ, không thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Tổng giám đốc. Vẫn còn hiện tượng cán bộ tín dụng xâm tiêu, tham ô, lợi dụng gây thiệt hại kinh tế. 2.3.2.2 Nguyên nhân chủ yếu làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với DNVVN § Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: - Dù đã nhất quán chủ trương ưu tiên vốn cho các dự án có hiệu quả của các DNVVN nhất là các DN ngoài quốc doanh, song với các khoản vay trung dài hạn thì quan điểm của Ngân hàng vẫn là mạo hiểm, rủi ro cao hơn đối với DNNN. Điều này làm giảm lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh; Đồng thời không đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh của các DNVVN. Sự bất ổn của các DNVVN như tỷ lệ phá sản cao, sự dễ bị tổn thương trước những thay đổi của thị trường, vốn tự có thấp nên khi có biểu hiện làm ăn thua lỗ thì rất khó thu hồi vốn vay... nên khiến cho NHNo&PTNT Hà Nội cũng như nhiều NHTM khác đặc biệt e ngại khi cho vay với thời hạn dài. - Thủ tục hồ sơ và quy trình cho vay: Quy trình cho vay của Ngân hàng tuy đã có những đổi mới song vẫn chưa thật sự thuận lợi cho DNVVN. Điều kiện DN phải có vốn tự có tham gia vào dự án kinh doanh từ 10-40% tổng số vốn đầu tư của dự án mới được Ngân hàng xem xét cho vay vốn là điều kiện khó khăn cho các DNVVN. Ngoài ra mức cho vay trên không được vượt quá 70% giá trị tài sản thế chấp. “ Khách hàng vay vốn phải có trụ sở làm việc hoặc hộ khẩu thường trú cùng địa bàn tỉnh, thành phố nơi Ngân hàng cho vay đóng trụ sở “ đã mâu thuẫn với cơ chế thị trường, tạo sự phân định phạm vi vay vốn DN và hạn chế việc mở rộng khách hàng của Ngân hàng. Đối với DNVVN khi vay vốn, nhất là vay vốn trung dài hạn thì các thể lệ, chế độ tín dụng thường được thực hiện quá chặt chẽ. Điều này cũng là nguyên nhân khiến quy mô cho vay trung dài hạn đối với DNVVN tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội còn khiêm tốn. Việc thực hiện quy trình nghiệp vụ cho vay chưa nghiêm túc và khoa học nên dẫn đến việc giải quyết cho vay khách hàng còn chậm. Quy chế đảm bảo tiền vay có trường hợp còn tuỳ tiện như giấy tờ tài sản đảm bảo tiền vay hợp lý nhưng chưa hợp lệ. Cho vay DN còn thiếu hồ sơ đơn cử như thiếu giấy đề nghị vay vốn, điều lệ của DN, các yếu tố ghi trên hồ sơ nhiều chỗ còn để trống - Thẩm định trước khi cho vay chất lượng chưa cao. Nội dung báo cáo thẩm định còn sơ sài, mang tính hình thức, kết cấu bố cục thiếu khoa học, đề xuất chung chung, tờ trình đề nghị NHNNo & PTNT VN phê duyệt không rõ ràng...Một số dự án, phương án sản xuất kinh doanh trong quá trình thẩm định chưa được kiểm tra thực tế tại DN, nơi thực hiện dự án. - Nguồn vốn huy động của Chi nhánh chủ yếu là thời hạn dưới 12 tháng nên chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn trung dài hạn của DN. - Công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay: Dù quy trình cho vay có được tiến hành nghiêm túc và chặt chẽ tới đâu mà thiếu kiểm tra, kiểm soát trong khi DN sử dụng vốn vay thì mức độ an toàn tín dụng vẫn chưa được đảm bảo. Để khách hàng trả được nợ gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ thì trước tiên khách hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích. Công tác kiểm tra kiểm soát là nhằm đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích. Tuy nhiên tại Chi nhánh công tác này không phải lúc nào cũng được thực hiện thường xuyên, nhiều khi lại thực hiện mang tính chiếu lệ hình thức. Một phần vì do đã có tài sản đảm bảo nên cán bộ xem nhẹ công tác này, nhưng thực tế xử lý tài sản đảm bảo tiền vay là vô cùng phức tạp. Không bám sát đồng vốn cho vay như vậy thì không thể tư vấn, giúp đỡ DN thoát khỏi tình trạng khó khăn một cách kịp thời và dễ dẫn tới khoản vay có vấn đề. - Trang thiết bị và công nghệ còn lạc hậu, chưa đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu giao dịch tiên tiến như thanh toán thẻ, thanh toán điện tử... - Hoạt động Marketing ngân hàng chưa được hiểu đầy đủ và quan tâm đúng mức. Ngân hàng cũng là DN nên trong nền kinh tế thị trường phải đặc biệt chú ý tới công tác này mới là đúng đắn. Chi nhánh mới chỉ thực hiện đơn thuần các hoạt động như tuyên truyền, quảng cáo mà chưa thực sự xuất phát từ việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu của các DNVVN và tìm cách để thoả mãn những nhu cầu đó. - Nhân sự tại chi nhánh còn nhiều bất cập. Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tín dụng chưa theo kịp với yêu cầu, thiếu kinh nghiệm trong việc điều tra, nghiên cứu, thẩm định các dự án và phương án vay vốn. Cán bộ tín dụng chưa lượng hóa được công việc cần làm, khâu chọn lọc và phân loại khách hàng chưa được quan tâm đúng mức, làm thường xuyên dẫn đến việc cho vay tràn lan, cho vay sai mục đích, không kiểm tra hướng dẫn cho DN sử dụng vốn vay có hiệu quả. Tăng trưởng tín dụng nhưng không kiểm soát được. Vì chạy theo chỉ tiêu và hệ số lương nên đôi khi nợ quá hạn bị che giấu, định kỳ hạn nợ, gia hạn nợ không căn cứ khả năng trả nợ và nguồn vốn trả nợ. Hơn nữa, công tác bồi dưỡng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ chưa được lãnh đạo thật sự quan tâm. Tuy Chi nhánh cũng mở các lớp tập huấn nghiệp vụ nhưng còn ít, nhân viên học chiếu lệ, kém nhiệt tình, hiệu quả đem lại thấp. Một số ít cán bộ không nghiên cứu kỹ và tuân thủ đầy đủ quy trình, thể lệ tín dụng. Cá biệt có một bộ phận cán bộ thoái hoá, biến chất, tư cách đạo đức kém đã cố tình làm sai quy trình tín dụng, móc ngoặc với DN, thậm chí có những cán bộ đã lợi dụng chức quyền của mình để gây khó dễ cho khách hàng, tham ô, nhận quà biếu... - Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro thiếu hiệu quả. Để đi đến quyết định cho vay là cả một quá trình lựa chọn, thu thập, xử lý thông tin về khách hàng. Thực tế, việc thu thập, khai thác và sử dụng thông tin còn nhiều hạn chế. Chi nhánh phải tự tìm hiểu, chủ động thu thập, sàng lọc và lựa chọn thông tin để thẩm định khách hàng. Thông tin do thu thập từ nhiều nguồn nên dễ bị nhiễu, bị mâu thuẫn gây khó khăn trong đánh giá khách hàng. Để phòng ngừa rủi ro, một trong các điều kiện Ngân hàng yêu cầu là phải có đầy đủ tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Tài sản thế chấp trong một chừng mực nào đó có thể thay thế thông tin và là dấu hiệu cho biết rằng rủi ro sẽ giảm. Tuy nhiên, điều cần quan tâm là hiệu quả kinh tế của khoản vay và năng lực điều hành kinh doanh của DN. Nhiều trường hợp các món vay có tài sản thế chấp lại chứa đựng rủi ro cao hơn các món vay tín chấp. Mặt khác, trong quan hệ tín dụng, tài sản thế chấp hay cầm cố chưa phải là yếu tố bảo toàn vốn một cách tuyệt đối § Nguyên nhân từ phía các DNVVN : - Năng lực tài chính của DN quá thấp, vì vậy muốn bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh được liên tục, các khách hàng này đều phải bổ sung vốn bằng cách đi vay. Tuy nhiên, việc tiếp cận được vốn Ngân hàng còn nhiều khó khăn, phức tạp bởi không hội tụ được đầy đủ các điều kiện cho v ay vốn như thiếu tín nhiệm trong quan hệ vay trả, không có khả năng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh cho mình hay không có các dự án khả thi, không có đủ tài sản thế chấp và cầm cố hợp pháp và đặc biệt là vốn tự có trên tổng mức đầu tư của dự án quá thấp, thường chỉ vài phần trăm. Vì vậy, đối với các DNVVN mà phần lớn là nằm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Ngân hàng khó có thể bao sân vì rủi ro tín dụng tiềm ẩn quá lớn. Bên cạnh đó, trình độ năng lực của DN không theo kịp đòi hỏi của cơ chế thị trường. Các chủ DNVVN nói chung và nhất là của các DN ngoài quốc doanh vừa thiếu kinh nghiệm, kiến thức, trình độ và bản lĩnh của những nhà sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Từ chỗ yếu kém nhiều DN không thể tự mình xây dựng phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa trở thành phổ biến. Đơn giản như việc làm các thủ tục đề xuất xin vay vốn Ngân hàng của một số DN ngoài quốc doanh cũng phải nhờ cán bộ tín dụng làm thay. - Các DN chưa thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật. Trên thực tế pháp lệnh kế toán thống kê rất có ít hiệu lực đối với DN ngoài quốc doanh. Hệ thống sổ sách kế toán ghi chép đơn giản, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân, mang tính chất gia đình. Hầu hết các DNVVN không có báo cáo tài chính hoặc có thì thiếu và sơ sài, không được kiểm toán. Vì vậy, Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội nói riêng và các Ngân hàng nói chung có rất ít thông tin về loại hình DN này làm cho mức độ tin cậy đối với DNVVN bị hạn chế và gây nhiều khó khăn cho công tác thẩm định tình hình SXKD, tình hình tài chính của người vay cũng như quản lý sử dụng vốn vay của họ. Mặt khác, bên cạnh những người làm ăn chân chính, tại nhiều NHTM đã xuất hiện một số khách hàng thành lập các Cty ma, ký kết hợp đồng rởm làm vỏ bọc để lợi dụng rút tiền Ngân hàng dẫn đến hình sự hoá quan hệ dân sự đã làm cho cán bộ tín dụng nói riêng và Ngân hàng nói chung nản lòng. Với thực trạng như vậy, Chi nhánh bên cạnh chủ trương mở rộng tín dụng tới DNVVN cũng không trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, thận trọng với khách hàng này để mở rộng quy mô gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng. § Nguyên nhân khách quan : - Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và đồng bộ. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, vì vậy hệ thống pháp luật chung cho toàn bộ nền kinh tế chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và thiếu những đạo luật quan trọng. Đồng thời việc thực thi pháp luật và các chính sách trên thực tế đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Quản lý Nhà nước đối với DNVVN còn nhiều lỏng lẻo. Nhiều quy định hiện nay còn rắc rối, thủ tục về đăng ký kinh doanh còn phức tạp về số lượng giấy tờ, các công đoạn kiểm duyệt, thời gian kiểm duyệt. Khuôn khổ pháp lý liên quan đến hoạt động tín dụng giữa NHTM với DN nói chung, DNVVN nói riêng còn bất cập đã gây bó buộc hoạt động của các DNVVN, vừa tạo khe hở để các DNVVN lợi dụng. Đặc biệt là môi trường pháp lý về tài sản thế chấp. Đây là nguyên nhân cơ bản gây tồn tại trong quan hệ tín dụng đối với DNVVN. Việt nam chưa có bảo hiểm tín dụng nên việc thế chấp, cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba là những hình thức được coi là đảm bảo nhất. Thực tế, 90% giá trị các bất động sản được dùng làm tài sản thế chấp; các động sản như thiết bị, phương tiện vận tải...chiếm tỷ trọng nhỏ vì NHTM không có kho bảo quản, không đủ trình độ đánh giá chính xác giá trị tài sản của nó. Cho nên thực trạng hiện nay phát sinh một số vướng mắc. Khi Ngân hàng nhận thế chấp, cầm cố là giữ tài sản hoặc bản chính giấy tờ sở hữu tài sản, nhưng các DN không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc quản lý các tài sản cố định như các thành phần kinh tế khác. DN tư nhân, tài sản thế chấp chủ yếu là nhà đất nhưng giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất chưa được cấp đầy đủ và tiến độ rất chậm. Số tiền vay tối đa 70% giá trị tài sản thế chấp mà giá trị thuê đất đã trả cộng với tài sản trên đất thì rất nhỏ so với giá trị thực của khu đất. Về quy định phát mại tài sản thế chấp, luật dân sự và luật DN Nhà nước đều mới quy định chung về cơ quan có thẩm quyền tổ chức đấu giá tài sản mà chưa có quy định cụ thể về xử lý tài sản thế chấp khi bên vay thiếu khả năng trả nợ. - Môi trường kinh tế thiếu ổn định : Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà đổi mới đã thu được những kết quả đáng kể như kinh tế nhiều thành phần đang hình thành và ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát được đẩy lùi...Tuy nhiên những kết quả trên vẫn không che lấp được một số biểu hiện không bình thường của nền kinh tế. Đó là từ năm 1998 đến nay tốc độ tăng trưởng chững lại, tỷ lệ lạm phát giảm liên tục làm cho sản xuất kinh doanh trì trệ đã là nguy cơ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Tình hình buôn lậu, hàng giả và sự tràn ngập hàng ngoại đang trở thành trở ngại lớn, làm các nhà SXKD chân chính luôn phải thay đổi phương án đầu tư dể tồn tại. Trong môi trường kinh doanh thất thường biến động như vậy, rủi ro đầu tư là rất lớn và không thể lường hết được. Vì vậy, sự mở rộng đầu tư của các NHTM nói chung và mở rộng cho vay trung dài hạn đối với DNVVN bị hạn chế. - Chính sách vĩ mô còn bất cập. Đây là những chính sách rất quan trọng, tạo hành lang cho việc vốn tín dụng được đầu tư đúng địa chỉ. Chính sách vĩ mô của Nhà nước ta chưa phù hợp và đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện ( chính sách thuế, chính sách đầu tư, chính sách đất đai, chính sách XNK, chủ trương đóng cửa rừng, cấm xuất khẩu gỗ...). Các DN điều chỉnh phương án SXKD không kịp thời với sự thay đổi của các chính sách kinh tế vĩ mô nên gặp khó khăn, kinh doanh thua lỗ hoặc không đủ điều kiện tiếp tục vay. Chi nhánh NHNNo & PTNT Hà Nội thuộc NHNNo & PTNT VN –NHTM quốc doanh nên hoạt động của nó chịu nhiều tác động của các chính sách, quy định của Nhà nước cũng như ngân hàng Nhà nước. Chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã được xác định rõ trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhất quán trong các Bộ ban ngành, do vậy đối với khu vực DNVVN đã khơi dậy một định hướng phát triển. Đến nay Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội đã và đang tiếp tục mở rộng cả quy mô và chiều sâu cung ứng vốn cho DNVVN nhưng trên thực tế DNNN vẫn được ưu tiên hơn DNNQD mà chủ yếu là các DNVVN. Chương 3 Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNno & PTNT Hà Nội. 3.1 Định hướng hoạt động tín dụng đối với các DNVVN tại Chi nhánh Hà Nội ¨ Những tác động của nền kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng trong thời gian tới: - Giá vàng, ngoại tệ biến động thường xuyên, khó lường trong thời gian qua khiến nền kinh tế nói chung và các hoạt động tín dụng của các Ngân hàng nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Thời gian qua, giá vàng tăng đột biến, gía đôla giảm mạnh khiến dân cư rút tiền rất nhiều tại các Ngân hàng nói chung và tại các NHNo&PTNT nói riêng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT Hà Nội. Trong những tháng đầu năm 2008, các đoàn kiểm tra liên tục phải thanh tra giám sát đối với NHNo&PTNT Hà Nội - Nhà nước điều chỉnh khung giá đất và từng bước hình thành thị trường bất động sản, giá xăng dầu, sắt thép, xi măng tăng nhanh. - Thị trường chứng khoán sụt giảm cũng tác động không nhỏ đến các Ngân hàng - Tiến trình sắp xếp lại các DN, các Cty cổ phần, Cty TNHH với nhiều chi nhánh, nhiều văn phòng đại diện trong khi vốn tự có thấp, vay vốn nhiều Ngân hàng, nhiều địa bàn; các thủ đoạn trốn thuế lừa đảo ngày càng tinh vi xảo quyệt...Năng lực quản lý, năng lực tài chính yếu kém nhưng SXKD đa năng nhiều lĩnh vực. - Nợ đọng vốn xây dựng cơ bản lớn trong đó có một phần vốn của các NHTM - Cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, thị phần ( cả nguồn vốn và dư nợ) giữa các NHTM thường xuyên diiễn ra là không tránh khỏi. ¨ Hội đồng quản trị NHNNo & PTNT VN thống nhất tập trung sức toàn ngành, thực hiện bằng được những nội dung cơ bản theo tiến độ đề án cơ cấu lại NHNo & PTNT VN 2001-2010 đã được phê duyệt, tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, mở rộng và năng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh; tập trung hiện đại hoá đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ Ngân hàng phù hợp với hiện đại hoá, đủ năng lực hội nhập cho những năm tiếp theo. ¨ Chiến lược hoạt động đối với DNVVN là đưa ra các định hướng tiếp cận đến DNVVN trong cơ cấu tổ chức và danh mục khách hàng ; Quảng bá và phát triển sản phẩm của DNVVN; Giới thiệu các chính sách thủ tục, đặc biệt là chiến lược cho vay DNVVN ; Tập trung hoá trông tin về DNVVN ; Đẩy mạnh dịch vụ Ngân hàng điện tử ; tăng cường trao đổi bán sản phẩm ; Phát triển các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. ¨ Theo định hướng của HĐQT và Tổng giám đốc NHNNo & PTNT VN về công tác kinh doanh,chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội thực hiện việc mở rộng cho vay đối với DN hoạt động theo luật DN, các DN vừa và nhỏ và hộ gia đình; mở rộng tín dụng gắn với năng cao chất lượng tín dụng, lấy chất lượng tín dụng làm thước đo đánh giá năng lực, trình độ hiệu quả của cán bộ tín dụng; tăng cường công tác kiểm tra chuyên đề tín dụng; chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại, giáo dục chính trị tư tưởng... 3.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội 3.2.1 Tăng cường khai thác những nguồn vốn có chi phí thấp - Để có thể mở rộng tín dụng hơn nữa cho các DNVVN đồng thời gắn với việc nâng cao chất lượng tín dụng thì một giải pháp quan trọng là phải tạo được nguồn vốn bền vững, ổn định với chi phí thấp và quy mô đủ lớn. Tiền gửi dân cư tuy số lượng của từng cá nhân không nhiều nhưng số lượng người gửi lại đông đảo, lãi suất tiền gửi tiết kiệm thấp nên chi phí hạ và nguồn tiền này cũng tương đối ổn định. Vì vậy, Chi nhánh nên đẩy mạnh huy động nguồn tiền từ đối tượng này. Không thể tăng lãi suất để cạnh tranh như các NHTMCP, song Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội có uy tín, độ tin tưởng cao hơn nhiều. Đó là một ưu thế hơn hẳn các NHTMCP khác. Bên cạnh hoàn thiện các hình thức tiết kiệm truyền thống, các hình thức khuyến mại để thu hút khách hàng như tiết kiệm bậc thang luỹ tiến theo số dư tiền gửi, theo thời gian gửi, tiết kiệm gửi góp...đang tiến hành cũng rất hiệu quả. Tuy nhiên, Chi nhánh cần tăng cường quảng cáo, tiếp thị trên báo, đài, truyền hình, gửi thông báo đến những khách hàng giàu tiềm năng, những khách hàng đã có quan hệ với Ngân hàng để nhiều người dân biết được các hình thức khuyến mại, các lợi ích họ sẽ được hưởng một cách tường tận. Chi nhánh cũng có thể đưa ra các hình thức thưởng như gửi tiền với số tiền trên 50 triệu đồng, gửi tiền từ 20 triệu đồng với thời hạn trên 24 tháng được một phiếu mua hàng siêu thị, phiếu rút thăm trúng thưởng nhà chung cư, xe máy, đồ gia dụng...Chi nhánh cũng cần đẩy mạnh các biện pháp tránh nợ quá hạn để nâng cao chất lượng tín dụng, đẩy mạnh các biện pháp thu hồi nợ đúng hạn và đầy đủ để tái quay vòng vốn. (Tình hình dư nợ dài hạn của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội đang rất có khả quan, chi nhánh có thể tiếp tục phát huy lợit hế này, tăng cường huy động từ nguồn vốn này) - Đa dạng hóa các công cụ huy động vốn như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Tùy từng loại thích hợp có thể huy động vốn với kỳ hạn 9 tháng, 12 tháng, 24 tháng trên nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Một nguồn tiền huy động có chi phí thấp và quy mô huy động cũng sẽ lớn đó là tiền gửi thanh toán. Khách hàng tham gia gửi tiền với hình thức này không phải vì lãi suất mà để phục vụ nhu cầu thanh toán thường xuyên trong tiêu dùng, sinh hoạt với các cá nhân và phục vụ nhu cầu thanh toán trong kinh doanh đối với các DN, tổ chức. Vấn đề mà khách hàng quan tâm nhất là chất lượng dịch vụ, độ chính xác và sự nhanh chóng tiện lợi và an toàn. Vì vậy, Chi nhánh cần tạo được sự luân chuyển vốn nhanh và an toàn, nhân viên nhiệt tình và lịch sự, tạo thuận tiện, nhanh gọn cho khách hàng gửi tiền và rút tiền bằng cách nâng cao công nghệ Ngân hàng, hiện đại hoá khâu thanh toán , như vậy sẽ thu hút thêm nhiều khách hàng gửi tiền tại Chi nhánh, huy động được nguồn vốn lớn quy mô, bền vững và chi phí thấp. 3.2.2. Tiếp tục tăng cường huy động vốn từ các nguồn dài hạn để tạo nguồn vốn an toàn Trong năm 2007, dư nợ dài hạn của NHNo&PTNT Hà Nội tăng đột biến. Đây là một dấu hiệu đáng mừng đối với NHNo&PTNT Hà Nội, tạo điều kiện để NHNo&PTNT Hà Nội có thể huy động được những nguồn vốn có tính an toàn cao, điều này là đặc biệt quan trọng trong tình hình kinh tế có nhiều biến đổi như hiện nay 3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định - Công tác thẩm định đóng một vai trò quan trọng trong chất lượng tín dụng. Thẩm định là một khâu để hạn chế rủi ro tín dụng, thực hiện tốt công tác này thì chất lượng tín dụng mới được đảm bảo. Trước tiên, để chất lượng thẩm định được tốt thì cán bộ thẩm định phải được trau dồi chuyên môn nghiệp vụ qua các đợt tập huấn, lớp bồi dưỡng nâng cao và cả tư cách đạo đức. Cán bộ thẩm định cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, nắm vững kiến thức nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, am hiểu pháp luật, nắm bắt và xử lý thông tin kịp thời, vững vàng trong xử lý nghiệp vụ, giữ vững phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp. Cán bộ thẩm định làm việc dựa trên các thông tin số liệu DN cung cấp, thông tin chủ động tìm kiếm, thông tin do các tổ chức và cơ quan có chức năng cung cấp...do đó thu thập thông tin đầy đủ và chính xác là rất quan trọng đối với thẩm định. Cần thu thập thường xuyên những thông tin về diễn biến của nền kinh tế, những điều chỉnh trong cơ chế, chính sách có liên quan đến các ngành, lĩnh vực. Nâng cao chất lượng thông tin và dự báo rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện hệ thống thông tin, báo cáo thống kê thẩm định và lưu trữ hồ sơ. Trong phạm vi Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội, cần gắn kết chặt chẽ giữa công tác thẩm định và tín dụng. Càng ngày nội dung thẩm định càng bao trùm nhiều lĩnh vực, nên phân chia để mỗi cán bộ chịu trách nhiệm một lĩnh vực như thương mại, xây dựng, chế biến...sẽ phát huy được năng lực chuyên môn của từng cán bộ. Đối với những dự án thuộc lĩnh vực chuyên môn như tin học, kỹ thuật...nên thuê chuyên gia, nhà tư vấn hỗ trợ trong quá trình thẩm định. Như vậy, do cán bộ thành thạo với lĩnh vực thẩm định nên sẽ tiết kiệm được thời gian thẩm định, kết quả thẩm định chính xác hơn và dẫn đến chất lượng thẩm định sẽ được nâng cao. 3.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tiền vay Không phải sau khi giải ngân cho DN là nhân viên tín dụng thụ động ngồi chờ tới ngày nhận lãi và trả gốc. Kiểm tra, kiểm soát tiền vay của DN sẽ giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo vốn vay sử dụng đúng mục đích. Chỉ khi vốn vay được sử dụng đúng mục đích thì mới đảm bảo tính sinh lời và an toàn của khoản vay. Cán bộ tín dụng phải tiến hành công tác này thường xuyên, nghiêm túc chứ không làm chiếu lệ qua loa hay vì lợi ích riêng mà che đậy thực trạng DN, gia hạn nợ sai nguyên tắc để tránh nợ quá hạn. Cán bộ tín dụng cần xem xét báo cáo tài chính mới nhất của DN, một số giấy tờ hóa đơn liên quan. Yêu cầu DN mở tài khoản thanh toán tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội để nắm chính xác và dễ dàng tình hình SXKD thực tế của DN. Ngoài ra, định kỳ mỗi quý một lần cán bộ tín dụng phải đến cơ sở kiểm tra đột xuất không thông báo trước. Đánh giá giá trị của tài sản thế chấp, cầm cố để có các biện pháp bảo quản phù hợp, yêu cầu DN bổ sung tài sản đảm bảo nếu chúng bị mất giá trị hay ngừng cấp thêm vốn vay. Đồng thời cũng phải nắm bắt thông tin bất lợi đối với dự án vay vốn của DNVVN hay hững thông tin nóng hổi về kinh tế, pháp luật để kịp thời thông báo, tư vấn cho DN biện pháp đối phó, đảm bảo hiệu quả của đồng vốn vay cho cả hai phía. 3.2.5 Xử lý kịp thời nợ quá hạn Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, nợ quá hạn cũng vậy. Các NHTM tuỳ từng thời kỳ sẽ đưa ra một tỷ lệ nợ quá hạn chấp nhận được. Tỷ lệ nợ quá hạn hiện nay của Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội là thấp song nó vẫn là một biểu hiện chưa tốt của chất lượng tín dụng. Chi nhánh cần đánh giá khả năng thu hồi của toàn bộ các khoản nợ đã gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ và nợ quá hạn. Sau đó cần tiến hành phân loại theo khả năng thu hồi và phân tích nguyên nhân đưa đến nợ quá hạn căn cứ vào hồ sơ xin vay vốn, tình hình sản xuất kinh doanh thực tế, quá trình sử dụng vốn vay rồi đưa ra kết luận do yếu tố khách quan hay chủ quan. Trên cơ sở đó tập trung cán bộ để thu nợ, không để nợ quá hạn mới phát sinh do nguyên nhân chủ quan. Xử lý kịp thời nợ quá hạn không chỉ giúp Ngân hàng giảm thiểu tổn thất, thu hồi vốn mà còn tránh để DN rơi vào tình trạng xấu hơn khi cứ lún sâu vào làm ăn không hiệu quả. 3.2.6 Nâng cao chất lượng nhân sự Công nghệ máy móc có hiện đại tới mấy cũng không thể thay thế bàn tay con người. Con người là yếu tố cốt lõi của mọi hoạt động trong nền kinh tế xã hội. Trong hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội cũng vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng cần nâng cao chất lượng nhân sự để phục vụ, đáp ứng yêu cầu của các DN ngày một tốt hơn. Chú trọng đến công tác đào tạo và đào tạo lại nhằm từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ cho cán bộ tín dụng để tiếp cận với xu thế hội nhập và tiến trình hiện đại hoá của ngành Ngân hàng. Thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho từng cán bộ, làm rõ trách nhiệm cá nhân trong các khâu công việc. Muốn vậy, Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội cần tổ chức các lớp bồi dưỡng, tổ chức các hoạt động tập thể cho cán bộ như thăm quan, văn nghệ, tổ chức hội thi CBTD giỏi làm căn cứ đánh giá phân loại CBTD, cử cán bộ đi học tập và tạo điều kiện cho cán bộ tiếp tục theo học cao học, văn bằng hai...Lấy hiệu quả công việc của từng CBTD để đánh giá năng lực và phẩm chất của họ, không vì bằng cấp hay quan hệ mà đánh giá chủ quan. Kịp thời khen thưởng cũng như phạt để tạo động lực khuyến khích cán bộ nhân viên nhiệt tình cống hiến, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác. Tín dụng với DNVVN gặp nhiều rủi ro hơn các khách hàng khác nên cần có mức khen thưởng khi DN mà CBTD quản lý không xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Đồng thời CBTD cũng phải chịu phạt khi món vay mình quản lý có vấn đề như chuyển thành nợ khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi mà nguyên nhân là do CBTD thiếu chuyên môn, làm sơ sài hay cố ý. Thưởng phạt nghiêm minh là đòn bẩy cho CBTD hăng hái làm việc, có trách nhiệm hơn từ đó sẽ giảm thiểu rủi ro tín dụng và đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng hơn. 3.2.7. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng Để nâng cao sự cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác cũng như đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phong phú các khách hàng DNVVN thì một giải pháp quan trọng là cần áp dụng nhiều hình thức tín dụng. Ngày càng có nhiều dự án với quy mô vốn lớn song một Ngân hàng với các quy định cho vay của mình, cũng như không bỏ quá nhiều vốn vay vào một dự án để giảm bớt rủi ro thì cho vay đồng tài trợ là một hình thức thích hợp. Khi ấy, Chi nhánh cùng với một nhóm các tổ chức tín dụng khác sẽ cùng cho vay với một dự án hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Với hình thức cho vay này, Chi nhánh sẽ thiết lập nhiều mối quan hệ hơn đối với các tổ chức tín dụng, với DN. Chi nhánh không chỉ thu được lợi nhuận trước mắt mà còn phân tán được rủi ro, nâng cao uy tín và tích luỹ thêm kinh nghiệm. Với DNVVN thì nhu cầu đổi mới công nghệ, thay mới trang thiết bị máy móc luôn là một nhu cầu cần thiết. Muốn nâng cao cạnh tranh, sản xuất ra được những sản phẩm giá rẻ và chất lượng cao thì con đường ngắn nhất là đổi mới công nghệ. Đặc biệt, các DNVVN ở nước ta còn rất lạc hậu về công nghệ kỹ thuật, máy móc kém hiện đại. Song trang bị máy móc hay đổi mới công nghệ rất tốn kém, bản thân DNVVN không đủ vốn để mua sắm, cũng không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo để vay vốn Ngân hàng. Hơn nữa, nhiều máy móc có giá trị lớn nhưng nhu cầu sử dụng của DN lại ngắn hơn thời gian khấu hao của tài sản. Thêm vào đó, Nghị định số 16 ngày 2/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công tác cho thuê tài chính đ• tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động này. Với nghị định 16 đối tượng cho thuê đ• được mở rộng bao gồm tất cả các DN, tổ chức, cá nhân hoạt động tại Việt Nam. Bên cho thuê tài chính được nhập khẩu trực tiếp những máy móc thiết bị mà bên thuê đ• được phép mua, nhập khẩu và sử dụng; bên thuê được sử dụng bản sao giấy chứng nhận đăng ký khi lưu hành phương tiện vận tải đi thuê; chuyển quyền sở hữu tài sản thuê khi kết thúc thời hạn thuê không phải nộp thuế chức bạ... Vì vậy, Chi nhánh cần sớm tiến hành cho thuê tài chính để mở rộng khách hàng, nâng cao trình độ nghiệp vụ và cũng là nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN. Cho thuê là một cách để tài trợ vốn cho DNVVN với các yêu cầu đơn giản hơn cho vay bởi tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng do đó dễ dàng kiểm soát, xử lý khi gặp vấn đề. Thuê mua có tác dụng thay thế các khoản vay có bảo đảm và giảm rủi ro cho các khoản tài trợ trung hạn đối với các DNVVN không có báo cáo hoạt động kinh doanh và báo cáo kiểm toán. Ngân hàng chỉ cần quan tâm đến báo cáo tài chính, đặt cọc và thời hạn trả cùng một phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Chi nhánh cũng cần nghiên cứu, thử nghiệm và đưa ra nhiều sản phẩm và dịch vụ sau dành cho DNVVN như là những sản phẩm dành riêng cho DNVVN. Đó là các khoản cho vay với tính linh hoạt cao đáp ứng các yêu cầu tài chính của từng DNVVN, bao gồm thấu chi và cho vay có kỳ hạn ; Tài khoản phát hành séc ; Ngân hàng qua điện thoại hoặc Internet ; Dịch vụ tài trợ thương mại bao gồm tín dụng ngắn hạn cho nhập khẩu nguyên liệu, tài trợ hỗ trợ xuất khẩu, bảo hiểm vận tải tàu biển ; Dịch vụ cung cấp tài liệu và xác nhận ; Dịch vụ thương mại bao gồm chỉ định thanh toán tiền hàng, ghi nợ trực tiếp từ tài khoản của khách hàng và thẻ tín dụng và thanh toán qua mạng ; Các sản phẩm bảo hiểm cho bên thứ 3 theo uỷ thác. 3.2.8 Tăng cường công tác tư vấn cho Doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng cũng là một Doanh nghiệp nhưng là một Doanh nghiệp đặc biệt vì kinh doanh tiền tệ. Trong cơ chế thị trường hiện nay, NHNNo & PTNT Hà Nội tuy là một Chi nhánh thuộc Ngân hàng quốc doanh nhưng để đứng vững và phát triển vẫn phải tự thân vận động là chính. Muốn mở rộng tín dụng, tìm kiếm được nhiều khách hàng tiềm năng, dự án có tính khả thi cao đem lại hiệu quả lớn Ngân hàng cần trở thành người đồng hành với khách hàng, nhất là đối với các DNVVN thiếu về kinh nghiệm, yếu về trình dộ chuyên môn và quản lý thì Ngân hàng càng cần tư vấn cho các Doanh nghiệp để cả hai bên đều có lợi. 3.3 Một số kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và NHNo & PTNT Việt Nam 3.3.1. Kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước Chính phủ và các ban ngành cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để khuyến khích các doanh nhân, doanh nghiệp yên tâm hoạt động theo đúng pháp luật và Ngân hàng Thương mại có hành lang pháp lý chuẩn để tuân theo. Ban hành các chính sách hỗ trợ, bảo vệ DNVVN, chính sách thuế, chính sách thương mại, đất đai. Nhà nước cần ban hành các đạo luật cơ bản tạo môi trường pháp lý cần thiết để các DNVVN dễ dàng thực hiện các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ và các Ngân hàng dễ dàng trong việc xử lý tài sản đảm bảo nợ khi có rủi ro xảy ra. Có như vậy mới góp phần tạo ra sự đảm bảo chắc chắn hơn cho các NHTM và từ đó khuyến khích họ trong việc cho vay vốn đối với các DNVVN. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước - Trung tâm thông tin của Ngân hàng Nhà nước cần cung cấp các thông tin về tìn hình tài chính, tình hình kinh doanh, hệ số an toàn vốn, quan hệ tín dụng của khách hàng với các tổ chức tín dụng, với các doanh nghiệp khác...một cách chính xác và nhanh chóng. Những thông tin này là cơ sở để Ngân hàng sử dụng trong quá trình thẩm định DN vay vốn. - Ngân hàng Nhà nước cần đóng vai trò nhà quản lý vĩ mô, đưa ra những chiến lược, định hướng mang tính khái quát và chung nhất cho các NHTM. Những điều chỉnh trong chính sách lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc...định hướng về ngành mũi nhọn cần đầu tư hay vùng kinh tế tiềm năng có ảnh hưởng mạnh tới môi trường kinh doanh của các Ngân hàng. - Trong quá trình ban hành các văn bản chế độ chính sách, Ngân hàng Nhà nước nên căn cứ trên bài học kinh nghiệm của các nước phát triển khác, những lỗ hổng trong các văn bản để xây dựng và sửa đổi cho kịp thời, đáp ứng nhu cầu thực tiễn như các quy định về điều kiện vay vốn, tài sản dảm bảo tiền vay... Bên cạnh đó cũng cần có văn bản hướng dẫn thực hiện, có bộ phận kiểm tra để ngăn chặn những sai phạm, để chấn chỉnh kịp thời cũng như phát hiện những điều không phù hợp trong chính sách, quy định để kịp thời sửa đổi. - Công tác thanh tra, kiểm tra cần được đổi mới để đơn giản hơn, bớt tốn kém nhân lực, chi phí và thời gian như hiện nay mà vẫn hiệu quả. Như đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho các thanh tra viên thường xuyên, hạn chế thủ tục tiếp đón tốn kém lãng phí, ứng dụng công nghệ hiện đại vào công tác kiểm tra cho nhánh chóng, hiệu quả. - Ngân hàng Nhà nước nên có chính sách phối hợp với các cơ quan nghiên cứu, trường Đại học và các Viện có uy tín trong nước soạn thảo chương trình bổ túc kiến thức về nghiệp vụ, kinh tế, chính trị xã hội, công nghệ thông tin... để đội ngũ cán bộ Ngân hàng có điều kiện trau dồi và tiếp nhận các kiến thức mới. Trình độ kiến thức, tư tưởng của cán bộ nhân viên Ngân hàng có được nâng lên thì mới có khả năng vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước một cách đúng đắn và nhanh chóng. Đặc biệt trong thời đại thông tin như ngày nay, nhân viên ngành Ngân hàng càng cần có kiến thức tổng hợp để hoàn thành nhiêm vụ được giao, vươn lên và tránh tụt hậu quá xa so với khu vực và thế giới. 3.3.3. Kiến nghị đối với NHNNo&PTNT Việt Nam NHNNo&PTNT Việt Nam nên thành lập ban DNVVN tại Hội sở chính và các phòng DNVVN tại Chi nhánh và giao cho các phòng ban này nhiệm vụ cung cấp dịch vụ Ngân hàng cho các DNVVN như là các khách hàng bán lẻ. Ban DNVVN tại Hội sở chính sẽ có trách nhiệm báo cáo với một Phó tổng giám đốc. Ban này sẽ có những chức năng cơ bản tương tự như những ban khác tại Hội sở chính như chịu trách nhiệm xây dựng chính sách và thủ tục cho DNVVN, xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách hàng năm của ban, quản lý về phát triển nhân sự của ban, tham gia các kháo đào tạo của NHNNo & PTNT VN, báo cáo khi được yêu cầu. Ngoài ra, ban này có các chức năng liên quan đến đối tượng khách hàng DNVVN, cụ thể là: - Tham gia vào việc thiết kế và cập nhật sản phẩm mới cho DNVVN. - Thụ lý và thẩm định các khoản cho vay, bảo lãnh đối với DNVVN vượt quá quyền hạn phê duyệt của Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội - Tham gia vào tìm kiếm vào nguồn vốn từ bên ngoài để cho vay theo hạn mức tín dụng cho các DNVVN. Tổ chức thực hiện, giám sát kiểm tra và báo cáo về việc thực hiện hạn mức tín dụng. - Giám sát việc thực hiện các chính sách và thủ tục liên quan đến đối tượng khách hàng vừa và nhỏ tại tất cả các đơn vị của NHNNo&PTNT và đề xuất các biện pháp xử lý hoặc khắc phục trong trường hợp không tuân thủ. - Định kỳ và đột xuất xem xét lại hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phòng khách hàng DNVVN sẽ được thành lập các Chi nhánh, sẽ cung cấp tất cả các sản phẩm, dịch vụ của NHNNo&PTNT dành cho DNVVN. Trong thời gian đầu mô hình này cần được thực hiện thí điểm tại ít nhất 2 Chi nhánh trong vòng 8 tháng. Trong 8 tháng này NHNNo&PTNT sẽ thực hiện đánh giá thường xuyên hoạt động kinh doanh đối với DNVVN, hoàn thiện các quy trình và chuẩn bị cho việc thành lập Phòng DNVVN tại tất cả các Chi nhánh. Phòng có trách nhiệm báo cáo với lãnh đạo Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội và Ban DNVVN tại Hội sở chính. ở cấp Chi nhánh, phòng có trách nhiệm sau: - Giới thiệu tất cả các sản phẩm và dịch vụ phục vụ DNVVN cho khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng của NHNNo&PTNT Việt Nam. - Chuẩn bị và đề xuất cấp tín dụng ( và bảo lãnh ) cho DNVVN trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. - Thực hiện các hợp đồng tín dụng, bảo lãnh đã được phê duyệt với khách hàng DNVVN. - Thu hồi nợ tín dụng của DNVVN. Để thực hiện hoạt động kinh doanh với khách hàng DNVVN một cách thận trọng, NHNNo & PTNT VN cần đảm bảo sự tách biệt hợp lý giữa các chức năng thương mại ( cấp Chi nhánh gồm có nhân viên quầy giao dịch và cán bộ phòng DNVVN ), quản lý rủi ro và các hoạt động quản lý khoản cho vay. Các chức năng quản lý rủi ro và quản lý khoản cho vay trình bày sau đây áp dụng đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, việc đề cập cụ thể ở đây là để làm rõ hơn chức năng của phòng DNVVN. Đối với quản lý rủi ro, những chức năng sau nếu liên quan đến DNVVN cần được gắn kết với hoạt động của Hội sở chính và báo cáo với Phó tổng giám chịu trách nhiệm về quản lý rủi ro và giám sát tín dụng. - Nghiên cứu và đề xuất các chính sách, thủ tục thực hiện tín dụng, quản lý rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường, quản lý tài sản và các khoản nợ không sinh lời ( cho DNVVN ), phối hợp với các phòng ban khác. - Xây dựng và thực hiện xếp hạng rủi ro và các hệ thống, công cụ quản lý rủi ro khác như quản lý danh mục, báo cáo về rủi ro, hệ thống thông tin quản lý tín dụng. - Xây dựng và đề xuất các giới hạn rủi ro. - Định giá khoản cho vay. - Giám sát danh mục cho vay đối với DNVVN của Ngân hàng để đảm bảo quản lý tập trung, xác định những chỗ có vấn đề và những rủi ro mới. - Kết hợp thu thập và cung cấp thông tin tín dụng đối với DNVVN cho các đơn vị kinh doanh và các cán bộ quản lý danh mục tín dụng. - Hỗ trợ kinh doanh trong việc xác định và giải quyết các khoản cho vay có vấn đề đối với DNVVN. Về quản lý khoản cho vay, những chức năng sau nếu liên qaun đến các DNVVN cần được gắn kết với hoạt động của Hội sở chính và báo cáo với Phó tổng giám đốc chịu trách nhiệm về giám sát hoạt động. - Xây dựng hạn mức cho vay. - Đăng ký và lưu giữ an toàn các tài liệu gốc và tài sản thế chấp. - Bảo quản tài liệu và nhật ký tài sản thế chấp. - Xác định giá trị giới hạn giải ngân khoản cho vay. - Xây dựng báo cáo về vượt hạn mức hàng ngày. - Phát lệnh yêu cầu hoàn trả khoản vay. Kết luận Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội là chi nhánh cấp 1 của NHNo&PTNT VN - một trong bốn Ngân hàng Quốc doanh lớn của nước ta. Được thành lập từ năm 1998, đến nay NHNo&PTNT Hà Nội đã trải qua 10 năm hoạt động, trở thành một trong những Ngân hàng có uy tín hàng đầu trong các NHTM. Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội có kết quả kinh doanh tốt, các chỉ tiêu đều có tốc độ tăng trưởng cao. Đặc biệt, việc nâng cao chất lượng tín dụng, nhất là tín dụng đối với các DNVVN luôn được NHNo&PTNT Hà Nội quan tâm và chú trọng. Điều này sẽ đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự phát triển của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội nói riêng. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Ngân hàng thương mại – Phan Thị Thu Hà- Đại học Kinh tế quốc dân. 2. Sổ tay tín dụng của NHNNo & PTNT Việt Nam tháng 10/2007. 3.Cẩm nang tín dụng của NHNNo & PTNT Việt Nam 2001. 4. Báo cáo kết quả kinh doanh, kết quả tín dụng năm 2005, 2006, 2007 của Chi nhánh NHNNo & PTNT Hà Nội. 5. Chính sách hỗ trợ và phát triển DNVVN ở Việt nam – dự án kỷ yếu kế hoạch, kết quả giai đoạn 1 Học viện chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh- Hà Nội tháng1/1996. 6. Vốn tín dụng Ngân hàng đầu tư cho phát triển kinh tế ngoài quốc doanh – Tạp chí phát triển kinh tế số 126, tháng 04/2001 – Nguyễn Đắc Hưng. 7. Niên giám thống kê 1998 – NXB Thống kê. 8. Một số vấn đề trong chính sách quản lý các DNVVN ở nước ta hiện nay – Tạp chí NCKT , số 3/1996 – Trần Ngọc Ngoạn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7702.doc
Tài liệu liên quan