Đồ án Nghiên cứu đánh giá hiện trạng quản lý chất thải rắn công nghiệp tại KCX Tân Thuận

Để đặt mục tiêu đặt ra về quản lý CTRCN trong hiện tại và những năm tới, KCX Tân Thuận cần thiết lập một hệ thống kiểm soát thống nhất, chặt chẽ và liên tục tất cả các nguồn CTRCN phát sinh, ngay từ lúc sinh ra đến khâu xử lý cuối cùng. Hoàn thiện cấu trúc quản lý, nâng cao trình độ và trang bị đầy đủ phương tiện, thiết bị cho lực lượng quản lý KCX làm tốt vai trò của mình . Ban quản lý KCX cần phải nghiên cứu xác định mức độ tham gia của thành phần tư nhân vào quản lý CTRCN–CTNH, khâu nào Nhà nước phải quản lý, khâu nào tư nhân được phép tham gia theo pháp luật hiện hành. Quy định các điều kiện tham gia vào quản lý CTRCN–CTNH trong đó làm rõ quy hoạch về thu gom, vận chuyển, xử lý và tiêu hủy CTRCN–CTNH , đề xuất khu liên hiệp xử lý CTRCN–CTNH. Các chính sách ưu đãi về kinh tế cho những các nhân, tổ chức đầu tư và quản lý CTRCN–CTNH. Một điều rất quan trọng là cần quan tâm đến các công tác tái sinh, tái chế CTRCN, xây dựng các chương trình giáo dục cộng đồng về việc khuyến khích người dân sử dụng các sản phẩm được sản xuất từ các nguyên liệu tái chế .

doc94 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 816 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nghiên cứu đánh giá hiện trạng quản lý chất thải rắn công nghiệp tại KCX Tân Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các công ty xử lý chất thải thì hệ thống thu gom chất thải tại đây trở nên phức tạp với hàng loạt các công ty có hợp đồng thu gom với các công ty môi trường từ bên ngoài. Trong công tác quản lý thu gom, chưa ban hành cụ thể quy phạm kỹ thuật đối với phương tiện thu gom, vận chuyển và phương tiện lưu trữ tạm thời, chưa trang bị các thiết bị phòng chống sự cố trong quá trình vận chuyển CTRCN. Có thể nhận thấy rằng, với khối lượng CTRCN phát sinh hằng ngày rất lớn, trong khi lực lượng thu gom chính quy chưa được thành lập, năng lực của lực lượng thu gom tư nhân chưa cao thì nhu cầu thu gom hiện nay chưa được đáp ứng. Điều này sẽ dẫn đến hậu quả thất thoát CTRCN vào môi trường, khả năng gây ô nhiễm môi trường do CTRCN là rất lớn. Vì vậy, để phục vụ thực tiễn cho công tác quản lý chất thải tại KCX Tân Thuận thì Hepza cần nhanh chóng quy hoạch hệ thống thu gom CTRCN, CTNH đồng bộ với việc quy hoạch những hệ thống quản lý có liên quan. Hoạt động vận chuyển Hiện tại, chưa có một quy hoạch cụ thể nào cho hoạt động vận chuyển CTRCN, CTNH tại KCX Tân Thuận. Thị trường vận chuyển chất thải tại đây hình thành một cách tự phát theo nhu cầu của xã hội và chủ yếu do các công ty tư nhân đảm trách. Do đó, để đánh giá hiệu quả của công tác vận chuyển CTRCN, CTNH tại đây là rất khó vì không có cơ sở cũng như chưa có những số liệu điều tra đầy đủ về hoạt động này. Việc kiểm soát hoạt động của các công ty này là vô cùng khó khăn. Nguồn gốc và nơi tập kết cuối cùng của chất thải chỉ có đơn vị vận chuyển nắm bắt. Việc không kiểm soát được hoạt động vận chuyển CTRCN đồng nghĩa với nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do công tác xử lý tiếp theo không đúng quy cách là rất cao. Hình 5.2 Phương tiện vận chuyển CTRCN của các công ty tư nhân Trong quá trình khảo sát tại đây thì tác giả nhận thấy các phương tiện vận chuyển vẫn mang tính tự phát, không đảm bảo nguyên tắc vệ sinh môi trường (sử dụng các xe tải thông thường không có thùng xe để bảo đảm CTRCN không rơi vãi trên đường vận chuyển) Hoạt động tái sử dụng, tái sinh và tái chế Tại KCX Tân Thuận thì hoạt động này đang đồng thời có sự tham gia của nhiều đơn vị: chủ doanh nghiệp, lực lượng thu mua và hệ thống nhà máy tái sinh tái chế. Thành phần CTRCN được tách ra để tái sinh tái chế chủ yếu là giấy carton, nhựa cứng, kim loại, cao su, vải, thủy tinh. Phần chất thải không có giá trị tái chế được đưa đi chôn lấp tại các bãi chôn lấp. Tỷ lệ CTRCN, CTNH đang được tái chế không cao. Tùy theo từng loại hình sản xuất công nghiệp mà tỷ lệ chất thải có thể được tái chế khác nhau. Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã đưa ra một đánh giá về khả năng tái chế của CTRCN từ các ngành công nghiệp như trong bảng sau: Bảng 5.3 Đánh giá tỷ lệ % khả năng tái chế chất thải rắn công nghiệp STT Ngành công nghiệp % Khả năng tái chế % Tái chế thực tế 1 Chế biến thực phẩm 60 - 80% 10 - 40%: làm thức ăn gia súc, phân bón 2 Dệt nhuộm, may mặc 80 - 90% <30%: làm giẻ lau, tấm chà chân 3 Thuộc da 50 - 60% <10%: làm các vật dụng bằng da 4 Thủy tinh >90% 70 - 90% 5 Giấy và bột giấy 100% 80 - 90% 6 Gỗ 80 - 95% 80%: làm chất đốt 7 Cơ khí, xi mạ 90 - 100% 90% 8 Luyện kim 70 - 90% 80% 9 Nhựa- plastic 100% 90% 10 Điện tử 50 - 80% 40% 11 Vật liệu xây dựng >90% 50% ( Nguồn: " Nghiên cứu một số biện pháp thích hợp nhằm quản lý CTRCN và CTNH ở Tp.HCM", Trung tâm Công nghệ Môi Trường ENTEC, 2000 ) Do tại KCX Tân Thuận chưa có nhà máy tái sinh tái chế nào nên hoạt động này chủ yếu được thực hiện bởi các đơn vị tư nhân. Công nghệ tái sinh tái chế hiện nay tại các công ty tư nhân là cũ kỹ và lạc hậu, gây nhiều ảnh hưởng đến môi trường cũng như sức khỏe cộng đồng sinh sống xung quanh.Ví dụ như cơ sở phế liệu Nhật Dũng, Tân Hĩa... Hình 5.3 Cơng nghệ tái chế lạc hậu của cơ sở tái chế ống nước Nhật Dũng Việc kiểm soát hiệu quả hoạt động cũng như những tác động đến môi trường mà những đơn vị này gây ra là hết sức khó khăn. Đòi hỏi sớm xây dựng nhà máy tái sinh tái chế với công nghệ và quy mô phù hợp với nhu cầu hiện tại. Hoạt động xử lý Hiện nay, trên địa bàn Tp.HCM nói chung và KCX Tân Thuận nói riêng chưa xây dựng khu xử lý CTRCN nào. Hoạt động xử lý chất thải công nghiệp hiện nay chủ yếu do công ty tư nhân đảm trách. Có thể nói, hoạt động xử lý hiện nay tại KCX chưa mang lại hiệu quả đáng kể nào trong công tác quản lý CTRCN. Việc kiểm soát hoạt động của những đơn vị này còn chưa được thực hiện nghiêm túc. Nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ các công ty hoạt động trong lĩnh vực xử lý môi trường này còn rất cao. Một ví dụ điển hình là vụ cây cỏ bị bạc màu ở lá tại KCN Lê Minh Xuân. Do đó vấn đề này cần được các cơ quan quản lý quan tâm và giải quyết. Một mặt khuyến khích, phát huy các hoạt động này, mặt khác cần tăng cường công tác thẩm định, kiểm soát. 5.2.5 Đánh giá các đối tượng tham gia dịch vụ thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý CTRCN Hiện nay tại KCX Tân Thuận, các đối tượng tham gia vào dịch vụ thu gom, vận chuyển, lưu giữ và xử lý CTRCN gồm có 3 đối tượng chính sau: Công ty dịch vụ cơ sở hạ tầng KCX Tân Thuận; các đơn vị, dịch vụ thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý CTRCN và cuối cùng là chủ nguồn thải. Công ty dịch vụ cở sở hạ tầng KCX Tân Thuận Là đơn vị được chủ đầu tư giao nhiệm vụ vận hành hệ thống xử lý CTRCN nhưng không thực hiện đúng trách nhiệm theo quyết định 76/2002/QĐ - UB, và các quy chế quản lý CTNH trong quyết định 155/QĐ-TTg. Đơn vị này mặc nhiên chấp nhận cho các đối tượng không có chức năng cùng tham gia vào hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý, tạo diễn biến phức tạp vượt tầm kiểm soát quản lý của nhà nước. Các đơn vị, dịch vụ thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý CTRCN Hiện nay tồn tại một phức hợp các thành phần trong công tác thu gom, vận chuyển, xử lý CTRCN tại KCX Tân Thuận. Đó là các công ty nhà nước, các đơn vị tư nhân có chức năng và các đơn vị không có chức năng quyền hạn đều tham gia vào hệ thống này. Công ty môi trường đô thị và Công ty dịch vụ công ích Quận 7 là đơn vị trực thuộc nhà nước. Nhưng do nhận thức chủ quan, phiến diện, do thiếu nguồn lực chuyên môn, do tập quán hành xử nên có rất nhiều trường hợp các đơn vị này đã tiếp nhận CTRCN của các cơ sở sản xuất trong KCX trộn lẫn trong rác thải sinh hoạt, tạo một đầu ra hợp thức hóa cho vi phạm này. Các đơn vị được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp phép và kiểm soát hoạt động theo Quy chế 155. Trong tình hình hiện nay có thể chấp nhận được về mặt đầu tư, cơ sở vật chất và năng lực dịch vụ, nhưng mặt khác có trường hợp đơn vị lợi dụng chức năng được giao để nhận chất thải và kinh doanh trái phép (không hợp đồng, chứng từ, các điểm xử lý tái chế không đảm bảo tiêu chuẩn môi trường...) điều này một phần cũng do sự kiểm tra, giám sát thiếu chặt chẽ, thiếu chế độ cưỡng chế, xử phạt của Sở Tài nguyên và Môi trường. Đối với các tổ chức, cá nhân không có chức năng thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý CTRCN : Do cơ chế quản lý lỏng lẻo, các đơn vị này hoạt động tự phát trong cơ chế thị trường tự do kinh doanh phế liệu công nghiệp, làm tình hình quản lý CTRCN trở nên phức tạp ảnh hưởng xấu đến môi trường sống và gây nhiều tác động đến điều kiện kinh tế xã hội. Dưới đây là các công ty thu gom, vận chuyển, xử lý CTRCN tại KCX Tân Thuận Bảng 5.4 Danh sách các công ty môi trường hoạt động tại KCX Tân Thuận STT Tên công ty Chức năng Địa chỉ 1 Công ty Môi trường đô thị Thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý và tiêu hủy Ấp 3, xã Bình Hưng Hòa, Quận Bình Tân 2 Công ty TNHH Hoa Thư Thu gom, vận chuyển, lưu giữ Kho lưu giữ 522/18/5 Quốc lộâ1A, Quận Bình Tân 3 Công ty TNHH Tân Đức Thảo Thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý và tiêu hủy 2C12 ấp 2, tỉnh lộ 10, xã Phạm Văn Hai, Huyện Bình Chánh 4 Công ty TNHH Môi Trường Xanh Thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý và tiêu hủy Lô M6A-H10E, KCN Lê Minh Xuân, Huyện Bình Chánh 5 Công ty Cổ phần Môi trường Việt Úc Thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý và tiêu hủy Lô B4-B21, KCN Lê Minh Xuân, Huyện Bình Chánh 6 Công ty TNHH Thảo Nguyên Sáng Thu gom, vận chuyển, lưu giữ 76A, đường số 3, KP2, P. Tân Kiểng, Q7 7 Công ty TNHH dịch vụ Tân Thuận Thu gom, vận chuyển, lưu giữ Đường số 8, KCX Tân Thuận, Q7 Nguồn : Hepza, 2006 Chủ nguồn thải Đa số các nhà máy sản xuất không thực hiện chế độ quy định theo Quy chế quản lý CTRNH 155 của thủ Thủ tướng Chính phủ và quen thuộc việc đối phó với sự kiểm tra của các cơ quan quản lý môi trường. Nguyên nhân chính là do các chủ đầu tư thiếu nhận thức về các quy định hiện hành, sợ tốn kém chi phí và ngại các thủ tục rườm rà. Việc kê khai đăng ký chủ nguồn thải đối với CTNH vẫn chưa được các doanh nghiệp quan tâm thực hiện . Thậm chí có một số nhà máy, bản thân chủ đầu tư cũng không nắm được thành phần và tải lượng CTRCN, CTNH của cá nhân doanh nghiệp mình thải ra. Tóm lại Hiện nay tại KCX Tân Thuận, tình hình quản lý chất thải rắn công nghiệp chưa đạt hiệu quả cao, số lượng rác thải ra ngày càng nhiều, mà vấn đề thu gom, vận chuyển, xử lý chưa nhất quán, đồng loạt. Ở đây, tuy có trạm trung chuyển của KCX, nhưng chỉ một số công ty có hợp đồng ký với trạm trung chuyển, những công ty còn lại thì hợp đồng trực tiếp đổ rác với một số công ty thu gom bên ngoài, nên việc quản lý rất khó khăn. Và không tìm thấy được sự khoa học trong quản lý, cũng như sự bất tiện trong việc tìm kiếm số liệu để phục vụ các mục đích khác nhau. Do đó cần tìm ra các hướng quản lý thích hợp và chính xác để vừa có thể phát triển kinh tế cho KCX vừa giảm thiểu được CTRCN phát sinh. CHƯƠNG 6 ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ CTRCN TẠI KCX TÂN THUẬN 6.1 Các biện pháp quản lý hành chính 6.1.1 Các giải pháp về mặt pháp lý KCX Tân Thuận là khu vực tập trung sản xuất công nghiệp với mục đích xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp ra nước ngoài và được nhiều chính sách ưu đãi của nhà nước. Do vậy, chỉ với một số quy định chung về quản lý CTR là chưa đầy đủ hoặc chưa thích hợp, cần phải rà soát lại toàn bộ các văn bản pháp luật về quản lý CTR đã ban hành: phân tích, đánh giá, từ đó đưa ra các quy định về quản lý môi trường phù hợp hơn. Theo điều 18 của Luật Bảo vệ Môi trường: Tổ chức, cá nhân khi xây dựng, cải tạo vùng sản xuất, khu dân cư, các công trình kinh tế, khoa học, kỹ thuật, y tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, thì các chủ đầu tư đều phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường để cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường thẩm định. Kết quả thẩm định về báo cáo đánh giá tác động môi trường là một trong những căn cứ để cấp có thẩm quyền xét duyệt dự án hoặc cho phép thực hiện. Tuy nhiên, các cơ quan thẩm quyền thường chỉ thẩm định báo cáo (dạng văn bản). Công tác kiểm tra việc thực hiện theo đúng các tiêu chuẩn môi trường, các giải pháp đã đề xuất cũng như việc xem xét, thẩm định thực tế tại các cơ sở sản xuất xem liệu có khả năng nảy sinh các vấn đề môi trường khác hay không hiện vẫn đang bị bỏ ngõ hoặc thực hiện không đầy đủ, không hiệu quả. Trước thực trạng nêu trên, đòi hỏi các quy trình, thủ tục, nội dung đánh giá môi trường đối với các dự án xây dựng nhà máy phải thực hiện nghiêm túc, sát với thực tế hơn. Đồng thời sau đó cần có biện pháp kiểm tra, xem xét các cơ sở đó có thực hiện đúng các tiêu chuẩn, giải pháp đã đề ra không. Tùy theo hình thức và mức độ vi phạm, phải có các biện pháp xử phạt, chế tài phù hợp đối với các cơ sở sản xuất. Đối với CTNH cần hoàn hiện các qui định riêng về quản lý CTNH. Các qui định phải được xây dựng song song với việc thiết lập các hợp đồng cam kết. Khi đó hệ thống quản lý CTNH sẽ được kiểm soát tốt. Ngoài ra cần phải: Xây dựng các qui định về sử dụng các nguyên liệu và hoá chất độc hại. Thiết lập các qui định về việc quản lý CTNH cho từng ngành công nghiệp. 6.1.2 Các giải pháp quản lý nhà nước về việc xây dựng các cơ sở sản xuất và đầu tư công nghệ sản xuất Khi xây dựng các cơ sở sản xuất, bên cạnh các yêu cầu về tính kinh tế, cần phải chú ý tới yêu cầu bảo vệ môi trường như dự báo ảnh hưởng của các cơ sở sản xuất tới dân cư xung quanh, các khu vực sinh thái lân cận. Công nghệ sản xuất có vai trò rất quan trọng trong việc phát sinh các nguồn thải gây ô nhiễm, do đó công tác quản lý công nghệ sản xuất của các cơ sở sản xuất rất cần được quan tâm. Đồng thời các cơ quan quản lý đưa ra các biện pháp khuyến khích nhập các công nghệ sản xuất “thân thiện với môi trường” và thiết bị mới theo đúng quy định của Nghị định 175CP của Chính phủ. Đây là một biện pháp rất cần thiết bởi lẽ trên thực tế, hiện nay công tác quản lý công nghệ (đặc biệt là các công nghệ nhập từ nước ngoài) còn chưa được chú trọng nhiều và việc đánh giá công nghệ nhiều khi chưa đúng thực chất. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, nhiều dạng công nghệ được xem như là “chất thải” của các nước công nghiệp phát triển vẫn được nhập vào Việt Nam và còn được ngộ nhận đó là công nghệ theo kiểu “hiện đại hoặc tiên tiến”. Ngày càng rõ ràng rằng, hình thức sản xuất, trình độ công nghệ, cách thức quản lý và sử dụng nguyên vật liệu sản xuất là những yếu tố liên quan trực tiếp đến vấn đề chất thải rắn nói riêng và các vấn đề môi trường khác nói chung. Việc thải bỏ không kiểm soát các chất thải phát sinh từ quá trình sản xuất; việc đầu tư, trang bị các công nghệ sản xuất phát sinh nhiều chất thải, ít có khả năng tái sinh tái chế cần phải được thay thế bằng các công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại, tiên tiến hơn cũng như thực thi các biện pháp quản lý môi trường cơ sở một cách khoa học và hiệu quả nhằm mục đích giảm thiểu và kiểm soát hợp lý chất thải phát sinh thông qua vòng đời sản phẩm. Khái niệm về công nghệ sản xuất sạch hơn có liên quan đến những nỗ lực để đạt được các hiệu quả sử dụng tối ưu ở mỗi giai đoạn của vòng đời sản phẩm. Kết quả là thu được tiến bộ trong toàn bộ quá trình cạnh tranh của xí nghiệp. Một biện pháp tích cực trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường do CTRCN là tiến tới sản xuất sạch hơn hoặc ngăn ngừa ô nhiễm. Sản xuất sạch hơn sẽ loại trừ được một số chất thải tại nguồn, do đó sẽ giảm được sự tạo thành CTRCN trong đó có CTNH. Điều đó cho phép giảm nhẹ việc kiểm soát chất thải cuối đường ống; Thông qua đó giảm được các chi phí sản xuất nhờ việc sử dụng có hiệu quả các dạng nguyên vật liệu và năng lượng cũng như giảm các chi phí kiểm soát và xử lý ô nhiễm. Việc đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị là mục tiêu hàng đầu trong chiến lược ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp. Thực tế cho thấy rằng, với cùng một loại hình công nghiệp như nhau và ở những điều kiện tương tự nhau, xí nghiệp nào được đầu tư trang bị những thiết bị máy móc và công nghệ tiên tiến sẽ phát sinh ít chất thải ô nhiễm và ngược lại. Do đó, các chính sách trong chiến lược bảo vệ môi trường khu vực nói chung và bảo vệ môi trường cơ sở nói riêng rất cần ưu tiên lĩnh vực đầu tư các dạng công nghệ sạch, ít chất thải, công nghệ kỹ thuật cao. Tuy nhiên, điều quan trọng là địa phương phải nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới, cải tiến công nghệ ngoại nhập cho phù hợp với điều kiện trong nước và từng bước sáng tạo công nghệ mới, hạn chế những lệ huộc quá nhiều vào nước ngoài. Dưới đây là thứ tự ưu tiên trong quản lý chất thải. Hình 6.1 Thứ tự ưu tiên khi quản lý chất thải 6.2 Các biện pháp quản lý kỹ thuật 6.2.1 Biện pháp kỹ thuật 6.2.1.1 Chương trình giảm thiểu chất thải tại mỗi cơ sở sản xuất Điều kiện tiên quyết đầu tiên là mỗi cơ sở sản xuất phải áp dụng một chương trình giảm thiểu ô nhiễm cho riêng mình (ví dụ như áp dụng sản xuất sạch hơn). Một số các hoạt động như việc phân loại chất thải ngay tại nguồn phát sinh, nâng cao năng lực của quá trình thu gom chất thải trong phạm vi cơ sở sản xuất cũng có thể được đưa vào trong chương trình giảm thiểu chất thải tại nguồn. Ngoài ra một số kỹ thuật sau đây có thể áp dụng được cho tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các doanh nghiệp có quy mô lớn tại KCX Tân Thuận: Giảm thiểu các nguồn thải cố định: kiểm tra, ngăn ngừa những sự rò rỉ và thất thoát (như các công tác ngăn ngừa và thanh tra) Đổi mới hay cải tiến công nghệ: + Thay đổi nguyên liệu đầu vào: Thay nguyên liệu đầu vào với những nguyên liệu ít độc hại hơn đối với con người và môi trường hoặc bằng các nguyên liệu có thể tái sinh, tái chế được + Kiểm soát tốt hơn quá trình sản xuất: Kiểm soát các quá trình công nghệ cao sao cho có thể đạt hiệu suất cao hơn và cũng tạo ra ít chất thải phát sinh hơn. + Đổi mới công nghệ: Thay đổi các công nghệ hay các quá trình sản xuất theo thứ tự hoặc theo một phương cách thích hợp hơn để có thể tạo ra ít chất thải hơn trong quá trình sản xuất. Khắc phục sản phẩm: Các đặc tính hay đặc trưng của sản phẩm có thể được khắc phục để có thể giảm bớt các tác động của chúng lên môi trường trong suốt quá trình sản xuất cũng như sau khi bị thải bỏ. 6.2.1.2 Chương trình phân loại CTRCN–CTNH tại nguồn Hiện nay, Sở Tài Nguyên Môi Trường thành phố cùng Hepza đã đưa chính sách phân loại CTRCN xuống các KCN, KCX và các cơ sở công nghiệp. Do đó, tại KCX Tân Thuận chương trình phân loại CTRCN–CTNH tại nguồn sẽ có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên để thực hiện hiện chương trình một cách thành công thì nhà nước cần đưa ra các qui chế, qui định, hướng dẫn phân loại rác thải công nghiệp và cả các biện pháp xử lý đối với các nhà máy không thực hiện việc phân loại rác tại nguồn. Hướng dẫn nâng cao nhận thức lãnh đạo và công nhân/nhân viên nhà máy về tính hiệu quả của chương trình: thu lợi nhuận từ rác thải; giảm chi phí kiểm soát và xử lý chất thải; giảm thiểu được những tác hại tiêu cực đến môi trường; kéo dài tuổi thọ bãi chôn lấp trong khi quỹ đất thành phố dùng cho các bãi chôn lấp bị hạn hẹp. Những biện pháp cần được thực hiện: Tuyên truyền nâng cao nhận thức về việc phân lọai CTRCN–CTNH tại nguồn cho cả chủ doanh nghiệp lẫn công nhân (loại nào là không nguy hại, loại nào có thể tái chế, loại có thể xử lý bằng phương pháp đốt). Xây dựng một tiêu chuẩn chung, cụ thể để các doanh nghiệp thực hiện chương trình thu gom, vận chuyển các loại rác đã phân loại, cũng như bộ phận kiểm tra, thanh tra để giám sát chương trình thực hiện. Xây dựng một hệ thống phân loại thứ cấp CTRCN–CTNH, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng một thị trường trao đổi chất thải. 6.2.1.3 Tái sử dụng chất thải trong phạm vi xí nghiệp, tạo ra một thị trường tuần hoàn chất thải giữa các ngành công nghiệp với nhau. Lợi ích của ngành công nghiệp tham gia vào chương trình trao đổi chất thải là cả lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường. Bảng 6.1: Lợi ích của thị trường tuần hoàn chất thải giữa các ngành công nghiệp với nhau Quan điểm kinh tế Quan điểm môi trường Giảm chi phí quản lý chất thải cho công nghiệp Gia tăng sự biến đổi các chất thải độc hại và nguy hiểm trước khi đến các bãi chôn lấp, dẫn đến giảm rủi ro của việc phát thải chúng vào môi trường Giảm chi phi mua nguyên liệu thô cho người sử dụng cuối cùng Các cơ hội xuất hiện thị trường mới cho các chất “khó giải quyết” hoặc các vật liệu có htể tích nhỏ hơn mà nếu không chúng sẽ được đưa đến bãi chôn lấp Cải thiện lợi nhuận và khả năng tồn tại của các công ty tái chế. Các cơ hội ngăn ngừa ô nhiễm và chất thải và tối đa hoá sự biến đổi chất thải và bảo vệ năng lực của bãi chôn lấp. Hình thức tái sử dụng chất thải hay tạo ra một thị trường tuần hoàn chất thải giữa các xí nghiệp đã có từ rất sớm. Nếu như bỏ qua khía cạnh môi trường, thì doanh nghiệp nào cũng muốn những phế phẩm của mình được tận dụng một cách tối đa bằng khâu tái sinh, tái chế. Hay các doanh nghiệp phải tìm cho mình một nguồn nguyên, nhiên liệu rẻ để kinh tế hơn, mà không có nguồn nguyên nhiên liệu nào rẻ hơn chất thải. Do vậy vô tình họ đã thúc đẩy một thị trường tuần hoàn chất thải. Nhưng sau này vì một số nguyên nhân nào đó đã ngăn cản họ tiếp tục thực hiện, do đó cần tiếp tục khuyến khích các cơ sở này hoạt động hoặc thậm chí là khuyến khích việc thành lập các cơ sở mới. Thị trường tái sinh chất thải giữa các xí nghiệp là khá đa dạng. Sau đây là thứ tự 4 bước để xây dựng một thị trường trao đổi chất thải: Bước1: Nghiên cứu và xem xét thị trường chất thải trong cả thành phố hay cả nước. Bước2: Phát triển kế hoạch/hướng dẫn về việc trao đổi, tái chế chế chất thải với các ngành công nghiệp với nhau Bước3: Thực hiện kế hoạch chuyển đổi, tái sử dụng chất thải giữa các ngành. Bước4: Giám sát những cải tiến và lập kế hoạch mở rộng những chương trình đã thực hiện tốt. Ứng dụng các giải pháp tốt nhất có thể được cho việc tái tuần hoàn chất thải ngay trong phạm vi xí nghiệp. Các dạng tái tuần hoàn: việc tái tuần hoàn các nguồn nguyên vật liệu cần được thực hiện cẩn thận để hạn chế tới mức thấp nhất việc tạo ra thêm các chất nhiễm bẩn mới. Một vài giải pháp tuần hoàn như: Tái tuần hoàn trực tiếp: các hộp, chai, lọcó thể sử dụng lại. Thu hồi vật liệu: giấy, kim loại, nhựa các loại, thuỷ tinh vụn, sợi, vải Các công ty có thể áp dụng giải pháp này như: Công ty nhựa Thuận Xương, công ty bao bì Gia Phú, công ty Pronisc,... Một hướng khác là thu hồi cùng một dạng các thành phần thải đã thải ra rồi bằng cách sử dụng một phương pháp xử lý thích hợp nhất: Nhựa được tái sử dụng lại hay chuyển hoá thành dầu đốt. Giấy thải được đem đi bán cho các nhà máy giấy và bột giấy. Kim loại thải ra được sử dụng như các vật liệu thô nóng chảy. Ví dụ tại công ty sản xuất chuỗi dây kim loại K&K, sản phẩm thải là kim loại, giấy, nhựa có thể được thu hồi trở lại bằng các phương pháp xử lý thích hợp. 6.2.1.4 Giải pháp xử lý sơ bộ chất thải trong mỗi cơ sở sản xuất. Các cơ sơ sản xuất có thể áp dụng xử lý sơ bộ chất thải ngay trong phạm vi các nhà máy như là: Nén chặt chất thải (để giảm thể tích). Cắt vụn chất thải (đối với các chất thải như giấy, vải, da). Sử dụng chất thải làm chất đốt cho các nồi hơi tại nhà máy Việc áp dụng xử lý sơ bộ chất thải ngay tại nơi phát sinh là việc cần làm trong công đoạn dài xử lý chất thải nhằm giảm thiểu tối đa ô nhiễm. Đặc biệt trong việc thu gom chất thải bằng cách sử dụng các thùng chứa khác nhau cho từng loại chất thải, quan trọng nữa là cần phân loại CTNH ra khỏi chất thải không nguy hại khác. Tuy nhiên phương pháp này không dễ dàng thực hiện, nó dựa vào công nghệ sản xuất cũng như quỹ tài chính của các xí nghiệp 6.2.1.5 Xây dựng hệ thống thu gom CTRCN–CTNH Nhằm thực hiện chỉ thị của UBND Tp.HCM đến năm 2020 tất cả các doanh nghiệp phải liên kết xây dựng việc thu gom toàn bộ chất thải xây dựng hệ thống thu gom CTRCN–CTNH. Để thực hiện tốt cũng như đãm bảo cho chương trình này thực hiện lâu dài thì tại KCX Tân Thuận cần phải làm tốt công tác liên kết giữa các doanh nghiệp với những dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải. Vấn đề cốt lõi là các doanh nghiệp phải trả đầy đủ các khoảng phí, điều này phải cần sự giám sát chặt chẽ, đặc biệt là phải có biện pháp thật nghiêm (gây áp lực, cưỡng chế) của các cơ quan quản lý. 6.2.2 Biện pháp sử dụng công cụ kinh tế 6.2.2.1 Giới thiệu các công cụ kinh tế Bên cạnh các biện pháp hành chính, cần ưu tiên nghiên cứu, triển khai và áp dụng các biện pháp công cụ kinh tế trong công tác quản lý CTR tại các nhà máy sản xuất. Các công cụ này lấy nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường làm cơ sở để cân bằng và phát triển phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường, tạo điều kiện để các công tác bảo vệ môi trường trở thành động lực phát triển sản xuất. Được sử dụng để đạt được mục tiêu môi trường bằng cách tạo cơ hội và điều kiện để nhà sản xuất chuyển chi phí bảo vệ môi trường vào giá thành sản phẩm, nghĩa là chuyển “trách nhiệm bảo vệ môi trường” gián tiếp cho người tiêu dùng. Cách tiếp cận truyền thống đối với vấn đề quản lý CTR nói riêng và quản lý môi trường nói chung là phương pháp “Ra lệnh và Kiểm soát” (CAC)–tức là người ta tính toán và định ra những tiêu chuẩn cụ thể nào đó, rồi buộc những người gây ô nhiễm phải đảm bảo xả thải dưới mức tiêu chuẩn cho phép. Nộp phạt là hình thức mà những người gây ô nhiễm “trả giá” cho hành vi phát thải vượt quá tiêu chuẩn của mình. Tuy nhiên, khoản phạt phải hợp lý, đủ tính răn đe và đảm bảo người bị phạt sẽ không còn tái phạm bởi vì thay vì nộp phạt thì doanh nghiệp sẽ trang bị các phương tiện khống chế ô nhiễm với mức chi phí thấp hơn mức phạt. Bên cạnh đó, cách tiếp cận CAC không tạo ra những động lực khuyến khích người gây ô nhiễm cải thiện hành vi, cải tiến công nghệ, chủ động hơn trong các vấn đề quản lý môi trường . Nhằm hỗ trợ cho công tác quản lý môi trường nói chung và quản lý CTR nói riêng, các công cụ kinh tế được xây dựng và áp dụng. Trong lĩnh vực quản lý CTR, có hơn 90 công cụ kinh tế được nhận dạng. Các công cụ này được phân thành 3 nhóm chính: Nhóm công cụ tạo ra nguồn thu Nhóm công cụ kích thích sự đầu tư Nhóm công cụ làm thay đổi hành vi Nhóm công cụ tạo nguồn thu Nhóm công cụ kinh tế được áp dụng để tạo ra nguồn thu cho mục đích bảo vệ và cải thiện môi trường hoặc được sử dụng cho những mục đích khác. Nguồn thu được tạo ra thông qua 3 phương tiện chính: Phí: Phí chất thải, phí thu gom chất thải, phí ô nhiễm, phí người sử dụng, Thuế: Thuế bất động sản, thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng, thuế xanh/thuế sinh thái, thuế ô nhiễm, Quỹ: Từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Các loại phí Các loại phí được áp dụng trong lĩnh vực này bao gồm phí phát sinh chất thải, phí thu gom chất thải, phí ô nhiễm... Ở đây một loại phí đáng chú ý trong lĩnh vực quản lý CTR là phí người sử dụng, loại Phí người sử dụng được chia làm 2 loại (tuỳ vào sở thích áp dụng của từng quốc gia): + Phí người sử dụng có tỷ lệ thay đổi được–dựa trên mỗi đơn vị chất thải + Phí người sử dụng cố định/ấn định sẳn. Các loại thuế Các loại thuế được áp dụng trong lĩnh vực này bao gồm thuế bất động sản, thuế thu nhập với một tỷ lệ hợp lý nào đó, thuế ô nhiễm, thuế đánh vào sản phẩm. Ở đây, một loại thuế đáng chú ý là “thuế xanh”/thuế sinh thái (Green–tax) được thiết kế để ảnh hưởng lên việc tiêu thụ sản phẩm, phát sinh chất thải, tái sử dụng–tái chế chất thải và các hành vi gây ô nhiễm khác. Khi người tiêu dùng trả thuế sinh thái thì nhu cầu tiêu thụ sẽ có chiều hướng giảm, từ đó giảm chất thải phát sinh. Khi các ngành công nghiệp đóng thuế sinh thái, nhà sản xuất đứng trước quyết định lựa chọn nhiên liệu sản xuất hoặc lựa chọn các mức phát thải. Một vài thuế sinh thái đánh vào những sản phẩm hoặc bao bì vì mục đích khuyến khích tái chế. Đối với những sản phẩm có dán nhãn sinh thái mà biểu thị sự tái chế hoặc tái sử dụng thì được giảm thuế, chẳng hạn như những sản phẩm giải khát đóng trong chai thủy tinh. Một công cụ khác là thuế ô nhiễm. Trước đây, thuế ô nhiễm được áp dụng với mong muốn hạn chế ô nhiễm thông qua việc trang bị các thiết bị kiểm soát ô nhiễm hoặc thông qua việc giảm công suất sản xuất. Tuy nhiên, phần lớn những quốc gia trong khối OECD (Organisation for Economic Co–operation and Development) đã nhận thấy rằng, việc cắt giảm hoặc bỏ trợ cấp của chính phủ cho hoạt động sản xuất năng lượng sẽ dẫn đến kết quả giảm ô nhiễm nhiều hơn là sử dụng thuế ô nhiễm. Những loại quỹ Những loại quỹ có ảnh hưởng đến những hoạt động cải thiện môi trường. Nguồn quỹ này có thể được hỗ trợ bởi các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Như vậy, những nguồn thu từ những công cụ kinh tế vừa trình bày ở trên cho thấy rằng thu nhiều hơn là cung cấp sự hỗ trợ tài chính cho việc cải thiện các vấn đề CTR nhiều hơn là ảnh hưởng tới hành vi của những người phát thải, những người gây ô nhiễm và những người sử dụng dịch vụ. Nhóm công cụ kích thích sự đầu tư Các công cụ kích thích đầu tư có thể thông qua: Chi phí đổ thải Các giấy phép kinh doanh chất thải Các chính sách, thủ tục Những luật nghiêm khắc Có thể nhận thấy rằng tiết kiệm tiền là một trong những mục đích của nhà sản xuất. Tiết kiệm tiền có thể thông qua việc giảm trọng lượng sản phẩm/bao bì, từ đó có thể giảm chi phí cho nguyên/nhiên liệu sản xuất cũng như chi phí vận chuyển Rõ ràng, giảm trọng lượng sản phẩm/bao bì sẽ trực tiếp làm giảm chất thải từ quá trình sản xuất và gián tiếp làm giảm chất thải từ việc tiêu thụ. Chi phí đổ thải/phí chôn lấp là một trong những động lực dẫn đến việc giảm thiểu chất thải. Việc giảm thiểu có thể thực hiện thông qua việc làm nhẹ, thay thế vật liệu, tái chế–tái sử dụng, làm compost, Khi chính phủ cho phép “kinh doanh” chất thải, một thị trường chất thải được hình thành. Đó là cách thức mà một công ty có thể mua những khoản tiết kiệm phát thải của một công ty khác. Công cụ kinh tế được sử dụng trong trường hợp này có thể gọi là “giấy phép kinh doanh chất thải” (quota chất thải). Rõ ràng công cụ kinh tế loại này kích thích người sản xuất đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, trang bị các phương tiện kiểm soát ô nhiễm. Ngoài những hình thức trên, công cụ kinh tế kích thích đầu tư còn bao gồm những chính sách, các thủ tục khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư, xây dựng, sở hữu, vận hành những phương tiện xử lý CTR đồng thời nâng cao tính cạnh tranh về những hợp đồng dịch vụ CTR. Bên cạnh đó, những luật nghiêm khắc đòi hỏi việc đổ thải CTR an toàn có thể tạo ra sự kích thích mạnh mẽ cho việc đầu tư vào hoạt động dịch vụ đổ thải từ khu vực tư nhân. Nhóm công cụ làm thay đổi hành vi Biện pháp chính trong công cụ này là giáo dục, bao gồm cả những chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng có mục tiêu. Những công cụ trong nhóm này có thể bao gồm: Biện pháp giáo dục, những chiến dịch nâng cao ý thức cộng đồng có mục tiêu Ký quỹ–hoàn trả (deposit–refund) Hệ thống hoàn trả nhà sản xuất (take back) Phạt vi cảnh, phạt dân sự Hệ thống chất thải rõ ràng Luật có trách nhiệm pháp lý cao Danh sách đen những người gây ô nhiễm Công cụ ký quỹ hoàn trả và hệ thống hoàn trả lại nhà sản xuất (take back) là những động cơ làm giảm phát sinh chất thải và tăng cường tái chế. Phần lớn những hệ thống ký quỹ hoàn trả là tự nguyện, hình thức phổ biến nhất, mềm mỏng nhất là việc trả lại những chai và lon nước giải khát sau khi sử dụng. Tuy nhiên cũng cần có những hệ thống ký quỹ–hoàn trả bắt buộc đối với sự tồn tại của những chất thải nguy hại đặc biệt. Hệ thống tái chế được tập trung trước tiên vào việc tái chế bao gói. Ngoài ra hệ thống này còn được áp dụng cho các sản phẩm điện tử (công ty STAR ELEC), thủy tinh (công ty Topopto), cao su (công ty KTC)... Các công cụ khác được xem như phi động cơ chống lại ô nhiễm, bao gồm các khoản phạt vi cảnh, phạt dân sự cho những người gây ô nhiễm; những luật có trách nhiệm pháp lý cao đối với những hủy hoại môi trường; những hệ thống chất thải rõ ràng; danh sách đen những người gây ô nhiễm. Danh sách đen những người gây ô nhiễm đã gây áp lực đáng kể đối với họ để thực hiện cải thiện môi trường. Những danh sách như vậy khuyến khích người tiêu dùng tẩy chay những công ty gây ô nhiễm, đồng nghĩa với việc khuyến khích nhà sản xuất quan tâm hơn đến các vấn đề môi trường chứ không chỉ quan tâm đến các lợi ích kinh tế. 6.2.2.2 Tiêu chuẩn lựa chọn công cụ Việc thiết lập những công cụ kinh tế đòi hỏi nghiên cứu cẩn thận. Bởi vì những công cụ này được hiểu như là phương tiện tác động đến đầu tư, hành vi và những áp lực thị trường, chúng cũng có thể có những tác động ngược lại lên thương mại hoặc sự cạnh tranh giữa các bang hay các quốc gia. Thông qua việc xem xét các công cụ kinh tế khác nhau, những tiêu chuẩn đánh giá sau được đề nghị: Hiệu quả môi trường, tức là công cụ đó phải đạt được sự cải thiện môi trường như mong muốn, chẳng hạn giảm sự phát thải, tăng sự tái chế chất thải, giảm khí thải từ hoạt động vận chuyển và chôn lấp, Hiệu quả kinh tế, tức là công cụ đó tạo ra sự khuyến khích đầu tư và đổi mới trong việc giảm chi phí kiểm soát ô nhiễm. Hiệu quả chi phí hành chính, tức là công cụ yêu cầu những mức độ sẵn có và khả thi của kỹ năng và nỗ lực để thi hành và giám sát. Lợi tức của các nguồn thu, tức là các nguồn thu được tạo ra có thể được áp dụng nhằm vào những mục tiêu môi trường và đủ để tạo ra sự cải thiện có thể thấy được. Tính dễ ứng dụng và khả năng tái tạo, tức là chi phí liên quan và lợi nhuận tương đối dễ đánh giá và những thủ tục hợp pháp, hợp lý cho việc giới thiệu những công cụ mới. Sự chấp nhận, tức là công chúng và những ngành công nghiệp bị ảnh hưởng chấp nhận công cụ như một phương tiện có thể thực hiện được để sự cải thiện môi trường đạt được hiệu quả chi phí mà không có sự cạnh tranh, việc làm, phân phối thu nhập và thương mại mang tính bất lợi. Những tác động phân phối, tức là có sự chênh lệch trong phân phối hay sự “không công bằng” trong việc áp dụng hoặc sự ảnh hưởng của công cụ đó, đặc biệt là sự tác động đến hộ gia đình thu nhập thấp, những doanh nghiệp nhỏ và những người bị thiệt thòi. Những kết quả ngắn hạn, tức là công cụ có tiềm năng dẫn đến những cải thiện hiệu quả trong thời gian ngắn để thúc đẩy những người quản lý nhà nước cam kết những chi phí liên quan đến công cụ về mặt chính trị. Sự tăng trưởng phát triển kinh tế, nghĩa là công cụ đó cung cấp môi trường duy trì sự cạnh tranh thương mại và khuyến khích phát triển công nghiệp, tạo công ăn việc làm. 6.2.2.3 Công cụ kinh tế nên được áp dụng để quản lý tại KCX Tân Thuận Thuế xanh/thuế sinh thái Thuế ô nhiễm Những loại quỹ Phí đổ thải/phí chôn lấp Những chính sách, các thủ tục Giảm thuế cho các loại thiết bị kiểm soát ô nhiễm Xây dựng một khuôn mẫu đầu tiên của chính phủ về nhà máy xử CTNH, đồng thời cấp giấy phép cho khu vực tư nhân xây dựng những nhà máy tương tự có tính cạnh tranh và có thể đối chiếu hiệu quả được. Sau đó yêu cầu tất cả các ngành công nghiệp đem CTNH của họ đến nơi xử lý đã được đăng ký. Trong nhiều năm, hình thành một thị trường có tính cạnh tranh cao về hoạt động xử lý CTNH giữa khu vực tư nhân và các nhà máy xử lý được đầu tư bởi chính phủ. Những luật nghiêm khắc Dùng những luật nghiêm khắc khắc đòi hỏi chất hữu cơ phải được làm compost, tất cả những chất khác phải được tái chế–tái sử dụng hoặc chôn lấp tại bãi chôn lấp hợp vệ sinh đặc biệt là những doanh nghiệp kinh doanh trong ngành thực phẩm. Công cụ ký quỹ hoàn trả và hệ thống hoàn trả lại nhà sản xuất (take back) Danh sách đen những cơ sở gây ô nhiễm Tuy nhiên khi thực hiện chích sách này cần phải thực hiện một cách công bằng, tránh tình trạng lợi dụng chính sách này mà ảnh hưởng đến danh tiến của doanh nghiệp. 6.3 Các biện pháp hỗ trợ 6.3.1 Các giải pháp về công tác giáo dục, tuyên truyền để quản lý CTRCN–CTNH Hiện nay, ở Việt Nam nói chung và ở từng KCN - KCX nói riêng, luật pháp không được phổ biến rộng rãi đến tất cả các đối tượng. Do đó, không chỉ riêng luật pháp về bảo vệ môi trường mà tất cả các ngành luật khác cần phải có chương trình tuyên truyền, phổ biến cho rộng rãi cộng đồng dân cư. Đối với vấn đề quản lý CTR, ngoài việc phổ biến quy định về bảo vệ môi trường, cần có những chương cụ thể để nâng cao nhận thức cho những đối tượng cần thiết tham gia công việc quản lý CTR. Từ trước đến nay, Nhà nước thường sử dụng biện pháp “Ra lệnh–Kiểm tra”, thế nhưng để thực hiện được biện pháp này đòi hỏi phải có bộ máy cồng kềnh, phải đủ người, đủ trang thiết bị để tiến hành theo dõi giám sát việc thực hiện của các đối tượng. Với đòi hỏi này thì trong điều kiện nhân sự tại KCX là rất khó thực hiện. Các cán bộ của cơ quan quản lý môi trường không thể thường xuyên có mặt tại từng nhà máy để giám sát từng hệ thống thu gom và xử lý các chất thải ô nhiễm. Do đó, xu hướng sắp tới là phải làm sao để các đối tượng sản xuất phải tự nguyện, tự giác thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường trên cơ sở các quy định, tiêu chuẩn của cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Trong điều kiện hiện nay, đây phải là ưu tiên hàng đầu, vừa có thể đem lại hiệu quả cải thiện môi trường, vừa mang tính khả thi cao. Để thực hiện chiến lược này cần phải xây dựng những nội dung và biện pháp tiếp cận thích hợp cho từng đối tượng. Có thể chia các đối tượng thành ba loại: Thứ nhất là cán bộ, công chức Nhà nước liên quan đến quản lý CTRCN–CTNH tại KCX Tân Thuận Thứ hai là các chủ cơ sở sản xuất, các cơ sở thu gom xử lý CTRCN–CTNH. Thứ ba là công nhân, nhân viên hoạt động trong các nhà máy trong KCX Tân Thuận. 6.3.1.1 Đối với cán bộ, công chức Đối với các bộ, công chức trong các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan đến việc quản lý CTRCN–CTNH cần có các biện pháp thích hợp sau: Nâng cao nhận thức và hiểu biết về tác hại của CTR đặc biệt là CTNH. Phổ biến rõ ràng các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường. Tổ chức các đợt tập huấn ngắn hạn cho một số đối tượng chọn lọc. Tổ chức các đợt sơ tổng kết 6 tháng, hàng năm về kết quả quản lý CTRCN–CTNH. Tổ chức các đợt tham quan về quản lý CTRCN-CTNH ở trong và ngoài nước. 6.3.1.2 Đối với các cơ sở sản xuất tại KCX Tân Thuận Đối với các cơ sở sản xuất, kể cả các doanh nghiệp dịch vụ thu gom, xử lý chất thải trong KCX, đây là đối tượng rất quan trọng, là những người trực tiếp gây ô nhiễm môi trường và cũng là những người trực tiếp xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường, cần có những nội dung phù hợp, đáp ứng được những mục đích chính đáng của họ. Ngoài các biện pháp cho cán bộ, công chức, đối với đối tượng này có thể bao gồm thêm một số nội dung sau: Xây dựng sổ tay hướng dẫn xử lý ô nhiễm để các đối tượng này hiểu được các vấn đề cơ bản về xử lý các chất ô nhiễm. Áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn, phải làm rõ những lợi ích kinh tế từ việc giảm chất thải, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, năng lượng, đăng ký ISO 14000. Các chính sách ưu đãi và các biện pháp hành chính, kinh tế của Nhà nước. Có chính sách cho vay vốn ưu đãi đối với các nhà máy, xí nghiệp đầu tư hệ thống xử lý chất thải, hoặc đổi mới công nghệ sản xuất sạch hơn. 6.3.1.3 Đối với đối tượng là công nhân, viên chức Công nhân, viên chức hoạt động trong các nhà máy, các cơ sở dịch vụ cần có nội dung khác và đơn giản hơn, thiết thực hơn, để các đối tượng này hiểu và tự nguyện phát hiện, phản ánh, đóng góp vào quá trình cải thiện môi trường của nhà máy, nơi làm việc, nơi công cộng, cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Có thể áp dụng một số biện pháp sau: Nâng cao nhận thức và hiểu biết về tác hại của các chất ô nhiễm trong CTR đặc biệt là CTNH đến sức khỏe con người, môi trường. Tuyên truyền những thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày như giữ vệ sinh chung, thực hành tiết kiệm năng lượng, nước Cần thực hiện những chương trình nhằm nâng cao nhận thức cho công nhân các xí nghiệp về tác động của CTNH đến con người và môi trường và những lợi ích của việc quản lý chất thải. 6.3.2 Khuyến khích, hỗ trợ vốn thay đổi công nghệ sản xuất tiên tiến Như đã khằng định ở trên về vai trò của công nghệ sản xuất là quan trọng thì việc đầu tư thay đổi công nghệ tiên tiến để giảm thiểu ô nhiễm là điều cần thực hiện. Tuy nhiên vấn đề vướng mắc là việc đầu tư loại công nghệ như thế nào? Và tiền vốn đầu tư quá lớn. Vì vậy vai trò điều tiết cũng như sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng là quan trọng. Các cơ quan quản lý nhà nước phải: Tích cực, khuyến khích, động viên các cơ sở thay đổi công công nghệ. Tạo điều kiện thuận lợi cũng như khuyến khích nghiên cứu phát triển những loại máy móc, công nghệ được sản xuất trong nước vì chúng sẽ rẻ hơn nhiều so với nước ngoài. Có sự kết hợp với nhiều ngành chức năng để hổ trợ vốn cho những dự án khả thi. Xử phạt thật nghiêm những cơ sở cố tình vi phạm đối với những nhà sản xuất có giấy phép từ trước. Nhất định không cho phép thành lập những cơ sở nếu như chưa đảm bảo an toàn môi trường đối với những cơ sở chuẩn bị hoạt động. Khen thưởng những cơ sở tích cực trong việc bảo vệ môi trường. CHƯƠNG 7 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 7.1. KẾT LUẬN Trong những năm gần đây, ở Việt Nam hình thức KCN tập trung đã hình thành và phát triển mạnh mẽ. Các khu chế xuất, khu công nghiệp ngày càng chứng tỏ ưu thế và vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước góp phần phát triển kinh tế, giải quyết việc làm và ổn định đời sống xã hội. Tuy nhiên, vấn đề phát triển KCN, KCX phải đi liền với Bảo vệ môi trường ( BVMT) mà BVMT là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Đặc biệt là những nước đang phát triển, thực hiện Công nghiệp hóa- hiện đại hóa cần luôn phát triển cân bằng cả kinh tế, xã hội và môi trường. Nhưng hiện nay, công tác quản lý môi trường nói chung và quản lý CTRCN nói riêng tại các KCN, KCX vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Xét riêng hiện trạng quản lý tại KCX Tân Thuận thì hiện nay trong toàn bộ hệ thống quản lý CTRCN, CTNH hiện còn nhiều thiếu sót khuyết điểm: Về mặt pháp lý: Hệ thống quản lý chưa hoàn thiện các thể chế quy định cụ thể. Các quyết định, quy chế được sử dụng rời rạc và không hiệu quả do thiếu các biện pháp thích hợp kèm theo. Một số quyết định cơ bản trong quản lý CTRCN, CTNH đã được ban hành nhưng chỉ thể hiện giá trị trên các giấy tờ, văn bản trong quá trình quản lý như một hình thức hoàn chỉnh các thủ tục mà thực sự không phát huy được hết hiệu lực của nó trong các trường hợp thực tế. Về mặt nhân sự: Với chỉ 1 cán bộ quản lý về môi trường trong toàn KCX Tân Thuận thì thực sự không thể đảm trách hết các vấn đề về quản lý CTRCN cũng như các khía cạnh môi trường tại KCX. Thiếu nguồn nhân lực cũng là nguyên nhân khiến công tác quản lý CTRCN tại đây còn nhiều thiếu sót. Về mặt kỹ thuật: Phải thừa nhận rằng tình trạng kỹ thuật của hệ thống quản lý CTRCN,CTNH tại KCX Tân Thuận diễn biến khá phức tạp. Bên cạnh đó các thành phần trong hệ thống đều chưa đạt tiêu chuẩn, dẫn đến công tác quản lý chưa thực hiện đúng quyền hạn và chức năng được đề ra. Về mặt áp dụng các công cụ kinh tế: Hầu như ở KCX Tân Thuận, chưa sử dụng các công cụ kinh tế như một công cụ hiệu quả cho việc quản lý CTRCN, CTNH. Việc áp dụng vào thực tế tại các cơ sở sản xuất vẫn chưa diễn ra đồng bộ, rất khó cho việc quản lý cũng như xử phạt cho các mức vi phạm. Thấy được các khuyết điểm trên để từ đó rút ra các bài học cũng như biện pháp hiệu quả, có khoa học để ngày càng hoàn thiện hệ thống quản lý tại KCX Tân Thuận, tạo tiền đề đối với công tác quản lý CTRCN cho các KCN, KCX khác trong thành phố. 7.2. KIẾN NGHỊ Để đặt mục tiêu đặt ra về quản lý CTRCN trong hiện tại và những năm tới, KCX Tân Thuận cần thiết lập một hệ thống kiểm soát thống nhất, chặt chẽ và liên tục tất cả các nguồn CTRCN phát sinh, ngay từ lúc sinh ra đến khâu xử lý cuối cùng. Hoàn thiện cấu trúc quản lý, nâng cao trình độ và trang bị đầy đủ phương tiện, thiết bị cho lực lượng quản lý KCX làm tốt vai trò của mình . Ban quản lý KCX cần phải nghiên cứu xác định mức độ tham gia của thành phần tư nhân vào quản lý CTRCN–CTNH, khâu nào Nhà nước phải quản lý, khâu nào tư nhân được phép tham gia theo pháp luật hiện hành. Quy định các điều kiện tham gia vào quản lý CTRCN–CTNH trong đó làm rõ quy hoạch về thu gom, vận chuyển, xử lý và tiêu hủy CTRCN–CTNH , đề xuất khu liên hiệp xử lý CTRCN–CTNH. Các chính sách ưu đãi về kinh tế cho những các nhân, tổ chức đầu tư và quản lý CTRCN–CTNH. Một điều rất quan trọng là cần quan tâm đến các công tác tái sinh, tái chế CTRCN, xây dựng các chương trình giáo dục cộng đồng về việc khuyến khích người dân sử dụng các sản phẩm được sản xuất từ các nguyên liệu tái chế .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docBIA.doc
  • docdanh muc.doc
  • dochinh KCX.doc
  • dochinh.doc
  • docmuc luc.doc
  • docPHUCLUC.doc