Đề tài Thực trạng của đầu tư phát triển và tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác đầu tư ở Việt Nam từ 1998 đến nay

• Đầu tư nhiều hơn cho khoa học công nghệ +Về nhận thức, cần phải nhận thức thống nhất về đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, đổi mới việc xây dựng nhiệm vụ KH&CN. Để có nhận thức đủ và đúng về đổi mới việc xây dựng nhiệm vụ KH&CN phải nắm vững vị trí, vai trò, yêu cầu, nguyên tắc, nội dung của đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, đồng thời phải nắm chắc quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN cũng như hiểu biết sâu sắc về đặc thù của hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y - dược học. + Gắn kết chặt chẽ giữa các định hướng chiến lược phát triển khoa học và chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp với sự phát triển có chiến lược, có quy hoạch và kế hoạch nghiên cứu khoa học, xu thế phát triển công nghệ trong lĩnh vực y - dược học của Học viện, ngành y tế, các nước trong khu vực và trên thế giới. +Thường xuyên đổi mới, đề xuất và vận dụng những biện pháp mới phù hợp với thực tế trong quá trình xây dựng nhiệm vụ KH&CN các cấp nói chung và cấp nhà nước nói riêng, như: + Xây dựng nhiệm vụ KH&CN theo các chuyên ngành, tập trung vào những vấn đề khoa học mang ý nghĩa then chốt, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đồng đều của từng chuyên ngành, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của Học viện theo giai đoạn và từng năm. + Xây dựng nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước theo thứ tự ưu tiên, có trọng tâm, trọng điểm, trên cơ sở định hướng nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, Bộ KH&CN và chiến lược phát triển KH&CN của Học viện từng giai đoạn. +Hoàn thiện quy trình xây dựng nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước tại Học viện theo phương châm “thiết thực - đúng hướng - hiệu quả”. Khi xây dựng đầu vào phải xem xét kỹ việc đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn nhằm phục vụ kịp thời có hiệu quả cho công tác đào tạo, phòng và điều trị. + Nắm bắt kịp thời các chủ trương, định hướng của các Bộ: Quốc phòng, KH&CN, Y tế để định hướng nhiệm vụ; có sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Học viện và cơ sở - nơi trực tiếp ứng dụng các kết quả nghiên cứu; giữa cơ quan quản lý cấp trên với đơn vị chủ trì và cá nhân thực hiện trong việc xây dựng và quản lý nhiệm vụ KH&CN.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1854 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng của đầu tư phát triển và tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác đầu tư ở Việt Nam từ 1998 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuật 3,39 2,2 2,4 15,22 Trung học chuyên nghiệp 1,06 3,2 3,0 4,3 Cao đẳng trở lên 0,52 1,9 2,7 5,27 Tổng 100 100 100 100 Bảng 6: Trình độ chuyên  môn kỹ thuật (%) qua các năm (Nguồn: Tổng điều tra dân số Việt Nam các năm) Tính đến 2005, lao động qua đào tạo rất thấp (25%), lao động chưa qua đào tạo còn chiếm một tỷ lệ rất cao (75%). Đối với công nhân kỹ thuật (CNKT), tỷ lệ tăng dần từ 1989 trở đi. Giai đoạn 1999 đến 2005 có sự tăng đột biến (một phần do số liệu năm 2005 có tính cả số người có chứng chỉ nghề và sơ cấp). Trong thời gian đó, tỷ lệ số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp cũng tăng, nhưng tăng chậm hơn (+1,3%/6 năm). Đối với lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên, tỷ lệ này so với tổng số lao động (năm 2005: 44,4 triệu người) tăng nhanh nhất. Giai đoạn 1999 – 2005 tăng bình quân 0,43%. Như vậy, trong 5 năm gần đây có sự tăng nhanh về quy mô đào tạo cao đẳng, đại học trở lên đến 5,4 lần, so với tốc độ tăng trung bình thời kỳ 1989 – 1999 (0,08%). Tình hình đó đưa đến sự chuyển dịch theo xu hướng từ “hình thang thuận sang hình thang ngược”. Cấu trúc giữa công nhân kỹ thuật, trung cấp và cao đẳng, đại học trở lên trong thời gian 1979 đến nay được thể hiện qua bảng sau: Năm CNKT/1CĐ, ĐH THCN/1CĐ, ĐH Số lượng trên CNKT (nghìn người) Tỷ lệ CNKT trở lên trong LLLĐ (%) 1979 3,06 2,17 830,4 3,13 1989 2,13 1,74 1.827,2 5,21 1999 1,36 1,14 2.807,7 6,44 2005 2,88 0,82 1.1033 25,0 Bảng 7: So sánh các loại lao động theo trình độ CMKT qua các thời kỳ. (Nguồn: Tổng điều tra dân số Việt Nam các năm) Số liệu trong bảng  cho thấy: tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ công nhân kỹ thuật trở lên trong tổng lực lượng lao động (15 – 59 tuổi) đã tăng lên: 3,13% (1979); 5,21% (1989); 6,44% (1999) và 6 năm sau (2005) đạt 30,00%, lao động chân tay là 70,00%. Nếu duy trì mức gia tăng đó thì dự báo đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo  là 40%, trong đó công nhân kỹ thuật chiếm 332%. Trong khi ở các nước phát triển, tỷ lệ đó tương ứng là 72% và 28%. Tỷ lệ này phản ánh sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ của nền sản xuất và trình độ thấp của lực lượng lao động. Xu hướng chuyển dịch đó ở nước ta là có tiến bộ nhưng mức tăng của nguồn nhân lực tri thức này vẫn còn xa mới đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH. Về cấu trúc cao đẳng, đại học trở lên/ trung học chuyên nghiệp/ công nhân kỹ thuật qua 4 mốc thời gian trên: 1/2,17/3,06 (1979); 1/1,74/2,13 (1989); 1/1,14/1,36 (1999); 1/0,82/2,88 (2005) cho thấy, chỉ số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp giảm liên tục từ 2,17 (1979) xuống còn 0,82 (2005); chỉ số công nhân kỹ thuật có xu hướng giảm (1979 – 1999), sau đó 6 năm lại đây có tăng lên nhưng tăng với tốc độ chậm, năm 2005 chiếm chỉ số là 2,88. Có nghĩa là, cơ cấu các loại lao động này năm 2005, cứ một lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên thì chỉ có 0,82 lao động có trình độ trung cấp và 2,88 lao động có trình độ công nhân kỹ thuật (1:0,82:2,88). Sự dịch chuyển này, chỉ ra sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động trong nền kinh tế giai đoạn công nghiệp hóa hiện nay. Các chuyên gia quốc tế cho rằng, ứng với giai đoạn tiến bộ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam hiện nay, cơ cấu trình độ CMKT phải là 1:4:20 mới hợp lý. Về trình độ khoa học công nghệ chất lượng cao, Tính tới tháng 12-2000, Việt Nam đã có trên 1,3 triệu người có trình độ đại học – cao đẳng; trên 10.000 thạc sỹ; 13.500 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học (trong đó 610 tiến sỹ khoa học). Bình quân 190 cán bộ khoa học công nghệ/10.000 dân (năm 1989 là 105). Theo đó, cơ cấu tỷ lệ cán bộ (theo trình độ chuyên môn): 98% đại học, cao đẳng; 0,75% thạc sỹ; 0,97% tiến sỹ và tiến sỹ khoa học (tiến sỹ khoa học: 0,05%). Tỷ lệ đó thể hiện mối tương quan giữa các loại trình độ là: 1 tiến sỹ: 0,8 thạc sỹ: 105 đại học, cao đẳng. Đến 2006, Việt Nam đã đào tạo ra được trên 1,8 triệu cán bộ đại học, cao đẳng trở lên, trong đó có trên 14 nghìn tiến sỹ và 16 nghìn thạc sỹ. Số lượng cán bộ khoa học công nghệ trên đại học đã tăng từ 23,500 nghìn (2000) lên trên 20 nghìn (2006). Theo thống kê của Bộ Nội vụ, tính đến 11-2004, cả nước có khoảng 5.479 giáo sư, phó giáo sư được công nhận, trong đó số lượng giáo sư, phó giáo sư đang làm việc là 3.075, chiếm 56,1%. Mối tương quan giữa các loại trình độ ở thời điểm năm 2006 là: 1 tiến sỹ : 1,14 thạc sỹ : 128 đại học, cao đẳng trên cho thấy số lượng tiến sỹ và tiến sỹ khoa học có tăng lên nhưng tăng chậm hơn so với sự tăng lên của cả đội ngũ; những con số đó còn quá nhỏ bé so với yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tỷ lệ số người có trình độ trên đại học trên tổng số cán bộ giảng dạy hiện mới đạt 12,7% (cần đạt 30%). Đến cuối năm 2007, tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, bao gồm những người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai, các viện, trung tâm nghiên cứu và triển khai ứng dụng KH-CN của cả nước là gần 40.000 người. Ngoài ra, còn một số lực lượng nhất định trong tổng số gần 48.541 giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng và các chuyên gia, kỹ sư làm việc trong các doanh nghiệp cũng được thu hút vào các hoạt động KH-CN. Hiện nay, lực lượng này phân bố rất không đều giữa các vùng trong cả nước. Có tới 92,2% cán bộ có trình độ tiến sĩ và tiến sĩ khoa học tập trung ở các cơ quan trung ương và hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh (Hà Nội có 63,8% TS và 75,9% TSKH), (thành phố HCM có19,33% TS và 17,11% TSKH). Số tiến sĩ ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ chưa tới 1% . Trong số các giáo sư, phó giáo sư, có 86,2% ở Hà Nội và 9,5% ở thành phố HCM, các nơi khác còn lại là 4,3%. Nghiên cứu khoa học công nghệ và tham gia đào tạo là chức năng, nhiệm vụ chính của đội ngũ cán bộ KH-CN chất lượng cao, nhưng tỷ lệ nhân lực tham gia trực tiếp vào quá trình nghiên cứu khoa học và triển khai còn thấp. Cụ thể, ở đề tài cấp nhà nước chỉ có 30% cán bộ được tham gia, tương ứng đề tài cấp bộ có 48,1% và đề tài cấp cơ sở là 65,1%. Xét tổng thể thì số lượng cán bộ KH-CN được tham gia nghiên cứu khoa học mới đạt 65,1%, còn lại 34,9% không tham gia, đó là sự lãng phí lớn. Các đề tài nghiên cứu KH-CN của nước ta còn nhiều điểm chưa tiếp cận được trình độ khoa học công nghệ thế giới, khả năng hội nhập còn hạn chế. Cụ thể, việc tham gia hội thảo và các kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí khoa học có danh tiếng trên thế giới còn ít. Số bằng phát minh, sáng chế trong lĩnh vực KH-CN Việt Nam rất hạn chế. Theo tài liệu của Ban Khoa giáo Trung ương, thời kỳ 2001- 2005, Việt Nam chỉ có 11 đơn đăng ký sáng chế ở nước ngoài, trong khi đó Indonesia có 36, Thái Lan 39, Philipin có 85, Hàn Quốc có 15.000, Nhật Bản 87.620 Mỹ 206.710. Nếu căn cứ vào số lượng các công trình nghiên cứu khoa học được đăng trên tạp chí quốc tế và bằng sáng chế được quốc tế công  nhận thuộc 27 môn khoa học, thì Việt Nam chưa lọt vào danh sách của 50 nước được tính đến. Trong khi đó, Singapo, Malaisia và Thái Lan đã có tên trong danh sách này. Điều đó có nghĩa là, trình độ nguồn nhân lực KHCN nước ta còn rất thấp Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 của LHQ cho thấy, Việt Nam hiện có chỉ số phát triển con người HDI ở hạng trung bình, với chỉ số là 0,733. So với năm trước, Việt Nam đã tăng 4 bậc từ vị trí 109 lên vị trí 105 trong tổng số 177 nước. Việt Nam được xếp vào các nước có chỉ số phát triển con người trung bình, và liên tục được cải thiện gần 20 năm qua. Chỉ số HDI không đơn thuần chỉ phản ánh GDP/đầu người, mà mô tả một bức tranh khá hoàn chỉnh về sự phát triển của một đất nước. Cùng một mức HDI nhưng thu nhập giữa các nước có sự khác biệt lớn, điển hình là trường hợp Nam Phi và Việt Nam. Chỉ số HDI hai nước tương đương nhưng Nam Phi có thu nhập bình quân đầu người gấp hơn 3 lần Việt Nam. Việt Nam chỉ xếp thứ 122 trong số 177 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người. Tuy nhiên, so với nhiều nước có thu nhập thấp khác, Việt Nam đi đầu về các chỉ số tuổi thọ, tỉ lệ biết chữ ở người lớn. Xếp hạng tương ứng của Việt Nam ở hai chỉ số này là 56 và 57. Trong khi đó, nhìn vào tổng tỉ lệ đi học tiểu học, trung học và đại học, Việt Nam xếp thứ 121, với 63,9% người trẻ được tiếp cận với giáo dục.  Năm Giá trị HDI Thứ hạng 2003  (Báo cáo năm 2005) 0,704 108/177 2004 (Báo cáo năm 2006) 0,709 109/177 2005 (Báo cáo năm 2007) 0,717 109/177 2006 (Báo cáo năm 2007) 0,723 109/177 2007 (Báo cáo năm 2008) 0,733 105/177 Bảng 12: Chỉ số phát triển con người Việt Nam (Nguồn: Ngân hàng Thế giới) Các chuyên gia của LHQ chỉ rõ, trong các thành tố của HDI, thu nhập bình quân đầu người và tổng tỉ lệ đi học có thể biến đổi theo những thay đổi chính sách ngắn hạn. Phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người dân và đầu tư cho giáo dục là hai giải pháp có thể làm thay đổi đáng kể chỉ số HDI. Chỉ riêng việc cải thiện tỉ lệ nhập học của trẻ em và nâng cao dân trí cho người dân sẽ giúp Việt Nam tăng nhanh HDI 2.Thực trạng về quản lý đầu tư ở Việt Nam Một con đường vừa xây xong đã bị đào lên để làm hệ thống nước, những viên gạch trên vỉa hè vẫn còn giá trị sử dụng nhưng lại được thay bằng một lớp gạch khác, mới hơn nhưng chưa chắc đã bền. Hay một cây cầu đang xây dang dở nhưng tạm dừng vì hết kinh phí dẫn đến hiệu quả sử dụng gần như bằng không. Đấy là những câu chuyện gắn liền với đời sống hàng ngày của mọi người dân hiện nay. Một đồng vốn của Nhà nước bỏ ra, hiệu quả thu được bao nhiêu đều có thể được “cân đong” hợp lý nếu cơ chế quản lý, cách nghĩ và hành động dựa trên những nguyên tắc và nguyên lý khoa học và vì lợi ích toàn dân. Dàn trải, lãng phí, không hiệu quả là những tính từ quen thuộc gắn liền với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong nhiều năm nay. Nguyên nhân đầu tiên kể đến chính là năng lực quản lý yếu kém. Mặc dù cải cách công tác quản lý đầu tư từ ngân sách Nhà nước đã diễn ra trên mọi góc độ trong hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế từ phân cấp quản lý, đến phân bổ, quản lý giá và vấn đề cấp phát, thanh toán vốn đầu tư... Một vấn đề khác trong cơ chế quản lý là những năm qua, rất nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung. Nhiều điểm sửa đổi giúp cho việc hoàn thiện và chặt chẽ quy chế hơn nhưng lại gây khó cho cơ sở. Ví dụ, một chủ dự án vừa thực hiện xong một bộ hồ sơ lại phải tiếp tục thay bộ hồ sơ khác vì có một văn bản khác ra đời. Điều này đã làm chậm quá trình thực hiện, chậm quá trình giải ngân. Nếu là cơ chế phải có tính dài hơi, vì vậy, cần có sự chuẩn bị thấu đáo trong quá trình xây dựng cơ chế. Một vấn đề gây ra tình trạng quản lý đầu tư kém hiệu quả là chất lượng quy hoạch và thiếu công khai minh bạch thông tin. Việc quản lý đầu tư theo quy hoạch hiện nay là rất khó. Quy hoạch của Chính phủ cho phép các bộ ngành, địa phương tự phê duyệt. Như vậy, người có đủ thẩm quyền phê duyệt cũng có đủ thẩm quyền quy hoạch, gây ra những vấn đề bất ổn... 3.Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác đầu tư ở Việt Nam hiện nay 3.1.Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hiện nay 3.1.1.Công tác quản lý đầu tư phát triển ở cấp độ vĩ mô Dựa trên việc nắm bắt các đặc điểm của đầu tư phát triển, ở mức độ vĩ mô chính phủ đã có những cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển có nhiều đổi mới, góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế đầu tư. Do nguồn vốn đầu tư phát triển rất lớn, đầu tư phát triển có độ rủi ro cao đòi hỏi ở cấp độ vĩ mô phải xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch dầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn đầu tư, thực hiện đầu tư có trọng tâm trọng điểm.Cùng với đó phải đưa ra các phương pháp dự báo nhận diện rủi ro cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chính phủ đã ban hành các chính sách phù hợp huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư phát triển ngày càng được đa dạng hoá, cơ chế bao cấp trong dầu tư dần được xoá bỏ. Cùng với đó đã nâng cao hiệu quả sử dụng và nỗ lực cải thiện môi trường kinh tế chính trị cho đầu tư, củng cố lòng tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát triển luôn được cập nhật, đổi mới, phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý đầu tư và xây dựng, đồng thời tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều nghị định mới, văn bản luật mới được ban hành thay thế cho những nghị định không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và xu hướng toàn cầu hoá như (luật đất đai, luật tài nguyên, luật đầu tư, luật đấu thầu…). Cùng với đó, Nhà nước cũng thực hiện đổi mới trong công tác quy hoạch, thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư và là công cụ quản lý của nhà nước. Chất lưọng của công tác quy hoạch đã được chú ý, gắn kết với thực tế, bám sát với nhu cầu thị trường, khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Kiện toàn và tăng cường năng lực các bộ quản lý dự án đầu tư phát triển. Đa dạng hoá các hình thức và mở rộng các lĩnh vực cho đầu tư nước ngoài là một hướng đi mới mà Bộ kế hoạch và đầu tư đang nghiên cứu để kiến nghị Chính phủ nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Nhiều giải pháp cải thiện môi trường đầu tư đang được triển khai mạnh mẽ. Đối với vốn ODA, những khó khăn sẽ được tập trung tháo gỡ là giải phóng mặt băng, bảo đảm đối ứng trong các dự án, đấu thầu và sử dụng tư vấn, kiện toàn và tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dự án, cải thiện thủ tục hành chính và haì hoà hoá các thủ tuch đối với các nhà tài trợ. Các giải pháp thu hút vốn FDI được chú trọng đẩy mạnh là khâu quy hoạch, nhất là gắn quy hoạch ngành, sản phẩm với quy hoạch vùng, nâng cao chất lượng và tính khả thi của danh mục ưu tiên gọi vốn FDI. Liên quan đến giải pháp về cơ chế chính sách vĩ mô, Chính phủ yêu cầu các ngành chức năng khi soạn thảo, bổ sung, sữa đổi chính sách, luật phấp phải tính đến tác động của chúng tới FDI, bảo đảm tính nhất quán, thông thoáng hơn và áp sát hơn với cac quy định của tổ chức WTO. Các cơ chế chính sách ưu đãi về thuế, đất sẽ đặc biệt quan tâm đến các nhà đầu tư đã có dự án đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời cũng có nhưng quy chế riêng đói với các công ty xuyên quóc . Tuy nhiên trong quản lý công tác đầu tư ở cấp vĩ mô cũng còn một số hạn chế. Với một quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên thực tế hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của Việt Nam thì chưa cao. Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: “ Việt Nam, tồn tại một nghịch lý là nước nghèo nhưng không biết tiêu tiền hợp lý, gây lãng phí”. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA. Đầu tư trong nước là một nguồn lực tốt, thậm chí năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các DN tư nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đẩy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn còn hạn chế do tác động chung của cac nguôn lực khác: Cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho DN nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên không phủ nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo ra. Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thânViệt Nam lai chưa tạo điều kiện đầy đủ.Hình thức BOT đã được luật hoá nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán để tham gia xây dựng hạ tầng, để đạt được kí kết. Họ phải mất them 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Cuối cùng nước này đã rút dự án ra khỏi Vệt Nam. Chúng ta càn rút ra kinh nghiệm để tránh những sai lầm trong công tác quản lý đầu tư. 3.1.2.Công tác quản lý đầu tư phát triển ở cấp độ vi mô Cùng với cải thiện đáng kể của công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô thì ở các cấp độ doanh nghiệp công tác quản lý đầu tư ngày càng được chú trọng. Năm 2007 số lượng các công ty tư vấn giám tăng khoảng 10% so với năm 2006. Điều này chứng tỏ các nhà quản lý đã chú trọng rất nhiều đến chất lượng công trình và tiến độ công trình.Công tác lập dự án cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác đầu.Trong nhiều dự án có quy mô lớn và trình độ kỹ thuật phức tạp các công ty còn thuê chuyên gia nước ngoài để tư vấn lâp và thẩm định khả thi của dự án đầu tư.Các công ty cũng sẵn sang bỏ một số chi phí không nhỏ để thuê các tổ tư vân để lập ra các dự án có tính khả thi cao. Bên cạnh đó có một bộ phận doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa làm tốt quá trình đầu tư.Trong đó công tác đấu thầu là bất cập nhất.Nghiên cứu cho thấy: trong tổng số 400 hợp đồng thuộc 6 khoản tín dụng đã được phân tích, có sự tham gia của 1000 công ty,1500 người, 50 ngân hang và hơn 250 giao dịch.Dựa trên kết quả phân tích ban đầu này, 110 hợp đồng đã được chọn lựa để phân tích sâu không phát hiện thấy dấu hiệu bất thường trong công tác quản lý tài chính và giải ngân.Ngoài ra chất lượng của các công trình xây dựng chấp nhận được ở phần lớn trong số 40 công trình đã được kiểm tra.Tuy nhiên phân tích sâu hơn cho thấy có dấu hiệu liên kết giữa các nhà thầu trong hầu hết các cuộc đấu thầu đã thẩm tra. Đặc biệt nghiên cứu còn cho thâý hầu hết giá bỏ thầu đều nằm trong khoảng rất hệp . Điều đó có thể ký giải được trên cơ sở việc nhiêu nhà thầu thường căn cứ vào các định mức về giá đựơc quy định chính thức vì phần lớn là các DNNN. Nhiêu chủ đầu tư ở Việt Nam do chưa có các giải pháp, nhận dạng và phòng ngừa rủi ro thích hợp, nên khi đứng trước những biến động của thị trường lạm phát cao, giá nguyên vật liệu, lãi suất tăng cao ( kể từ cuối năm 2007) gần như đứng trước nguy cơ phá sản, nhiều công trình thi công bị bỏ dở dang do chủ đầu tư không huy động được nguồn vốn.Qua đó cồn thể hiện sự non kém trong năng lực quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp. 3.2. Đánh giá thực trạng sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển vào công tác quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam 3.2.1.Những mặt tích cực của công tác quản lý hoạt động đầu tư - Huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển trong những năm qua tăng khá. Hàng năm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khoảng 18%, nhờ đó, tỷ lệ vốn đầu tư so với GPD không ngừng gia tăng… Nguồn thu từ ngân sách nhà nước đã có tác động thu hút các nguồn vốn khác. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp, chính phủ dẫn thực thi nhiều cơ chế để tăng cường thu hút đầu tư từ khu vực khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài, huy động nguồn vốn công trái, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình… Góp phần tăng nhanh tổng nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển. - Cơ cấu đầu tư đã có sự chuyển dịch, tập trung vào các mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế -xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do các nguồn lực được huy động tốt hơn và tập trung đầu tư vào các công trình chủ yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế của từng vùnh, từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh tế nông thôn; đầu tư theo chiều sâu, bổ sung các thiết bị công tiên tiến trong các ngành công nghiệp, xây dựng và chuẩn bị xây dựng một số cơ sở công nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận tải, viễn thông, thuỷ lợi, công nghịêp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường,giảm nhẹ thiên tai. Vốn đầu tư tập trung cho phátt triển nguồn nhân lực, giáo dục khoa học công nghệ, môi trường, y tế xã hội, các công trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát triển kinh tế xã hội các tỉnh Tây Nguyên, Miền núi phía Băc, Đồng bằng sông cửu long, các tỉnh còn khó khăn, các vùng thường bị thiên tai bão lụt. - Có nhiều đổi mới trong cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng ,trong chỉ đạo điều hành của chính phủ. Cơ chế quản lý đầu tư đựơc cải tiến một bước quan trọng theo hướng giảm đáng kể sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đôí với hoạt động đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ đầu tư trong công việc quyết địmh tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả của các công trình đầu tư, đồng thời thực hiện phân cấp triệt để cho các bộ, ngành và các địa phương về thẩm định, quyết định, tổ chức quản lý thực hiện dự án đầu tư theo Nghị định số 07/CP của Chính Phủ. Trong hoạt động đầu tư, Nhà nước quản lý chặt chẽ đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và tao khung pháp lý cùng các hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu tư mà không trực tiếp quyết định đầu tư. Đồng thời Nhà nước thực hiện cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá, để thực hiện hiệu quả dự án đầu tư,giảm bớt sai sót, vi phạm thất thoát. Trong quản lý đầu tư, đã được tăng cường vai trò của hội đồng nhân dân, coi trọng sự tham gia giám sát của cộng đòng và các tổ chức xã hội. - Chúng ta đã khai thac tốt các nguồn đầu tư nứơc ngoài. Trong giai đoạn 2000-2007 huy động vốn nước ngoài gia tăng đáng kể, góp phần khắc phục tình trạng khan hiếm nguồn vốn trong nước, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong nước, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh còn tạo điều kiện tốt cho việc mở rộng thị trường trong nước, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường thế giới. Chính phủ tiêp tục nỗ lực để tạo môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn hơn, cởi mở minh bạch và thông thoáng hơn. Các bộ, ngành, địa phương đang thực hiện các biện pháp chỉ đạo hữu hiệu của thủ tướng Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững bằng nhiều biện pháp như bộ Kê hoạch và đầu tư đã triển khai công tác địa phương thực hiện việc điều hành đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách nhà nước nhằm phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát và các đoàn công tác thúc đẩy việc giải ngân nguồn vốn FDI. 3.2.2.Những mặt hạn chế của công tác quản lý hoạt động đầu tư Một là, chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế. Nhiều bộ, ngành địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn khác tham gia vào đầu tư, đặc biệt là khu vực thư nhân còn hạn chế rất lớn về quy mô, nhất là đầu tư những công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế ,chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây .Hầu hết các dự án dược cấp giấy phép gần đây đều có quy mô nhỏ; môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện nhiều,nhưng mức độ cạnh tranh so với các nước trong khu vực chưa cao và vẫn còn nhièu bất cập như: một số chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước,có tình trạnh cạnh tranh chưa hợp lý trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài giữa các địa phương. Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA đật thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80-90% mức đề ra. Sau 10 năm kêu gọi nguồn vốn ODA, đến nay mới giải ngân dược khoảng 13,5 tỷ USD trên tổng số 25 tỷ USD cam kết; tỷ lệ giải ngân giảm dần qua các năm, khối lượng giải ngân thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan như chậm giải phóng mặt bằng, các bộ ngành địa phương bố trí không đủ vốn đối ứng,năng lực của các ban ngành quản lý dự án ODA còn thấp, thủ tục chưa hài hoà trong và ngoài nước… Hai là, cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, các nguồn sử dụng vốn đầu tư chưa thật hiệu quả.Trong nông nghiệp: chủ yếu vẫn tập trung đầu tư vào thuỷ lợi (chiếm khoảng 705 vốn đầu tư vào ngành ), mà chưa chú ý đến đầu tư nhằm nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp như đầu tư phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, đầu tư cho hệ thống giống, cây trồng, vật nuôi,chế biến sản,mạng lưới cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp. Chưa quan tâm đúng múc đến công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn do chưa đầu tư tương xứng để phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, phát triển trang trại, làng nghề truyền thống nhằm chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp. Ngành thuỷ sản có mức tăng trưởng cao, nhưng đầu tư vào lĩnh vực này còn khiêm tốn.Trong công nghiệp: cơ cấu đầu tư cho công nghiệp chiếm 43% trong tổng số đầu tư toàn xã hội là thấp chưa đủ để phát triển cơ cấu lại ngành công nghiệp, chuyển dịch cơ câu sản phẩm công nghiêp để có thể hôi nhập, trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt, hiện tượng đầu tư theo phong trào, theo lợi nhuận trước mắt vẫn còn tồn tại, lãng phí vốn, tài nguyên làm giảm hiệu quả đầu tư.Chưa chú trọng đến công tác phát triển ngành cơ khí, đầu tư công nghiệp đóng tàu, chế biến máy công cụ, máy phục vụ nông nghiệp, chế nông sản.. Đầu tư chưa gắn chặt với chuyển giao công nghệ cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của một số lĩnh vực công nghiệp chế biến. Về giao thông vận tải: chủ yếu tập trung vào các ngành giao thông đường bộ (chiếm khoảng 70% vốn đầu tư của ngành). Trong đó lại tập trung chủ yếu hệ thống đường quốc lộ , hệ thống đường giao thông nông thôn, vùng kinh tế khó khăn chưa được đầu tư thoả đáng để phát huy hiệu quả chung; đầu tư phát triển phưong tiện vận tải còn thấp. Đầu tư cho lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực còn thấp ,chưa gắn chặt với chiến lược phát triển các ngành kinh tế, các vùng kih tế. Cơ cấu vùng:mặc dù những năm qua đã có cố gắng điều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa các vùng, nhưng tỷ lệ đầu tư cho vùng núi phía Bắc, duyên hải miền Trung, vùng tây nguyên vẫn còn khiêm tốn (chỉ ở mức 8-12% tổng mức đầu tư toàn xã hội) vốn đầu tư vẫn tập trung cao ở các vùng đồng bằng sông Hồng (khoảng 24%) các vùng Đông Nam bộ (27%). Đầu tư cho các liên vùng liên tỉnh còn kém, bị chia cắt bởi giới hành chính địa phương. Các công trình, dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giải ngân chậm,thời gian thực hiện dự án kéo dài, nợ quá hạn chưa trả được có xu hướng tăng, ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn; chất lượng công tác thẩm định các dự án vay vốn tại hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển còn nhiều bất cập so với yêu cầu, đặc biệt là sự dự báo sự biên động của thị trường, ảnh hưởng đến việc xác định hiệu quả của dự án. Ba là, công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Chất lượng các dự án quy họach phát triển kinh tê -xã hội còn nhiêù hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có đủ căn cứ vững chắc, nhất là các thông tin về dự báo, dự báo cá tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp.. Quản lý nhà nước về quy hoạch còn nhiều yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng thiếu một khung pháp lý cho viêc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về cả vấn đề liên quan đến công tác quy hoạch trong phạm vi cả nước, thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch. Nhiều cơ quan nhà nước, nhiều cá nhân có trách nhiệm chưa quan tâm đúng mức và chưa nhận thức đúng đắn về công tác quy hoạch, trách nhiệm đối với công tác quy hoạch chưa đủ tầm.Quy hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chưa được thể chế hoá, phương pháp lập quy hoạch chưa thống nhất, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình lập các quy hoạch ngành ,nên xảy ra tình trạng chồng chéo và không ăn khớp giữa các quy hoach ngành, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh; thiếu quy chế phê duyệt thống nhất. Nhận thức về quy hoạch trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế còn nhiều điểm chưa thống nhất; việc phân định nội dung cũng như phạm vi giữa các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội các vùng lãnh thổ,quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng còn nhiều điển chưa rõ. Các quy hoạch ngành, tuy chưa xác định rõ hơn những ngành thuộc loại quyhoach, nhưng ngay đối với các ngành sản phẩm chủ lực cần được lập quy hoạch cũng như chưa xác định ở cấp nhà nước. Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều nhưng trước hết phải kể đến công tác điều tra cơ bản chưa đủ, thông tin phục vụ nghiên cứu quy hoạch thiếu, lực lượng nghiên cứư quy hoạch còn hạn chế,công tác dự báo và xử lý liên ngành, liên vùng yếu, công tác chỉ đạo quy hoạch chưa đúng mức. Quy hoạch ngành và quy hoạch ngành quy hoạch vùng, quy hoạch của từng tỉnh ít gắn kết với nhau. Quy hoạch phát triển ngành chưa thể hiện cụ thể trên các địa bàn lãnh thổ của các tỉnh, thành phố. Mặt khác trong khi có một số quy hoạch thể hiện trên lãnh thổ nhưng quy hoạch tỉnh, thành phố chưa căn cứ vào quy hoạch ngành bố trí trên lãnh thổ của mình.Trong quá trình thực hiện quy hoạch , một số ngành, một số địa phương còn tuỳ tiện thay đổi mục tiêu của quy hoach sau khi đã được Thủ tướng chính phủ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nhiều quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyên phê duyệt đã không kịp triển khai các quy hoạch cụ thể, quy hoạch chi tiết để tiến hành đầu tư, dẫn tới tình trạng quy hoạch “treo”. Việc thẩm định, kiểm tra, giám sát quy hoạch còn yếu, có trường hợp quy hoạch có chất lượng vẫn được thông qua. Bốn là, bố trí đầu tư còn dàn trải. Nhìn chung , bố trí đầu tư còn rất dàn trải, phân tán thể hiện ở tất cả các nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Những năm gần đây đã có những tiến bộ bước đầu ( tập trung choc ac dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn cồn tình trạng bố trí vốn chua tập trungchủ yếu là đối các công trình, dự án nhóm B và C. Số công trình dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước sau nhiều năm trước. Năm 2001 khoảng 7000 dự án; năm 2002 tăng lên trên 8000 dự án ,năm 2003 tăng lên 10500 dự án (tăng khoảng 2500 dự án so với năm 2002). Nguyên nhân của tình trạng trên là; Về phía trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương: nhu cầu đầu tư còn có khoảng cách rất lớn so với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước, khi bố trí cụ thể bị căng kéo bởi quá nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, khi xem xét để quyết định dự án đầu tư mới chưa chấp hành đúng các quy định trong việc xết duyệt một dự án đầu tư. Nhiều dự án chưa được xem xét kỹ hiệu quả, tính khả thi thấp.Trên thực tế, số lượng dự án các Bộ, ngành và địa phương phê duyệt đã không phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. Ngoài ra việc bố trí phân bổ đầu tư cho các dự án không loại trừ có trương hợp do nể nang , do quan niệm vốn ngân sách phải chia đều giữa các huyện, xã dẫn đến tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải. Về trách nhiệm của cơ quan quản lý; còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Việc phân cấp quản lý trong đầu tư và xây dựng cho các bộ, ngành và địa phươngđã thực hiện tương đối mạnh. Tuy nhiên, cơ chế quản đầu tư và xây dựng còn thiếu các chế tài,những quy định cụ thể (kể cả nhưng biện pháp hành chính )nhằm kiểm soát và hạn chế được việc phê duyệt các dự án đầu tư tràn lan, kém hiệu quả. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa đáp ứng được các yêu cầu theo quy định, một mặt do đội ngũ cán bộ chưa được chuẩn bị chu đáo, cán bộ nghiệp còn thiếu kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế, chưa có hệ thống thông tin phục vụ hoạt động giám sát. Mặt khác, lãnh đạo ở một số bộ, ngành và địa phương cũng chưa nhận thức đầy đủ được vai trò của công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong quản lý đầu tư nói chung. Năm là, lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn còn lớn. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư và xây dựng vẫn còn là vấn đề nổi cộm hiện nay. Còn có những biểu hiện tiêu cực trong quản lý đầu tư và thi công công trình. Chất lượng ở một số công trình còn thấp, gây lãng phí và kém hiệu trong đâu tư .Theo kết quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án voi tổng số vốn đầu tư 20.736 tỷ đồng, đã phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng sai về vốn đầu tư là 1151 tỷ đồng, bằng khoảng 5,5%tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng 17 công trình do thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm, phát hiện sai phạm về tài chính chiếm khoảng 13%. Đó là chưa kể tới các lãng phí do chậm triển khai công trìnhvà nhất là sai sót trong chủ trương đâu tư mà hiện chưa có đánh giá thống nhất. Năm 2003 thanh tra nhà nứơc đã phối hợp với các bộ,ngành tiến hành nhiều hoạt động trong việcchấp hành các quy định đầu tư, đơn giá, khối lượng ,chủng loại, vật tư,thết bị…Trong số các dự án được thanh tra nhà nước thanh tra với số vốn là 8235 tỷ đồngthì tổng số sai phạm về tài chính là 1235 tỷ đồng chiếm trên 14% tổng số vốn. Nguyên nhân của tình trạng lãng phí thất thoát trong đầu tư có nhiều, thể hiện ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư, hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý đất đai chưa đồng bộ; chưa xác định rõ vai trò đại diện chủ sở hữu của nhà nước; phân công, phân cấp chưa rõ rang. Ngay từ khâu tính toán, xác định tổng mức vốn đâu tư cho dự án chưa quan tâm sâu sát tới việc tiết kiệm vốn đầu tư; nhiều dự án thiết kế phô trương hình thức không phù hợp với thực tế sử dụng. Nhiều dự án không tuân theo quy hoạch, đièu tra khảo thị trường không kĩ, chưa quan tâm sâu sát tới đầu ra của sản phẩm,dự án hoàn thành nhưng không phát huy được hiệu quả. Ngoaì ra trình độ năng lực quản lý, điều hành của các chủ đầu tư, của ban quản lý dự án, các tổ chức tư vấn cồn yếu kém cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. Sáu là, tình hình nợ đọng trong đầu tư và xây dựng còn là vấn đề bức xúc. Nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc hiện nay, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm.Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành và địa phương vẫn tiếp diễn và có hướng tăng (sau khi rà soát lại, số nợ vẫn còn trên 5 nghìn tỷ đồng, trug ương khoảng 2 nghìn tỷ đồng, địa phương khoảng 3 nghìn tỷ đồng) Nguyên nhân của tình trạng nợ đọng: Khả năng cân đối nguồn vốnn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn rất hạn hẹp, chỉ đáp ứng được từ 40-50% nhu cầu; do sự cấp bách phải thực hiện một số mục tiêu quan trọng của các địa phương, một số công trình, dự án thuộc các ngành thuỷ lợi, giao thông phải khẩn trương thi công trước mùa mưa lũ, phải vay mượn hoặc ứng trước vốn để thi công.Do đặc thù của các công trình, dự án thuộc hạ tầng giao thông vận, thuỷ lợi bên A,cơ quan cấp phát vốn,cơ quan kiểm toán khó kiểm tra, kiểm soát về khối lượng thi công, đơn giá và định mức trong dự toán được duyệt, nên nhiều nhà thầu tích cực ứng trước vay vốn để thi công. Các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành còn thiếu những chế tài, biện pháp cụ thể nhằm kiểm soát và hạn chế việc phê duyệt các dự án đầu tư tràn lan như hiện nay. Nhiều bộ, ngành và địa phương còn có tư tưởng nể nang, dễ dàng đối với các chủ đầu tư trong việc vay mượn vốn, cho phép các nhà thầu ứng trước vốn để thi công các công trình, dự án. Trong quá trình điều hành kế hoạch, phát hiện thực hiện vượt vốn, các cơ quan quản lý chưa kịp thời can thiệp để có biện pháp xử lý. Bảy là, các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay.Công tác quản lý đầu tư và xây dựng còn thiếu xót, buông lỏng. Mặc dù Chính phủ đã thực hiện phân cấp mạnh cho cấp bộ, ngành tỉnh và thành phố theo quy tại nghị định 07/CP; tuy nhiên, công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể. Cơ chế tín dụng đầu tư ưu đãi còn nhiều bất cập: đối tượng cho vay dàn trải, mở rọng quá mức,kéo dài thời gian trả nợ,dung ngân sách để trả nợ vay. Hiện tồn tại nhiều mức lãi suất trong tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, gây phức tạp trong quản lý, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Về hình thức tín dụng chủ yếu vẫn là cho vay theo dự án, hình thức hỗ lĩa suất đầu tư mới được áp dụng. Tám là, trong công tác đấu thầu vẫn còn nhiều tồn tại.Việc nhận thức công tác đấu thầu còn nhiều hạn chế cả về nội dung đấu thầu, quy trình, trình tự và các quy tắc khác. Một số cán bộ thuộc đơn vị chủ đầu tư, ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu kinh nghiệm nên còn nhiều hạn chế trong triển khai công tác đấu thầu. Nhiều chủ dự án chưa chủ động, chỉ dựa vào ý kiến của tư vấn, không xem xét kỹ kết quả trước khi trình duyệt, dẫn đến những sai sót không đáng có trong quá trong quá trình thực hiện.Cấp có thẩm quyền chưa dược chỉ đạo sát sao, quản lý công tác đấu thầu chưa chặt chẽ. Nhiều trường hợp không thực hiện đúng quy chế đấu thầu như mở thầu chậm, chỉ dịnh thầu vượt mức cho phép, tổ chức đấu thầu mang tính hình thức, đặc biệt là hình thức đấu thầu hạn chế…Chất lượng của công tác phục vụ đấu thầu(trực tiếp hoặc gián tiếp)như chất lượng của bao cáo nghiên cứu khả thi, thiêt kế kỹ thuật, tổng dự toán còn thấp. Một số trường hợp xây dựng dự toán quá thấp gây khó khăn trong quá trìng xét kết quả trúng thầu, phải chào lại giá, phải điều chỉnh dự toán làm kéo dài thời gian. Nhiều trường hợp thiết kế ban đầu không chuẩn xác, trong quá trình thực hiện phải thay đổi bổ sung dẫn đến làm gia tăng giá trị hợp đồng, kéo dài thời gian thực hiện. Đây cũng là yếu tố dãn tới lãng phí thất thoát trong đầu tư xây. Trong một số trường hợp chỉ định thầu thì dự toán cao là cỏ sở kí hợp đồng sẽ có thể dẫn tới thất thoát. Hiện nay còn thiếu nhiều các quy định về chế tài, trách nhiệ lập và duyệt đối với bao cao nghiên cưu khả thi, thiết kế kỹ thuật, dự toán. Các quy định trong một số hợp đồng thầu quá đơn giản,chưa đủ chặt chễ, chưa gắn trách nhiệm giữa chủ đầu tư và nhà thầu, dồn ép vào một phía, thiếu các điều kiện chi tiết gây khó khăn cho việc thực hiện. Chín là, tồn tại trong giám sát và đánh giá đầu tư. Công tác giám sát và đánh giá đầu tư chưa được tất cả các bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức và thực hiện nghiêm túc theo quy định; chỉ có khoảng 30% các đơn vị Bộ, ngành; 40% các tỉnh, thành phố có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Đối với việc đánh giá và giám sát đầu tư của các chủ đầu tủ còn rất hạn chế, chỉ khoảng 30% các chủ dự án sử dụng vốn ngân sách có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư.Chất lưọng báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài, chưa đủ thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo.Công tác giám sát còn chưa thường xuyên ,bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo cáo theo quy định, chưa cố tác dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được chú trọng. Mười là; thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp. Việc giải ngân, thanh toán khối lượng vốn đầu tư hoàn thành còn chậm, chủ yếu do các thủ tục thanh toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các chủ đầu tư và các ban quản lý công trình còn chậm. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yêu cầu, nên trong qua trình triển khai thi công đã phát sinh nhiều khối lượng không được chủ đầu tư bổ sung kịp thời , ảnh hưởng tới công tác thanh toán. Các chủ đầu tư, nhất là chủ đầu tư, các ban quản lý dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nứơc chưa khẩn trương cùng các nhà thầu hoàn tất các thủ tục nghiệm thu, đưa vào sử dụng trong nhiều năm nhưng không quyết toán công trình. 4. Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư Nâng cao hiệu quả huy động vốn - Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Đánh giá về hiệu quả kinh tế của đợt phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ đợt cuối năm 2005 và việc phát hành và sử dụng vốn phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ để có biện pháp điều chỉnh trong huy động vốn trong thời gian tới. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ nên được ưu tiên phát hành trong nước để thu hút mọi nguồn ngoại tệ trong dân cho đầu tư phát triển, lãi suất hấp dẫn trước hết phải để chính người dân được hưởng mà chưa cần phải phát hành trên thị trường quốc tế. Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Các tỉnh, thành phố cũng cần tránh tình trạng nôn nóng, hay đầu tư theo kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý chí. Chấm dứt tình trạng dự án chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa được bố trí kế hoạch vốn đầu tư, đã giao hay chỉ định thầu cho doanh nghiệp triển khai thi công, vay vốn ngân hàng cho đầu tư, để lại hậu quả nặng nề cho việc cân đối vốn ngân sách, dàn trải về hiệu quả sử dụng vốn. Rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong quản lý nguồn vốn tài trợ này. Vốn ngân sách nhà nước, vốn tài trợ quốc tế và các nguồn vốn khác cho vay xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ sinh viên nghèo vay vốn học tập, cho các mục tiêu chính sách xã hội khác,... chủ yếu cần được tập trung qua hệ thống ngân hàng chính sách xã hội để giải ngân cho các đối tượng theo được quy định. - Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đối với các ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nên xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỷ lệ không quá 49% vốn cổ phần của ngân hàng đó và một nhà đầu tư mua không quá 30% vốn cổ phần của một ngân hàng Việt Nam. Việc nâng tỷ lệ này, vẫn đảm bảo tỷ lệ chi phối của phía Việt Nam trong ngân hàng, mặt khác cho phép thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Hơn thế nữa, gắn liền với huy động vốn, chúng ta còn thu hút công nghệ ngân hàng hiện đại, trình độ quản trị điều hành ngân hàng tiên tiến, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. - Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm,... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức khác, như: thu cước phí bưu chính viễn thông, thu tiền điện nước, phí sử dụng cáp truyền hình, các hoạt động thu phí và thanh toán ổn định khác,... cũng cần chủ động và sẵn sàng phối hợp với ngân hàng trong sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức có khối lượng chi tiền mặt lớn, như: Bảo hiểm xã hội, các doanh nghiệp và tổ chức có đông người lao động,...sử dụng việc chi trả lương qua hệ thống ATM của ngân hàng. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt, quy định mức giá trị của các khoản thanh toán không được sử dụng tiền mặt. Về phía hệ thống ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ, phát triển mạng lưới máy rút tiền tự động ATM,... Thực hiện giải pháp này không những huy động được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. - Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều NHTM đa dạng hóa danh mục tài sản có, không chỉ cho vay trực tiếp, mà còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư trên thị trường tiền gửi, bán buôn vốn ngắn hạn cho các NHTM khác có điều kiện mở rộng cho vay an toàn, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, công trái và tín phiếu Kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp... Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giấy tờ có giá trên thị trường mở với Ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. - Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,... cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực - Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo ( chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ…) - Đầu tư cho đội ngũ lao động. - Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ. - Đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động, trả lương đúng, đủ cho người lao động…. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư. + Nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý, xây dựng các chế tài những quy định củ thể (kể cả các biện pháp hành chính) nhằm kiểm soát và hạn chế được việc phê duyệt các dự án đầu tư tràn lan kém hiệu quả. + Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn có năng lực, giàu kinh nghiệm và xây dựng hệ thống thông tin phục vụ hoạt đông giám sát. + Giám sát đầu tư một cách chặt chẽ trên tất cả các khâu từ khâu chuẩn bị đến khâu thi công và vận hành đầu tư. Đầu tư có trọng điểm. + Tập trung tất cả các nguồn vốn. Đặc biệt là nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước vào các dự án trọng điểm, dự án nhóm A, và cả những dự án nhóm B và C. + Chập hành đúng các quy định trong việc xét duyệt một dự án đầu tư, lựa chọn các tính khả thi cao để đưa vào thực hiện. Đầu tư nhiều hơn cho khoa học công nghệ +Về nhận thức, cần phải nhận thức thống nhất về đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, đổi mới việc xây dựng nhiệm vụ KH&CN. Để có nhận thức đủ và đúng về đổi mới việc xây dựng nhiệm vụ KH&CN phải nắm vững vị trí, vai trò, yêu cầu, nguyên tắc, nội dung của đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, đồng thời phải nắm chắc quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN cũng như hiểu biết sâu sắc về đặc thù của hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y - dược học. + Gắn kết chặt chẽ giữa các định hướng chiến lược phát triển khoa học và chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp với sự phát triển có chiến lược, có quy hoạch và kế hoạch nghiên cứu khoa học, xu thế phát triển công nghệ trong lĩnh vực y - dược học của Học viện, ngành y tế, các nước trong khu vực và trên thế giới. +Thường xuyên đổi mới, đề xuất và vận dụng những biện pháp mới phù hợp với thực tế trong quá trình xây dựng nhiệm vụ KH&CN các cấp nói chung và cấp nhà nước nói riêng, như: + Xây dựng nhiệm vụ KH&CN theo các chuyên ngành, tập trung vào những vấn đề khoa học mang ý nghĩa then chốt, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đồng đều của từng chuyên ngành, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của Học viện theo giai đoạn và từng năm. + Xây dựng nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước theo thứ tự ưu tiên, có trọng tâm, trọng điểm, trên cơ sở định hướng nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, Bộ KH&CN và chiến lược phát triển KH&CN của Học viện từng giai đoạn. +Hoàn thiện quy trình xây dựng nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước tại Học viện theo phương châm “thiết thực - đúng hướng - hiệu quả”. Khi xây dựng đầu vào phải xem xét kỹ việc đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn nhằm phục vụ kịp thời có hiệu quả cho công tác đào tạo, phòng và điều trị. + Nắm bắt kịp thời các chủ trương, định hướng của các Bộ: Quốc phòng, KH&CN, Y tế để định hướng nhiệm vụ; có sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Học viện và cơ sở - nơi trực tiếp ứng dụng các kết quả nghiên cứu; giữa cơ quan quản lý cấp trên với đơn vị chủ trì và cá nhân thực hiện trong việc xây dựng và quản lý nhiệm vụ KH&CN. KẾT LUẬN Trên đây chúng tôi đã trình bày về đặc điểm của đầu tư phát triển và tình hình quán triệt các đặc điểm này vào công tác quản lý hoạt động đầu tư.Bài tiểu luận của chúng tôi cũng đã giúp các bạn phần nào hiểu được vai trò của công tác quản lý tới hiệu quả đầu tư phát triển và các vấn đề có liên quan. Là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ đầu năm 2007, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu. Điều đó mở ra nhiều thời cơ, song cũng tạo ra những thách thức lớn đối với sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội của đất nước. Trước những đòi hỏi và yêu cầu mới phát triển đất nước, với vai trò là một trong những nhân tố quyết định nhất và là chủ thể thực hiện các sứ mạng lịch sử của đất nước, một câu hỏi lớn là làm thế nào để nguồn nhân lực Việt Nam có đủ trình độ, năng lực và sức mạnh để đẩy nhanh công cuộc đổi mới nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế có hiệu quả trong điều kiện khoa học-công nghệ tiến nhanh, hình thành nền kinh tế tri thức và cạnh tranh khu vực và toàn cầu ngày càng gay gắt. Do khả năng và thời gian có hạn nên bài tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thày và các bạn. Chúng em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế đầu tư của trường Đại Học Kinh Tế Dân 2. Các sách báo tài liệu các giáo trình liên quan tới đầu tư và chính sách của nhà nước. 3. Trang web 4. Trang web 5. Trang web 6. trang web 7. trang web

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26147.doc
Tài liệu liên quan