Đề tài Phương hướng và giải pháp cho thương mại Việt Nam trong thời gian tới

Sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới là một tất yếu khách quan. Cùng với các ngành khác, ngành Thương mại đã và đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập đó. Trứơc đây, ở thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, Thương mại chỉ có vai trò như “người nội trợ trung thành”, thì kể từ khi nước ta thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế đến nay, Thương mại đã được hiểu với khái niệm rộng và hiện đại hơn nhiều. Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thử thách mà toàn Đảng, toàn dân ta phải rất nỗ lực mới có thể vượt qua. Thực tế đã cho thấy, chính sách mở cửa nền kinh tế của nước ta đã và đang thu được nhiều kết quả đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực, đời sống nhân dân không ngừng được nầng cao. Trong thành công đó có đóng góp rất to lớn của ngành Thương mại. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã bộc lộ ra nhiều hạn chế, khuyết điểm mà ngành Thương mại phải tìm cách giải quyết. Nhiệm vụ quan trọng cấp thiết trước mắt là chúng ta phải đẩy mạnh đàm phán để có thể gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào cuối năm 2005.

doc52 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và giải pháp cho thương mại Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u chủ trương, biện pháp để khôi phục và phát triển kinh tế. Ngày 18/4/1977 Chính phủ đã ban hành điều lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này có tăng qua từng năm nhưng ở tốc độ chậm. Năm 1976 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta là: 1,2 tỷ USD đến năm 1985 là 2,6tỷ USD. Nhược điểm của cơ chế kế hoạch hoá tập trung ngày càng thể hiện rõ nét, bên cạnh đó chúng ta mắc một số sai lầm trong cải cách nên khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra gay gắt nhất là những năm cuối của giai đoạn này. * Một số đặc điểm của thương mại Việt Nam trong thời kỳ này là: Thứ nhất: Các doanh nghiệp thương mại quốc doanh và tập thể hoàn toàn kiểm soát khâu phân phối lưu thông hàng hoá. Hoạt động thương mại được thực hiện theo địa chỉ cụ thể và theo giá cả, chỉ tiêu kế hoạch. Thứ hai: Hoạt động kinh doanh các loại hàng hoá được phân chia theo tính chất sử dụng như: Tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, lưu thông trong nước, lưu thông nước ngoài. Ngoài ra còn có hệ thống kinh doanh thương mại những vật tư hàng hoá tiêu dùng của các Bộ, Ngành theo nguyên tắc sản xuất - tiêu dùng. Thứ ba: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại - dịch vụ chưa thống nhất, còn phân tán ở các Bộ như: Bộ ngoại thương, Bộ vật tư, Bộ nội thương. Thứ tư: Thương mại thời kỳ này chỉ đóng vai trò là "người nội trợ trung thành" của nhân dân. Hoạt động thương mại chủ yếu nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế với đặc trưng là mang nặng tính bao cấp và phi lợi nhuận. Bất kỳ hành vi nào có tính chất trục lợi đều bị người đời nhìn với con mắt ghẻ lạnh, bị coi là "con phe", về mặt pháp lý, bị coi là hành vi bất hợp pháp. Các hoạt động buôn bán, kinh doanh để hưởng chênh lệch giá ở thời kỳ này không đượcn thừa nhận và do đó không có chính sách khuyến khích thương mại phát triển. Bản chất của thương mại, của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận, là vì mục đích chính đáng của những ai muốn làm giầu và làm giầu một cách hợp pháp thật quá xa lạ với mọi người dân, mọi tổ chức, mọi đoàn thể và với cả Nhà nước. Các hoạt động thương mại lúc đó không phải do những thương nhân - những người hành nghề thương mại thực hiện mà do Nhà nước độc quyền. 2. Thương mại Việt Nam từ năm 1986 đến nay: Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặc trong đổi mới cơ chế, chính sách và quản lý kinh tế nói chung và thương mại - dịch vụ nói riêng. Tình hình kinh tế xã hội 5 năm sau Đại hội VI diễn biến phức tạp, khó khăn: Ba năm liền lạm phát ở mức 3 con số, nhiều Xí nghiệp quốc doanh thua lỗ sản xuất cầm chừng, đời sống nhân dân khó khăn. Trong tình hình ấy Đảng và Nhà nước đã ra sức khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, từng bước đưa Nghị quyết Đại hội VI và cuộc sống. Từ một nước thiếu hụt lương thực, đến năm 1989 nước ta đã xuất khẩu những tấn gạo đầu tiên, hàng tiêu dùng ngày càng đáp ứng được nhu cầu của xã hội, lạm phát giảm dần. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dần được hình thành. Tuy vậy, phải đến năm 1991, sau khi có Nghị quyết Đại hội VII, cơ chế chính sách của mô hình thị trường cũ mới cơ bản bị phá vỡ . Điều này tạo điều kiện cho sự phát triển thị trường và thương mại, dịch vụ. Các hàng rào cản trở lưu thông hàng hoá bị xoá bỏ, liên doanh liên kết kinh tế được khuyến khích. Nhận thức được vai trò quan trọng của XNK Nhà nước đã ban hành nghị định 114/HĐBT ngày 7/4/1992 và tiếp đó là Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 thay thế Nghị định trên nhằm đổi mới quản lý Nhà nước trong XNK theo hướng bảo đảm sự quản lý Nhà nước thống nhất đối với XNK, nới lỏng cơ chế quản lý để khuyến khích phát triển xuất khẩu ở vùng còn khó khăn, mở rộng quyền trực tiếp xuất khẩu của các doanh nghiệp sản xuất. Đối với chính sách tự do lưu thông hàng hoá, Nhà nước đã ban hành các Nghị định về tổ chức lại công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu và quy định về hàng hoá cấm kinh doanh và hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện (Nghị định 02/CP ngày 05/01/1995). Ngày 03/01/1996 Nhà nước ban hành nghị định về xử phạt quy định hành chính trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và Nghị định số 11/CP ngày 3/3/1999 của Chính phủ về hàng hoá cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Để khuyến khích xuất khẩu Chính phủ ban hành nghị định 75/CP ngày 31/7/1998 cho phép các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mở rộng kinh doanh XNK. Theo hướng thúc đẩy xuất khẩu và từng bước giảm bảo hộ thị trường nội địa cho phù hợp với các cam kết Quốc tế. Ngày 4/4/ 2001 Nhà nước ban hành Quyết định số 46/2001/QĐ - TTg về quản lý XNK hàng hoá thời kỳ 2001 -2005. Trong quá trình mở cửa nền kinh tế chúng ta đã và đang tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế khu vực và Quốc tế, ký hiệp định thương mại với nhiều Quốc gia trên thế giới. Ngày 17/7/1995 nước ta và liên minh Châu âu đã ký hiệp định chung về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật. Ngày 28/7/1995 nước ta trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). Năm 1998 nước ta đã tham gia diễn đàn kinh tế các nước Châu á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 7/2001 nước ta đã ký hiệp định thương mại với 61 nước trong đó có Mỹ, góp phần đưa tổng số nước có quan hệ ngoại thương với Việt Nam từ 50 nước năm 1990 lên trên 170 nước là vùng lãnh thổ vào năm 2000. Đó là những điều kiện thuận lợi để nước ta đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mở rộng hợp tác kinh tế thương mại với các nước và các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. II. Thực trạng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay. 1. Những thành tựu đã đạt được. Đất nước ta đã trải qua gần 20 năm thực hiện chính sách mở cửa về kinh tế. Những thành tựu đạt được về kinh tế nói chung và thương mại nói riêng là rất đáng kích lệ. + Tăng trưởng kinh tế hàng năm (GDP) của nước ta giai đoạn 1990 -1999 là: 8,1% nhanh gấp 3 lần so với mức bình quân kinh tế thế giới. Bước sang những năm đầu của Thiên niên thế kỷ mới Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên 7%: Năm 2003 là 7,23%, năm 2004 là 7,7%. + Sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế có đóng góp rất lớn của sự gia tăng mạnh mẽ xuất khẩu. Theo ngân hàng thế giới xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam tăng trung bình 28%/1năm giai đoạn 1990 -1999. Kim ngạch xuất khẩu từ 2tỷ USD năm 1991 đã lên 14,5tỷ USD vào năm 2000; 20,2 tỷ vào năm 2003 và 26 tỷ vào năm 2004. Năm 1999 Việt Nam chiếm 17% xuất khẩu gạo của thế giới đứng thứ 2 sau Thái Lan. Chiếm 13% lượng xuất khẩu cà phê, đứng thứ 3 sau Braxin và Colombia. + Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ trong những năm qua liên tục tăng, tốc độ tăng trưởng mức bán lẻ năm 2001 là 11,1% ; năm 2002 là 11,3% và năm 2003 là 12%. + Trong giai đoạn 1991 - 2000 nguồn vốn ODA vào Việt Nam tăng trưởng liên tục và bổ sung một lượng vốn không nhỏ cho nền kinh tế nước ta. Từ năm 1993 - 1997 tổng số vốn viện trợ cam kết cho Việt Nam là 10,847 tỷ USD. Đến 1998, tại hội nghị Paris các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam 2,7 tỷ USD. Bước sang những năm đầu của thiết kế XXI, trước những biến động lớn của thế giới, các nền kinh tế lớn của thế giới bị suy thoái nặng nề, nhưng tại hội nghị CG 2001 (12/2001), các nhà tài trợ vẫn dành cho Việt Nam khoản viện trợ ODA là 2,356 tỷ USD. Mức viện trợ ODA cho Việt Nam năm 2004 lên đến mức kỷ lục là 3,4 tỷ USD. Điều này thể hiện sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế với công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta. + Hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và ASEAN đã gia tăng đáng kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN. Kim ngạch buôn bán hai chiều đã tăng lên nhanh chóng, từ 3,5 tỷ USD năm 1985 lên hơn 6 tỷ năm 1998 và năm 2002 đạt 7,9 tỷ USD. Như vậy, hiện nay ASEAN chiếm khoảng 17,3% xuất khẩu và 29% nhập khẩu trong tổng kim ngạch mậu dịch của Việt Nam. + Kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (28/10/1990); quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng được củng cố và phát triển. Khối lượng buôn bán của Việt Nam với EU từ năm 1991 đến nay đã tăng với tốc độ trung bình là 40%/năm, và từ năm 1997, Việt Nam luôn đạt thặng dư thương mại trong buôn bán với EU với tỷ lệ trung bình 91%/năm. Năm 2002, xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực thị trường EU đạt 2,48 tỷ USD và nhập khẩu đạt 1,43 tỷ USD. Trong hơn 1 thập kỷ qua nguồn vốn FDI của EU vào Việt Nam đã tăng lênh nhanh chóng. Năm 1996, đầu tư của EU vào Việt Nam chiếm khoảng 12% tổng số vốn đầu tư của EU ở khu vực châu Âu, nhiều hơn đầu tư của EU vào các nước khác trong khu vực. Đến năm 2002 EU có 288 dự án đang hoạt động, chiếm 9% tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam; với số vốn đăng ký đạt 5,8 tỷ USD, chiếm 15,26% tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam. + Sau hơn 4 năm đàm phán, Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ đã được ký kết ngày 12/07/2000 và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Tổng kim ngạch buôn bán giữa 2 nước năm 2002 đạt 2,8 tỷ USD, tăng 95% so với năm 2001, trong khi đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt 2,4 tỷ USD, tăng 183% so với năm 2001 và kim ngạch nhập khẩu đạt 400 triệu USD, tăng 26%. Sang năm 2003 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt 4,55 tỷ USD. Từ năm 2002 Mỹ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. + Tháng 12/1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập WTO và từ đó đến nay đã tiến hành công việc minh bạch hoá chính sách, chuẩn bị và tiến hành các vòng đàm phán song phương mở cửa thị trường. Chúng ta đang phấn đấu để có thể gia nhập WTO vào cuối năm 2005. Đánh giá hoạt động thương mại, dịch vụ trong những năm đổi mới, nghị quyết 12/NQTW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới và tổ chức hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa khẳng định: " Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo Ngành thương mại đã cùng các Ngành, địa phương nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ , góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và vị thế mới trên thị trường ngoài nước: - Chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung - cầu. - Chuyển thị trường từ trạng thái chia cắt khép kín theo địa giới hành chính kiểu tự cấp tự túc sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. - Thị trường ngoài nước được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Các loại hình dịch vụ gắn với lưu thông hàng hoá phát triển mạnh, thúc đẩy kinh doanh sản xuất, góp phần phục vụ đời sống và giải quyết việc làm cho người lao động. - Thương nghiệp Nhà nước đã có sự chuyển đổi tổ chức và phương thức kinh doanh, từng bước thích ứng với cơ chế mới, đang giữ tỷ trọng tuyệt đối về XNK, 70% bán buôn, có tỷ trọng cao trong bán lẻ ở một số ngành hàng thiết yếu, đóng góp ngày càng nhiều cho Nhà nước, thực hiện các mặt hàng chính sách đối với đồng bào miền núi và dân tộc. - Quản lý Nhà nước về thị trường và hoạt động thương mại có tiến bộ và tổ chức hệ thống, hoạch định chính sách vĩ mô, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển. - Nhiều cán bộ quản lý và kinh doanh thương nghiệp qua sàng lọc và đào tạo trong cơ chế mới khẳng định được phẩm chất và năng lực, đang tích cực học tập, nâng cao trình độ để có thể đối tác trong điều kiện quốc tế hoá các quan hệ kinh tế quốc tế…" Có thể khẳng định, việc xoá bỏ cơ chế bao cấp, xoá bỏ độc quyền về thương mại (cả thương mại trong nước và thương mại với nước ngoài), tích cực mở cửa kinh tế và tự do hoá thương mại là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên các thành tựu nói trên. Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành động lực to lớn trong việc phát huy nội lực, tạo ra những tiền đề vật chất quan trọng cho thương mại Việt Nam phát triển. Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là chính sách đúng đắn. Chính sách đúng đắn này được quyết định bởi đường lối đổi mới sâu sắc và toàn diện. Chính sách, đường lối đúng đắn lại do nhận thức đúng, do có tư duy đúng - đó là tư duy hướng về phát triển hết sức đúng đắn của Đảng ta. Hội nhập kinh tế quốc tế còn tiếp tục có tác động tích cực đến tư duy phát triển của Đảng, Nhà nước và của các doanh nghiệp cũng như mỗi người dân Việt Nam. Nếu như trước đây, chúng ta cho rằng, thương mại là lĩnh vực hẹp, giới hạn ở mua bán hàng hoá hữu hình thì nay, tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cũng có nhận thức mới về thương mại: thương mại đã được hiểu với khái niệm rộng, hiện đại hơn nhiều. Thương mại không chỉ có liên quan đến hàng hoá mà còn liên quan đến các hoạt động cung ứng dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư và nếu hiểu như vậy thì hoạt động thương mại liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Điều này cũng nói lên vị trí, vai trò của thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập. 2. Những hạn chế cần khắc phục Bên cạnh những thành tựu và kết quả đạt được như đã nêu ở trên thì ngành thương mại dịch vụ vẫn còn nhiều thiếu sót và khuyết điểm làm phát sinh những vấn đề phức tạp mới, cần có chủ trương và biện pháp giải quyết đúng đắn nhằm đảm bảo định hướng của sự phát triển. Những tồn tại đó là: Một là : Nền kinh tế có điểm xuất phát thấp, sức cạnh tranh của cả nền kinh tế còn yếu kém. Trình độ công nghệ còn ở mức trung bình, có nhiều lĩnh vực công nghệ lạc hậu từ 2 - 3 thế hệ so với thế giới. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa phát huy được lợi thế so sánh cạnh tranh của ngành sản phẩm. Những lợi thế về nguồn lao động rẻ đang mất dần, vấp phải sự cạnh tranh của các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc; việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp khó khăn về vốn, nguồn nhân lực và thị trường tiêu thụ. Sức cạnh tranh của hàng Việt Nam còn yếu về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, giá cả, chủng loại v.v… Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam đôi khi gặp khó khăn khi cạnh tranh với hàng ngoại ngay cả trên sân nhà chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài. Hai là: Xuất khẩu hàng nông sản thô, nguyên liệu thô còn chiếm tỷ trọng lớn (chiếm tới 58% lượng hàng xuất khẩu), nhiều mặt hàng còn phải xuất khẩu qua trung gian hoặc chỉ là gia công nên hiệu quả kinh tế không cao. Đa số các doanh nghiệp sản xuất và buôn bán hàng xuất khẩu có qui mô vừa và nhỏ, tiềm lực về vốn và nhân lực rất hạn chế, còn lúng túng trước qúa trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế. Chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng xuất khẩu, 13,7% có triển vọng xuất khẩu và 62,5% doanh nghiệp hoàn toàn chưa có khả năng xuất khẩu. Việc tăng khối lượng và mở rộng chủng loại mặt hàng xuất khẩu trên trường quốc tế gặp rất nhiều khó khăn. Hàng xuất khẩu còn phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nước ngoài. Ba là: Những hạn chế của thể chế quản lý: Hệ thống luật pháp chính sách của chúng ta chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, không minh bạch gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch kinh doanh lâu dài. Tình trạng nhũng nhiễu, thủ tục hành chính rườm rà đôi khi làm mất cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Hiện nay tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại, dịch vụ còn rất lỏng lẻo, chưa có cơ quan được Chính phủ giao làm nhiệm vụ đầu mối chuyên trách về thương mại dịch vụ, tạo ra lúng túng trong quản lý hoạt động thương mại dịch vụ của các Bộ, Ngành. Việc quản lý của các Bộ, Ngành mới chỉ tập trung vào hoạt động thương mại hàng hoá, còn chưa thực sự nắm bắt, chỉ đạo và kiểm soát hoạt động thương mại dịch vụ. Chính sách quản lý vĩ mô và hệ thống văn bản pháp qui trong lĩnh vực thương mại dịch vụ cũng trong tình trạng thiếu hụt và không đồng bộ, chưa có văn bản pháp lý nào quy định chung về chính sách phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam. Công tác thống kê trong lĩnh vực thương mại dịch vụ ở nước ta thời gian qua còn yếu kém, chưa theo kịp sự phát triển của các ngành dịch vụ trong nước. Các loại hình dịch vụ mới liên tục xuất hiện trên thị trường, ranh giới để phân biệt hàng hoá và dịch vụ không rõ ràng và trong hàng hoá có dịch vụ và dịch vụ thường đi cùng hàng hoá. Mức thuế quan và các hàng rào phi thuế quan của Việt Nam còn cao. Vấn đề tuân thủ những luật định quốc tế còn yếu. Cải cách luật pháp của Việt Nam liên quan đến thương mại chưa tỏ ra có hiệu lực để có thể tham gia vào sân chơi mới. Bốn là: Nạn buôn lậu làm hàng giả, ăn cắp bản quyền còn diễn ra tràn lan chưa kiểm soát được. Năm là: Hệ thống các doanh nghiệp thương mại tuy đã phát triển mạnh về số lượng nhưng phần lớn vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít và vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề của cơ chế bao cấp như chậm đổi mới phương thức quản lý, công nghệ, còn ỷ lại vào Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược phát triển thương mại dài hạn, chưa đầu tư nghiên cứu thị trường. Tình trạng thua lỗ và làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước là phổ biến. Theo tài liệu của Ban đổi mới doanh nghiệp Nhà nước thì năm 2000 chỉ có 20% doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có lãi, 40 % ở trong tình trạng kém hiệu quả và 40% là thua lỗ triền miên. Nhiều doanh nghiệp thương mại Nhà nước tồn tại và phát triển được là nhờ vào chính sách của Nhà nước và trong điều kiện còn độc quyền. Sáu là: Việc hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới còn lúng túng, cho tới nay chúng ta chưa xây dựng được chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế, chưa xác định được lộ trình giảm thuế và hàng rào phi thuế quan dài hạn. Sự hiểu biết về thị trường nước ngoài như: Tiềm năng, nhu cầu, luật lệ v.v… còn hạn chế. Nhà nước, bao gồm các cơ quan quản lý trong nước lẫn các cơ quan đại diện ở nước ngoài chưa làm tốt công tác cung cấp thông tin về hội nhập, giúp các doanh nghiệp sẵn sàng tham gia quá trình hội nhập kinh tế - thương mại - Quốc tế. Cuối cùng là, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện vẫn còn phải đối mặt với rất nhiều hạn chế về mặt chất lượng: tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng còn rất thấp, đội ngũ "lao động chất xám" còn thiếu về số lượng và yếu kém về chất lượng, thể lực người lao động Việt Nam còn kém, tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp còn chưa cao. III. Những kết luận rút ra qua nghiên cứu thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Về kết quả đạt được: Một là: Việc mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ đã thực sự chuyển sang cơ chế thị trường, giá cả hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu. Nhà nước chỉ điều tiết đối với một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Hai là: Hoạt động thương mại đã huy động được tiềm năng về vốn, kỹ thuật của các thành phần kinh tế phục vụ phát triển XNK, lưu chuyển hàng hoá trong nước và góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Thời kỳ 1996 - 2002, mặc dù bị tác động của khủng hoảng kinh tế - tài chính ở khu vực cùng với thiên tai hàng năm, nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của xuất khẩu vẫn đạt 17,5%, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và dịch vụ xã hội vẫn được giữ ở mức 11%/ năm. Ba là: Đã hình thành nền thương nghiệp nhiều thành phần. Nếu như trước đây, thương nghiệp Nhà nước và Hợp tác xã chiếm vị trí chủ yếu thì nay thương nghiệp Nhà nước chỉ chiếm 17,2% tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ, hợp tác xã chiếm 0,9%, thương nghiệp ngoài Nhà nước chiếm 81% và thương nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 0,9%. Bốn là: Thương nghiệp Nhà nước đã từng bước chuyển đổi tổ chức và phương thức kinh doanh, chủ động tiến độ XNK, nắm từ 70 - 100% về bán buôn và kiểm soát được thị trường bán lẻ với một số mặt hàng quan trọng như: Xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi măng… ;bảo đảm cung ứng các mặt hàng chính sách cho đồng bào miền núi, nhất là vùng sâu, vùng xa. Năm là: Quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại có nhiều tiến bộ về hoạch định chính sách vĩ mô, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển. Hệ thống luật pháp, nhất là luật thương mại, luật thuế, luật doanh nghiệp v.v… cùng các cơ chế chính sách và các công cụ quản lý liên tục được bổ sung, sửa đổi. Sáu là: Đã đổi mới cơ chế kế hoạch hoá cùng với việc xây dựng chiến lược thị trường và quy hoạch phát triển thương mại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế hàng hoá, sử dụng đúng đắn các công cụ tài chính, tín dụng để điều tiết thị trường. Nhà nước can thiệp vào thị trường khi cần thiết để duy trì cân đối nền kinh tế quốc dân. Bảy là: Đã khuyến khích được các doanh nghiệp sản xuất trực tiếp tham gia kinh doanh thương mại và doanh nghiệp kinh doanh thương mại tham gia sản xuất, hình thành các kênh lưu thông ngắn nhất với chi phí thấp nhất, trên cơ sở bán sát nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng phong phú để cải tiến và hoàn thiện sản phẩm, tạo nhiều mặt hàng có uy tín và sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế Tám là: Đã tích cực đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế - thương mại Quốc tế nhằm mở rộng thị trường bằng việc ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương, chuẩn bị đàm phán để có thể gia nhập WTO vào cuối năm 2005. 2. Về hạn chế và tồn tại Một là, thương nghiệp quốc doanh chưa thể hiện được rõ vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa, nhất là ở thị trường nông thôn, miền núi chưa tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ hàng hoá góp phần nâng đời sống của nông dân. Hai là, phương thức kinh doanh nhìn chung còn thiếu tính hiện đại, văn minh thương mại còn yếu, tình trạng gian lận thương mại, buôn lậu còn khá phổ biến. Ba là, việc xây dựng cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô Nhà nước đối với thương nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh và Hợp tác xã theo quy luật của kinh tế thị trường còn yếu. Hoạt động quản lý Nhà nước về thương mại vẫn còn trong tình trạng phân tán ở các Bộ, Ngành và địa phương nên thiếu thống nhất trong việc hoạch định các cơ chế chính sách cũng như trong chỉ đạo thực hiện. Công tác dự báo thị trường, tổ chức thu thập thông tin và xử lý thông tin chưa nhạy bén và sát với tình hình thị trường nên trong chỉ đạo, điều hành thị trường và hướng dẫn doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả thấp. Bốn là, việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng túng, cho tới nay chưa xây dựng được chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế, nên chưa có phương hướng tổng thể trong đàm phán quốc tế, chưa xây dựng được lộ trình giảm thuế và hàng rào phi thuế quan dài hạn, các doanh nghiệp còn trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, chưa áp sát vào việc chuẩn bị tham gia quá trình hội nhập kinh tế - thương mại quốc tế. Chương III: Phương hướng và giải pháp cho thương mại Việt Nam trong thời gian tới I. Phương hướng và mục tiêu phát triển của thương mại Việt Nam trong thời gian tới. 1. Mục tiêu: Việc xác định mục tiêu phát triển là điều cần thiết vì nó sẽ làm cơ sở cho việc hoạch định và thi hành thống nhất các chính sách phát triển thương mại - dịch vụ. Trong thời gian tới, mục tiêu của thương mại Việt Nam là: Một, phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động để mở rộng giao lưu hàng hoá trên tất cả các vùng, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Thông qua việc tổ chức tốt thị trường và lưu thông hàng hoá làm cho thương mại thực sự là đòn bẩy sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động xã hội, góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, cải thiện đời sống nhân dân. Hai, hoạt động thương mại, trước hết là thương mại Nhà nước, phải hướng vào phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, phải coi trọng hiệu quả kinh tế và xã hội. Ba, xây dựng nền thương mại phát triển lành mạnh trong trật tự, kỷ cương, kinh doanh theo đúng luật pháp, thực hiện văn minh thương mại, từng bước tiến lên hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đưa toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 - 8%/năm và đến 2010 chiếm 42 - 43%. Bốn, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, mở rộng phạm vi hội nhập về thương mại và những lĩnh vực có liên quan đến thương mại. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam, của doanh nghiệp Việt Nam và của cả nền kinh tế. Hoàn thiện hệ thống luật pháp chính sách đáp ứng yêu cầu của WTO, để có thể gia nhập tổ chức này vào năm 2005. 2. Phương hướng phát triển: * Phát triền nền thương mại nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, phát huy và sử dụng tốt khả năng, tính tích cực của các thành phần kinh tế trong phát triển thương mại - dịch vụ, đi đôi với việc xây dựng thương mại Nhà nước, hợp tác xã mua bán, nhằm giữ vững vai trò chủ đạo của thương mại Nhà nước trên những lĩnh vực, địa bàn và mặt hàng quan trọng. * Phát triển đồng bộ các thị trường hàng hoá và dịch vụ, phát huy vai trò nòng cốt, định hướng và điều tiết của Nhà nước trên thị trường. Việc mở rộng thị trường ngoài nước phải gắn với việc phát triển ổn định thị trường trong nước, lấy thị trường trong nước làm cơ sở, đặt hiệu quả kinh doanh thương mại trong hiệu quả kinh tế - xã hội của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. * Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích của dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. * Đặt sự phát triển của lưu thông hàng hoá và hoạt động của các dịch vụ dưới sự quản lý của Nhà nước, khuyến khích phát huy mặt tích cực, đồng thời có biện pháp hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường trong từng bước phát triển. * Việc phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền thương mại Việt Nam gắn liền với việc thực hiện các hoạt động thương mại phải theo đúng quy tắc của thị trường, đồng thời có biện pháp đổi mới cơ chế, chính sách, hoàn thiện hệ thống luật pháp, nhằm đưa hoạt động của mọi doanh nghiệp, mọi công dân kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ phải theo đúng quy tắc đó. II. Những giải pháp cho thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập 1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế thương mại Một là, rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách hiện hành. Đối chiếu nhằm tìm ra những điều không phù hợp với quy định quốc tế và cam kết quốc tế, từ đó đề xuất những nội dung sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh, bãi bỏ hoặc ban hành mới các văn bản pháp quy. Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật thích hợp với các định chế của WTO và các cam kết quốc tế. Ba là, kiện toàn các tổ chức pháp chế của ngành, địa phương và doanh nghiệp, củng cố hệ thống Toà án Kinh tế, lao động và các tổ chức trọng tài. Bốn là, Cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính tránh gây phiền hà nhũng nhiễu, loại bỏ cơ chế xin cho. Năm là, cần có chính sách toàn diện tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, trong đó cần đặc biệt chú trọng chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khuyến khích các doanh nghiệp thương mại trong nướ phát triển theo mô hình các tập đoàn thương mại lớn, các nhà phân phối danh tiếng trên thị trường trong nước và ngoài nướ và các doanh nghiệp này tham gia tích cực vào hệ thống thương mại toàn cầu. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh Hội nhập đòi hỏi chúng ta phải tái cơ cấu nền kinh tế để thích nghi và phát huy lợi thế so sánh riêng của mình một cách tốt nhất. Việc xây dựng chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải hình dung được về cơ bản cơ cấu kinh tế trong vòng 10 -20năm tiếp theo, xác định được những ngành mũi nhọn, những ngành cần ưu tiên phát triển trong một thời gian nào đó làm cơ sở xây dựng chiến lược hội nhập. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần theo các phương hướng sau. + Tập trung giải quyết vấn đề lao động, chủ yếu là chuyển lao động từ nông nghiệp, nông thôn sang công nghiệp và dịch vụ. + Chú trọng phát triển dịch vụ, là ngành cần ít vốn nhưng lại tạo nhiều việc làm, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. + Thực hiện chuyển dịch cơ cấu vùng, tiến lên một cơ cấu kinh tế phát triển cả đồng bằng, trung du, miền biển, hải đảo, các vùng kinh tế trọng điểm và khu kinh tế đặc biệt. + Xây dựng chương trình kế hoạch nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trên cả ba cấp độ: Khả năng cạnh tranh quốc gia, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ: Để nâng cao năng lực cạnh tranh cần tạo dựng nhanh các yếu tố năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để thay đổi vị thế của nền kinh tế trong tương quan với khu vực và thế giới. Đầu tư, đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm; áp dụng rộng rãi hệ thống quản lý chất lượng quốc tế trong mọi lĩnh vực; cải tiến và đa phương mẫu mã, chủng loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cùng những dịch vụ sau bán hàng. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Triển khai thực hiện nghiêm chỉ thị 08/2003.CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đẩy mạnh cải cách cơ cấu hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước. Cần tổ chức lại hệ thống các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế theo ngành hàng có quan hệ liên kết về kinh tế, kỹ thuật nhằm hình thành doanh nghiệp đầu đàn hoặc Công ty mẹ, đủ sức làm đối tác cạnh tranh với cácc doanh nghiệp nước ngoài; nâng cao năng lực quản trị kinh doanh cho các doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập và đối đầu với canh tranh quốc tế. Trước mắt các doanh nghiệp cần phải áp dụng nhiều giải pháp nhằm giảm chi phí sản xuất như chi phí đầu vào, chi phí quản lý, chi phí hành chính, chi phí tiếp thị. 3. Hoàn thiện chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế Trong quá trình thực hiện các điều chỉnh các chính sách và các công cụ của chính sách có thể nảy sinh những điểm không thống nhất, không đồng bộ và không hợp lý. Do vậy, trong quá trình chính thức hoá đưa vào thực hiện cần có sự điều chỉnh. Vai trò này thuộc về Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và Chính phủ. Nói cách khác là chúng ta phải xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với lộ trình cụ thể để các ngành, địa phương và doanh nghiệp tổ chức sắp xếp lại sản xuất - kinh doanh, đổi mới cơ chế quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. 4. Đào tạo nguồn nhân lực: Một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo việc tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập là cần có một lực lượng lao động được đào tạo tốt về nghề nghiệp và khoẻ mạnh về thể chất. Nhưng thực tế hiện nay chúng ta còn thiếu những cán bộ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, kỹ năng đàm phán. Chúng ta thiếu đội ngũ luật sư am hiểu luật pháp quốc tế, chỉ có 62 trong số 1.200 luật sư được cấp bằng tư vấn Quốc tế. Để khắc phục tình trạng này chúng ta cần xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực, đào tạo cán bộ quản lý, công chức về kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế, am hiểu luật pháp quốc tế, vững vàng chuyên môn, nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ, có kỹ năng đàm phán. Nâng cao tính thực tiễn của các cơ sở đào tạo nguồn lao động thương mại trên cơ sở chuẩn hoá lại nội dung đào tạo, thời gian đào tạo, mở rộng các ngành nghề đào tạo lao động thương mại, tăng cường đào tạo đội ngũ giám đốc kinh doanh được trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải cương quyết loại bỏ những cán bộ kém phẩm chất, không đủ năng lực. 5. Đẩy mạnh đàm phán gia nhập WTO: WTO là nền tảng pháp lý quan hệ kinh tế quốc tế, là diễn đàn thường trực đàm phán thương mại và là thể chế giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Việc gia nhập WTO phải được coi là một yêu cầu quan trọng nhất trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, bởi vì hiện đã có trên 150 nước thành viên thuộc tổ chức này. Nếu năm 2005 Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO thì có nghĩa là chúng ta sẽ "một mình một chợ" trong thế giới hiện đại. Khi quota hàng dệt may được bãi bỏ vào năm 2005 thì mọi áp lực sẽ đổ lên đầu những nước chưa phải là thành viên WTO. Để có thể đầy nhanh tiến độ gia nhập WTO chúng ta cần thực hiện một số công việc sau đây: Dựa vào những yêu cầu của WTO, Việt Nam cần tiếp tục qúa trình đổi mới và cải cách một cách toàn diện, sâu sắc, nhanh chóng hình thành môi trường thể chế và cơ chế có thể tương hợp với hệ thống qui tắc của WTO. Đồng thời, Việt Nam cũng cần đẩy mạnh qúa trình thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ, thống nhất và kiện toàn cơ chế vận hành của hệ thống tài chính, tín dụng thống nhất, có trật tự, qui phạm rõ ràng. Trong điều kiện của nền kinh tế đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá, Việt Nam cần ra sức tận dụng những điều khoản ngoại lệ của WTO dành cho các nước đang phát triển như: vận dụng điều khoản ngoại lệ về bảo hộ đối với các ngành công nghiệp non trẻ có thể vừa duy trì mức thuế cao hợp lý, vừa áp dụng các biện pháp hành chính như giấy phép, hạn ngạch... theo thời hạn cho phép một cách thích hợp; vận dụng điều khoản WTO cho phép các nền kinh tế đang phát triển kéo dài thời hạn cắt giảm thuế quan để áp dụng chế độ thuế linh hoạt đối với các ngành công nghiệp trong nước. Trong khuôn khổ của WTO, các biện pháp hạn chế thương mại phi thuế quan vẫn tồn tại khá phổ biến, nhưng ở trình độ và mức độ tinh vi rất cao. Do đó, Việt Nam cần nghiên cứu, học tập kinh nghiệm áp dụng các biện pháp phi thuế quan của các nước khác để nhanh chóng nắm vững và áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan. Đẩy mạnh qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tham gia tích cực vào hệ thống phân công và hợp tác lao động quốc tế, đặc biệt là qúa trình phân công và hợp tác lao động trong một ngành sản xuất, trong cùng một dây truyền giá trị. Tiến hành điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ để xác định các kênh thương mại chủ yếu của nền kinh tế theo các ngành hàng, mặt hàng và sản phẩm dịch vụ cụ thể. Xây dựng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích qua thuế, tín dụng đối với những ngành công nghiệp hướng tới xuất khẩu. WTO là tổ chức có hệ thống luật lệ, qui định hết sức phức tạp, nhưng việc thực hiện các luật lệ, quy định lại chủ yếu dựa vào kỹ năng đàm phán. Vì vậy, nước gia nhập WTO không đồng nghĩa với việc đương nhiên được hưởng lợi ích từ WTO, mà chỉ có nghĩa là có cơ hội đàm phán để đạt được lợi ích. Để có thể có được lợi ích thông qua đàm phán đòi hỏi người tham gia đàm phán phải có đủ năng lực, hiểu biết thấu đáo các quy định của WTO, phải nắm vững các thủ thuật đàm phán. Với các nền kinh tế chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường sẽ không chỉ gặp khó khăn trong qúa trình đàm phán gia nhập WTO, mà còn bị phân biệt đối xử ngay trong khuôn khổ của WTO. Vì vậy, một mặt, Việt Nam cần tăng cường cải cách thể chế kinh tế cũ phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, mặt khác, cần phải đưa ra những lý do để bảo vệ và thuyết phục các nước khác về những đặc trưng riêng có của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 6. Mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng với sự tăng trưởng kinh tế và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngoài ra, nó còn đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành tưụ rất đáng khích lệ trong lĩnh vực xuất khẩu, nhưng nếu nhìn lại chúng ta sẽ thấy nền xuất khẩu của ta còn lệ thuộc quá lớn vào 4 nhóm thị trường là Mỹ, EU, Nhật Bản và ASEAN. Vì vậy, việc mở rộng thị trường xuất khẩu là việc cần làm ngay thông qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại. Các cơ quan ngoại giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc cung cấp thông tin về Pháp luật, thị trường, thị hiếu, yêu cầu về chất lượng sản phẩm, các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm nhập khẩu của các nước để giúp các doanh nghiệp trong nước thu thập được đầy đủ các thông tin, từ đó xây dựng chiến lược thâm nhập thị trường. Các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài cần đảy mạnh hoạt động phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức các chiến dịch quảng cáo, triển lãm hàng Việt Nam ở nước ngoài. Nhà nước cần hỗ trợ mạnh hơn nữa để nâng cao năng lực của mạng lưới xúc tiến thương mại, đặc bịêt là năng lực cung cấp thông tin, marketing thông qua việc hướng dẫn, tư vấn kỹ thuật nghiệp vụ, chuyên môn miễn phí, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực và các hỗ trợ cần thiết khác. Nhà nước cần tăng thêm biên chế thương vụ, tăng kinh phí cho họ, thiết lập thêm đại diện thương vụ tại các nước và khu vực có đặt tổng lãnh sứ quán nhằm tăng cường năng lực cho các tổ chức xúc tiến thương mại hoạt động phát triển thị trường. Nhà nước nên xem xét quy định khống chế tỷ lệ chi phí cho hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp vì với tỷ lệ chi phí thấp như hiện nay (5%), hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế của các doanh nghiệp bị hạn chế rất nhiều. Vốn đầu tư nước ngoài cũng là một động lực quan trọng giúp nền kinh tế nước ta hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới. Trong những năm gần đây dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng suy giảm, mặc dù năm 2004 đã khởi sắc trở lại nhưng vẫn thấp hơn năm 1997 (năm 2004 thu hút FDI của Việt Nam là 4,5tỷ USD, năm 1997 là 7tỷ USD). Để Việt Nam là điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài thì chúng ta cần kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quyền của Nhà nước đặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền như: Điện, Viễn thông, dịch vụ cảng biển v.v… giải quyết kịp thời những khó khăn ách tắc trong việc giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách, tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài với các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng. III. Điều kiện để thực hiện các giải pháp trên: Muốn thực hiện được các giải pháp nêu trên cần có những điều kiện cần thiết, đó là: 1. ổn định về chính trị và kinh tế, giữ vững môi trường hòa bình, hữu nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là vấn đề đầu tiên không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung và lĩnh vực thương mại nói riêng. Trong quan hệ đối ngoại chủ trương gác lại những vấn đề quá khứ nhìn về tương lai, lấy lợi ích chung của sự nghiệp hòa bình, ổn định hợp tác và phát triển làm trọng tâm vượt qua mọi khác biệt về chính trị - xã hội để cùng hợp tác làm ăn, khắc phục những bất đồng, tranh chấp bằng thương lượng, thoả thuận Phải nhận thức sâu sắc và biện chứng về hoàn cảnh và xu thế biến động của nền kinh tế thế giới, không tách mình ra khỏi những thông lệ quốc tế, tránh những thủ tục, quy định rườm rà phức tạp kém văn minh trong quan hệ hợp tác. 2. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung Pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua Việt Nam đã tích cực xây dựng ban hành một loạt những luật pháp, song những luật pháp đó còn chưa đủ, chưa bổ sung kịp thời với sự biến đổi nhanh chóng của tình hình trong nước và quốc tế. Bởi vậy, cần phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành phù hợp với yêu cầu thực hiện chiến lựơc kinh tế – xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. vịêc xây dựng, hoàn thiện trên sẽ đảm bảo cho sự nhất quán giữa các luật pháp, phù hợp với Pháp luật và thông lệ quốc tế, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt dộng kinh tế đối ngoại. 3. Tăng cường việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Hiện nay hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của Việt Nam còn yếu kém trở thành nhân tố cản trở sự phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, thiếu vốn không thể thực hiện khắc phục ngay được sự yếu kém đó. Bởi vậy cần phải từng bước tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở những trung tâm giao lưu quốc tế, cửa ngõ thông thương với thị trường thế giới theo hướng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thông tin liên lạc, giao thông…. tạo ra môi trường kinh doanh năng động có hiệu quả. 4. Đẩy mạnh cải cách hành chính và bộ máy quản lý. Cải cách hành chính Nhà nước là công việc quan trọng quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh cải cách bộ máy quản lý cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng nề nếp làm ăn thông suốt, quy định chế độ quản lý rõ ràng, gọn nhẹ đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khắc phục sự mất ổn định của nền kinh tế tài chính, sức mua của đồng tiền. v.v… Xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng kích thích đầu tư, phát triển đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Kết luận Sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới là một tất yếu khách quan. Cùng với các ngành khác, ngành Thương mại đã và đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập đó. Trứơc đây, ở thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, Thương mại chỉ có vai trò như “người nội trợ trung thành”, thì kể từ khi nước ta thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế đến nay, Thương mại đã được hiểu với khái niệm rộng và hiện đại hơn nhiều. Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thử thách mà toàn Đảng, toàn dân ta phải rất nỗ lực mới có thể vượt qua. Thực tế đã cho thấy, chính sách mở cửa nền kinh tế của nước ta đã và đang thu được nhiều kết quả đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực, đời sống nhân dân không ngừng được nầng cao. Trong thành công đó có đóng góp rất to lớn của ngành Thương mại. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã bộc lộ ra nhiều hạn chế, khuyết điểm mà ngành Thương mại phải tìm cách giải quyết. Nhiệm vụ quan trọng cấp thiết trước mắt là chúng ta phải đẩy mạnh đàm phán để có thể gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào cuối năm 2005. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Nhà nước ta, chúng ta tin tưởng rằng nền kinh tế nước ta nói chung và ngành Thương mại nói riêng sẽ hội nhập thành công vào nền kinh tế Thế giới. Phụ lục Số liệu kinh tế và thương mại - dịch vụ Việt nam trong bối cảnh hội nhập Phụ lục 1 Tốc độ tăng và cơ cấu GDP của việt nam 1986 – 2005(%) Năm Tốc độ tăng (tính theo giá so sánh) Cơ cấu(tính theo giá thực tế) Tổng số Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản Công nghiệp, xây dựng Dịch vụ Tổng số Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản Công nghiệp xây dựng Dịch vụ 1986 2,84 2,99 10,84 -2,27 100,00 38,06 28,88 33,06 1987 3,63 -1,14 8,46 4,57 100,00 40,56 28,36 31,08 1988 6,01 3,65 5,00 8,77 100,00 46,30 23,96 29,74 1989 4,68 7,00 -2,59 7,86 100,00 38,74 22,67 38,59 1990 5,09 1,00 2,27 10,19 100,00 38,74 22,67 38,59 1991 5,81 2,18 7,720 7,38 100,00 40,49 23,79 35,72 1992 8,70 6,88 12,79 7,58 100,00 33,94 27,26 38,80 1993 8,08 3,28 12,62 8,64 100,00 29,87 28,90 41,23 1994 8,83 3,37 13,39 9,56 100,00 27,43 28,87 43,70 1995 9,54 4,80 13,60 9,83 100,00 27,76 29,73 42,51 1996 9,34 4,40 14,46 8,80 100,00 27,76 29,73 42,51 1997 8,15 4,33 12,62 7,14 100,00 25,77 32,08 42,15 1998 5,76 3,53 8,33 5,08 100,00 25,78 32,49 41,73 1999 4,77 5,23 7,68 2,25 100,00 25,43 34,49 40,08 2000 6,79 4,63 10,07 5,32 100,00 24,53 36,73 38,74 2001 6,89 2,98 10,39 6,10 100,00 23,25 38,12 38,63 2002 7,04 4,06 9,44 6,54 100,00 22,99 38,55 38,46 2003 7,24 3,2 10,34 6,57 100,00 21,8 39,97 38,23 2004(KH) 7,5-8 4,0 10-10,5 6,6 100,00 21,5 40,5 38,0 2005(kh) 8,2 4,5 10,5 7-7,5 100,00 20-21 38-39 41-42 phụ lục 2: kim ngạch xnk, nhập siêu và tỉ lệ nhập siêu của việt nam Năm Xuất khẩu (Triệu USD) Tốc độ Tăng (%) Nhập khẩu (Triệu USD) Tốc độ tăng (%) Nhập siêu (Triệu USD) Tỷ lệ nhập siêu (%) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004(KH) 2.404,0 2.087,1 2.580,7 2.985,2 4.054,3 5.448,9 7.225,9 9.185,0 9.360,3 11.541,4 14.482,7 15.027,0 16.706,0 19.880,0 21.700,0 23,5 -13,2 23,7 15,7 35,8 34,4 33,2 26,6 1,9 23,3 25,5 3,8 11,2 19,0 11,3 2.752,4 2.338,1 2.540,7 3.924,0 5.825,8 8.155,4 11.143,6 11.592,3 11.499,6 11.742,1 15.636,5 16.162,0 19.733,0 24.995,0 26.000,0 7,3 -15,1 8,7 54,4 48,5 40,0 36,6 4,0 -0,8 2,1 33,2 3,4 22,1 26,7 8,3 348,4 251,0 -40,0 938,8 1.771,5 2.706,5 3.887,7 2.407,3 2.139,3 200,7 1.153,8 1.135,0 3.027,0 5.115,0 4.300,0 14,5 12,0 31,4 43,7 49,7 53,6 26,2 22,9 1,7 8,0 7,6 18,0 25,7 20,0 Phụ lục 3: Kim ngạch và mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam Năm Chỉ tiêu Đơn vị tính Mục tiêu Đại hội IX1 2001 2002 2003 2004 (KH) 2005 (KH) Tổng kim ngạch nhập khẩu Tỷ USD 114,0 15,0 16,7 19,9 21,7 27,8-30,4 Trong đó: DN có vốn ĐTNN (Không kể dầu thô) Tỷ USD 26,6 3,7 4,5 5,7 7,2 6,7-7,3 Chia ra: Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản % so với nhập khẩu Tỷ USD % 33,6 29,5 4,6 30,6 4,9 29,3 6,0 30,8 6,6 30,4 9,0-9,9 - Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp % so với nhập khẩu Tỷ USD % 45,8 40,2 5,4 35,9 6,7 40,1 7,6 39,0 8,6 39,6 10,7-11,8 38,5 - Hàng nông, lâm, thuỷ sản % so với nhập khẩu Tỷ USD % 34,5 30,3 5,0 33,3 5,1 30,5 5,9 30,3 6,5 30,0 8,1-8,7 29,1 Mặt hàng chủ yếu - Gạo Triệu tấn 17,7 3,7 3,2 3,82 3,8 3,5 - Cà phê Nghìn tấn 3.900 931 719 700 650 750 - Cao su Nghìn tấn 1.760 308 449 438 460 400 - Lạc nhân Nghìn tấn 500 78 105 83,3 120 120 - Hàg rau quả Triệu USD 2.130 344,3 201 152 210 500 - Hạt điều Triệu USD 900 152 209 230 250 220 - Hạt tiêu Triệu USD 640 91 108 105 105 180 - Hàng thuỷ sản Triệu USD 11.800 1816,4 2.023 2.217 2.600 3.000 - Hàng dệt may Triệu USD 15.150 1.975,4 2.752 3.630 3.750 4.000 - Hàng giày, dép Triệu USD 11.400 1.578,4 1.867 2.225 2.500 3.000 - Hàng điện tử và linh kiện Triệu USD 65.550 695,6 505 686 700 1.500 - Dầu thô Triệu tấn 78,7 16,7 16,9 17,2 17,7 12,3 - Than đá Triệu tấn 19,4 4,3 6,0 7,05 6,0 4,0 Phụ lục 4: kim ngạch và mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam Năm Chỉ tiêu Đơn vị tính Mục tiêu Đại hội IX 2001 2002 2003 2004 (KH) 2005 (KH) Tổng kim ngạch nhập khẩu Tỷ USD 118,0 16,2 19,7 24,9 26,0 28,8-31,5 Trong đó: DN có vốn ĐTNN Tỷ USD 34,1 5,0 6,6 8,2 9,1 8,6-9,3 Chia ra: - Máy móc, thiết bị và phụ tùng % so với nhập khẩu Tỷ USD % 35,8 4,7 29,1 6,0 30,6 7,5 31,3 8,2 31,5 9,0-9,8 - Nguyên, nhiên, vật liệu % so với nhập khẩu Tỷ USD % 30,3 10,6 65,7 12,9 65,1 14,9 62,1 16,2 62,3 18,6-20,4 - Hàng tiêu dùng % so với nhập khẩu Tỷ USD % 77,6 65,8 0,9 5,3 0,9 4,3 1,7 7,1 1,8 6,9 1,2-1,3 Mặt hàng chủ yếu - Xăng dàu Triệu tấn 4,6 9,1 9,97 9,8 11,2 10,0 - Thép thành phần Triệu tấn 3,9 2,2 2,7 2,7 2,8 3,2 - Phôi thép Triệu tấn 1,8 2,2 2,2 2,6 1,6 - Bông xơ Nghìn tấn 98,0 97,0 88 120,0 590 - Ôtô nguyên chiếc Nghìn chiếc 28,3 29,1 25,0 25,0 35,0 - Linh kiện điện tử và máy tính Triệu USD 667,0 649,0 968 820,0 2000 - Tân dược và nguyên, phụ liệu dược Triệu USD 328,6 320,0 370,0 380,0 560 Phụ lục 5: Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ và cơ cấu Năm Tổng mức (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Nhà nước Tập thể Tư nhân, cá thể 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Ước 2003* 19.031,2 33.403,6 51.214,5 67.273,3 93.490,0 121.160,0 145.874,0 161.899,7 185.598,7 200.923,7 219.400,0 241.837,8 272.793,0 310.469,0 30,4 26,9 24,2 21,8 23,1 22,6 21,3 20,0 19,4 18,6 17,8 17,7 17,2 16,2 2,7 2,0 1,1 0,9 0,8 0,9 0,9 0,8 0,7 0,7 0,8 0,8 0,9 1,3 66,9 71,1 74,7 77,3 74,8 74,5 74,7 75,6 74,6 74,4 73,6 73,6 71,0 79,9 Phụ lục 6: Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đăng ký từ 1988 đến hết năm 2003. 1. Chia theo năm 2. Chia theo ngành kinh tế 3. Một số đối tác trên 1 tỷ USD 4.10 địa bàn lớn nhất 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 371,8 582,5 839,0 1.322,3 2.165,0 2.900,0 3.765,6 6.530,8 8.497,3 4.649,1 Nông, lâm nghiệp Thuỷ sản Công nghiệp Trong đó: CN dầu khí Xây dựng (*) Khách sạn, du lịch GTVT, bưu điện Tài chính, ngân hàng Văn hóa, y tế, giáo dục Các ngành dịch vụ khác (**) 1.551,0 420,2 20.370,0 4.216,4 4.807,5 5.119,9 3.689,7 248,1 638,1 7.862,3 1. Xin-ga-po 2. Đài Loan 3. Hồng Kông 4. Hàn Quốc 5. Nhật Bản 6. Pháp 7. Quần đảo Vigin thuộc Anh 8. Anh 9. Hoa Kỳ 10. Liên Bang Nga 6.245,5 5.965,0 3.987,2 3.858,6 3.785,4 2.594,1 2.177,5 1.811,8 1.644,7 1.635,6 1. TP.HCM 2. Hà Nội 3. Đồng Nai 4. Bà Rịa-Vũng Tàu 5. Bình Phước 6. Hải Phòng 7. Quảng Ngãi 8. Đà Nẵng 9. Quảng Ninh 10. Lâm Đồng 11.197,4 8.193,8 4.534,9 3.585,8 2.023,2 1.655,0 1.338,2 1.124,5 985,5 884,8 1998 1999 2000 2001 3.897,0 1.568,0 2.012,4 2.535,5 Ghi chú: Không kể vốn tăng thêm các dự án của Vietsopetro (*) Bao gồm cả xây dựng khu chế xuất (**) Bao gồm cả xây dựng văn phòng và căn hộ. 11. úc 12. Ma-lai-xi-a 13. Thái Lan 14. Hà Lan 1.310,2 1.306,9 1.219,9 1.200,2 Chỉ tính 10 địa bàn trên đã có 35.523,1 triệu USD, chiếm 79,5% tổng số cả nước. 2002 Ước 2003 1.557,7 1.512,8 Mười bốn đối tác này có tổng số vốn 38.742,6 triệu USD, chiếm 96,7% tổng số vốn đăng ký. Tài Liệu tham khảo 1. gs.ts đặng Đình Đào – kinh tế và quản lý ngàh thương mại dịch vụ – nhà xuất bản thống kê, 2004 2. GS.TS. Đặng Đình Đào – GS.TS Hoàng Đức Thân - Giáo trình kinh tế Thương mại – Nhà xuất bản thống kê, 2003. 3. PGS.TS Đỗ Đức Bình – TS. Nguyễn Thường Lạng – Giáo trình kinh tế quốc tế – Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, 2004. 4. GS.TS. Võ Thanh Thu – Quan hệ kinh tế quốc tế – Nhà xuất bản Thống kê, 2003. 5. Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế – Kỷ yếu hội thảo Khoa học Quốc gia – Công ty cổ phần in 15, 2004. 6. Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế Quốc tế – Tài liệu bồi dưỡng – Bộ Thương mại, 2004. 7. Đánh giá tác động kinh tế của hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ – Nhà xuất bản chính trị Quốc gia mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33806.doc