Đề tài Thực tiễn mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế tại Việt Nam

Mô hình Singapore cho thấy sự hợp tác quốc tế về môi trường là rất có ý nghĩa để nâng cao nội lực đất nước và tranh thủ được sự giúp đỡ ủng hộ từ các nguồn lực bên ngoài. Với nhiệm vụ môi trường quốc tế và bổn phận của Việt Nam trong việc tham gia thực hiện các hiệp định, điều ước, song phương và đa phương, đặc biệt là với vai trò thành viên của WTO, Việt Nam cần quan tâm:  Ban hành các quy định về cấm nhập khẩu các sản phẩm đã bị cấm ở thị trường nước ngoài, các quy định về nhãn hàng hoá thân thiện môi trường (nhãn sinh thái – ecolabel), các quy định cụ thể về thuế và phí môi trường và các quy định về cơ sở khoa học áp dụng các biện pháp “hàng rào xanh” phù hợp với quy định của WTO;  Tích cực, chủ động tham gia vòng đàm phán Doha, mạnh dạn sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương và của WTO để giải quyết một cách bình đẳng các tranh chấp thương mại quốc tế;  Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các công ước môi trường mà Việt Nam đã ký kết tham gia với các hiệp định thương mại đa phương của WTO. Nghiên cứu kỹ và có giải pháp chính sách đồng bộ về quản lý thương mại các hàng hoá và dịch vụ liên quan đến môi trường;  Chuẩn bị tốt nguồn lực để vượt qua các hàng rào kỹ thuật về bảo vệ môi trường. Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các quy định về môi trường của quy trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm, coi đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường là một bộ phận cấu thành trong hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, chúng ta còn cần thực hiện tốt Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng Ôzôn, tăng cường phối hợp quốc tế trong Chương trình Nghị sự 21, mở rộng các hoạt động bảo vệ môi trường trong mối liên hệ với các nước láng giềng và trong khu vực ASEAN .nhằm tận dụng tốt những sự giúp đỡ quý báu về trình độ quản lí, kĩ thuật công nghệ, của các quốc gia đi trước về phát triển, và nhằm cùng với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển hơn khác tạo thành một khối liên minh về phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường cho sự thịnh vượng và bền vững chung.

doc82 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tiễn mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể tìm thấy văn bản pháp luật riêng nào về vấn đề môi trường. Trong giai đoạn này, mặc dù nhà nước đã có những ý tưởng về việc bảo vệ môi trường song việc thể chế hoá các ý tưởng này chưa được toàn diện mặc dù Chính phủ cũng đã có những cố gắng nhất định. Sắc lệnh sốt 42/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 21/12/1949 quy định việc kiểm soát lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng có thể được coi là văn bản pháp luật sớm nhất đề cập vấn đề môi trường. Một số văn bản khác của Chính phủ tuy không chính thức điều chỉnh các vấn đề môi trường song cũng có thể coi là có liên quan đến các vấn đề môi trường. Đó là Nghị quyết 36/CP ngày 11/03/1961 của Hội đồng chính phủ về việc quản lý , bảo vệ tài nguyên dưới lòng đất ; Chỉ thị số 127/CP ngày 24/05/1971 của Hội đồng Chính phủ về công tác điều tra cơ bản tài nguyên và điều kiện thiên nhiên; Chỉ thị số 07/TTG ngày 16/0l/1964 về thu tiền bán khoán lâm sản và thu tiền nuôi rừng; Nghị quyết số 183/CP này 25/09/1966 về công tác trồng cây gây rừng và đặc biệt là Pháp lệnh về bảo vệ rừng ban hành ngày 11/09/1972. Điều đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là việc coi bảo vệ môi trường là đòi hỏi hiến định. Điều 36 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn là vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ cải tạo môi trường sống”. Khái quát lịch sử pháp luật môi trường Việt Nam trong giai đoạn này, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm sau đây: Các quy định của pháp luật chỉ liên quan đến một số khía cạnh của bảo vệ môi trường xuất phát từ nhu cầu quản lý nhà nước. Các quy định này chưa nhằm trực tiếp vào việc bảo vệ các yếu tố môi trường Các quy định về môi trường hoặc liên quan đến môi trường nằm rải rác trong các văn bản pháp luật đơn hành được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội khác nhau với mục tiêu là đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Khía cạnh môi trường chỉ là phần thứ yếu, phát sinh trong các văn bản đó. Chính vì thế, cách tiếp cận mang tính môi trường chưa thể hiện đậm nét trong các quy định pháp luật ban hành ở giai đoạn này; Các quy định pháp luật về môi trường trong thời kỳ này được ban hành chủ yếu bằng hình thức văn bản dưới luật. Ngoại trừ điều 36 Hiến pháp năm 1980, toàn bộ các quy định còn lại đều được ban hành trong các nghị định, nghị quyết, thông tư, chỉ thị của Chính phủ. Tình trạng kém phát triển của pháp luật môi trường trong giai đoạn này, đặc biệt là sự thiếu vắng của luật môi trường trong giai đoạn trước năm 1986 có những lý do của nó: Trước hết, hoàn cảnh lịch sử của đất nước trong thời kì trước năm 1986 không cho phép đất nước ta chú ý nhiều đến việc bảo vệ môi trường. Tất cả những cố gắng trong thời kỳ đó đều tập trung cho việc chiến thắng đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc. Tiếp đó sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vấn đề môi trường cũng bị đẩy lùi về phía sau vì mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta là hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế và thoát ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế xã hội đang hoành hành từ thời gian sau chiến tranh đến năm 1986, khi chính sách đổi mới được khởi xướng. Trong giai đoạn trước năm 1986, các biến động xấu của thiên nhiên do sự huỷ hoại môi trường chưa thể hiện ở mức cao. Sự ô nhiễm trong các đô thị và vùng nông thôn chưa đến mức báo động do số lượng ô tô, xe máy, các thiết bị, máy móc có thải chất điôxin chưa được sử dụng nhiều. Phân bón, thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp cũng được sử dụng ở mức hạn chế. Những lý do đó dẫn tới tình trạng ít người quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Hệ thống pháp luật của Việt Nam trước năm 1986 chưa phải là hệ thống pháp luật hoàn thiện. Cơ chế bao cấp với sự ngự trị của hệ thống chỉ tiêu kế hoạch trong các quan hệ kinh tế, xã hội đã hạn chế sự phát triển của pháp luật. Ngay cả những ngành luật thiết thực nhất cho thời kỳ đó như luật kinh tế, luật ngân hàng, tài chính vẫn không phát triển. Trong một hệ thống pháp luật như vậy thì sự thiếu vắng của luật môi trường là điều tất yếu. Nội dung các quy định của pháp luật môi trường ở giai đoạn này chưa phản ánh và đáp ứng được những đòi hỏi khách quan hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường. Sự tương hợp của các quy định pháp luật mà Nhà nước ta đã ban hành với các công ước quốc tế còn hạn chế. 2. Giai đoạn 1986 đến nay : 2.1. Khuôn khổ quốc gia Khủng hoảng kinh tế xã hội cuối những năm 70 và đầu những năm 80 đã dẫn đến những cuộc cải cách kinh tế sâu sắc bằng việc xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và chuyến sang cơ chế kinh tế thị trường có định hướng. Việc chuyển nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thi trường đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế trong những năm thực hiện chính sách đổi mới đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Bên cạnh đó kinh tế thị trường cũng là nguyên nhân của nhiều hiện tượng kinh tế xã hội tiêu cực, trong số đó có suy thoái môi trường. Vì chạy theo lợi nhuận, làm giàu bằng mọi giá nên các nguồn tài nguyên của đất nước bị khai thác bừa bãi. Nạn dân chúng đua nhau đi đào vàng, khai thác trầm, gỗ quý, đá quý diễn ra ở quy mô lớn đã làm cho môi trường ở nhiều nơi bị suy thoái nghiêm trọng. Quá trình đô thị hoá dưới tác động của kinh tế thị trường diễn ra khá nhanh chăng cũng đã làm gia tăng sức ép môi trường ở các thành phố và thị xã, nhất là ở các trung tâm kinh tế lớn của đất nước. Số lượng máy móc thiết bị, ô tô, xe máy tăng lên gấp nhiều lần so với với 10 năm trước đó. Lượng khí thải từ các máy móc thiết bị này đã làm cho môi trường nhất là môi trường ở đô thị bị ô nhiễm. Sức ép của vấn đề ô nhiễm môi trường tăng lên cùng với việc sử dụng rộng rãi các hoá chất trừ sâu bệnh, các chất kích thích tăng trọng. Nhiều vụ ngộ độc thức ăn đã liên tiếp xảy ở nhiều nơi. Ngộ độc thức ăn là một trong những biểu hiện rõ nét trước mắt của tình trạng ô nhiễm môi trường. Những hậu quả mà chiến tranh và sự phá hoại của con người đối vời rừng bắt đầu khởi động “sự trả thù của thiên nhiên”. Những cơn lũ quét diễn ra liên tục ở những nơi rừng bị phá trụi là bằng chứng cho sự trả thù đó. Những vùng đất bị trọc hoá ngày càng có xu hướng lan rộng. Vấn đề môi trường toàn cầu cũng là một thách thức mới. Tầng ôzôn bị thủng làm cho nhiệt độ quả đất nóng dần lên là nguyên nhân của nhiều biến đổi bất thường của khí hậu trên toàn Trái đất. Cơn bão Linda, biểu hiện của hiện tượng Elnino là một trong những biến đổi bất thường của khí hậu toàn cầu tại Việt Nam. Tất cả những nguyên nhân trên đã làm cho vấn đề bảo vệ môi trường trở thành thách thức lớn của xã hội. Bảo vệ môi trường không chỉ còn là đòi hỏi mang tính cục bộ. Nhu cầu đảm bảo cho đất nước sự phát triển bền vững đã đẩy bảo vệ môi trường lên thành một trong những ưu tiên chiến lược của Việt Nam. Kể từ năm 1986, đặc biệt là những năm đầu của thập kỷ 90. Luật môi trường được coi là một lĩnh vực quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những sự kiện chính trong quá trình phát triển luật môi trường ở việt Nam bao gồm : Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành đã đưa việc bảo vệ môi trường thành điều khoản riêng biệt. Đây là văn bản luật đầu tiên có đề cập vấn đề môi trường. Tiếp đo các văn bản luật khác như Bộ luật hàng hải năm 1990, Luật đất đai năm 1993, Luật dầu khí năm 1993…đều đưa việc bảo vệ môi trường thành nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc khai thác các yếu tố môi trường mà trong đó cá nhân, tổ chức đó hoạt động. Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII xác định bảo vệ môi trường là bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước đến năm 2000. Đây là sự kiện quan trọng, có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá vị trí của bảo vệ môi trường phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặt khác nó cũng tạo điều kiện cho quá trình thể chế hoá việc bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng các chính sách kinh tế, xã hội cụ thể hoặc trong việc ban hành văn bản pháp luật. Hiến pháp năm 1992 đã đưa việc bảo vệ môi trường thành nghĩa vụ hiến định. Đây là một trong những sự kiện hết sức quan trọng đối với sự phát triển của luật môi trường. Hiến pháp là văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao nhất . Các quy trong Hiến pháp là nền tảng của các văn bản pháp luật khác. Điều 17, 29 Hiến pháp năm 1992 là cơ sở hiến định cho việc đưa nghĩa vụ bảo vệ môi trường vào trong các lĩnh vực cụ thể khác của đời sống kinh tế. Bước phát triển nổi bật nhất của luật môi trường là việc Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thôncg qua Luật bảo vệ môi trường ngày 27 tháng 12 năm 1993. Với việc ban hành đạo luật riêng về môi trường, Nhà nước Việt Nam đã khẳng định một lần nữa sự quan tâm của mình đối với việc bảo vệ môi trường, điều kiện quan trọng của quá trình phát triển bền vững. Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 thay thế Luật bảo vệ môi trường năm 1993 . Với 15 chương, 136 điều, Luật bảo vệ môi trường năm 2005 là nguồn cơ bản nhất của pháp luật môi trường Việt Nam hiện hành. Đây là đạo luật dành riêng cho vấn đề bảo vệ môi trường với những quy định cơ bản tập trung thống nhất về các vấn đề : Chính thức hoá một số khái niệm về về môi trường và các yếu tố của nó. Quy định rõ và cụ thể các nguyên tắc cơ bản về bảo vệ môi trường, chính sách bảo vệ môi trường, các hoạt động bảo vệ môi trường được Nhà nước khuyến khích và các hành vi bị nghiêm cấm Xác định trách nhiệm bảo vệ môi trường đối với các ngành, lĩnhvực như: công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, thương mại , khai thác khoáng sản, du lịch, nông nghiệp, thuỷ sản. . . Quy định về bảo vệ môi trường cụ thể đối với từng địa bàn, khu vực, như: đô thị , khu dân cư tập trung , nơi công cộng, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, làng nghề, biển, nước sông, công trình thuỷ lợi, hồ chứa nước. Yêu cầu về bảo vệ môi trường được quy định đối với toàn bộ quá trình phát triển từ khâu lập chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển; lập, phê duyệt và thực hiện dự án đầu tư và trong quá trình hoạt động; trách nhiệm thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ. Sử dụng đồng bộ các công cụ, biện pháp quản lý môi trường, như: tiêu chuẩn môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường, quan trắc và báo cáo về môi trường, công cụ kinh tế, thanh tra, kiểm tra bảo vệ môi trường. Xã hội hoá mạnh mẽ và nâng cao vai trò của người dân trong hoạt động bảo vệ môi trường như: cho phép các đối tượng thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia vào quá trình đánh giá tác động môi trường, khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức có năng lực tham gia hoạt động quản lý chất thải và hoạt động quan trắc môi trường, bảo đảm quyền được biết thông tin về môi trường của mọi tổ chức, cá nhân, phát triển dịch vụ môi trường, khuyến khích tổ chức, cá nhân hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường, đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên và người dân trong bảo vệ môi trường Quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong bảo vệ môi trường như: trách nhiệm của Chính phủ, Bộ tài nguyên và môi trường, bộ cơ quan ngang bộ cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp; quyền và nghĩa vụ của các tổ chức,cá nhân khác. Xác định các biện pháp khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về môi trường. 2.2 Khuôn khổ WTO Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trong khuôn khổ các cam kết về lộ trình hội nhập kinh tế của mình, Việt Nam cũng đang phải quan tâm tới các vấn đề liên quan tới môi trường trong nội bộ tổ chức này. Theo đó, cần nhắc tới những điểm cơ bản sau: Trong các hoạt động liên quan đến các vấn đề môi trường, nhiệm vụ duy nhất của WTO là nghiên cứu các vấn đề xuất hiện khi các chính sách môi trường có tác động đáng kể đến thương mại. Các thành viên của WTO cho rằng WTO không phải là cơ quan môi trường, vì vậy không muốn can thiệp vào các chính sách môi trường quốc gia hoặc quốc tế, hoặc thiết lập các tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, có một số các thỏa thuận của WTO bao gồm các điều khoản liên quan đến môi trường, ví dụ như: Điều XX của Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATT) (và cũng là Điều 14 của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ - GATS): các chính sách ảnh hưởng đến thương mại hàng hoá nhằm bảo vệ đời sống và sức khoẻ của con người, động vật, thực vật được miễn trừ khỏi các quy tắc thông thường của GATT trong những điều kiện nhất định. WTO cho phép đề xuất và áp dụng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (tức là các tiêu chuẩn sản phẩm và công nghiệp), trong đó có các biện pháp an toàn và vệ sinh thực phẩm nhằm mục đích bảo vệ môi trường; Về hoạt động thương mại trong nông nghiệp, WTO cho phép các chương trình môi trường được miễn trừ khỏi việc cắt giảm chính sách trợ giá của Chính phủ; Về chính sách trợ giá và bù thuế, WTO cho phép trợ giá đến 20% giá thành cố định khi áp dụng các luật môi trường mới; Về chính sách sở hữu trí tuệ, WTO cho phép các chính phủ có thể từ chối cấp bằng cho các phát minh đe dọa cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật và thực vật, hoặc gây rủi ro thiệt hại nghiêm trọng tới môi trường (Điều 27 của Hiệp định về Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại - TRIPS). Như vậy, việc gắn kết các quy định về môi trường trong các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương (Multilateral Environmental Agreements-MEAs) với các hoạt động thương mại quốc tế được thể hiện và thực hiện thông qua các hiệp định thương mại đa phương của WTO. Các biện pháp quản lý thương mại có liên quan tới môi trường ngày càng được các nước sử dụng như những biện pháp quan trọng của hệ thống hàng rào kỹ thuật. Những biện pháp này, thường được gọi là các “hàng rào xanh”, và được các nước phát triển và đang phát triển ở trình độ cao sử dụng tương đối phổ biến và hiệu quả trong việc kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm liên quan đến môi trường và bảo vệ các ngành sản xuất có liên quan trong nước. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, một số “hàng rào xanh” do các nước phát triển đưa ra chính là các thách thức về môi trường trong hoạt thương mại quốc tế khi gia nhập WTO. Hai loại “hàng rào xanh” thường được áp dụng là: Áp dụng đánh thuế tài nguyên: các nước phát triển xây dựng các tiêu chuẩn hàng hoá trong đó quy định nghiêm ngặt hàm lượng tài nguyên thô như là một biện pháp bảo vệ môi trường, ngăn chặn khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Như vậy, hàng hoá của các nước đang phát triển muốn nhập khẩu vào các nước này sẽ phải chịu thuế nhiều hơn vì hàm lượng tài nguyên thô lớn, điều đó hạn chế lợi thế cạnh tranh của các nước đang phát triển trong sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên;  Sử dụng các tiêu chuẩn môi trường, vệ sinh an toàn, dán nhãn sinh thái như rào cản bảo hộ sản phẩm sản xuất trong nước, chống lại các sản phẩm và công nghệ nhập khẩu với lý do các sản phẩm và công nghệ này không đáp ứng các quy định về bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm của nước sở tại. Là thành viên WTO, Việt Nam được đối xử công bằng hơn trong thương mại quốc tế, nhất là khi các nước muốn áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với Việt Nam. Ví dụ khi muốn áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về kháng sinh đối với hàng nông thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam thì Hoa Kỳ phải có trách nhiệm thông báo với Việt Nam về các quy định kỹ thuật này ít nhất là trước 60 ngày theo nguyên tắc minh bạch hoá và cũng phải đảm bảo rằng các sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ cũng phải áp dụng những quy định này theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Điều này trước đây Việt Nam vẫn thường bị phân biệt đối xử khi xuất khẩu sản phẩm sang Châu Âu và Bắc Mỹ. Hay khi chúng ta muốn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đối với thực phẩm khi nhập vào Việt Nam để ngăn ngừa dịch bệnh thì chúng ta cũng có quyền ban hành những quy định kỹ thuật cho sản phẩm này đảm bảo các biện pháp vệ sinh an toàn, miễn rằng các quy định này phải được thông báo trước với các nước thành viên, không gây những cản trở không cần thiết trong thương mại và sản phẩm trong nước cũng được áp dụng các quy định này. Là thành viên WTO, Việt nam còn có cơ hội giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường thông qua việc áp dụng các nguyên tắc pháp lý của WTO để xây dựng và sử dụng hợp lý "hàng rào xanh" nhằm mục đích bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, đồng thời bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường. III. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY Môi trường tự nhiên Khi đề cập tới vấn đề môi trường tự nhiên ở hoàn cảnh của Việt Nam, điều đầu tiên dễ nhận thấy là khác với Singapore, đất nước có diện tích nhỏ hẹp khiêm tốn về tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, Việt Nam với vị trí địa lí trải dài theo nhiều vĩ độ đã được thiên nhiên ban tặng một vốn tài nguyên quý báu. Cũng chính sự đa dạng đó buộc Nhà nước và nhân dân ta phải quản lí và thực thi nhiều chính sách với nhiều nhân tố tự nhiên hơn quốc đảo Singapore. Tuy nhiên, để nhận thức rõ vấn đề trên cơ sở đối chiếu, trong phạm vi của tình hình thực hiện việc bảo vệ môi trường tự nhiên của Việt Nam, người viết chỉ xin được trình bày những nét khái quát về một số loại môi trường cụ thể như: đất, nước, không khí, rừng … tại Việt Nam để người đọc dễ nhận thấy những điểm tương đồng và khác biệt với những điều đã trình bày ở hoạt động của Singapore phía trên. 1.1 Đối với tài nguyên nước Tiền thân của quy hoạch tài nguyên nước ở Việt Nam là các báo cáo "Nhiệm vụ thiết kế công trình thủy lợi - thủy điện" làm trong thời gian 1955 - 1960; "Quy hoạch hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải" cũng vào thời gian nói trên và "Quy hoạch trị thủy và khai thác sông Hồng" làm năm 1961. Ngay trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước nhiệm vụ quy hoạch được mở rộng ra hầu hết các sông lớn ở phía Bắc: hệ thống sông Nậm Rốm, Kỳ Cùng - Bắc Giang, các sông Quảng Ninh, sông Mã, sông Cả, sông Nghèn, sông Gianh, sông Nhật Lệ, sông Bến Hải. Sau năm 1975, công tác quy hoạch được triển khai cấp tốc với 4 vùng: Trung Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Sau hơn 50 năm, công tác quy hoạch thủy lợi, thủy điện đã đặt cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng 75 hệ thống thủy nông lớn, 760 hồ đập lớn và vừa, 1.000 cống tưới tiêu lớn ngăn mặn, 2.000 trạm bơm điện lớn và vừa, hàng vạn km kênh mương, 7.000km đê sông, đê biển, hàng vạn công trình nhỏ và trạm bơm. Về cơ bản, công tác quy hoạch đã đáp ứng kịp thời những yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp phát triển tài nguyên nước. Hầu hết các quy hoạch là đúng đắn và hợp lý. Tuy nhiên đến nay ở nước ta chưa có văn bản quy hoạch của một dòng sông nào được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Điều này đã tạo sơ hở về pháp lý khiến cho việc xem xét một dự án lớn trên một con sông thường phải kéo dài mất thời gian, gây lãng phí không đáng có. Điều đó cũng hạn chế một phần sự hoạt động của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước, cũng như các ban quản lý quy hoạch lưu vực sông. Trong các quy hoạch đã có, thì chỉ có quy hoạch cấp nước, mà thiếu quy hoạch tiêu. Nhiều hệ thống thủy lợi ở Trung Bộ và Tây Nguyên chủ yếu là để tưới và không có hệ thống tiêu. Đối với các sông xuyên biên giới cũng chưa có quy hoạch chính thức nên bị động trong nhiều giải pháp cụ thể. Trong các quy hoạch đã có, chưa xét đến yêu cầu về lưu lượng nước sinh thái. Quy hoạch thường chỉ xét nhu cầu sử dụng nước trên lưu vực sông, mà không tính đến quy hoạch cấp nước cho bản thân con sông đó. Có một số công trình quy hoạch chưa được hợp lý. Ví dụ như thủy điện Thác Bà làm ngập 235km2 chủ yếu là đất màu mỡ của vùng có dân cư đông đúc thuộc hai huyện Lục Yên và Yên Bình của tỉnh Yên Bái. Tính cụ thể để có 1MW điện, đã làm ngập 2,18km2 (gấp 20 lần so với hồ Hòa Bình), số dân phải di chuyển 178 người; hiệu quả cắt lũ của hồ cho Đồng bằng sông Hồng - sông Thái Bình không lớn. Rõ ràng nếu tính chi phí - lợi ích như hiện nay, Dự án hồ Thác Bà khó có thể xem là hợp lý. Đương nhiên, nếu nhận xét một cách toàn diện, nhất là khi chú ý tới bối cảnh lịch sử của nước ta tại thời điểm đó, thì kết luận chung sẽ có thể khác. Quy hoạch cấp nước sạch cho các vùng sâu, vùng xa đặc biệt là vùng ven biên giới, ven biển và hải đảo tiến hành chậm và chưa có chiến lược rõ ràng. Thiếu sự tham gia đóng góp của cộng đồng trong nội dung quy hoạch và giám sát quy hoạch nên một số quy hoạch chỉ tồn tại trên giấy. Thậm chí có quy hoạch khi thực hiện lại mâu thuẫn với ý đồ sản xuất của người nông dân, đặc biệt là ở những vùng nhạy cảm giữa trồng lúa và nuôi trồng thủy sản. 1.2 Đối với tài nguyên rừng Bên cạnh tài nguyên nước, tài nguyên rừng cũng là một nguồn tài nguyên quý báu không thể bỏ qua trong tình hình môi trường Việt Nam. Trong những năm qua Việt Nam đã ký một số công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ đa dạng sinh học, như Công ước về buôn bán các loài động thực vật có nguy cơ bị tiêu diệt (CITES), Công ước RAMSAR Để biết thêm chi tiết về các công ước quốc tế về môi trường Việt Nam đã tham gia, xem thêm phụ lục 2 về quản lý các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt đối với chim di cư và đã chọn vùng đất ngập nước Xuân Thủy ở cửa sông Hồng làm khu vực RAMSAR cần được bảo vệ. Việt Nam cũng đã phê chuẩn Công ước Đa dạng sinh học. Để thực hiện công ước này, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch hành động đa dạng sinh học. Mục tiêu trước mắt của Kế hoạch hành động này là: Bảo vệ các hệ sinh thái đặc trưng của Việt Nam, các hệ sinh thái nhạy cảm đang bị đe dọa thu hẹp hay bị hủy hoại do hoạt động kinh tế của con người gây ra; Bảo vệ các loài đang bị đe dọa do khai thác quá mức; Sử dụng các loài một cách bền vững để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Tuy Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế nói trên, nhưng việc thực hiện các công ước này còn gặp rất nhiều khó khăn. Các tài nguyên sinh vật vẫn còn bị khai thác một cách mạnh mẽ, chưa kiểm soát được, thậm chí các tài nguyên thuộc vườn quốc gia vẫn bị xâm phạm. Chắc rằng cần phải nghiên cứu kỹ mối quan hệ giữa những người dân thường, những người dân đang sống dựa vào việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên để mưu cầu cuộc sống khó khăn của mình và các mối quan hệ xã hội khác có liên quan đến việc khai thác các dạng tài nguyên thiên nhiên, tìm ra được các biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân địa phương, nhất là những dân nghèo mà vẫn bảo đảm được các nguồn tài nguyên quý giá này. 1.3 Đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác Các chính sách về quản lý tài nguyên và môi trường nói chung đã được ban hành ngày càng nhiều, trong đó quan trọng là các luật: Bảo vệ môi trường, Khoáng sản, Đất đai, Dầu khí, Hàng hải, Tài nguyên nước, Thủy sản (thông qua tháng 11 năm 2003). Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Chiến lược Bảo tồn và quản lý đất ngập nước quốc gia, cũng như các kế hoạch hành động quốc gia về môi trường, về bảo tồn đa dạng sinh học và ứng cứu sự cố tràn dầu đã được Chính phủ thông qua. Đặc biệt là Chỉ thị 36-CT/TW về Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1998) đã chỉ ra những quan điểm lớn của Đảng và Nhà nước về công tác bảo vệ môi trường nói chung và môi trường tự nhiên nói riêng. Gần đây, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng Chương trình Nghị sự 21 Thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất ở Rio de Janeiro, phản ánh sự đồng tâm nhất trí và sự cam kết chính trị ở cấp cao nhất của sự hợp tác về môi trường và phát triển giữa các quốc gia. của Việt Nam hướng tới phát triển bền vững đất nước, trong đó có đề cập đến môi trường tự nhiên như một động lực cho tiến trình phát triển và hợp tác kinh tế quốc tế. Môi trường xã hội Các hoạt động nhằm xây dựng công tác môi trường tốt ở nước ta trong thời gian qua diễn ra khá sôi nổi ở nhiều mặt. Trong đó, điểm đáng chú ý là việc giáo dục môi trường cũng như tích cực tham gia các hoạt động môi trường quốc tế của đất nước ta. Điều đó chứng tỏ sức ảnh hưởng lớn lao và vai trò quan trọng của vấn đề môi trường trong tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta: 2.1 Giáo dục, tuyên truyền về môi trường Chính phủ Việt Nam cho rằng: nhiệm vụ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Chính phủ luôn coi trọng nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục cộng đồng về môi trường, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên của đất nước. Về giáo dục trong nhà trường, không kể đến việc đào tạo những cán bộ chuyên môn trong các lĩnh vực có liên quan đến tài nguyên và môi trường tại các trường đại học, cao đẳng, thì việc đưa giáo dục môi trường vào các cấp học tiểu học và phổ thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì nó liên quan đến xây dựng nhận thức cho học sinh ngay từ lúc tuổi thơ, ngay trong quá trình hình thành nhân cách của học sinh. Việc giáo dục đó còn đặc biệt quan trọng, vì góp phần đào tạo thế hệ tương lai hiện chiếm tỷ lệ 27% tổng dân số nước ta Tỷ lệ dân số độ tuổi dưới 15, theo Điều tra biến động dân số và KHHGĐ 1/4/2005, Tổng cục Thống kê . Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân", theo Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17-10-2001. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ra quyết định số 6621/QĐ-BGDĐT-KHCN ngày 30-12-2002 phê duyệt "Chính sách và Chương trình hành động giáo dục môi trường trong trường phổ thông giai đoạn 2001 - 2010". Theo Chương trình này, thì giai đoạn 2001 - 2005 là giai đoạn chuẩn bị, trong đó có các công việc, như: soạn thảo và ban hành các văn bản pháp quy; xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục môi trường; bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý về giáo dục môi trường; xây dựng tổ chức và cơ sở vật chất; tiến hành các hoạt động ngoại khóa, các chiến dịch truyền thông môi trường; chỉ đạo điểm. Từ năm 2006 trở đi mới là triển khai mở rộng trong phạm vi toàn quốc. Nhìn chung một cách khách quan tình hình phát triển của nước ta trong hơn hai thập kỷ qua, có thể nhận xét rằng việc đưa nội dung giáo dục môi trường vào trường còn chậm. Quả là như vậy, vì các hoạt động nghiên cứu khoa học về tài nguyên và môi trường được bắt đầu triển khai một cách có hệ thống từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước với các chương trình và đề tài cấp Nhà nước, không kể tới các nghiên cứu lẻ tẻ của các trường đại học, viện nghiên cứu trước đó. Rồi trong khuôn khổ của các dự án có sự tài trợ của nước ngoài, khoảng từ giữa thập kỷ 80, đã có những thử nghiệm đưa nội dung giáo dục môi trường vào một số trường, lớp học, kể cả việc biên soạn và áp dụng thử những chương trình, nội dung, tài liệu và phương pháp giảng dạy. Trong khi đó, việc tuyên truyền giáo dục và truyền thông môi trường trong xã hội dưới các hình thức ngày càng phong phú đã được triển khai ngay trong thập kỷ 80, nhất là từ năm 1992-1993, với kết quả của Hội nghị Rio, sự thành lập của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và việc Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường. Tuy nhiên đến năm 2001, Chính phủ mới có quyết định đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân. Bên cạnh đó, thông tin đại chúng (sau đây, để ngắn gọn, tạm gọi chung là báo chí) cũng có vai trò rất quan trọng trong công tác giáo dục, truyền thông về môi trường ở nước ta. Vì có thể thông qua các phương tiện hiện đại, như báo chí, phát thanh, truyền hình, để chuyển tải kịp thời những thông tin cho xã hội và góp phần to lớn trong việc tạo nên hoặc tác động tới công luận. Mặt khác, báo chí cũng có điều kiện đi sát cuộc sống để phản ánh những tình hình và ý kiến của xã hội tới các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước. Trong những năm vừa qua, về mặt bảo vệ môi trường, báo chí đã có tác dụng rất tích cực. Với những lợi thế khác nhau về cách truyền đạt thông tin, báo chí đã góp phần nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về thiên nhiên và môi trường, về các chính sách của Nhà nước ta và các hoạt động trong công tác bảo vệ môi trường. Điều nổi bật và có tác dụng rõ rệt là báo chí đã nêu nhiều vấn đề cụ thể và bức xúc, có tính phản ánh thực tiễn, kể cả các trường hợp nghiêm trọng, như các vụ phá rừng, bọn lâm tặc chống trả quyết liệt lực lượng kiểm lâm, các hành vi bao che hoặc tòng phạm của một số người có chức có quyền ở địa phương, như vụ phá rừng ở Tánh Linh những năm trước đây, và gần đây nhất, là việc hàng trăm ha rừng ngập mặn và vành đai sú vẹt bị xóa sổ để trở thành đầm nuôi tôm ở Thái Bình, Ninh Bình, Quảng Bình,... Ngoài những báo hàng ngày và các tạp chí chuyên ngành, cũng đã bắt đầu xuất hiện một số ấn phẩm định kỳ chuyên về môi trường do các tổ chức xã hội-nghề nghiệp thành lập, như tạp chí "Con đường xanh" của Hội Bảo vệ Môi trường giao thông vận tải, "Nhà báo và Môi trường", cơ quan ngôn luận của Diễn đàn các nhà báo môi trường Việt Nam. Đó cũng là một dấu hiệu đáng mừng, vì điều đó sẽ làm đa dạng hóa báo chí viết về môi trường, nhất là giúp cho độc giả có thể nhìn nhận các vấn đề môi trường dưới những góc độ khác nhau và tăng cường mối quan hệ giữa báo chí và công chúng, giữa báo chí và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 2.2 Tham gia các các hoạt động môi trường quốc tế Vấn đề môi trường là vấn đề có tính liên ngành, liên vùng và liên quốc gia, các vấn đề rừng đầu nguồn, sông và biển là mối quan tâm chung của các nước trong khu vực. Chính vì vậy, Việt Nam coi trọng việc hợp tác với các nước láng giềng và các nước khác trên toàn thế giới để bảo vệ và cải thiện môi trường. Trong thời gian qua Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế theo nhiều hình thức như họp tác đa phương, hợp tác song phương, hợp tác khu vực và hợp tác toàn cầu. Quan hệ hợp tác của Việt Nam với các tổ chức quốc tế như UNEP, UNIDO, UNDP, UNICEF, WWF, IUCN, WB, ADB, GEF vv... ngày càng phát triển và có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường Việt Nam. Quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước trong khu vực đã bước sang giai đoạn mới, được tăng cường và mở rộng. Hiện nay, Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức các quan cao cấp về môi trường của ASEAN (ASOEN). Quan hệ song phương giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước như Thuỵ Điển, Canada, Ôxtrtâylia, Đan Mạch, Hà Lan, Nhật Bản, Pháp... ngày càng được củng cố và phát triển nhằm thực hiện các cam kết giữa Chính phủ Việt Nam và các bên hữu quan, tranh thủ sự trợ giúp về tài chính cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Cùng với thời điểm đó, nhiều dự án về môi trường đã được thực hiện có hiệu quả, đặc biệt là dự án SIDA/IUCN về tăng cường năng lực quản lý môi trường cho môi trường, dự án VCEP về chương trình môi trường Việt Nam Canada, dự án về bảo vệ đa dạng sinh học với GEF, dự án UNEP/COBSEA về môi trường biển... Sự hợp tác và phối hợp hoạt động với các nước và các tổ chức quốc tế đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong quản lý môi trường của Việt Nam. Môi trường nhân tạo Vấn đề xây dựng một hệ thống cơ sở vật chất ở Việt Nam đang là một môi quan tâm hàng đầu của Nhà nước và nhân dân, được đặt lên vai bộ chủ quản là Bộ Xây Dựng và các ban ngành có liên quan khác. Trên thực tế, các cơ sở vật chất có quy mô lớn và hiện đại trên cả nước thường tập trung ở những khu đô thị lớn như: Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…và những khu kinh tế, du lịch trọng điểm: Nha Trang (Khánh Hòa), Hạ Long (Quảng Ninh), Đà Lạt (Lâm Đồng),…Vì những khu vực này mới có thể cung cấp môi trường kinh doanh, đầu tư cũng như nguồn nhân lực có đủ trình độ phục vụ các hoạt động phát triển kinh tế nói chung của đất nước. Có thể thấy, môi trường nhân tạo cũng chính là một trong những sức hút có chất lượng với các nhà đầu tư, du khách từ nước ngoài tới với Việt Nam, đầu tư hội họp, và từ đó giúp đẩy mạnh cơ hội hợp tác, giao lưu kinh tế với thế giới của đất nước ta. Tuy nhiên, trong quá trình tạo lập và xây dựng những địa điểm đủ phẩm chất nhằm thu hút phát triển kinh tế đó, hầu hết theo tâm lí nóng vội và bệnh thành tích đều chưa ý thức được những tác động về mặt môi trường của dự án. Vì vậy, Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ra đời và quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường, ban hành ngày 09/8/2006, đã chỉ ra loại dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường như: Dự án công trình trọng điểm quốc gia, dự án xây dựng cơ sở viễn thông, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu đô thị, khu dân cư, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu thương mại, khu kinh tế, dự án xây dựng khu du lịch, vui chơi giải trí, dự án xây dựng sân golf từ 18 lỗ trở lên... Nghị định này cũng phân định thẩm quyền, thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường đôí với các dự án liên ngành, liên tỉnh. Trong đó có 12 dự án quan trọng như: Dự án nhà máy điện nguyên tử, dự án nuôi trồng thuỷ sản trên đất cát có diện tích từ 100 ha trở lên, dự án tái chế chất thải nguy hại... và các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nằm trên địa bàn 2 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì sẽ thuộc trách nhiệm thẩm định và phê duyệt của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Cũng theo đó, cơ sở sản xuất, dịch vụ thân thiện với môi trường là cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và bảo vệ môi trường và được chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường; có chính sách quản lý sản phẩm trong suốt quá trình tồn tại của chúng và quản lý chất thải đúng quy định, trong đó tái chế, tái sử dụng trên 70% tổng lượng chất thải; được cấp chứng chỉ ISO 14001 về quản lý môi trường; tiết kiệm được 10% nguyên liệu, năng lượng, nhiên liệu, lượng nước sử dụng so với mức tiêu thụ chung; tham gia và đóng góp tích cực các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng bảo vệ môi trường công cộng; không bị cộng đồng dân cư nơi thực hiện sản xuất, dịch vụ phản đối việc được công nhận là cơ sở thân thiện với môi trường. Bằng những chính sách và quy định của pháp luật, môi trường nhân tạo của Việt Nam đang dần được mang lên mình một hình dáng mới, có thêm sự biến đổi mang nhiểu hi vọng và có tầm lớn nhất định. Tuy nhiên, khía cạnh môi trường, nhất là ở những ngành như công nghiệp hoặc dịch vụ vẫn chưa được coi trọng và vì thế ngày đang là một trong những nguyên nhân lớn gây ra nguy cơ suy thoái môi trường sống và hoạt động kinh tế ở nước ta. IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GẮN LIỀN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM DỰA TRÊN NHỮNG BÀI HỌC TỪ MÔ HÌNH SINGAPORE Nước Singapore có diện tích chỉ 660 km2, xấp xỉ diện tích Hà Nội; dân số chỉ gần 5 triệu người, xấp xỉ dân số Tp. Hồ Chí Minh. Tài nguyên thiên nhiên hoàn toàn không có gì cả. Chỉ có con người, và một ít đất để ở. Năm 1960, GDP của Singapore chỉ là 0,7 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người chỉ là 427 USD/ năm. Tới năm 2005, GDP của Singapore đã là hơn 116 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người là 26,892 USD/năm. Nước Singapore hiện nay là nước có thu nhập bình quân đầu người lớn thứ 2 ở Châu Á, sau Nhật Bản và nằm trong hàng các nước tiên tiến, văn minh, giàu có nhất trên thế giới. Vị thế của nước Singapore nhỏ bé cũng rất lớn trên trường quốc tế. Singapore là một trong những nước sáng lập ra khối ASEAN. Năm nay 2007, nước Singapore giữ chức Chủ tịch ASEAN. Trong khi đó, Việt Nam ta có diện tích gấp hơn 50 lần nước Singapore, dân số gấp gần 20 lần, tài nguyên thiên nhiên cũng phong phú, dồi dào hơn Singapore nhiều, nhưng GDP của ta năm 2005 chỉ xấp xỉ 60 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 500 USD/năm. Trong quá trình nghiên cứu tình hình thực hiện những chính sách môi trường của Singapore, chúng ta đều có thể thấy để có được sự tăng trưởng và phát triển thần kì, tạo dựng nên một nước Singapore như ngày nay, đất nước và con người xứ sở này đã phải thực hiện rất nhiều biện pháp tổng hợp về kinh tế xã hội để chấn hưng đất nước mình. Dưới phương diện kinh tế môi trường, theo thiển nghĩ của người viết, Việt Nam cần để tâm tới những bài học lớn sau từ một mô hình Singapore hiện đại: 1. Bài học đối nội: Các công cụ về kinh tế được Chính phủ Singapore sử dụng triệt để và hiệu quả trong tiến trình phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp như chúng ta đã cùng nghiên cứu. Thiết nghĩ, Việt Nam chúng ta cũng nên nhìn nhận lại về những việc chưa làm được về mặt công cụ quản lí kinh tế môi trường, và bên cạnh đó là những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, giáo dục tuyên truyền trong dân chúng…phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế – xã hội đặc thù của nước ta. 1.1 Vai trò các công cụ tài chính: Việc sử dụng cũng như tuyên truyền về vai trò các công cụ tài chính để bảo vệ môi trường ở Singapore là rất tốt trong khi ở Việt Nam việc này còn dừng ở mức khiêm tốn. Nguồn thu để bảo vệ môi trường có thể dồi dào nhưng vẫn chưa tổ chức được các loại thuế và phí một cách có hệ thống. Những đánh giá cần thiết về lĩnh vực này vẫn còn chưa đầy đủ. Lâu nay chúng ta vẫn còn coi nhẹ vấn đề đầu tư bảo vệ môi trường từ phía ngân sách Nhà nước. Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175/C.P (hướng dẫn thi hành Luật này) đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa có hướng dẫn chế độ tài chính thực hiện. Ngân sách Nhà nước có nhiều khoản chi cho môi trường, nhưng nằm rải rác ở nhiều khoản chi tiêu của các bộ ngành, địa phương và các chương trình Nhà nước khác nhau; còn lồng ghép trong chi hoạt động chung của khoa học, công nghệ và môi trường, quy mô thấp, có tăng nhưng chậm; các hoạt động khắc phục sự cố môi trường do thiên tai gây ra còn tiêu tốn nhiều tiền, lẽ ra có thể tốn ít hơn nếu tổ chức phòng ngừa khá hơn; chi ngân sách Nhà nước cho chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc cũng chỉ mới được tiến hành vào thập kỷ gần đây nhất. Chương trình trồng mới 5 triệu hécta rừng còn gặp nhiều khó khăn trong triển khai. 1.2 Quỹ môi trường quốc gia Quỹ môi trường quốc gia vẫn còn chưa được hình thành. Các quỹ môi trường địa phương và ngành còn ít và hoạt động chưa đủ tích cực để đạt hiệu quả cần thiết. Trên thực tế vấn đề quỹ môi trường đã được đặt ra từ đầu những năm 90 nhưng đến nay mới có được quỹ môi trường thử nghiệm ở Hà Nội, ngành than, quỹ giảm thiểu ô nhiễm thành phố Hồ Chí Minh. Hỗ trợ quốc tế (viện trợ không hoàn lại, ODA...) cho bảo vệ môi trường còn phân tán, quản lý không thống nhất và quy mô nhỏ. Nợ nước ngoài của nước ta chưa có vận động hoán đổi một cách có hệ thống để trở thành nguồn vốn bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp chưa có và không có đủ điều kiện cũng như phương tiện tài chính cần thiết cho việc tự đánh giá tác động môi trường ở nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Hoạt động của các công ty môi trường đô thị chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra. 1.3 Các công cụ thuế, phí, và lệ phí môi trường Các công cụ thuế và phí còn ở giai đoạn hình thành hệ thống hoặc còn lẻ tẻ phát huy tác dụng như thuế tài nguyên, thuế xăng dầu, phí cầu đường, vé vào cửa khu du lịch, tiền phạt vi phạm môi trường. Nguyên tắc ai gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP) và được hưởng lợi phải trả tiền (BPP) chưa được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam, nguồn thu cho môi trường từ mở mang hoạt động du lịch chỉ dừng ở mức thí điểm, chưa đánh thuế tài nguyên nước... Pháp lệnh về phí và lệ phí chỉ mới được ban hành vào tháng 8/2001 và chưa đi vào cuộc sống một cách đầy đủ. Trong số 72 loại phí thì có khoảng hơn 16 loại phí liên quan đến công tác bảo vệ môi trường; trong số 42 loại lệ phí thì có khoảng hơn 10 lệ phí liên quan đến quản lý và bảo vệ môi trường. Tất cả cần được khẩn trương hướng dẫn thi hành. Trước hết các văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành cần được khẩn trương soạn thảo và đưa ra thực thi đồng bộ để hạn chế, ngăn ngừa các hành vi gây ô nhiễm hay bù đắp chi phí Nhà nước đã bỏ ra để bảo vệ môi trường. Đó là phí nước thải, rác thải, phí gây ô nhiễm không khí, phí gây tiếng ồn…, phí đánh vào đối tượng thụ hưởng, phí đánh vào sản phẩm trong quá trình sản xuất, sử dụng và sau khi sử dụng có thể gây ô nhiễm. Số thu được từ phí cần quy định là nguồn thu của quỹ môi trường để hỗ trợ các hoạt động cải thiện môi trường. Về thuế, Nhà nước cần áp dụng chính sách miễn giảm thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm nhất định cho các dự án đầu tư cải thiện môi trường sản xuất ở doanh nghiệp sau khi dự án hoàn thành giai đoạn đầu tư đi vào hoạt động. Đó là đầu tư vào công nghệ sản xuất sạch hơn, vào thiết bị ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm môi trường. Khoảng thời gian áp dụng cần đủ dài để cơ sở doanh nghiệp có đủ điều kiện thu hồi vốn đầu tư và khuyến khích đầu tư mạnh hơn nữa vào bảo vệ môi trường. Đồng thời miễn giảm thuế đối với phần lợi nhuận hay chi phí mà các doanh nghiệp dành để đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ và cán bộ chịu trách nhiệm đối với sản xuất sạch và bảo vệ môi trường liên quan đến sản xuất trong lãnh thổ doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp tiểu thủ công nghiệp, hoạt động ở nhiều ngành nghề truyền thống hay cung cấp dịch vụ, cần được vay ưu đãi từ Ngân hàng chính sách (đang được xúc tiến thành lập), quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển hay quỹ môi trường. Nhờ nguồn vay đó các doanh nghiệp này có thể đầu tư mua sắm công nghệ mới có tác dụng giảm thiểu ô nhiễm, thực hiện tiết kiệm năng lượng hay tái sử dụng và tái sinh chất thải, thay thế nguyên vật liệu truyền thống bằng loại lành tính hơn, ít ô nhiễm hơn. Ví dụ nhờ có đầu tư mà doanh nghiệp dệt nhuộm có thể chuyển từ công nghệ dùng nước tẩy Javen sang công nghệ dùng thuốc tẩy H2O2 (peoxit hydro) sẽ tránh được chất thải clo sinh ra do dùng nước javen. Hoặc nơi tái chế đồ nhựa cần đầu tư lắp rơle nhiệt để tự điều chỉnh nhiệt gia công thích hợp với từng loại chất dẻo, hạn chế việc phân huỷ và giảm lượng khí thải độc hại, phế phẩm thoát ra sau công đoạn sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất gốm sứ có thể đầu tư mở rộng áp dụng công nghệ lò gas thay cho lò than để loại bớt bụi than và SO2 thải ra. 1.4 Về hỗ trợ vốn doanh nghiệp Cơ chế hỗ trợ vốn thích hợp cho các doanh nghiệp là thông qua quỹ môi trường. Do đó đề nghị sớm thành lập quỹ môi trường quốc gia và hoàn thiện mô hình hoạt động của các quỹ môi trường địa phương. Hiện nay quỹ môi trường Hà nội đã qua giai đoạn thử nghiệm, nhiều kết quả có tác dụng tốt cho việc bảo vệ môi trường ở các doanh nghiệp cần được nhân rộng. Quỹ giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh có nhiều cách cho vay tiên tiến cần được phổ biến rộng rãi. 1.5 Về việc hạch toán chi phí liên quan đến môi trường Về việc hạch toán chi phí liên quan đến môi trường trong giá thành sản phẩm sản xuất ra cần lưu ý các trường hợp như sau: Nếu chi phí tính đủ làm đội giá thành của sản xuất thì trong một giai đoạn nào đó cần phải bóc tách khoản này để tính toán lại cơ sở đánh thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế lợi tức. Hoặc đưa ra điều kiện ràng buộc cho miễn giảm thuế gắn với việc hợp lý hóa được sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến hay công nghệ sạch hơn ngay tại doanh nghiệp. 1.6 Cơ chế trọng dụng, đãi ngộ tốt với người tài Cần có cơ chế trọng dụng, đãi ngộ tốt với người tài nhằm xây dựng một môi trường trí quyển có sức sống, đủ năng lực chèo lái đất nước. Nước Singapore không những tìm và sử dụng người tài trong công dân Singapore, mà còn thu hút nhân tài từ nước khác đến. Người tài đến Singapore làm việc, được định cư lâu dài, và được gia nhập quốc tịch Singapore dễ dàng. Ngoài ra, tư tưởng “chui sâu leo cao” của một số bộ phận người có chức có quyền nhằm tư lợi riêng cần được xóa bỏ triệt để nhằm tránh tham nhũng, thất thoát lãng phí, và xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, tài năng, quan tâm tới nhiệm vụ hàng đầu là phát triển kinh tế nhưng cũng có đầy đủ bản lĩnh và kiến thức về bảo vệ môi trường nhằm hướng tới sự phát triển bền vững lâu dài. 1.7 Giáo dục môi trường Những thế hệ tương lai cần được đào tạo, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường ngay từ khi còn rất nhỏ, khi mới bắt đầu có nhận thức. Giáo dục môi trường cần được đưa đến với học sinh tiểu học bằng phương pháp học mà chơi, chơi mà học, tuyệt đối không giáo điều. Về lâu dài, nội dung bảo vệ môi trường cần phải được xem như một môn học chính khóa trong hệ thống giáo dục quốc dân. Ngoài ra, cần tăng cường các biện pháp, chế tài cứng rắn về kinh tế và pháp luật nhằm răn đe, ngăn chặn kịp thời những sự việc gây ảnh hưởng xấu tới một môi trường mang tính bền vững cho việc phát triển kinh tế. Để có được điều này, công tác tuyên truyền, giáo dục về nhận thức cho mọi tầng lớp dân chúng cần được đặt lên hàng đầu trong công tác xã hội của ngành môi trường và các ban ngành có liên quan. Vì ngoài việc đời sống sinh hoạt xã hội của con người thải loại nhiều chất có thể gây ô nhiễm, các doanh nghiệp sản xuất đều chứa đựng nguy cơ tiềm tàng của việc gây nên ô nhiễm môi trường. Do vậy việc bảo vệ môi trường đã trở thành nhiệm vụ cấp bách nói chung của toàn xã hội, trong đó có cộng đồng doanh nghiệp nước ta. 1.8 Quy hoạch tổng thể dài hạn về xây dựng cơ bản Khi đã có sự hỗ trợ cần thiết cho doanh nghiệp về tài chính, kiến thức môi trường, Singapore đã tận dụng được nguồn sức mạnh trí tuệ, sáng tạo của các thành phần kinh tế nhằm xây dựng được một Singapore với môi trường tự nhiên hiện đại mà không thiếu nét đẹp thiên nhiên. Điều này giúp tạo môi trường sống tốt cho con người nhưng cũng đồng thời tạo cảnh quan đẹp, tiện nghi, đa dạng về hình thưc hấp dẫn khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Việt Nam cũng đang có những bước chuyển mình trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản những cơ sở hạ tầng thiết yếu của ngành du lịch cũng như nền kinh tế, nhưng so với Singapore ngành du lịch của chúng ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Do vậy, xây dựng như thế nào, với chính sách ra sao, và lấy nguồn vốn từ đâu cho hợp lí lại cần chúng ta nghiên cứu nghiêm túc với một kế hoạch phát triển môi trường tự nhiên lành mạnh, bền vững trong dài hạn. 2. Bài học đối ngoại Mô hình Singapore cho thấy sự hợp tác quốc tế về môi trường là rất có ý nghĩa để nâng cao nội lực đất nước và tranh thủ được sự giúp đỡ ủng hộ từ các nguồn lực bên ngoài. Với nhiệm vụ môi trường quốc tế và bổn phận của Việt Nam trong việc tham gia thực hiện các hiệp định, điều ước, …song phương và đa phương, đặc biệt là với vai trò thành viên của WTO, Việt Nam cần quan tâm: Ban hành các quy định về cấm nhập khẩu các sản phẩm đã bị cấm ở thị trường nước ngoài, các quy định về nhãn hàng hoá thân thiện môi trường (nhãn sinh thái – ecolabel), các quy định cụ thể về thuế và phí môi trường và các quy định về cơ sở khoa học áp dụng các biện pháp “hàng rào xanh” phù hợp với quy định của WTO; Tích cực, chủ động tham gia vòng đàm phán Doha, mạnh dạn sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương và của WTO để giải quyết một cách bình đẳng các tranh chấp thương mại quốc tế; Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các công ước môi trường mà Việt Nam đã ký kết tham gia với các hiệp định thương mại đa phương của WTO. Nghiên cứu kỹ và có giải pháp chính sách đồng bộ về quản lý thương mại các hàng hoá và dịch vụ liên quan đến môi trường; Chuẩn bị tốt nguồn lực để vượt qua các hàng rào kỹ thuật về bảo vệ môi trường. Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các quy định về môi trường của quy trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm, coi đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường là một bộ phận cấu thành trong hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, chúng ta còn cần thực hiện tốt Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng Ôzôn, tăng cường phối hợp quốc tế trong Chương trình Nghị sự 21, mở rộng các hoạt động bảo vệ môi trường trong mối liên hệ với các nước láng giềng và trong khu vực ASEAN ….nhằm tận dụng tốt những sự giúp đỡ quý báu về trình độ quản lí, kĩ thuật công nghệ,…của các quốc gia đi trước về phát triển, và nhằm cùng với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển hơn khác tạo thành một khối liên minh về phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường cho sự thịnh vượng và bền vững chung. LỜI KẾT Trong những tháng ngày cuối năm này, cả đất nước ta đang náo nức chờ đợi mức tăng trưởng chung của nền kinh tế được duy trì mức trên 8%/năm, như một chỉ số báo hiệu ‘con thuyền’ kinh tế Việt Nam đang đi đúng hướng, với những bước tiến có chất lượng và bền vững. Với hi vọng đó và những kiến thức cá nhân thu nhân được từ điểm khởi đầu nghiên cứu đề tài về kinh tế môi trường và bài học của mô hình Singapore, người viết nhận thấy trong cả quá trình đó là một ý thức dân tộc, niềm tự hào xen lẫn những chiêm nghiệm riêng về những điều mà đất nước ta đã làm được và chưa làm được. Điều quan trọng nhất là một ý thức tổng thể có chiến lược lâu dài, có tầm quy hoạch về tính trọng yếu của vấn đề môi trường trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế của đất nước ta dưới sự dẫn dắt sáng suốt của một Đảng Cộng Sản duy nhất với đường lối chính trị kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, những bài học, kiến nghị được rút ra phía trên theo một phương diện nào đó đã nói lên được những công việc phía trước đang chờ đợi các thế hệ và đặc biệt là thế hệ trẻ phấn đấu thực hiện trong suốt tiến trình đi lên của dân tộc, đất nước. Và nếu một mô hình kinh tế phát triển coi trọng việc bảo vệ gìn giữ môi trường cho các thế hệ sau được xây dựng với đặc điểm riêng của Việt Nam trong tương lai thì điều đó có nghĩa công việc nghiên cứu của đề tài này mang lại nhiều điều có ích cho tập thể, hoặc thậm chí chỉ là giúp người viết bài nhận thức lại vấn đề cũng đã là sự an ủi lớn lao với người nghiên cứu. Tác giả bài viết xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của ThS. Trần Minh Nguyệt – Bộ môn Kinh tế Môi trường - Đại học Ngoại Thương Hà Nội trong thời gian viết và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này. Đồng thời, tác giả bài viết cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành với những thầy cô giáo, anh chị và các bạn trong trường đã giúp cho mình trang bị được một vốn kiến thức cần thiết cho cuộc sống và công việc phía trước. Bên cạnh đó, xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú, anh chị trong Cục Bảo vệ Môi trường (67 Nguyễn Du – Hà Nội) đã giúp đỡ về mặt tài liệu cho bài viết. Thiếu tất cả những sự giúp đỡ ấy, Luận văn tốt nghiệp này sẽ rất khó khăn để định hình và trở thành một nghiên cứu có chất lượng. Hà Nội, tháng 11/2007

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT037.doc
Tài liệu liên quan