Đề tài Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Nền kinh tế thị trường tuy mới hình thành ở nước ta nhưng bước đầu đã vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua do nên kinh tế tập trung quan liêu bao cấp để lại thu được những thành tựu đáng phấn khích trong nền kinh tế. Tạo niền tin trong nhân dân vào sự nghiệp đổi mới , kiên định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn . Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực do nền kinht tế thị trường mang lại chúng ta cũng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó . Vì mới bước đầu hội nhập với nền kinh tế thị trường , do vậy việc nhận thức các mặt đối lập , những quy luật của nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết đối với chúng ta để có những biện phấp cần thiết giải quyết những mâu thuẫn này góp phần đưa đất nước phát triển hội nhập với các quốc gia phát triển trên thế giới , ổn định kinh tế , xã hội tiến lên xã hội chủ nghĩa .

doc33 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1068 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị, pháp lý, quan điểm, tư tưởng. Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản) với định hướng xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trường Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển nền kinh tế nước ta. Việc nhận thức rõ vấn đề này và giải quyết chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Vì vậy, đề tài: "Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” được lựa chọn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm hiểu sâu hơn những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay để từ đó tìm ra những phương hướng và giải pháp để khắc phục, từng bước phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Để phục vụ mục đích nghiên cứu đã đề ra, kết cấu của đề tài gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về mâu thuẫn và quy luật mâu thuẫn. Chương 2: Biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hạn chế mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quy luật mâu thuẫn Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Phương pháp phân tích (thông qua việc phân tích các nguồn tài liệu: giáo trình, sách, báo, tạp chí), phương pháp tổng hợp, phương pháp xử lý thông tin. Chương 1: Lý luận chung về mâu thuẫn và quy luật mâu thuẫn 1.1. Lý luận chung về mâu thuẫn 1.1.1. Khái niệm mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn của sự vật, của thế giới đã được rất nhiều nhà triết học trong lịch sử bàn đến. Chẳng hạn, thuyết âm dương ngũ hành của Trung Hoa đã đề cập tới các mâu thuẫn Âm Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả và Thổ. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêraclít cũng nhẫn mạnh mâu thuẫn của các hiện tượng, quá trình khách quan. Hêghen đề cập tới mâu thuẫn của tư duy. Nói chung, các quan niệm trên đều đã mô tả mâu thuẫn khách quan nhưng chưa làm rõ được sự chuyển hoá biện chứng của các mặt đối lập. Vì thế, khái niệm mâu thuẫn còn nặng về hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung biện chứng của các mặt đối lập. Đến triết học Mác - Lênin đã đưa ra một khái niệm khoa học về mâu thuẫn: Mâu thuẫn là sự thống nhất của các mặt đối lập. Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xó hội và tư duy. Sự tồn taị của các mặt đối lâp là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật hiện tượng Hai mặt đối lập tạo thành mầu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Như vậy, có hai điều kiện để xác định một mâu thuẫn biện chứng: Thứ nhất là, các xu hướng đối lập nhau. Thứ hai là, các xu hướng là điều kiện tồn tại và phát triển của nhau. Tuy nhiên, theo cách hiểu biện chứng, cần lưu ý không phải mọi cái đối lập đều tạo nên mâu thuẫn mà chỉ có những xu hướng đối lập nào là tiền đề tồn tại của nhau mới tạo thành mâu thuẫn. 1.1.2. Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của sự vận động và phát triển Phép biện chứng duy vật khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện tuợng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy của con người. Mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng và tồn tại trong suốt quá trình phát triển của mỗi sự vật. Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, mỗi quá trình của thế giới khách quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khác trong mẫu thuẫn xã hội và khác với mâu thuẫn trong tư duy. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả “ sự thống nhất” và “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau trong quá trỡnh vận động, phát triển của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với sự tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời ;sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. V.I.Lê Nin viết: “sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt dối lập bài trừ lón nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối” Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thỡ đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làmcho mâu thuẫn phát triển. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đó đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. V.I.Lê Nin viết “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiờn khụng cú sự thống nhất thỡ cũng khụng cú sự đấu tranh của các mặt đối lập. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tảch rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Một số loại mâu thuẫn. 1.1.3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành một sự vật nhất định. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa mặt đối lập của sự vật này với mặt đối lập của sự vật khác. Việc phân chia mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài cần có quan điểm lịch sử cụ thể, tuỳ phạm vi phân tích. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có vai trò hỗ trợ. Mâu thuẫn bên ngoài tự nó không thể phát huy được vai trò của mình, mà phải thông qua mâu thuẫn bên trong để phát huy tác dụng nhất định. Tuy nhiên, giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài có sự tác động qua lại với nhau. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn kia. 1.1.3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại gắn liền với sự vật từ khi sinh ra cho đến khi sự vật kết thúc. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự vật. Mâu thuẫn cơ bản là cơ sở hình thành và chi phối các mâu thuẫn khác trong quá trình phát triển của sự vật. Khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi về chất. Mâu thuẫn không cơ bản tồn tại bao giờ cũng gắn liền với mâu thuẫn cơ bản, và trong quá trình vận động, mâu thuẫn cơ bản có thể làm nảy sinh mâu thuẫn không cơ bản. 1.1.3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu Dựa vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của mọi sự vật. Nó có tác dụng quyết định đến các mâu thuẫn khác tồn tại trong cùng sự vật ở giai đoạn đó. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát triển của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu là biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Do đó, việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu chính là từng bước giải quyết mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu cũng có thể chuyển hoá cho nhau trong quá trình phát triển của sự vật. 1.1.3.4. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội mà lợi ích về cơ bản là nhất trí với nhau. Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn đối kháng theo nguyên tắc chung chỉ được giải quyết thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Còn mâu thuẫn không đối kháng, xu hướng phát triển đặc thù của nó ngày càng dịu đi. Mâu thuẫn này được giải quyết vẫn phải tuân thủ nguyên tắc là thông qua đấu tranh nhưng bằng phương pháp hoà bình. Như vậy, hiểu bản chất các loại mâu thuẫn để tìm ra cách giải quyết phù hợp là điều rất quan trọng trong thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra ồ ạt, kinh tế Việt Nam muốn không bị tụt hậu, muốn khởi sắc thì cần phải can đảm hoà mình vào trào lưu kinh tế chung toàn thế giới, đồng thời phải phát huy nội lực để tự đứng vững trước mọi tác động tiêu cực từ bên ngoài. Chương 2: Biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay 2.1. Tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn liền với cụng cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lónh đạo. Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức phức tạp. Nú thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sõu sắc tớnh quy luật khỏch quan với việc phỏt huy vai trũ chủ động, sáng tạo của chủ thể là Đảng, Nhà nước xó hội chủ nghĩa và nhõn dõn lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con đường và mô hỡnh phỏt triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp ứng yêu cầu "đi tắt, đón đầu" đang đặt ra như một yếu tố sống cũn. Sự hỡnh thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là cả một quỏ trỡnh tỡm tũi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, hoàn thiện và sâu sắc hơn. Nếu như trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương 6 khoá VI, Đảng ta mới đề ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xó hội, coi đây là vấn đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xó hội", thỡ đến Đại hội VII, Đảng đó khẳng định: "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xó hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tới Đại hội Đảng X, kinh tế thị trường lại được khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là mô hỡnh kinh tế tổng quỏt hay mụ hỡnh mới của chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam. Phỏt triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phỏt từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sõu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước. Trong đó cần chú ý những khía cạnh quy định tính tất yếu của việc lựa chọn mô hỡnh kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. 2.1.1. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quắ trình phát triển nền kinh tế đất nước . Như đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã phát triển tới trình độ khá cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Chủ nghĩa tư bản, mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh và tự thích nghi, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hoá để chuyển sang một giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hoá. Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Chính vì thế C.Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải được thay thế bởi một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. Đó chính là phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng thiêng liêng ngàn đời của nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12 năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường. Phê phán triệt để cơ chế tập trung , quan liêu , bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội VI là một mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . 2.1.2. Bản chất và những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Việc lựa chọn mụ hỡnh kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa khụng phải là sự gỏn ghộp chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xó hội, mà phải là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, đó đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xó hội. Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là mụ hỡnh kinh tế trong thời kỳ quỏ độ đi lên chủ nghĩa xó hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là "cỏi phổ biến", cũn kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là "cái đặc thù" của Việt Nam, phự hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Nói kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cú nghĩa đây không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liờu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa, bởi vỡ như trên đó núi, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội, vừa cú vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xó hội. Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phỏt huy vai trũ tớch cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xó hội húa lao động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, gúp phần làm giàu cho xó hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xó hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hỡnh phỏt triển trờn cơ sở quán triệt lý luận Mỏc - Lờ-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rừ: Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuõn theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xó hội, thể hiện trờn cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phõn phối. Núi cỏch khỏc, kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa chớnh là nền kinh tế hàng húa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh. Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là phỏt triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xó hội, nõng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến. Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cú nhiều hỡnh thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trũ chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cú sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xó hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hỡnh thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa thực hiện phõn phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xó hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xó hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xó hội đang trong quá trỡnh chuyển biến từ nền kinh tế cũn ở trỡnh độ thấp sang nền kinh tế ở trỡnh độ cao hơn hướng tới chế độ xó hội mới - xó hội xó hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lónh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xó hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xó hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trỡnh độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là nền kinh tế quỏ độ thuộc dạng đặc biệt: "tiến hoỏ - cải cỏch", khác biệt với các bước quá độ thông thường: "tiến hoỏ - tự nhiờn" từng diễn ra trong lịch sử. Về nguyên tắc, nền kinh tế thị trường hiện đại không thể ra đời tự phát như trong các thế kỷ trước. Đây phải là nền kinh tế thị trường được định hướng cao về mặt xó hội và phỏt triển theo xu hướng xó hội hoỏ - xó hội chủ nghĩa. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cũn đặc trưng bởi "thuộc tớnh kộp" hay "quá độ bậc hai": kết hợp đồng thời giữa bước quá độ sang nền kinh tế thị trường mà nhân loại đó đạt được với bước quá độ toàn nhân loại sang xó hội hậu cụng nghiệp, hậu thị trường và nền kinh tế tri thức theo định hướng xó hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh tế thị trường kiểu mới, có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xó hội chủ nghĩa. Nó hoạt động trên cơ sở kết hợp giữa sự nhận thức tính tất yếu khách quan với phát huy vai trũ năng động sáng tạo của chủ thể, nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn, đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới và trở thành quốc gia phát triển trong thế kỷ XXI. 2.1.3. í nghĩa của việc lựa chọn mụ hỡnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa Sự lựa chọn mụ hỡnh phỏt triển "Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa" là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập trung (đồng nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây dựng hệ thống kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa). Núi rừ hơn, đây không phải là nền kinh tế thị trường bất kỳ hoặc dập khuôn theo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (đó và đang bị phủ định). Đây phải là hệ thống kinh tế thị trường văn minh, đảm bảo định hướng cao về mặt xó hội, tuõn theo nguyờn tắc xó hội hoỏ - xó hội chủ nghĩa. Đây là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu và văn minh nhân loại. Chúng ta không chấp nhận kinh tế thị trường như là một thứ cụng nghệ – kỹ thuật thuần tuý, hay như một phương thức đơn thuần, thủ đoạn tạo ra của cải và sự giàu có cho tư bản, mà phát huy những thế mạnh của kinh tế thị trường, chủ động hướng kinh tế thị trường phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân, sự phồn vinh và hạnh phỳc toàn xó hội. Để đạt điều đó cần có sự can thiệp mạnh của Nhà nước xó hội chủ nghĩa và toàn xó hội. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là thấm nhuần sự kết hợp giữa tớnh tất yếu thời đại với nguyện vọng tha thiết của một dõn tộc yêu tự do, độc lập và luôn mong muốn sống trong hoà bỡnh, hạnh phỳc, với cỏc giỏ trị truyền thống dõn chủ, nhõn văn và tương thân tương ái. Đó hoàn toàn không phải là sự thổi phồng đặc điểm dân tộc hay chủ ý đi theo "con đường riêng", mà là sự vận dụng sáng tạo quy luật chung vào những hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Khẳng định quyết tâm và vai trũ sỏng tạo rất cao của kiến trỳc thượng tầng chính trị - pháp luật là Đảng Cộng sản, Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa nhằm tạo lập thể chế kinh tế thị trường văn minh và theo định hướng xó hội chủ nghĩa. Việc nhận thức và vận dụng cỏc quy luật khỏch quan cũng như vai trũ lónh đạo của chủ thể và kiến trúc thượng tầng chính trị – pháp lý xó hội chủ nghĩa là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành cụng quỏ trỡnh xõy dựng nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mọi sự vụ hiệu hoỏ vai trũ của Nhà nước trong kinh tế thị trường sẽ chỉ dẫn tới sự hỗn loạn và bất ổn định về kinh tế - chính trị - xó hội. Thực tế thế giới đó khẳng định điều đó. 2.2. Biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay 2.2.1. Mõu thuẫn giữa cỏc thành phần kinh tế Trong thời kỡ quỏ độ lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam, Đảng ta đó xỏc định nước ta tồn tại năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.Các thành phần kinh tế mâu thuẫn với nhau vỡ mỗi thành phần kinh tế cú đặc điểm riêng về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, như kinh tế nhà nước sở hữu là công cộng, kinh tế tư nhân sở hữu là tư nhân. Trên cơ sở đó, ở mỗi thành phần kinh tế ngoài các quy luật kinh tế chung cũn cỏc quy luật kinh tế đăc thù hoạt động, chi phối mỗi thành phần. Như vậy, mỗi thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế khác nhau, có các lợi ích khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu. Canh tranh là động lực quan trọng để cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi cho canh trạnh như cho giải thể các xí nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ và dần cổ phần hóa các doanh nghiêp nhà nước, hoàn thiện luật đầu tư, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân theo đúng pháp luật Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế, đăc biệt mâu thuẫn giữa một bên là kinh tế nhà nước kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nứơc với một bên là tính tự phát tư sản và tiểu tư sản của kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể là không thể điều hũa. Giải quyết mõu thuẫn theo hướng các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ngày càng chiếm ưu thế là nhiệm vụ căn bản của thời kỡ quỏ độ lên chủ nghĩa xó hội. Theo đó Đảng chủ trương kinh tế nhà nước phải giữ vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiờn, giải quyết các mâu thuẫn đó như thế nào là việc không đơn giản. Những mâu thuẫn này không thể được giải quyết bằng biện pháp hành chính đơn thuần, bằng ý trớ chủ quan, bằng bạo lực mà phải bằng cỏch tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ấy phát triển mạnh mẽ có lợi cho quốc tế dân sinh, hướng các thành phần kinh tế tư nhân đi vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước thông qua nhiều hỡnh thức và mức độ khác nhau: hiệp tác, liên kết, liên doanh: bằng việc nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. 2.2.2. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với định hướng xó hội chủ nghĩa. Trong xu thế toàn cầu húa và khu vực húa nền kinh tế thế giới, Việt Nam khụng thể nằm ngoài dũng chảy của thế giới. Do đó Đảng ta đó chủ trương phát triển nền kinh tế quốc dân phát triển theo kinh tế thị trường nhưng có định hướng xó hội chủ nghĩa chứ khụng phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường đó kớch thớch hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện cho hoạt động tự do của họ phát triển, nhờ áp dụng khoa học kĩ thuật cao lên đó nõng cao năng suất thỏa món nhu cầu của người tiêu dùng. Nhưng mục đích hoạt động của cỏc doanh nghiệp là vỡ lợi nhuận tối đa, vỡ vậy đó lạm dụng tài nguyờn của xó hội, gõy ụ nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xó hội khụng được đảm bảo. Sự điều tiết của kinh tế thị trường mềm dẻo hơn sự điều tiết của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thớch ứng kịp thời giữa sản xuất xó hội với nhu cầu xó hội. Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh đó kớch thớch cỏc thành phần kinh tế phỏt triển, nhưng bên cạnh đó nó cũng có tính đào thải đối với các doanh nghiêp làm ăn thua lỗ dẫn tới phá sản. Cùng với đó là làm tăng tỉ lệ thất nghiệp, sự gia tăng cỏc tệ nạn xó hội, sự phõn húa giàu nghốo, sự phõn cực về của cải, tỏc động xấu đến đạo đức và tỡnh người. Sự tác động của cơ chế thỡ trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó khụng tự động mang lại những giỏ trị mà xó hội muốn vươn tới. Edgar Morin đó nhận xột chua chỏt: “Trong cỏc nền văn minh đươc gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tỡnh trạng kộm phỏt triển thảm hại về văn hóa, trí nóo, tỡnh người”. 2.2.3. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học Mác - Lênin, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật , lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, cần thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để để phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển của xã hội . Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, các cuộc chuyển đổi kinh tế mà các cuộc chuyển đổi kinh tế ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, thể hiện tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh . Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội . Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa học, đến sự anh minh của trí tuệ là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, tạo điều kiện và cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển. Không thể ăn đói mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết chủ nghĩa xã hội, chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khẳng định cái mới, đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm cả ý nghĩa phủ định, gạt bỏ cả quan niệm cũ sai lầm về điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước đây, chúng ta thiếu quan tâm tới vai trò của trí tuệ, khoa học đến việc tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Bằng chứng là một thời chúng ta coi trọng không đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học trong môi trường tương quan với đội ngũ những người lao động khác. Do thế, hậu quả tất yếu xảy ra là khoa học ở nước ta chậm hoặc không có điều kiện phát triển, đất nước không thoá khỏi nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu và cũng không thể nói tới công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . 2.2.4. Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường . Trước đây, người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là: sở hữu chủ nghĩa xã hội tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi hoàn cảnh lịch sử khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau: sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để đưa thẳng lên sở hữu toàn dân, còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên, mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng việc hợp tác hoá hai hình thức. Sở hữu đó là đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công và nông dân tập thể. Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ bao gồm hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm nhiều hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước, sở hữu cá thể và sở hữu hỗn hợp . Trong các hình thức sở hữu này , khái quát lại chỉ có hai hình thức sở hữu đó là : công hữu và tư hữu, còn các hình thức sở hữu khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. Ở đây mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều hình thức biểu hiện về trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý . Về sở hữu toàn dân. Trước đây , người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu nhà nước. Nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc tế dân sinh. Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan có quỳên lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là đại diện đối với tài sản sở hữu toàn dân . Về sở hữu nhà nước . Trong thời kỳ bao cấp trước đây, không chỉ có nước ta mà còn ở các nước khác trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thường đông nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà trong một thời gian khá dài, người ta thường bỏ qua sở hữu nhà nước chỉ quan tâm đặc biệt tới sở hữu toàn dân với chế độ công hữu dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân gắn kết với khu vực kinh tế quốc doanh mà chúng ta ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niền tin cho rằng chỉ có như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân không trở thành sở hữu của một chủ thể cụ thể nào cả. Trong xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu nhà nước ở nước ta có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở hữu đó, ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước . Về sở hữu tập thể . ở nước ta trước đây, sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ) với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy, với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặcchuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông hàng hoá ở nước ta đã diễn ra hêt sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự nhập nhằng giữa quyền sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện naycần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy, sở hữư tập thể mới có thể trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả. Chúng ta biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng có đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội, nhưng nó là một hình thức sỏ hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của nền kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển đến một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của nề kinh tế hàng hoá các nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các hộ sản xuất phải liên kết với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những người lao động lại với nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta hiện nay. 2.2.5. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa . Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải lấy con người làm điểm xuất phát . Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ giữa con người với con người đều thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Trong kinh tế hàng hoá, quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và phát triển trong một điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết điểm của nó như cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ. Trong năm qua , kinh tế thị trương ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn. Đây là những kết quả rất đáng mừng, đáng được phát huy. Nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên chủ nghĩa xã hội từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội. Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cần đề cập tới: kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho con người phát triển hoàn toàn, toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự chạy đua, cạnh tranh quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động, sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc phân tích, tổng hợp để thích nghi và hành động có hiệu quả. Từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm giảm đi tính trì trệ và chậm chạp vốn có của người lao động trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời con người Việt Nam. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp cho con người mở rộng các quan hệ mua bán, giao lưu, từ đó hình thành những chuẩn mực văn hoá, đạo đức theo tiêu chí của thị trường như chữ tín trong chất lượng và giao dịch. Đây cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giải trí của con người Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng kinh tế thị trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Có những lúc, những nơi, kinh tế thị trường không những làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại, còn làm tha hoá bản chất con người biến con người trở thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân , sẵn sàng chà đạp lê nhân phẩm, đạo đức, luân lý. Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường có nhiều khuyết tật, hạn chế gây ra những tác động xấu. Nhưng phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn ở nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội . Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện xây dựng, phát huy những nguồn lực của con người, vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại con người. Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản. Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định: sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Như vậy, Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời phải xác nhận đầy đủ quyền tự chủ của các đơn vị sản xuất khinh doanh. Thực hiện tốt những vấn đề này sẽ phát huy được những tác động to lớn cũng như ngăn ngừa những hạn chế , khắc phục được những tiêu cực , khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc như nội dung của Nghị quyết trung ương V đã nêu. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết các mâu thuẫn đã nêu trên. 2.2.6. Mâu thuẫn giữa cơ chế cũ và cơ chế mới. Trải qua một thời gian dài nền kinh tế được điều khiển bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế hoạt động theo mênh lệnh bắt buộc đã tạo ra một phong cách làm việc trì trệ, thiếu trách nhiệm, sản xuất đình đốn. Chính vì vậy, khi chuyển sang nền kinh ttế thị trường, nền kinh tế mở đã khiến nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Các hoạt động kinh tế vẫn còn mang nặng tính tập trung quan liêu bao cấp. Các hoạt động thông qua các cơ quan trung gian nhà nước vẫn còn đầy dẫy những thủ tục phiền hà gây tốn thời gian vô ích, cán bộ quan liêu cửa quyền dẫn đến hạn chế sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động của các cơ quan nhà nước khi chuyển sang kinh tế thị trường không bắt kịp nhịp độ sản xuất do máy móc . Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hạn chế mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Theo quan điểm của Mác: các quy luật khách quan đều tồn tại và phát huy tác dụng một cách khách quan và không phụ thuộc vào ý chí của con người. Vì vậy, con người không thể sáng tạo thêm quy luật và con người cũng không có khả năng thủ tiêu các quy luật khách quan. Vận dụng vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta một lần nữa khẳng định những mâu thuẫn của nền kinh tế tồn tại một cách khách quan và tuân theo quy luật của phép biện chứng duy vật. Do vậy, muốn giải quyết mâu thuẫn ở Việt Nam hiện nay chúng ta phải dựa vào quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập. Trong phạm vi bài tiểu luận, tôi xin mạn phép đưa ra hướng giải quyết cụ thể cho một mâu thuẫn đó là: mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Khi đề cập tới mâu thuẫn này chúng ta phải khẳng định đây là nội dung chủ yếu của các học thuyết kinh tế, của các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Một mục tiêu chiến lược CNH-HĐH ở nước ta là tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, lâu dài, đi kèm với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều cần thiết là gia tăng đáng kể về thu nhập do tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy bởi việc bộ phận lao động được thu hút vào một số nghành có năng xuất lao động cao đi liền với sự giảm sút tỷ lệ thu nhập có 20 , 40 hoặc 60% dân số ở phía dưới. Vấn đề đặt ra gây nhiều tranh cãi là phải chăng sự bất bình đẳng cùng với quá trình phát triển là không tránh khỏi, hay là một vấn đề lựa chọn chính sách. Cần phải thấy trong luận điểm mới về bất bình đẳng nói riêng và trong qua trình tăng trưởng kinh tế bất bình đẳng rất phu thuộc vào mô hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia gồm những lực lượng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chi phối bất bình đẳng và cả chiến lược phát triển kinh tế của nước đó. Ngày nay, trong giới nước ngoài cho rằng :Không có mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nhận thức này có tính tiến bộ bởi: ở nhiều nước trong quá trình phát triển kinh tế của mình đạt được tăng trưởng kinh tế cao và công bằng xã hội luôn luôn được cải thiện như: Đài Loan, Hàn Quốc, hay như ở một số nước ASEAN sau này. Mặc dù vậy, còn nhiều nước đang phát triển loay hoay giải quyết tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội hoặc chưa gắn liền phảt triển kinh tế với công bằng xã hội. Hay cái gọi là tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội lại gắn liền với khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ. Ở các nước tư bản thực chất là biểu hiện ra bên ngoài sự mất cân đối của các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như cuộc khủng hoảng kinh tế thừa khách quan nhất đó là hệ quả của việc tập trung quá mức tài sản, vốn liếng trong tay một số người giữ vai trò làm cung cho nền kinh tế, trong khi người tiêu dùng với quy mô thu nhập thấp hơn nhiều và với nhu cầu có khả năng thanh toán còn hạn chế của họ cái quyết định quy mô thực sự của thị trường đóng vai trò là người thực hiện cầu. Mất cân bằng cung-cầu là không thể tránh khỏi và đó là căn bệnh nan y của chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn khách quan khẳng định ,với bề dày kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng hơn 70 năm , bản lĩnh chính trị vững vàng , nhân quan chính trị sâu sắc , sự nhạy cảm trước thời cuộc , Đảng ta đã xác định hướng đi đúng đắn , tiến bộ và cách mạng trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta trong thế kỷ XXI và gắn liền tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội . Để thực hiện thành công mục tiêu này , trước hết cần thấm nhuần quan điểm chỉ đạo bao chùm: kiên định con đường phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa , có mục tiêu dân giàu nước mạnh , xa hội công bằng , dân chủ ,văn minh .Đây vừa là mục tiêu , vừa là phương tiện để thực hiện gắn bó keo sơn giữa giai cấp công nhân , nông dân và lực lượng tri thức . Nói khác đi , căn cứ liên kết giai cấp , tránh phân hoá giai cấp là nội dung cốt lõi và tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội ở Việt Nam . Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội là thực hiện liên tư tưởng chỉ đạo của quá trình chỉ đạo đổi mới ở nước ta được khởi xướng tại Đại hôI VI , liên tục khẳng định tại Đại hội VII, VIII .Đó là đổi mới kinh tế là trọng tâm , từng bước đổi mới chính trị . Từ quan điểm chỉ đạo của nước ta là toàn diẹn, đồng bộ , cần tiếp tục đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thể chế phát triển ở nước ta, trong đó tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường đi đôi nâng cao và tăng trưởng, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy nhà nước là then chốt . Việc hoạch định chính sách kinh tế xã hội trong thực tiễn phải hợp lý đó là : khi thực hiện phương hướng chính sách kinh tế và chính sách xã hội hoà quỵên với nhau như là điều kiện quyết định để đảm bảo phát triển kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Trên cơ sở lấy con người làm trọng tâm , không ngừng phát huy , bồi dưỡng, nâng cao nguồn vốn con người; cân nhắc thực hiện và hạn chế dần các chính sách kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trước mặt nhưng không có hại cho công bằng xã hội về lâu dài. Sử dụng hợp lý chính sách xã hội, căn cứ vào hoàn cảnh kinh tế tài chính đất nước , phù hợp với truyền thống nhân nghĩa, đạo lý tốt đẹp của dân tộc, tinh thần bao dung nhân ái của nhân dân, của Chủ tịch Hồ Chí Minh; kiên quyết thực hiện các chính sách kinh tế không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có hại cho công bằng xã hội . KẾT LUẬN Nền kinh tế thị trường tuy mới hình thành ở nước ta nhưng bước đầu đã vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua do nên kinh tế tập trung quan liêu bao cấp để lại thu được những thành tựu đáng phấn khích trong nền kinh tế. Tạo niền tin trong nhân dân vào sự nghiệp đổi mới , kiên định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn . Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực do nền kinht tế thị trường mang lại chúng ta cũng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó . Vì mới bước đầu hội nhập với nền kinh tế thị trường , do vậy việc nhận thức các mặt đối lập , những quy luật của nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết đối với chúng ta để có những biện phấp cần thiết giải quyết những mâu thuẫn này góp phần đưa đất nước phát triển hội nhập với các quốc gia phát triển trên thế giới , ổn định kinh tế , xã hội tiến lên xã hội chủ nghĩa . TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Triết học Mác Lênin dùng trong các trường Đại học và cao đẳng khối kinh tế, tập II, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. 2. Triết học Mác Lênin dùng chung cho các trường Đại học, cao đẳng, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội 2000. 3. Văn Kiện Đại hội IX, NXB sự thật, Hà Nội. 4. Văn kiện đại hội lần thứ 3 ban chấp hành trung ương khoá VIII, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. 6. Nguyễn Tuấn Hùng: kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa mõu thuẫn và phương hướng giải quyết, nghiờn cứu lý luận, số 8-2000. 7. Giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện tốt giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xó hội ở nước ta, triết học số 5 (111) - 10/1999. 8. Đỗ Nguyên Phương: về hiện tượng phân tầng xó hội ở nước ta hiện nay, nghiên cứu trao đổi, số 3-1999. 9. Phạm Trung Thành: phương pháp thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học. Trong sinh viên, NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội 2000. 10. Mai Hữu Thực về đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tạp chớ Cộng sản số 4/ thỏng 2-2000. 11. Thời bỏo kinh tế Việt Nam, số 146 (712) - thứ 4- 6/12/2000, số 151 (717) thứ 2-18/12/2000. MỤC LỤC Nguyễn Thị Thanh Nga CH 17Q TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích những mâu thuẫn trong nền KTTT định hướng xó hội chủ nghĩa ở VN hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9002.doc
Tài liệu liên quan