Đề tài Phân tích hoạt động kinh doanh của một số doanh nghiệp Dược Việt Nam tham gia thị trường chứng khoán

- Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Trên thị trường thứ cấp các khoản tiền thu được từ việc mua bán CK thuộc về nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về tổ chức phát hành. Và TTTC là thị trường hoạt động liên tục, các chứng khoán có thể được mua bán nhiều lần trên TTTC. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, TTCK được chia thành - Thị trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) - Thị trường chứng khoán phi tập trung (thị trường OTC) Tại Sở giao dịch tất cả các giao dịch đều được diễn ra tại một địa điểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. Còn trên thị trường OTC các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty phân tán khắp quốc gia được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá cả trên thị trường này được hình thành theo phương thức thoả thuận.

doc70 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động kinh doanh của một số doanh nghiệp Dược Việt Nam tham gia thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y Cổ phần Xuất nhập khẩu Y tế Domesco • Công ty Cổ Phần Dược phẩm Imexpharm * Các số liệu trong bảng báo cáo tài chính, Bảng cân đối kế toán của ba doanh nghiệp giai đoạn 2005-2007. * Các số liệu trong Bản Cáo Bạch, bản thuyết minh báo cáo tài chính và báo cáo lưu chuyển tiền tệ của ba doanh nghiệp năm 2007 * Các số liệu về giá cổ phiếu và khối lượng giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM năm 2007 2.1.2. Địa điểm nghiên cứu Bộ môn Quản Lý và Kinh tế Dược, trường Đại Học Dược Hà Nội 2.1.3. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 01/ 2008 đến tháng 05/2008 2.1.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu Dựa vào các chỉ tiêu phân tích hoạt động kinh doanh, đề tài tiến hành khảo sát những chỉ tiêu sau được trình bày ở sơ đồ dưới đây: Tình hình sử dụng vốn Doanh thu Lợi nhuận Thị phần Tỷ số giá trị thị trường Các chỉ tiêu phân tích hoạt động kinh doanh Tăng trưởng vốn Hệ số khả năng thanh toán Tỷ số đòn bẩy tài chính Tăng trưởng doanh thu Tỷ số năng lực hoat động Tăng trưởng lợi nhuận Tỷ số khả năng sinh lợi Cổ tức EPS P/E Hình 2.1. Sơ đồ các chỉ tiêu nghiên cứu 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu không xác xuất có mục đích phù hợp với mục tiêu của đề tài và dựa trên hai tiêu chí sau: 2.3.2. Phương pháp nghiên cứu ỉ Phương pháp hồi cứu ỉ Phương pháp chuyên gia ỉ Phương pháp phân tích kinh tế 2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu Kết quả được xử lý bằng phương pháp thống kê và giá cổ phiếu được tính theo phương pháp trung bình . Xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel for Window 2003. 2.3.4. Trình bày kết quả - Trình bày bằng phần mềm Microsoft Word 2003 for Window - Báo cáo bằng phần mềm Microsoft Power Point 2003 for Window Phần III kết quả khảo sát và Bàn luận Tham gia TTCK tập trung, cả ba doanh nghiệp sẽ phải chịu những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của các thể chế và quy luật hoạt động trên TTCK. Khoá luận phân tích hoạt động kinh doanh của ba doanh nghiệp Dược tham gia TTCK tập trung thông qua một số chỉ tiêu sau: 3.1. Tình hình sử dụng vốn 3.1.1. Tăng trưởng vốn chủ sở hữu Sự thay đổi vốn CSH là yếu tố đầu tiên và dễ dàng nhận thấy ở các doanh nghiệp mới tham gia TTCK tập trung. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. a/. Tăng trưởng vốn CSH Bảng 3.1. Tăng trưởng vốn CSH của ba doanh nghiệp trước và sau Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu DHG DMC IMP 2007 Trước lên sàn % tăng trưởng 2007 Trước lên sàn % tăng trưởng 2007 Trước lên sàn % tăng trưởng Vốn điều lệ 200,000 80,000 150,00 137,699 80,00 28,26 116,59 64,00 82,17 Vốn CSH 651,57 170,44 282,28 461,98 156,28 195,61 493,60 232,80 112.03 Thặng dư vốn cổ phần 378,76 0 229,27 36,00 536,86 175,74 32,03 448,84 Nhận xét: Từ bảng 3.1 ta có biểu đồ sau: Hình3.1: Mức tăng trưởng vốn điều lệ và vốn CSH Từ biểu đồ trên ta thấy, sau khi tham gia và hoạt động trên TTCK tập trung, cả 03 doanh nghiệp đều có sự tăng vốn điều lệ với tỷ lệ rất lớn: DHG tăng 150%, DMC tăng 28,26% và IMP tăng 82,17%. Do niêm yết cổ phiếu ra công chúng thặng dư vốn cổ phần của 03 doanh nghiệp có mức tăng trưởng rất cao so với lúc chưa lên sàn. DHG tăng 378,76 tỷ đồng, DMC có mức tăng trưởng lớn nhất đạt 536,86% đạt 229,27 tỷ và IMP tăng trưởng 448,84% đạt 175,74 tỷ đồng. Sự gia tăng của vốn điều lệ và thặng dư vốn cổ phần là nguyên nhân chính tạo nên sự tăng vốn CSH. Mức tăng trưởng vốn CSH của DHG là lớn nhất đạt 282,28% và thấp nhất là IMP tăng 112,03%. b/. Đầu tư dài hạn Như vậy qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng thì cả 03 doanh nghiệp đều huy động được một nguồn vốn rất lớn tồn tại dưới dạng vốn chủ sở hữu. Có được số tiền này cả 03 doanh nghiệp sẽ có thêm vốn để đầu tư vào TSCĐ, vào hệ thống phân phối để mở rộng sản xuất kinh doanh. Từ số tiền đã huy động được 03 doanh nghiệp đã có kế hoạch đầu tư vào các dự án kinh doanh, cụ thể được trình bày ở các bảng sau: * Danh mục đầu tư của DMC Bảng 3.2. Danh mục đầu tư của DHG STT Tên dự án Số tiền (tỷ đồng) 1 Đầu tư xây dựng nhà máy mới 123,215 2 Xây kho Tân Tạo 25,161 3 Xây dựng hệ thống bán hàng tại các chi nhánh trong cả nước 33,483 4 Công ty chế biến tảo Vĩnh Hảo 3,6 5 Công ty bao bì sạch Vĩnh Tường 20 6 Mua cổ phiếu các công ty Dược 33,15 7 Công ty con DHG travel 3 8 Công ty con bao bì 5 9 Công ty nuôi trồng chế biến Dược liệu 3 Tổng 273,76 Trong đó hạng mục đầu tư 4,5,6 đã hoàn thành và có tổng giá trị là 56,76 tỷ. Các hạng mục còn lại có vốn đầu tư là 217 tỷ đang trong giai đoạn hoàn thành. * Danh mục đầu tư của DMC Bảng 3.3. Danh mục đầu tư của DMC STT Tên dự án Vốn đầu tư (tỷ đồng) 1 Góp vốn vào công ty cổ phần Dược DOMEDIC 9,0 2 Góp vốn vào nhà máy thức ăn thuỷ sản 45,0 3 Đầu tư nhà máy chiết xuất Dược liệu 57,0 4 Đầu tư xưởng sản xuất thuốc Non Beta- lactam 67,0 Tổng 178,0 Kết quả thực hiện: góp vốn vào công ty cổ phần Dược DOMEDIC là 9,0 tỷ. Còn các dự án khác đang trong giai đoạn hoàn chỉnh hồ sơ và mời thầu. Số tiền thu được do phát hành cổ phiếu chưa sử dụng được tạm dùng vào việc: ỹ Trả nợ vay ngân hàng : 71,7 tỷ ỹ Đầu tư tài chính : 10 tỷ ỹ Gửi ngân hàng : 60 tỷ ỹ Bổ sung vốn lưu động : 51,59 tỷ Ngoài ra DMC còn có các dự án đầu tư tới 2015 với mục tiêu đến 2015 phát triển DMC thành một tập đoàn hùng mạnh từ * Danh mục đầu tư của DMC Bảng 3.4. Danh mục đầu tư của IMP STT Tên dự án Vốn (tỷ đồng) 1. Đầu tư xây dựng nhà máy Cephalosporin 106 2. Đầu tư vào trung tâm bảo tồn và phát triển Dược liệu Đồng Tháp Mười. Đầu tư nhà máy sản xuất nguyên liệu Dược 20 3 Đầu tư vào hệ thống phân phối sản phẩm 20 4. Nâng cấp thiết bị hiện đại cho các nhà máy đã có 10 Tổng 156 Nhận xét: Qua các danh mục đầu tư ở trên ta thấy DHG là doanh nghiệp đầu tư dài hạn nhiều nhất là 273,76 tỷ, sau đó đến DMC với 178,0 tỷ và ít nhất là IMP 156 tỷ. Điều đó cho thấy ba doanh nghiệp đã có hướng đầu tư vào tài sản dài hạn, dịch chuyển dần nguồn vốn đang tồn tại phần lớn dưới dạng tiền mặt và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn sang TSCĐ để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ và cơ cấu lại tài sản cũng như nguồn vốn. Sự tăng trưởng vốn CSH ở trên đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ba doanh nghiệp mà cụ thể ở tỷ số khả năng thanh toán và tỷ số đòn bẩy tài chính như sau: 3.1.2. Tỷ số khả năng thanh toán Tỷ số khả năng thanh toán của 03 doanh nghiệp được tổng hợp từ bản cân đối kế toán và báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh, và kết quả được trình bày ở bảng dưới đây. Bảng 3.5. Tỷ số khả năng thanh toán của ba doanh nghiệp khảo sát Đơn vị: Lần STT Chỉ tiêu Công ty Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Khả năng thanh toán ngắn hạn DHG 1,75 1,13 2,32 DMC 1,87 1,75 3,49 IMP 2,03 3,72 6,72 2 Khả năng thanh toán nhanh DHG 0,27 0.12 1,53 DMC 0,15 0,10 1,80 IMP 1,01 1,87 4,58 Nhận xét: a/. Hệ số thanh toán ngắn hạn (hệ số thanh toán hiện thời) Từ bảng 3.5 ta có biểu đồ sau: Hình 3.2. Khả năng thanh toán ngắn hạn của ba doanh nghiệp Ta thấy khả năng thanh toán ngắn hạn của cả ba doanh nghiệp đều tăng trong năm 2007, IMP tăng cao nhất đạt 6,72 và thấp nhất là DHG với khả năng thanh toán ngắn hạn là 2,32. IMP là doanh nghiệp có khả năng thanh toán cao nhất trong ba doanh nghiệp. b/. Khả năng thanh toán nhanh Từ bảng 3.5 ta có biểu đồ sau: Hình 3.3. Khả năng thanh toán nhanh của ba doanh nghiệp giai đoạn 2005- 2007 Nhìn vào biểu đồ ta thấy năm 2007 khả năng thanh toán nhanh của ba doanh nghiệp được tăng lên cao. Tăng cao nhất là IMP với 4,58 lần gấp gần 2,5 lần so với năm 2006 và 4,5 lần so với năm 2005. Khả năng thanh toán thấp nhất năm 2007 là 1,53 lần gấp 15 lần so với 2006 và trung bình là DMC với 1,8 lần. Như vậy ta thấy các hệ số thanh toán của 03 doanh nghiệp đều tăng dần từ năm 2005 đến 2007. Điều đó có nghĩa là ba năm vừa qua cả 03 doanh nghiệp càng ngày càng có khả năng thanh toán cao hơn và bằng giá trị thuần về TSLĐ, tiền mặt và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của mình các doanh nghiệp có thể dễ dàng trang trải các khoản nợ ngắn hạn. Đây là một lợi thế cho các doanh nghiệp trong việc vay ngân hàng và tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư ngắn hạn cũng như dài hạn. 3.1.3. Tỷ số đòn bẩy tài chính (tỷ số cân đối vốn) Các tỷ số này cho biết mức độ mà doanh nghiệp tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bằng vốn vay. Qua các báo cáo tài chính và bảng cân đối kế toán, các tỷ số đòn bẩy tài chính của 03 doanh nghiệp được tổng kết lại như sau: Bảng 3.6. Tỷ số đòn bẩy tài chính của ba doanh nghiệp khảo sát Chỉ tiêu Công ty Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tỷ số nợ trên tổng tài sản (lần) DHG 0,55 0,65 0,31 DMC 0,41 0,42 0,22 IMP 0,46 0,32 0,13 Tỷ số nợ trên Vốn CSH (lần) DHG 1,23 1,83 0,45 DMC 0,71 0,72 0,28 IMP 0,87 0,30 0,14 Vốn CSH trên tổng tài sản (%) DHG 44,86 35,30 68,99 DMC 58,62 58,01 78,05 IMP 53,60 76,91 87,45 Nhận xét: a/. Tỷ số nợ/tổng tài sản Từ bảng 3.6 ta có biểu đồ sau: Hình 3.4. Tỷ số nợ trên tổng tài sản của ba doanh nghiệp Ta thấy năm từ năm 2005 đến 2007 tỷ số nợ trên tổng tài sản có xu hướng giảm dần và giảm nhanh nhất là năm 2007. Năm 2007 tỷ số này thấp nhất là IMP chỉ có 0,13 lần,, sau đó đến DMC 2,22 lần và cao nhất là DHG vơi 0,31 lần. DMC có tỷ số nợ trên tổng tài sản cao nhất là 0,65 lần vào năm 2006, DHG cao nhất là 0,55 vào năm 2005. b/. Tỷ số nợ/ vốn CSH Từ bảng 3.6 ta có biểu đồ sau: Hình 3.5. Tỷ số nợ trên vốn CSH của ba doanh nghiệp Ta thấy tương tự như tỷ số nợ trên tổng tài sản thì tỷ số nợ trên vốn CSH cũng có xu hưởng giảm dần và giảm nhanh hơn tỷ số nợ trên tổng tài sản. DHG giảm từ 1,83 năm 2006 xuống còn 0,45 năm 2007, DMC giảm gần 3 lần so vơi 2006 đạt 0,28 lần và năm 2007 thấp nhất là IMP với 0,14. Nguyên nhân chủ yếu là do sự tăng lên của vốn CSH do phát hành cổ phiếu ra công chúng nên làm giảm tỷ số nợ trên vốn CSH. c/. Tỷ số tự tài trợ (Vốn CSH/tổng tài sản) Từ bảng 3.6 ta có biểu đồ sau: Hình 3.6. Tỷ số tự tài trợ của ba doanh nghiệp Năm 2007 cả 03 doanh nghiệp đều có tỷ số tự tài trợ tăng cao. Trong đó tốc độ tăng của DHG cao nhất gấp 1,95 lần so với năm 2006. Nhưng lại thấp nhất trong 03 doanh nghiệp, IMP cao nhất là 87,45%. Tỷ số này tăng là do mức tăng khá cao của vốn CSH. Trong khi nợ phải trả lại không tăng mà có xu hướng giảm. Vốn đầu tư của CSH tăng do niêm yết cổ phiếu để huy động vốn và thặng dư vốn cổ phần cũng tăng đáng kể. Như vậy bằng vốn chủ sở hữu của mình doanh nghiệp có khả năng tự tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của mình mà không phải phụ thuộc vào bên ngoài. Qua phân tích các tỷ số đòn bẩy tài chính ta thấy năm 2007 cả 03 doanh nghiệp do tăng được một nguồn vốn lớn từ việc chào bán cổ phiếu ra công chúng nên đã có thêm nhiều vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải vay thêm các khoản nợ. Nợ vay giảm cùng với việc tăng tổng tài sản cũng như vốn CSH là nguyên nhân gây nên tỷ số nợ trên vốn CSH và tỷ số nợ trên tổng tài sản giảm còn tỷ số tự tài trợ lại cao. Ba doanh nghiệp có được điều đó là do huy động được một nguồn vốn lớn từ việc niêm yết cổ phiếu. Chính vì vậy tăng được khả năng tự chủ và giảm hệ số đòn bẩy tài chính. 3.2. Doanh thu, doanh thu hàng sản xuất Doanh thu là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Để đáng giá hoạt động kinh doanh của ba doanh nghiệp sau khi lên sàn , khoá luận tiến hành khảo sát tỷ lệ tăng trưởng doanh thu của ba doanh nghiệp 3.2.1. Tăng trưởng doanh thu Từ các bản báo cáo tài chính ta có bảng tỷ lệ tăng trưởng doanh thu như sau: Bảng 3.7. Tỷ lệ tăng trưởng doanh thucủa ba doanh nghiệp khảo sát Đơn vị: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu DHG DMC IMP 07 06 (+/-) 07/06 07 06 (+/-) 07/06 07 06 (+/-) 07/06 1 Tổng DT 1.285,2 873,07 47,20 813,19 661,95 22,84 454,42 527,28 -13,81 2 DT thuần 1.269,28 868,19 46,19 811,26 659,25 23,03 451,60 525,40 -14,05 3 DT sản xuất 1.201,60 805,50 45,75 420,11 344,40 21,95 427,73 492,05 -13,17 Nhận xét: Từ bảng 3.7 ta có biểu đồ sau: Hình3.7: Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu của 03 doanh nghiệp so với năm 2006 Doanh thu của DHG và DMC năm 2007 có sự tăng trưởng cao năm 2007 tổng doanh thu đạt 1.285,20 tỷ đồng đạt 47,2% so với năm 2006. Mức tăng trưởng doanh thu của DMC cũng lên tới 22,84% đạt 813.19 tỷ đồng...Nguyên nhân chủ yếu là do năm 2007, hai doanh nghiệp có thêm vốn để hoạt động kinh doanh, mở rộng hệ thống phân phối, nâng cao sản xuất và các công tác kiểm tra chất lượng... Từ biểu đồ trên ta nhận thấy rằng DHG có mức tăng trưởng cao nhất sau đó đến DMC. Riêng đối với IMP, doanh thu năm 2007 lại giảm 13,81%, doanh thu hàng sản xuất giảm 13,17%. Nguyên nhân chủ yếu là do năm 2007 IMP không chạy theo doanh số mà chủ động cơ cấu lại sản phẩm, loại bỏ một số sản phẩm có hiệu quả kinh doanh thấp. Hơn nữa doanh thu năm 2006 cũng tăng do IMP thu được 133,69 tỷ doanh thu hàng sản xuất do chương trình thuốc chống cúm gia cầm của Bộ Y tế. Nếu không kể doanh thu này thì năm 2007 doanh thu của IMP tăng 15,23% trong đó doanh thu hàng sản xuất tăng 19,18%. Trong cơ cấu doanh thu thì doanh thu hàng sản xuất cũng chiếm tỷ trọng rất lớn: DHG cao nhất là 94,67%, IMP là 94,71% và DMC thấp nhất là 92,78%. Như vậy, cả 03 doanh nghiệp đều có tỷ trọng lớn về sản xuất vì vậy đầu tư vào TSCĐ để nâng cao năng suất là hướng đi đúng đắn của cả ba doanh nghiệp. Do có sự tăng trưởng doanh thu ở trên nên năng lực hoạt động của doanh nghiệp cũng có sự thay đổi lớn 3.2.2. Các tỷ số năng lực hoạt động Bảng 3.8. Tỷ số năng lực hoạt động của ba doanh nghiệp khảo sát Đơn vị: Lần STT Khoản mục Công ty Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Vòng quay hàng tồn kho DHG 4,89 3,98 4,09 DMC 4,89 4,07 3,81 IMP 2,34 4,04 3,17 2 Hiệu suất sử dụng TSCĐ DHG 8,59 5,66 4,73 DMC 7,85 6,07 5,38 IMP 12,06 11,87 4,59 3 Hiệu suất sử dụng tài sản DHG 1,89 1,79 1,35 DMC 2,13 1 ,73 1,37 IMP 1,07 1,72 0,79 Nhận xét: a/. Vòng quay hàng tồn kho Từ bảng 3.8 ta có biểu đồ sau: Hình 3.8. Vòng quay hàng tồn kho của ba doanh nghiệp Qua bảng tổng kết tỷ số năng lực hoạt động trên ta thấy vòng quay hàng tồn kho có sự biến đổi không ổn định ở cả 03 doanh nghiệp trong các năm. Năm 2007 vòng quay HTK của DHG tăng không đáng kể đạt 4,09 giảm số ngày luân chuyển từ 90 ngày năm 2006 xuống còn 88 ngày năm 2007. Còn vòng quay HTK của DMC và IMP đều giảm trong đó IMP giảm nhiều nhất từ 4,04 năm 2006 xuống còn 3,17 năm 2007. b/. Hiệu suất sử dụng TSCĐ Từ bảng 3.8 ta có biểu đồ sau: Hình 3.9. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định của ba doanh nghiệp Năm 2007 là năm cả 03 doanh nghiệp đều có hiệu suất sử dụng TSCĐ thấp hơn nhiều so với năm 2006 và 2005. DMC cao nhất với vòng quay TSCĐ là 5,38 còn IMP thấp nhất là 4,59, và DHG giữ vòng quay tài sản cố định trung bình là 4,73. Nguyên nhân chủ yếu là do cả 03 doanh nghiệp đều sử dụng phần vốn huy động được từ đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng để đầu tư vào mua TSCĐ. Tuy doanh thu thuần của cả ba doanh nghiệp đều tăng nhưng tốc độ không nhanh bằng tốc độ tăng tài sản cố định, vì vậy vòng quay TSCĐ trong năm 2007 giảm. c/. Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản Từ bảng 3.8 ta có biểu đồ sau: Hình 3.10. Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản của cả 03 doanh nghiệp đều giảm. Trong đó năm 2007 IMP giảm nhiều nhất chỉ có 0,79 và DMC cao nhất là 1,37. Nguyên nhân chủ yếu cũng do tốc độ tăng tổng tài sản quá nhanh vượt tốc độ tăng của doanh thu. Do có thêm số tiền phát hành cổ phiếu đem lại nên tổng tài sản tăng cao và chủ yếu tồn tại dưới dạng TSLĐ. 3.3. Lợi nhuận 3.3.1. Tăng trưởng lợi nhuận Bảng 3.9. Lợi nhuận của ba doanh nghiệp năm 2007 Đơn vị: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu DHG DMC IMP 2007 2006 (+/-) 07/06 (%) 2007 2006 (+/-) 07/06 (%) 2007 2006 (+/-) 07/06 (%) 1 LN từ SXKD 126,90 86,91 46,01 63,79 53,04 20,27 61,13 44,31 37,96 2 LNTT 127,09 87,06 45,98 64,26 54,04 18,91 63,23 47,11 34,21 3 LNST 128,31 87,06 47,37 64,18 48,60 32,06 54,52 42,28 28,96 Nhận xét: Từ bảng 3.9 ta có biểu đồ sau: Hình3.11. Lợi nhuận sau thuế và mức tăng trưởng lợi nhuận sau thuế Nhìn chung cả ba doanh đều có mức tăng trưởng lợi nhuận rất cao. Trong đó DHG vẫn khẳng định mình là doanh nghiệp dẫn đầu ngành công nghiệp Dược bằng tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận cao nhất. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng 46,01%, LNTT tăng 45,98% và LNST tăng 47,37%. IMP tuy có sự giảm doanh thu song do cơ cấu lại sản phẩm, công ty cắt giảm một số mặt hàng có lãi suất kém. Vì vậy mức tăng trưởng lợi nhuận vẫn rất cao, LNST đạt mức tăng trưởng là 29,96% 3.3.2. Tỷ số khả năng sinh lợi Lợi nhuận đạt mức tăng trưởng cao nhưng nó có ảnh hưởng đến các tỷ suất lợi nhuận như thế nào, khoá luận tiến hành khảo sát các tỷ suất lợi nhuận. Từ bản cáo bạch và bản báo cáo tài chính của ba doanh nghiệp ta có bảng sau: Bảng 3.10. Tỷ số khả năng sinh lời của ba doanh nghiệp Đơn vị:% Chỉ tiêu Công ty Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 LNST/DTT (ROS) DHG 10,00 10,03 10,01 DMC 6,37 7,37 8,57 IMP 7,85 8,05 12,03 Ln từ hoạt động SXKD/ DTT DHG 9,84 8,87 9,99 DMC 7,91 8,04 7,68 IMP 8,86 8,43 13,54 ROE= LNST/VCSH DHG 42,28 51,08 19,54 DMC 23,15 22,01 15,05 IMP 15,69 18,05 10,95 ROA= LNST/TTS DHG 18,95 18,03 13,48 DMC 13,57 12,78 11,77 IMP 8,41 13,88 9,57 Nhận xét: a/. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm (LNST/DTT) Từ bảng 3.10 ta có: Hình 3.12. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩmcủa ba doanh nghiệp Qua biểu đồ trên ta thấy Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm năm 2007 của DHG hầu như ổn định như năm 2005 đến 2007 trung bình là 10,01%, còn của DMC năm 2007 tăng chút ít đạt 8,57% và IMP tăng nhiều nhất đạt 12,03%. Nguyên nhân là do năm 2007 tuy doanh thu của cả 03 doanh nghiệp có tăng nhưng chi phí cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng tăng nên tỷ suất doanh lợi sản phẩm tăng không đáng kể. b/. Tỷ suất lợi nhuận từ hoạt động SXKD trên doanh thu thuần Từ bảng 3.10 ta có biểu đồ sau: Hình3.13. Tỷ suất lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh trên doanh thu thuần Ta thấy lợi nhuân từ hoạt động sản xuất kinh doanh trên doanh thu thuần của IMP là cao nhất 13,54% và DMC là thấp nhất 7,68%. Còn DHG giữ mức trung bình là 9,99%. Nguyên nhân chủ yếu là do doanh thu thuần năm 2007 của IMP giảm trong khi lợi nhuận từ hoạt động SXKD lại tăng. Vì vậy nên tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần của IMP cao nhất. Còn DHG và DMC thì tỷ số này khá ổn định trong ba năm, do tốc độ tăng doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh đều tương đương nhau c/. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn CSH (ROE) ROE là chỉ số mà các nhà đầu tư quan tâm nhất . Tỷ suất lợi nhuận trên vốn CSH cho biết khả năng sinh lãi của vốn CSH trong một năm, 100 đồng vốn CSH đầu tư kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Các nhà quản trị doanh nghiệp rất chú trọng tăng mức ROE của doanh nghiệp để thu hút các nhà đầu tư, đầu tư vào doanh nghiệp. Từ bảng 3.10 ta có biểu đồ về ROE của ba doanh nghiệp như sau: Hình3.14. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu Qua bảng trên ta thấy ROE của cả 03 doanh nghiệp năm 2007 đều giảm. Điều này cho thấy rằng năm 2007 khả năng sinh lời vốn CSH giảm hay nói cách khác là hoạt động của vốn CSH là kém hiệu quả hơn trong năm 2007. Trong đó DHG giảm mạnh nhất từ 51,08% năm 2006 xuống còn 19,54% năm 2007. Nhưng so với hai doanh nghiệp còn lại thì ROE của DHG lại cao nhất là 19,54%, sau đó đến DMC là 15,05% và IMP với 10,95%. Vì vậy DHG vẫn là doanh nghiệp thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư hơn cả. Có một hiện tượng tồn tại chung cho cả 03 doanh nghiệp là sau đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng thì doanh nghiệp được tăng lên một nguồn vốn lớn tồn tại dưới dạng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên do chưa kịp phân bổ và sử dụng nó một cách hợp lý nên khả năng sinh lời của vốn CSH giảm. d/. Tỷ suất LNST trên tổng tài sản (ROA) Đây là tỷ số tổng quát nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Từ bảng 3.10 ta có biểu đồ: Hình3.15. ROA của 03 doanh nghiệp giai đoạn 2005- 2007 Ta thấy năm 2007 IMP có tỷ số ROA thấp nhất là 9,57%. DHG cao nhất là 13,48%, còn DMC giữ mức trung bình là 11,77%. Sự mất cân đối trong cơ cấu tài sản, tỷ trọng quá lớn của TSLĐ trong cơ cấu tài sản là nguyên nhân làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản dẫn đến làm giảm khả năng sinh lời của tài sản. 3.4. Thị phần Từ doanh thu thuần và tổng giá trị tiền thuốc sử dụng của Việt Nam 2005 đến 2007 và theo công thức 3, ta có bảng kết quả sau: Bảng 3.11. Thị phần của ba doanh nghiệp Đơn vị: % STT Công ty Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Tiền thuốc (tỷ đồng) 13.026 15.327 18.378 2 DHG 4,25 5,66 6,90 3 DMC 4,36 4,30 4,41 4 IMP 2,59 3,43 2,46 Nhận xét: Từ bảng 3.11 ta có biểu đồ sau: Hình 3.16: Thị phần của ba doanh nghiệp giai đoạn 2005- 2007 Ta thấy năm 2007, thị phần của DHG và DMC tiếp tục tăng trong đó DHG có mức tăng trưởng cao hơn đạt 21,90%, DMC có mức tăng thị phần là 2,56%. Riêng IMP có thị phần năm 2007 giảm, nguyên nhân chủ yếu là do sự giảm doanh thu giảm 14,05% so với năm 2006, trong khi tổng giá trị tiền thuốc sử dụng năm 2007 tăng 19,90% từ 15.327 tỷ lên 18.378 tỷ đồng. Như vậy thị phần của ba doanh nghiệp đã chiếm tới 13,77% trong tổng giá trị tiền thuốc của Việt Nam năm 2007. Điều đó có thể thấy được ba doanh nghiệp chiếm một vị thế quan trọng trong ngành công nghiệp Dược Việt Nam. Các chỉ tiêu trên đều là các chỉ tiêu phân tích hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp nói chung. Sau khi niêm yết cổ phiếu trên TTCK, ba doanh nghiệp Dược chịu ảnh hưởng của TTCK, khoá luận khảo sát thêm hai chỉ tiêu sau: 3.6. Các tỷ số giá trị thị trường Cùng tham gia TTCK tập trung cuối năm 2006, cho đến nay ba doanh nghiệp đã thu được những thành công nhất định. Tuy mới lên sàn nhưng ba doanh nghiệp đã tỏ ra khá chuyên nghiệp với Luật chứng khoán và các quy định trên thị trường giao dịch. a/. Cổ tức Sau khi tham gia TTCK tỷ lệ chi trả cổ tức được minh bạch hoá và công khai cho tất cả cổ đông cũng như trên TTCK. Vì vậy cổ tức năm 2007 của ba doanh nghiệp phản ảnh chính xác số tiền mỗi cổ đông nhận được khi đầu tư chứng khoán trong một năm. Bảng 3.12. Cổ tức của ba doanh nghiệp giai đoạn 2005- 2007 Đơn vị:% Chỉ tiêu DHG DMC IMP 2007 2006 (+/-) 07/06 2007 2006 (+/-) 07/06 2007 2006 (+/-) 07/06 Cổ tức 25 25 0 18 20,8 -13,46 20 25 -20 Nhận xét: Năm 2007 các công ty có mức tăng vốn CSH rất lớn, mức tăng trưởng lợi nhuận không bằng mức tăng trưởng vốn CSH vì vậy tỷ lệ chi trả cổ tức có xu hướng giảm. Trừ DHG vẫn giữ được mức 25% thì DMC giảm 13,16% từ 20,8% năm 2006 còn 18% năm 2007. IMP giảm chi trả cổ tức từ 25% năm 2007 còn 15%. Như vậy năm 2007 DMC và IMP giảm tỷ lệ chi trả cổ tức cho các cổ đông và phần lợi nhuận còn lại được sử dụng để trích các quỹ và tái đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy tỷ lệ chi trả cổ tức có xu hướng giảm so với năm 2006 nhưng điều đó lại làm tăng tiềm năng kinh tế của ba doanh nghiệp bởi vì các doanh nghiệp sẽ dùng số tiền còn lại để đầu tư dài hạn và mở rộng sản xuất kinh doanh. b/. Thu nhập mỗi cổ phần Bảng 3.13: Chỉ số EPS của 03 doanh nghiệp giai đoạn 2005- 2007 Đơn vị: Nghìn đồng/ cổ phiếu Công ty Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 DHG 6,992 10.882 6,813 DMC 5,652 4,841 4,949 IMP 5,801 5,563 6,053 (nguồn: Báo cáo tài chính của ba doanh nghiệp giai đoạn 2005-2007) Nhận xét: Từ bảng 3.5 ta có biểu đồ sau: Hình 3.17. Chỉ số EPS của ba doanh nghiệp giai đoạn 2005- 2007 Ta thấy thu nhập trên mỗi cổ phần của 03 doanh nghiệp biến đổi không ổn định từ 2005 đến 2007. DHG luôn là doanh nghiệp đạt EPS cao nhất trong ba doanh nghiệp. Năm 2007 DHG có EPS là 6,813 nâng giá trị cổ phiếu từ 10.000 đồng lên 16.813 nghìn. DMC là 4,949 và IMP là 6,053. EPS của DHG và DMC năm 2007 giảm so với năm 2006 là do năm 2007 số lượng cổ phần tăng cao nên thu nhập mỗi cổ phần giảm, còn EPS của IMP vẫn tăng so với năm 2006 là do số lượng cổ phần của IMP ít hơn. Như vậy đối với các nhà đầu tư dài hạn thì đầu tư vào DHG là có thu nhập cao nhất. Năm 2007 DHG có EPS giảm là do tăng số lượng cổ phiếu phổ thông bình quân lên tới 18.833.333 tăng 135,42% so với năm 2006 trong khi lợi nhuận phân bổ cho các cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông là 128,31 tỷ chỉ tăng 47,38% so với năm 2006 c/. Hệ số giá trên thu nhập (P/E) Đề tài chỉ xét hệ số giá trên thu nhập của ba doanh nghiệp năm 2007 bởi vì khi 2007 là năm đầu tiên cả ba doanh nghiệp tham gia TTCK tập trung nên có thể thu thập được số liệu giá cổ phiếu một cách chính xác nhất. Ta có biểu đồ giá cổ phiếu ba doanh nghiệp như sau: Hình 3.18. So sánh giá cổ phiếu của 03 doanh nghiệp năm 2007 (Nguồn: Tổng kết từ các phiên giao dịch của ba doanh nghiệp năm 2007 phụ lục 3.1) Hình3.20. Chỉ số VN-index năm 2007 (Nguồn:Tổng hợp từ các phiên giao dịch trên trang tin Uỷ ban chứng khoán nhà nước) Nhận xét: Nhìn chung giá cổ phiếu của ngành Dược tương đối ổn định. Nhìn trên biểu đồ trên ta thấy giá cổ phiếu của DMC và IMP tương đương nhau và tương đối ổn định đặc biệt là các tháng 3,4,6,8. Còn DHG cổ phiếu có giá trị cao nhất, giá cổ phiếu trung bình thấp nhất vào tháng 12 là 236,6 nghìn/cp nhưng vẫn cao hơn giá cao nhất của DMC là 229,7 nghìn/cp vào tháng 11. Giá cổ phiếu của DHG có nhiều biến động nhất tuy nhiên nó vẫn ổn định so với cổ phiếu của các ngành khác và DHG thuộc top 10 doanh nghiệp niêm yết nhiều nhất trên Sở giao dịch chứng khoán Tp. HCM. So với biểu đồ VN-index năm 2007 ta thấy giá cổ phiếu ngành Dược nói chung khá ổn định, ít chịu ảnh hưởng của thị trường. DHG là doanh nghiệp có giá thay đổi nhất do DHG là một mã chứng khoán được nhiều nhà đầu tư quan tâm nên giá của nó là cao nhất và thay đổi nhất Từ các só liệu thu thập được và theo công thức 2 ta có bảng so sánh P/E theo các quí của năm 2007 như sau: Bảng 3.14. Giá cổ phiếu và chỉ số P/E của ba doanh nghiệp năm 2007 Đơn vị: nghìn đồng STT Công ty DHG DMC IMP Giá CP P/E Giá CP P/E Giá CP P/E 1 Quí 1 271,6 24,9 140,7 29,0 130,5 23,4 2 Quí 2 299,8 27,5 114,4 23,6 112,5 20,2 3 Quí 3 396,6 36,4 138,3 28,5 144,7 26,0 4 Quí 4 350,0 32,1 162,6 33,5 204,3 36,7 Nhận xét: Do EPS là một chỉ số ổn định nên giá cổ phiếu và tăng giảm tỷ lệ với nhau. Từ bảng 3.14 ta có biểu đồ sau: Hình 3.20. P/E của ba doanh nghiệp khảo sát năm 2007 Ta thấy trong ba doanh nghiệp thì P/E của DHG cao nhất ở quí 3 đạt 36,4 và thấp nhất vào quí 1 là 24,9. Trong khi đó quí 4 P/E của DMC và IMP cũng cao nhất đạt lần lượt 33,5 và 36,7. P/E của DMC và IMP thấp nhất vào quí 2 lần lượt là 23.6 và 20,2. Như vậy EPS năm 2007 của DHG cao nhất trong khi P/E của ba doanh nghiệp nhìn chung lại tương đương nhau. Do vậy DHG vẫn là sự lựa chọn số một cho các nhà đầu tư chứng khoán. 3.6. Bàn luận 3.6.1. Bàn luận về tác động của TTCK đến hoạt động của ba doanh nghiệp Dược niêm yết TTCK tập trung đã gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ba doanh nghiệp khảo sát. Nó tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết ở một số yếu tố sau: ỹ ảnh hưởng bởi xu hướng thị trường và nền kinh tế: sự phát triển khá cao và ổn định của nền kinh tế (GDP năm 2007 là 8,48%) cũng như nhu cầu chăm sóc sức khoẻ người dân tăng cao sẽ phát triển tốt đến ngành Dược nói chung và ba doanh nghiệp khảo sát nói riêng. Hoạt động đầu tư chứng khoán chịu ảnh hưởng rất lớn từ những biến động kinh tế trong và ngoài nước gây ra tâm lý đầu tư theo trào lưu của các nhà đầu tư. Khi chỉ số VN-index tăng cao gây tâm lý thích đầu tư và ngược lại. Hiện nay tâm lý đầu tư theo phong trào ngày càng giảm do các nhà đầu tư đã tỏ ra chuyên nghiệp và thận trọng hơn với quyết định của mình. Tuy nhiên do tính chất đặc biệt của ngành, nên ngành Dược ít chịu ảnh hưởng của biến động thị trường hơn các ngành khác. ỹ Nguyên vật liệu trong ngành Dược chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm (40-60%) nên biến động giá cả nguyên vật liệu sẽ ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Nguyên liệu ngành Dược chủ yếu là nhập từ nước ngoài vì vậy chịu ảnh hưởng lớn từ giá xăng dầu tăng cao trên phạm vi toàn thế giới, và ảnh hưởng của lạm phát trong nước. Nguyên vật liệu còn bị ảnh hưởng nhiều của tỷ giá hối đoái vì chủ yếu nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược đều phải nhập khẩu và thanh toán băng đồng USD.Vì vậy, để chủ động đối phó và giảm thiểu rủi ro do biến động giá nguyên vật liệu, các doanh nghiệp phải có kế hoạch tồn trữ nguyên vật liệu thích hợp để vừa đảm bảo sản xuất được liên tục vừa đảm bảo được hiệu quả sử dụng vốn lưu động ỹ Các doanh nghiệp Dược tham gia niêm yết chỉ phải trả một tỷ lệ lãi suất thấp cho các cổ đông phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình nhưng lại thu được một nguồn vốn lớn để trang bị thêm TSCĐ, đầu tư cho R&D và marketing, hay mở rộngkênh phân phối...Đó là hoạt động rất cần thiết để tăng năng suất, mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao lợi nhuận và tìm cho mình một vị thế vững chắc trong ngành Dược Việt Nam. ỹ Minh bạch hoá là một yêu cầu mà UBCK Nhà nước bắt buộc đối với các doanh nghiệp niêm yết chứng khoán trên TTCK tập trung và để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Minh bạch hoá giúp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh Dược phẩm đều công khai và vì thế sẽ hạn chế thấp nhất các tiêu cực trong công tác quản lý và sử dụng tài sản của công. Hơn nữa nó còn tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong việc quyết định đầu tư vào doanh nghiệp mình. Tuy nhiên do phải minh bạch hoá tình hình tài chính và chịu sự kiểm soát của các cơ quan chứng khoán nên các doanhnghiệp Dược khảo sát phải thực sự chặt chẽ trong việc quản lý và kiểm soát chi phí. Đây cũng là một lý do mà có nhứng doanh nghiệp Dược đủ điều kiện niêm yết nhưng lại không muốn phơi bày tình hình tài chính của mình. Vì vậy cho đến nay số lượng doanh nghiệp Dược niêm yết vẫn chỉ khiêm tốn ở ba doanh nghiệp. ỹ Trên TTCK các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ có được kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình một cách chính xác nhất. Thông qua các kết quả báo cáo tài chính hàng quí, doanh nghiệp dễ dàng đo lường được hiệu quả quản tri doanh nghiệp, từ đó tìm ra những chiến lược quản trị doanh nghiệp tốt nhất. ỹ Không những thế, qua TTCK doanh nghiệp Dược tìm được các cổ đông chiến lược và qua các cổ đông này các doanh nghiệp sẽ có cơ hội mở rộng thị phần của mình và mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua các cổ đông nước ngoài. TTCK còn là nơi các doanh nghiệp Dược khẳng định vị trí, hình ảnh của mình đối với nhà đầu tư và với toàn thị trường nói chung. 1.6.2 Bàn luận về hoạt động kinh doanh của ba doanh nghiệp Dược Qua phân tích những ảnh hưởng của TTCK đến hoạt động kinh doanh của ba doanh nghiệp khảo sát ta thấy a/. Tình hình sử dụng vốn v Sau khi phát hành cổ phiếu, vốn góp CSH, vốn điều lệ và đặc biệt là thặng dư vốn cổ phần của ba doanh nghiệp tăng lên cao. Mức tăng trưởng vốn CSH của DHG cao nhất là 282,28% và IMP tăng trưởng thấp nhất là 112,03%. Tăng trưởng vốn CSH làm tăng tỷ số tự tài trợ, tăng tỷ trọng tiền mặt và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Gây nên sự mất cân đối trong cơ cấu tài sản và nguồn vốn. Tuy nhiên ba doanh nghiệp đã có kế hoạch đầu tư dài hạn vào tài sản cố định và hệ thống phân phối để mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất. Vì vậy trong tương lai những bất hợp lý trong việc quản lý tài sản và nguồn vốn sẽ được khắc phục và nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do có sự tăng trưởng cao nguồn vốn CSH mà ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán và các tỷ số đòn bẩy tài chính. v Khả năng thanh toán của ba doanh nghiệp năm 2007 có xu hướng tăng cao. Trong đó IMP là doanh nghiệp có khả năng thanh toán cao nhất: khả năng thanh toán ngắn hạn là 6,72 và khả năng thanh toán nhanh là 4,58. Như vậy là cả ba doanh nghiệp đều có nhiều hơn mức cần thiết giá trị thuần về TSLĐ và đầu tư ngắn hạn để trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn. Mặc dù tăng được khả năng thanh toán ngắn hạn nhưng lại làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Điều này cũng dễ hiểu vì ba doanh nghiệp vừa tiến hành niêm yết cổ phiếu nên lương vốn thu được là rất lớn nhưng chưa kịp có phương án phân bổ và sử dụng nó hiệu quả nên tiền chủ yếu tồn tại dưới dạng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn. Trong thời gian tới cả ba doanh nghiệp đều phải có kế hoạch và triển khai sử dụng tiền để tăng hiệu quả sử dụng TSLĐ, giảm khả năng thanh toán nhưng vẫn đảm bảo được các khoản vay. v Về tỷ số đòn bẩy tài chính của ba doanh nghiệp khảo sát ỉ Tỷ số nợ trên tổng tài sản và tỷ số nợ trên vốn CSH của ba doanh nghiệp đều giảm năm 2007 và thấp nhất là IMP, cao nhất là DHG. Nguyên nhân là do có số tiền thu được từ việc phát hành cổ phiếu mà nợ phải trả của ba doanh nghiệp không tăng mà còn giảm, trong khi đó tổng tài sản và vốn CSH lại tăng lên rất nhiều. Vì vậy có thể nói năm 2007 các doanh nghiệp đã sử dụng các khoản vay kém hiệu quả trong việc tạo ra đòn bẩy giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực hoạt động. ỉ Do có được số tiền từ việc phát hành cổ phiếu nên khả năng tự tài trợ của ba doanh nghiệp tăng, cao nhất là IMP và thấp nhất là DHG. Như vậy bằng vốn CSH của mình doanh nghiệp có khả năng tự chủ về tài chính mà không phải nếu tỷ số tự phụ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên tài trợ quá cao nghĩa là doanh nghiệp vay rất ít thì sẽ không tạo ra đòn bẩy cho các hoạt động kinh doanh. Vì vậy ba doanh nghiệp đều cần phải cơ cấu lại nguồn vốn của mình, tăng tỷ trọng nợ vay và giảm tỷ trọng Vốn CSH trong tổng nguồn vốn. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. b/. Bàn luận về doanh thu, doanh thu hàng sản xuất ỉ Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu của DHG cao nhất và đạt mức ổn định là 46,19%, sau đó đến DMC với tỷ lệ tăng trưởng doanh thu là 23,03%. IMP giảm doanh thu 14,05% so với năm 2006 nhưng không phải do kinh doanh kém hiệu quả mà do năm 2007 IMP chủ động cơ cấu lại sản phẩm, không chạy theo doanh thu nhưng lợi nhuận vẫn tăng trưởng khá cao 28,96%. Như vậy mức tăng trưởng của ba doanh nghiệp là khá cao so với mức tăng trưởng chung của ngành là 16%, càng khẳng định vị trí dẫn đầu trong ngành công gnhiệp Dược của nó. v Bàn luận về tỷ số năng lực hoạt động của ba doanh nghiệp ỉ Vòng quay hàng tồn kho năm 2007 của DMC và IMP giảm còn DHG tăng không đáng kể đạt 4,09. Hàng tồn kho giảm nhưng không có nghĩa là có sự bất hợp lý trong việc tồn trữ bởi vì trong hàng tồn kho thì nguyên liệu chiếm tỷ trọng thường xuyên và khá lớn, ngoài ra thành phẩm thuốc sản xuất và chờ xuất khẩu cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn. Năm 2007 vốn của ba doanh nghiệp đều tăng lên và các doanh nghiệp đầu tư mua nguyên vật liệu với số lượng lớn để hưởng giá ưu đãi và giảm rủi ro và lạm phát. Do tỷ trọng nguyên vật liệu tăng nên vòng quay hàng tồn kho giảm. Tuy nhiên với đặc điểm là nguyên liệu làm thuốc nên các doanh nghiệp phải cân nhắc về hạn sử dụng để dự trữ sao cho vùa đảm bảo sản xuất được liên tục, chất lượng đảm bảo lại vừa tiết kiệm được chi phí. ỉ Hiệu suất sử dụng TSCĐ của ba doanh nghiệp đều giảm trong năm 2007. Nguyên nhân là do tốc độ tăng doanh thu thuần không nhanh bằng tốc độ tăng TSCĐ, TSCĐ mới được đầu tư vào chưa kịp khấu hao hết thành giá trị sản phẩm. Trong thời gian tới ba doanh nghiệp phải tăng cường hoạt động của TSCĐ để nâng cao hiệu quả sử dụng, thu hồi nhanh vốn đầu tư và tăng lợi nhuận. ỉ Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản của ba doanh nghiệp đều giảm, trong đó IMP giảm nhiều nhất còn 0,32. Nguyên nhân chủ yếu là do có sự bất hợp lý trong việc quản lý tài sản. Ba doanh nghiệp đều sản xuất và kinh doanh Dược phẩm nhưng tỷ trọng TSLĐ lại quá cao so với TSCĐ. Vì vậy trong thời gian tới ba doanh nghiệp phải cơ cấu lại tài sản theo hướng giảm tỷ trọng TSLĐ đặc biệt là tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn và tăng đầu tư các dây chuyền hiện đại và có tính cạnh tranh cao. c/. Bàn luận về lợi nhuận của ba doanh nghiệp ỉTỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận năm 2007 của ba doanh nghiệp khá cao. Mức tăng trưởng ít nhất là IMP với 28,96% so với năm 2006. Mức tăng trưởng như trên là cao so vơi các doanh nghiệp ngành Dược và cao so với khối các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Tỷ lệ trưởng lợi nhuận cao cũng có ảnh hưởng đến các tỷ suất lợi nhuận của ba doanh nghiệp. ỉ Bàn luận về khả năng sinh lợi của ba doanh nghiệp Năm 2007 khả năng sinh lợi của ba doanh nghiệp đều giảm nguyên nhân là sâu xa nhất là do bất hợp lý trong cơ cấu tài sản và nguồn vốn. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của DHG và DMC nhìn chung vẫn giữ mức ổn định và tăng trưởng không đáng kể. Riêng với IMP, hai tỷ số này lại tăng cao do năm 2007, doanh thu của IMP giảm nên hai tỷ số này lại tăng cao.Còn ROE và ROA lại giảm mạnh so với năm 2006. ROE và ROA là tỷ số mà các nhà đầu tư quan tâm nhất, vì vậy các nhà quản trị doanh nghiệp rất chú trọng tăng mức ROE của doanh nghiệp mình để thu hút vốn đầu tư.ăNm 2007 hai chỉ số này giảm mạnh do nguyên nhân khách quan của việc phát hành cổ phiếu tăng vốn CSH và tổng tài sản lên gấp nhiều lần. Tuy ROE và ROA của DHG giảm mạnh nhất chỉ đạt 19,54% và 13,48% nhưng đó là mức cao nhất trong ba doanh nghiệp. Chính tỷ số ROE và ROA đã góp phần rất lớn trong việc tăng mức độ hấp dẫn của cổ phiếu DHG, giúp DHG trở thành top 10 công ty niêm yết nhiều nhất trên sàn HCM năm 2007. d/. Bàn luận về thị phần của ba doanh nghiệp Sau một năm tham gia TTCK tập trung, thị phần của DHG và DMC tăng cao so với 2006 đạt 6,90% và 4,41% còn IMP giảm còn 2,46% do giảm doanh thu. Như vậy ba doanh nghiệp đều chiếm những thị phần lớn trong thị trường thuốc Việt Nam, điều đó cho thấy một vị trí vững chắc của ba doanh nghiệp trong ngành công nghiệp Dược Việt Nam. Trong bối cảnh nước ta mới nhập WTO và ngành Dược đang có những bước chuyển mình để đủ sức phát triển trong môi trường mới thì ba doanh nghiệp đã chuẩn bị cho mình một vị thế vững chắc và những bước đi mạnh dạn nhằm chủ động đối phó với những khó khăn trước mắt, đủ sức cạnh tranh trong một môi trường khốc liệt. Với sự đầu tư và tiềm năng phát triển của ba doanh nghiệp thì trong tương lại, thị phần của nó không những được mở rộng, chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn được mở rộng để xuất khẩu. g/. Bàn luận về tỷ số giá trị thị trường của ba doanh nghiệp ỉ Bàn luận về cổ tức của ba doanh nghiệp Năm 2007 trừ DHG vẫn giữ được tỷ lệ chi trả cổ tức là 25%, còn DMC và IMP đều giảm. Tỷ lệ chi trả cổ tức giảm do ba doanh nghiệp dùng phần lớn lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cổ tức tuy giảm nhưng vẫn cao hơn tỷ lệ cho vây ngân hàng với lãi suất là 8,0%/năm 2007. Như vậy xét về phía các nhà đầu tư thì khi mua cổ phần của ba doanh nghiệp Dược, chỉ riêng cổ tức cũng có lãi hơn cho vay ngân hàng, đó là chưa kể đến lãi vốn. ỉ Do năm 2007 ba doanh nghiệp đều phát hành số lượng cổ phiếu lớn ra công chúng nên số lượng cổ phần tăng, EPS vì thế mà có xu hướng giảm. Năm 2007 EPS của DHG vẫn cao nhất đạt 6.913 nghìn đồng/cổ phiếu. Riêng IMP do số lượng cổ phần ít hơn nên EPS năm 2007 vẫn tăng đạt 6.053 ngìn đồng/cổ phiếu. Đối với các nhà đầu tư dài hạn, EPS và cổ tức là sự quan tâm hàng đầu, tuy nhiên với các nhà đầu tư ngắn hạn thì cái mà họ quan tâm không phải là cổ tức mà ở lãi vốn. Vì vậy mà ngành Dược vẫn thu hút được nhiều nhà đầu tư ở tiềm năng phát triển và tốc độ tăng trưởng của ba doanh nghiệp cúng như của ngành đã tạo được niềm tin cho họ. ỉ Năm 2007 là một năm đầy thăng trầm của TTCK nhưng ba doanh nghiệp đều giữ được mức ổn định tương đối về giá cổ phiếu và chỉ số P/E. Do tính chất đặc biệt của ngành và do mức vốn hoá thị trường của ngành Dược còn ít cho nên giá cổ phiếu của ngành Dược nhìn chung khá ổn định và bị ảnh hưởng bởi chỉ số VN-index. Vì vậy yếu tố ảnh hưởng lớn nhất trong chứng khoán ngành Dược là yếu tố tâm lý của các nhà đầu tư. Tuy nhiên do ít bọ ảnh hưởng của thị trường nên đầu tư chứng khoán ngành Dược cũng tạo cho nhà đầu tư sự yên tâm hơn một số ngành khác. ỉ P/E của DHG khá ổn định, cao nhất là 36,4 trong quí 4 năm 2007 và thấp nhất là 24,9. Theo các chuyên gia chứng khoán thì trong đầu tư chứng khoán các nhà đầu tư thường chọn những cổ phiếu có P/E thấp, EPS cao để họ đầu tư và khi giá cổ phiếu tăng cao thì họ sẽ bán và thu được nguồn lãi vốn rất lớn. P/E lý tưởng để các nhà đầu tư chọn lựa là từ 15 đến 30. Nếu P/E quá cao lớn hơn 30 thì cổ phiếu đó có nguy cơ phát triển “bong bóng”, ngược lại P/E nhỏ hơn 15 thì cổ phiếu cơ nguy cơ mất giá và nhà đầu tư sẽ không thu được lãi khi giao dịch cổ phiếu đó. Do mới niêm yết cổ phiếu trên TTCK nên ba doanh nghiệp đã cùng thu hút được sự quan tâm rất nhiều của các nhà đầu tư, vì vậy giá cổ phiếu bị đẩy lên cao gây nên tỷ số P/E cũng tăng và không ổn định. Trong ba doanh nghiệp thì DHG có EPS cao nhất đạt 10,882 năm 2006 và 6,813 năm 2007, giá cổ phiếu cao nhưng P/E lại giữ được mức từ 24,9 đến 36,4 cùng với hoạt động kinh doanh rất khả quan thì đầu tư vào DHG thì sẽ thu được lãi nhiều hơn cả. Do thu hút được nhiều nhà đầu tư nên giá cổ phiếu của DHG là cao nhất và không ổn định bằng IMP và DMC. Trong đầu tư chứng khoán lãi cao luôn đi đôi với tỷ lệ rủi ro cao. Vì vậy các nhà đầu tư phải cân nhắc được mức độ rủi ro và khả năng chấp nhận của mình. DHG là doanh nghiệp thu hút được nhiều nhà đầu tư nhất, nhưng nếu xét về tiềm năng phát triển thì DMC và IMP vẫn thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư dài hạn. Tuy nhiên để phát triển bền vững trên TTCK, cổ phiếu của ba doanh nghiệp cần phải tăng EPS và giảm P/E ở mức dưới 30 và trên 15. Như vậy sẽ tạo ra sự phát triển lâu dài và ít rủi ro của của cổ phiếu ngành Dược. ỉ TTCK Việt Nam có nguy cơ suy giảm từ cuối năm 2007 và tiếp tục xuống dốc từ đầu 2008 cho đến nay. Chỉ số VN-index chạm mốc 449,24 điểm ngày 20/5/2008 trong khi mức cao nhất từ 2008 cho đến nay là 921,08 điểm. Thị trường chứng khoán giảm mạnh về khối lượng giao dịch, các chứng khoán đang mất dần tính thanh khoản. Nguyên nhân của đợt hạ thấp VN-index lâu dài này là do tác động xấu của một loạt nhân tố kinh tế vĩ mô. Chính sách của nhà nước là ưu tiên hàng đầu nhằm kiềm chế lạm phát nhưng nó lại ảnh hưởng xấu đến thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư thiếu tiền và nếu có lại tập trung vào đầu tư ngoại tệ (USD), vàng và bất động sản. Tuy nhiên dù ngắn hay dài thì suy thoái thị trường cũng chỉ ở một thời gian nhất định. TTCK vẫn là một thể chế tài chính bậc cao trong một nền kinh tế hiện đại. Trước tình hình thị trường suy giảm giá cổ phiếu ngành Dược tuy giảm nhưng vẫn giữ được biên độ nhất định. Chỉ số P/E hạ thấp trung bình là 15- 16 thích hợp của các nhà đầu tư. ỉ Trước tình hình thị trường chưng khoán suy giảm, một số doanh nghiệp Dược dù đủ điều kiện niêm yết như công ty cổ phần Traphaco cũng chưa thể niêm yết chính thức cổ phiếu của mình trên TTCK. Do hoạt động trong một thị trường chung và vậy các doanh nghiệp Dược trước khi lên sàn phải chọn thời điểm thích hợp. Trong khi thị trường đang lắng xuống, các doanh nhgiệp chưa nên tham gia TTCK. Tuy nhiên như phân tích trong khoá luận này, TTCK đã mang lại cho doanh nghiệp những tác động rất tích cực trong hoạt động kinh doanh, vì vậy TTCK vẫn là sự lựa chọn cho sạu phát triển lâu dài của doanh nghiệp Dược nói chung và các doanh nghiệp trong cả nước nói riêng ỉTrong ba doanh nghiệp khảo sát DHG là doanh nghiệp thể hiện là con chim đầu đàn trong ngành Dược Việt Nam. Với quy mô sản xuất kinh doanh rộng lớn, các tỷ số hoạt động kinh doanh luôn hợp lý nhất trong ba doanh nghiệp khảo sát, mức tăng trưởng cao nhất đạt 46% và chỉ số EPS , P/E tốt nhất, DHG đã thu hut được đông đảo các nhà đầu tư và nâng cao giá trị cổ phiếu lên tới 396,6 nghìn đồng/cp. IMP là doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn nhất của việc phát hành cổ phiếu. Vì vậy trong thời gian tới IMP phải cơ cấu tài sản và nguồn vốn để tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Ba doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn của việc tăng vốn CSH khi tham gia TTCK tập trung còn có thể một nguyên nhân nữa đó là cuối năm 2006 cả 03 doanh nghiệp đều đồng loạt lên sàn để được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, tại thời điểm ấy các doanh nghiệp lên sàn một cách ồ ạt ngay cả khi chưa hiểu rõ về cơ chế hoạt động cũng như vạch ra một kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh cho thời gian sắp tới. Vì vậy mà cả 03 doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị kĩ lưỡng cho các công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn, phân bổ một nguồn vốn khổng lồ và quản lý tài sản của mình một cách hiệu quả nhất. Nhận biết rõ sự bất cập trong công tác quản lý tài sản và nguồn vốn của mình, trong thời gian tới các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải cơ cấu lại tài sản và nguồn vốn, tăng đầu tư vào TSCĐ để tăng sản lượng sản xuất đồng thời tăng nguồn vốn vay và sử dụng nó một cách hiệu quả nhất. Nếu làm được điều đó và cùng với mức tăng trưởng như năm 2007 thì chắc chắn cả 03 doanh nghiệp sẽ còn thu được hiệu quả kinh doanh cao hơn nữa trong tương lai. Tuy cả 03 doanh nghiệp còn tồn tại những bất hợp lý cần phải điều chỉnh nhưng chúng ta không thể không công nhận và tự hào rằng ba doanh nghiệp đã đem lại một cái nhìn tươi sáng cho các nhà đầu tư, tạo được niềm tin của họ vào sự phát triển của ngành Dược nói chung. Ba doanh nghiệp đã chuẩn bị cho mình một tiềm lực kinh tế để sẵn sàng cạnh tranh trong một môi trường khốc liệt khi VN chính thức tuân thủ các luật lệ của WTO vào năm 2009 tới đây. Bằng các kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bằng mức tăng trưởng và uy tín trên thị trường,..cả 03 doanh nghiệp đã chứng tỏ được tiềm năng cũng như sự phát triển của mình. Chính vì vậy trong tương lai, dù hoạt động trên TTCK tiềm ẩn nhiều rủi ro nhưng cổ phiếu của 03 doanh nghiệp sẽ tiếp tục thu hút sự quan tâm hơn nữa của các nhà đầu tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Phần IV kết luận và đề xuất 4.1. Kết luận Qua quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp này tôi có một số kết luận về hoạt động kinh doanh của ba doanh nghiệp như sau: ỉ Ba doanh nghiệp đều có mức tăng trưởng vốn CSH kháầco, DHG tăng 150% và từ nguồn vốn đó ba doanh nghiệp đều đã có các dự án đầu tư dài hạn để mở rộng và nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh ỉ Do sự tăng mạnh về vốn CSH mà khả năng thanh toán của ba doanh nghiệp tăng quá cao vượt quá mức cần thiết TSLĐ và tiền mặt để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. ỉ Cũng do ảnh hưởng của việc tăng vốn CSH mà tỷ số đòn bẩy tài chính giảm do tăng tỷ trọng vốn CSH trong cơ cấu nguồn vốn, nợ vay giảm và chưa tạo ra đòn bẩy tài chính giúp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ỉ Doanh thu của DHG và DMC tăng khá cao còn doanh thu của IMP giảm do cắt giảm một số sản phẩm có hiệu quả kinh doanh kém. Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu có ảnh hưởng đến các tỷ số năng lực hoạt động của ba doanh nghiệp. Các tỷ số năng lực hoạt động của ba doanh ng4hiệp giảm, giảm năng lực hoạt động của doanh nghiệp. ỉ Lợi nhuận của ba doanh nghiệp đều tăng trưởng khá cao tuy nhiên chỉ có doanh lợi tiêu thụ sản phẩm và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh trên doanh thu thuần là tăng. Còn ROE và ROA của ba doanh nghiệp đều giảm mạnh. Dó là do nghuyên nhân khách quan của việc tăng vốn CSH và tổng tài sản sau khi niêm yết cổ phiếu trên TTCK. ỉ Thị phần của DHG và DMC đều tăng còn thị phần của IMP giảm do giảm doanh thu. Nhưng tính chung cho năm 2007 ba doanh nghiệp chiếm tới 13,77% thị trường thuốc của cả nước. ỉ Tỷ lệ chi trả cổ tức của DMC và IMP giảm và DHG vẫn giữ nguyên như năm 2006 là 25%. Tỷ lệ chi trả cổ tức giảm do doanh nghiệp giữ lại phần lớn lợi nhuận năm 2007 để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. ỉ Thu nhập mỗi cổ phần của ba doanh nghiệp đều giảm so với năm 2006 là do tăng số lượng cổ phần khi chào bán cổ phiếu ra công chúng. Tuy nhiên giá cổ phiếu của ngành Dược tương đối ổn định và luôn hấp dẫn dượccác nhà đầu tư. Chỉ số P/E chưa ổn định và đạt mức khá cao cho thấy chứng khoán ngành Dược đang thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước ỉ Tuy có sự bất hợp lý trong việc quản lý tài sản và nguồn vốn nhưng đó là do nguyên nhân khách quan của việc phát hành cổ phiếu ra công chúng nên ba doanh nghiệp chưa thể phân bổ hết nguồn vốn thu được vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng ba doanh nghiệp đã có kế hoạch sử dụng nguồn vốn đó, vì vậy trong tương lai gần ba doanh nghiệp sẽ quản lý tốt được nguồn vốn của mình và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. ỉ Trong ba doanh nghiệp thì DHG vẫn luôn thể hiện là doanh nghiệp số một ngành công nghiệp Dược Việt Nam. Tuy chịu ảnh hưởng sau đợt phát hành cổ phiếu như DMC và IMP nhưng DHG là ít chịu ảnh hưởng nhất và các chỉ số hoạt động kinh doanh đều đang ở mức bình thường và có thể kiểm soát tố. Mức tăng trưởng doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế cao nhất là 46,19% và 47,37%, chiếm thị phần tới 6,90%. Trong hoạt động chứng khoán, DHG luôn thu hút được nhiều nhà đầu tư nhất, tỷ lệ chi trả cổ tức cao nhất là 25%, giá cổ phiếu của DHG cao hơn so với DMC và IMP. Còn IMP là doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nhièu nhất của việc tăng vốn CSH, trong thời gian tới cả ba doanh nghiệp cần phải cơ cấu lại tài sản và nguồn vốn để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. 4.2. Đề xuất Qua việc phân tích các hoạt động sản xuất kinh doanh của ba doanh nghiệp đi đầu trong việc xâm nhập vào thị trường chứng khoán tập trung cũng như khảo sát các hoạt động của chúng trên TTCK, và với những kết quả thu được trong khoá luận này, chúng tôi có những đề xuất sau: Tăng cường công tác đào tạo chứng khoán cho những người hoạt động trong ngành Dược, để các doanh nghiệp Dược có được các kiến thức cơ bản có thể chủ động tham gia vào TTCK và hoạt động một cách hiệu quả nhất. Bộ Y tế và Cục Quản Lý Dược cần phải có những biện pháp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp Dược tham gia vào TTCK. Đối với các Công ty Cổ phần Dược phẩm đã đủ điều kiện niêm yết cổ phiếu thì hãy mạnh dạn tham gia vào TTCK tập trung. Như vậy mới có thể huy động được một nguồn vốn dài hạn phục vụ cho mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của doanh nghiệp đó. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động trên TTCK tập trung thì phải có được các chiến lược cụ thể sử dụng hợp lý nguồn vốn từ việc phát hành cổ phiếu và quản lý tốt tài sản cũng như nguồn vốn của mình, chủ động đề phòng các rủi ro của thị trường và hoạt động kinh doanh hiệu quả.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7744.doc
Tài liệu liên quan