Kết quả điều trị phẫu thuật u màng não liềm não ‐ Cạnh xoang tĩnh mạch dọc trên

Biếnchứngcủaphẫuthuật Biến chứng chung hay gặp nhất sau phẫu thuật trong các nghiên cứu trên thế giới là phù não và chảy máu sau mổ. Theo Sughrue (2011), biến chứng hay gặp nhất là động kinh sau mổ là 2,2%(12). Theo DiMeco (2006), biến chứng hay gặp là phù não chiếm 8,3%(2). Raza (2011) biến chứng thường gặp là phù não 7%(3). Nguyễn Thế Hào biến chứng chảy máu hay gặp nhất 9,8%(7). Phan Trung Đông biến chứng gặp nhiều nhất là máu tụ sau mổ 11,6%, tiếp đó là rò dịch não tủy 5,8%(11). Nguyên nhân phù não sau mổ chủ yếu là nhồi máu tĩnh mạch do tổn thương XTMDT hoặc các tĩnh mạch vỏ não dẫn lưu về xoang. Trong các nhóm nghiên cứu lấy triệt để u và phần xoang bị u xâm lấn, tỉ lệ biến chứng phù não khá cao. Theo Hakuba và cs (1979), đã phẫu thuật lấy triệt để u và phần xoang bị u xâm lấn, có tái tạo XTMDT 17 trường hợp, kết quả liệt hoàn toàn sau phẫu thuật 29%(4). Theo DiMeco, Tomasello, Sughrue lấy hết u không xâm lấn vào xoang và để lại phần u xâm lấn xoang TMDT, tỉ lệ biến chứng phù não thấp hơn nhiều(2,13,12). Nghiên cứu chúng tôi có 8 (7,1%) trường hợp phù não sau phẫu thuật, kết quả này thấp hơn so với các tác giả như DiMeco 8,3%, Sughrue 10,4%, Tomasello 9,7%(2,12,13). Biến chứng phẫu thuật cũng hay gặp nhất máu tụ sau mổ và tỉ lệ này thay đổi tùy theo các tác giả. Kết quả của chúng tôi thì có 7 (6,2%) trường hợp máu tụ sau mổ, so với các tác giả thì thấp hơn Nguyễn Thế Hào là 9,8%(3); Phan Trung Đông là 11,6%(11) và cao hơn DiMeco là 1,85%(2), Sughurue 1,5%(12). Theo Gerlach, không có nguyên nhân cụ thể nào, nhưng có nhiều yếu tố thuận lợi cho chảy máu sau mổ UMN nội sọ như bệnh nhân lớn tuổi, có bệnh rối loạn đông máu, mức độ xâm lấn vào XTMDT, nguồn cấp máu trong u, kỹ thuật cầm máu trong phẫu thuật của phẫu thuật viên, vị trí, kích thước u và bản chất giải phẫu bệnh của khối u(3). Trong các trường hợp máu tụ của nghiên cứu chúng tôi, có 2/7 trường hợp cần phải phẫu thuật lại hút bỏ khối máu tụ đi, bệnh nhân sau đó khỏi hoàn toàn và xuất viện.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 42 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị phẫu thuật u màng não liềm não ‐ Cạnh xoang tĩnh mạch dọc trên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não     253  KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT U MÀNG NÃO LIỀM NÃO   ‐ CẠNH XOANG TĨNH MẠCH DỌC TRÊN  Nguyễn Hữu Nhơn*, Huỳnh Lê Phương*, Trần Thị Mai Linh*  TÓM TẮT  Mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học của u màng não cạnh xoang tĩnh mạch dọc trên và  đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật cho loại u này.  Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu với mẫu là 112 trường hợp được phẫu thuật với chẩn đoán giải phẫu  bệnh là u màng não cạnh xoang tĩnh mạch dọc trên tại BV Chợ Rẫy từ tháng 1/2013 đến tháng 9/2014.  Kết quả: Đánh giá trên 112 trường hợp u màng não liềm não – cạnh xoang tĩnh mạch dọc trên: tỉ lệ nữ/nam  là 2,3/1; tập trung ở nhóm tuổi là 41 ‐ 50 (32,1%), nhập viện chủ yếu vì đau đầu 69,6%, yếu chi 49,1%, động  kinh 29,5%. U màng não vị trí 1/3 giữa liềm não chiếm tỉ lệ cao nhất (54,5%). Đa số u màng não có kính thước 4  ‐10 cm (69,7%); phân bố tương đối không khác biệt giữa 2 bên. Trên phim cộng hưởng từ có bơm thuốc, đa số có  phù quanh u chiếm 94,6%. Kết quả phẫu thuật cho thấy: 86,6% lấy toàn bộ u theo Simpson I và II, 13,4% theo  Simpson IV. Biến chứng sau mổ là 22,3%, không có trường hợp tử vong. GOS 4&5 đạt 91,1%. Kết quả giải  phẫu bệnh u màng não lành tính chiếm đa số 79,5%; chủ yếu là dạng thượng mô (38,4%) và dạng chuyển tiếp  (32,1%). U màng não dạng không điển hình và ác tính chiếm 20,5%.  Kết luận: Đau đầu, yếu chi, động kinh là những triệu chứng quan trọng của u màng não liền não ‐ cạnh  xoang tĩnh mạch dọc trên. Phẫu thuật lấy toàn bộ u cho kết quả tốt, cải thiện được triệu chứng và tỉ lệ tử vong  của bệnh nhân khi xuất viện (p<0,05).  Từ khóa: u màng não, u màng não liềm não – cạnh xoang tĩnh mạch dọc trên, đau đầu, động kinh, GOS.  ABSTRACT   THE RESULTS OF SURGICAL TREATMENT: FALX – PARASAGITTAL MENINGIOMAS  Nguyen Huu Nhon, Huynh Le Phuong, Tran Thi Mai Linh    * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 253– 258  Objectives:  To  determine  the  clinical  epidemiological,  imaging  features  and  to  evaluate  the  results  of  surgical treatment falx‐parasagittal meningiomas.   Methods: We retrospectives reviewed 112 patients with histopathological diagnosis of meningioma at Cho  Ray hospital between January 2013 and September 2014.   Results: Our studied patients included 78 females and 34 males at all age groups, but often found higher at  the age group 41 – 50 years old (32.1%), ratio female/male is 2.3/1. The most frequent presenting symptoms were  headache, limb weakness and seizure. 69.6%, 49.1% and 29.5% respectively. 54.5% tumors were localized in 1/3  middle of the falx. Tumors diameter usually ranges from 4 – 10cm: accounted for 69.7%. In terms of imaging,  there were 94.6%  tumors with  edema  around  the  tumors. 86.6%  of  cases were  totally  removed  according  to  Simpson I and II, 13.4% cases to Simpson IV. Based on histopathologic features, meningioma was classified into 3  groups: 79.5% grade I and 20.5% grade II, III; most of meningioma grade I are meningothelial and transition.  22.3%  of  patients  occurred  the  complications  after  surgical  removal  of  tumors. Patientʹs  status  at  discharge  largely good for 91.1% and no mortality.  * Khoa Ngoại Thần Kinh Bệnh viện Chợ Rẫy  Tác giả liên lạc: ThS BS Nguyễn Hữu Nhơn;  ĐT: 0913789900;  Email: dr_nhon@yahoo.com.vn  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 254 Conclusions: Headache, limb weakness, seizures are the main symptoms of falx‐parasagittal meningioma.  Surgical totally removal of the tumors brought better results,  improved symptoms and mortality of patients at  discharge (p <0.05).  Key words: meningioma, falx‐parasagittal meningioma, surgery, headache, seizure.  ĐẶT VẤN ĐỀ  U  màng  não  (UMN)  là  những  u  nguyên  phát, xuất phát từ màng nhện, đây là thương tổn  chiếm một tỉ lệ đáng kể từ 15 – 20% các u trong  sọ(6). UMN đa số lành tính, ít xâm lấn, phát triển  chậm, có  thể gặp ở mọi vị  trí nơi có màng não  bao phủ. UMN liềm não (LN) ‐ cạnh xoang tĩnh  mạch dọc  trên  (XTMDT)  là những khối u xuất  phát từ liềm não và thành bên xoang tĩnh mạch  dọc  trên  chiếm  tỉ  lệ  từ 20 – 33%  các UMN nội  sọ(1). Phẫu thuật lấy triệt để loại u này, còn là một  vấn đề tương đối khó, do u nằm sâu ở liềm não,  u dính vào thành xoang, có thể xâm lấn vào bên  trong  lòng xoang,  làm bít tắc xoang và xâm  lấn  cả hai bên bán cầu, gây phù não xung quanh. Do  đó, phẫu  thuật  lấy hoàn  toàn u, bảo  tồn những  chức  năng  xung  quanh  và  lựa  chọn  những  phương pháp lấy u triệt để, tái tạo XTMDT hay  để lại phần u trong lòng xoang còn là một vấn đề  tranh cãi. Phẫu thuật dễ hay khó tuỳ thuộc vị trí,  kích thước, tính chất của u và độ xâm lấn của u  vào XTMDT. Chúng tôi thực hiện đề tài nghiên  cứu này nhằm khảo  sát  đặc  điểm  lâm  sàng và  đánh giá kết quả điều trị UMNLN cạnh XTMDT  bằng phương pháp vi phẫu thuật.  ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Phương pháp nghiên cứu  Thiết kế hồi cứu cắt ngang với 112 trường hợp.   Đối tượng  Các  bệnh nhân  được  chẩn  đoán UMNLN  cạnh XTMDT  được  điều  trị phẫu  thuật  lấy u  và có kết quả giải phẫu bệnh là UMN tại khoa  Ngoại  thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy  từ  tháng  01 năm 2013 đến tháng 09 năm 2014.   KẾT QUẢ   Tuổi mắc bệnh   Bảng 1: Phân bố độ tuổi mắc bệnh  Khoảng tuổi 21 - 30 31 – 40 41 - 50 51 - 60 > 60 Tổng Bệnh nhân 6 17 36 24 29 112 Tỉ lệ (%) 5,3 15,2 32,1 21,4 26 100 UMNLN  cạnh  XTMDT  xuất  hiện  ở  người  lớn  (từ 21  tuổi  trở  lên), không ghi nhận  trường  hợp nào ở trẻ nhỏ và thiếu niên. U tập trung từ  độ tuổi 41 trở lên, có tỉ lệ cao nhất trong nhóm từ  41 – 50 tuổi (32,1%) và kế đó là nhóm tuổi trên 60  chiếm 26% (Bảng 1).   Giới tính   Giới  nữ mắc  bệnh  (69,6%)  nhiều  hơn  giới  nam (30,4%), theo tỉ lệ nữ:nam = 2,3:1.  Thời gian khởi phát bệnh   Phần  lớn  các  trường hợp,  bệnh nhân nhập  viện  trễ  hơn  8  tuần  kể  từ  khi  xuất  hiện  triệu  chứng đầu tiên (52,7%), kế đó là sớm hơn 4 tuần  chiếm 37,5%.  Tình trạng lúc nhập viện  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  có  93,7%  trường  hợp  bệnh  nhân  nhập  viện  trong  tình  trạng tỉnh táo (GCS 14,15đ); lơ mơ (GCS 10‐13đ)  chiếm  1,8%  và  5  trường  hợp  nhập  viện  trong  trạng thái hôn mê (GCS 3‐9đ) chiếm 4,5%.  Triệu chứng lâm sàng   Đa  số  các  trường  hợp  nhập  viện  đều  có  biểu hiện triệu chứng, ngoại trừ 4 trường hợp  được phát hiện  tình  cờ  sau một  chấn  thương  đầu. Đau đầu  là triệu chứng thường gặp nhất  trong nghiên cứu chiếm 69,6%, kế đến  là biểu  hiện yếu chi chiếm 49,1% và động kinh chiếm  29,5%. Ngoài ra những triệu chứng khác ít gặp  hơn bao gồm: mờ mắt (5,4%), nôn ói (6,3%), rối  loạn tri giác (6,3%) và rối loạn tâm thần (0,9%)  (bảng 2).   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não     255  Bảng 2: Phân bố triệu chứng lâm sàng  Đau đầu Nôn ói Yếu chi Động kinh Mờ mắt Rối loạn tri giác Rối loạn tâm thần 78 7 55 33 6 7 1 69,6% 6,3% 49,1% 29,5% 5,4% 6,3% 0,9% Đặc điểm hình ảnh học của UMN   Tất cả các trường hợp đều được khảo sát bằng  MRI  sọ não  có bơm  thuốc  cản  từ. Trong nghiên  cứu  chúng  tôi,  UMNLN  cạnh  XTMDT  có  kích  thước u từ 4 – 10 cm chiếm đa số 69,7%; u có kích  thước dưới  4  cm  chiếm  30,3%; không  có  trường  hợp nào u lớn hơn 10 cm. Vị trí UMN tương quan  với  LN‐XTMDT  được  phân  bố  chiếm  đa  số  1/3  giữa (54,5%), kế đó là 1/3 trước chiếm 33% và 1/3  sau  chiếm 12,5%. UMN  cạnh XTMDT phát  triển  một bên liềm đại não chiếm đa số 82,1%, hai bên  liềm đại não chiếm 17,9% (bảng 3).  Bảng 3: Vị trí UMNLN cạnh XTMDT  Vị trí 1/3 trước 1/3 giữa 1/3 sau Tổng số 1 bên 28 53 11 92 2 bên 9 8 3 20 37 (33%) 61 (54,5%) 14 (12,5%) 112 Trong nghiên cứu chúng tôi, đa số các UMN  đều  có  hình  ảnh  phù  não  trên  MRI  sọ  não  (106/112  trường hợp). Trong đó, độ phù dưới 2  cm chiếm 46,4%; trên 2 cm chiếm 48,2%.   Đặc điểm mổ lấy u  Trong nghiên cứu có 20,5% bệnh nhân được  mổ lấy toàn bộ u và cắt phần liềm não ngang u;  66,1% mổ  lấy  toàn bộ u không cắt  liềm não và  13,4%  lấy  gần  hết  u.  Ghi  nhận  có mối  tương  quan giữa cách thức lấy u và tình trạng khi xuất  viện của bệnh nhân (p< 0,05).  Biến chứng của phẫu thuật  Có 25/112  trường hợp  (22,3%) biến  chứng  của  phẫu  thuật  bao  gồm:  phù  não  sau  mổ  7,1%, máu  tụ  sau mổ  6,2%,  viêm màng  não  2,7%,  nhiễm  trùng  vết mổ  0,9%,  biến  chứng  thần kinh nặng hơn (yếu liệt sau mổ) 5,4%.  Kết quả giải phẫu bệnh   Trong  112  bệnh  nhân,  UMNLN  cạnh  XTMDT  xếp  độ  I  chiếm  đa  số  79,5%;  độ  II  chiếm 17,8% và độ III chiếm 2,7%. Trong UMN  có  độ mô học xếp  độ  I,  chiếm  đa  số  là UMN  dạng thượng mô và dạng chuyển tiếp (Bảng 4).  Bảng 4: Phân loại theo giải phẫu bệnh  Phân loại Số lượng Tỉ lệ (%) WHO UMN dạng thượng mô 43 38,4 Độ I UMN dạng chuyển tiếp 36 32,1 UMN thể vôi hóa 5 4,5 UMN dạng tăng sinh mạch 2 1,8 UMN thể cát 3 2,7 UMN dạng không điển hình 17 15,1 Độ II UMN dạng dây sống 3 2,7 UMN thoái sản 3 2,7 Độ III Thời gian nằm viện   Đa số các trường hợp có thời gian nằm viện  trên 2 tuần chiếm 68,8%; 31,2% bệnh nhân nằm  viện từ 7 – 14 ngày.   Kết quả GOS lúc xuất viện   Trong thời gian thực hiện nghiên cứu, chúng  tôi  có  5  trường hợp UMN  tái phát  được nhập  viện điều trị phẫu thuật lần 2. Đa số bệnh nhân  có GOS tốt lúc xuất viện chiếm 91,1%, trung bình  8,9% và không có trường hợp nào tử vong.  BÀN LUẬN  Tuổi mắc bệnh   Qua khảo sát 112 trường hợp UMNLN cạnh  XTMDT, chúng tôi nhận thấy tuổi phân bố từ trên  20 tuổi, tập trung cao ở nhóm 41 – 50 tuổi và trên  60 tuổi. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của  DiMeco và Tomasello các UMNLN cạnh XTMDT  gặp ở mọi độ tuổi từ 20 trở lên(2,13). Nhóm tuổi tập  trung cao nhất trong nghiên cứu chúng tôi là 41 –  50  tuổi, có khác biệt với Nguyễn Tấn Luông và  Phan Trung Đông gặp nhiều nhất ở nhóm 50 – 59  tuổi(11,6). Sự khác biệt này  có  thể do  cỡ mẫu  của  chúng  tôi  lớn hơn vì UMNLN  cạnh XTMDT  có  độ tuổi trung bình từ 45 – 60 tuổi.   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 256 Giới tính   Trong các thống kê UMN nội sọ, nữ thường  cao hơn nam,  tỉ  lệ dao động  từ 2/1‐3/1. Đối với  UMN  liềm não và  cạnh XTMDT,  tỉ  lệ nữ  cũng  vượt trội nhiều hơn nam giới. Theo Raza, UMN  liềm não và cạnh XTMDT có tỉ lệ nữ: nam là 4:1.  Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ nữ: nam là 2,3:  1, cũng phù hợp với nghiên cứu của Phan Trung  Đông có tỉ lệ nữ: nam là 2,4:1(11).  Đặc điểm triệu chứng lâm sàng  Biểu  hiện  lâm  sàng  của UMN  liềm  não  và  cạnh  xoang  TMDT  thường  không  điển  hình,  thường  gặp  nhất  các  dấu  hiệu  đau  đầu,  động  kinh  cục bộ kiểu Bravais  –  Jackson và  rối  loạn  vận động không đồng đều, chủ yếu ở chi dưới,  do u nằm ở vị  trí 1/3 giữa kích thích hoặc chèn  ép  vào  vùng  vỏ  não  vận  động  cảm  giác.  Tùy  theo vị trí của khối u và độ phù não mà u có biểu  hiện triệu chứng lâm sàng khác nhau.  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  qua  112  trường  hợp  cho  thấy,  triệu  chúng  lâm  sàng  phổ  biến  nhất  là  đau  đầu  69,6%,  kế  đến  yếu  chi  49,1%,  động  kinh  chiếm  29,5%  và  những  triệu  chứng  khác ít gặp hơn bao gồm: mờ mắt (5,4%), nôn ói  (6,3%), rối loạn tri giác (6,3%), rối loạn tâm thần  (0,9%). Theo DiMeco, triệu chứng động kinh hay  gặp nhất 50%,  ít gặp nhất  là rối  loạn ngôn ngữ  1,8%(2). Theo Phan Trung Đông, triệu chứng hay  gặp nhất là yếu chi chiếm 56,6% và ít gặp nhất là  rối loại tri giác 5,8%(11).  Trong khảo sát của chúng tôi, ngoài dấu hiệu  đau  đầu,  triệu  chứng yếu  chi  có  tỉ  lệ  cao nhất,  biểu hiện chủ yếu ở chân bên đối diện, thậm chí  cả hai chân. Kết quả này cũng phù hợp với các  tác giả Phan Trung Đông, Nguyễn Thế Hào và  Giombini,  Caroli(11,7,1).  Theo  các  tác  giả  nhận  định, UMNLN  cạnh XTMDT biểu hiện  thường  gặp nhất  là rối  loạn vận động. Nguyên nhân  là  do vị trí khối u chủ yếu ở 1/3 giữa, u phát triển  to, phù não nhiều, chèn ép vùng vận động ở hồi  trước trung tâm gây ra các triệu chứng biểu hiện  thường không điển hình, có thể nhầm  lẫn bệnh  lý các bệnh lý khác như bệnh lý tủy sống.   Bên  cạnh  đó, khảo  sát  của  chúng  tôi,  động  kinh cũng  thường gặp có  tỉ  lệ 29,5%. Biểu hiện  chủ yếu là động kinh cục bộ theo kiểu Bravais –  Jackson. Nguyên  nhân  có  thể  do  u  kích  thích  trực  tiếp  vào  vỏ  não  chức  năng.  Kết  quả  của  chúng tôi cũng phù hợp với Tomasello (37,8%),  Nowak  (37,3%)(13,9).  Nghiên  cứu  chúng  tôi  có  5,4%  trường hợp  có  triệu  chứng mờ mắt,  cũng  phù hợp với các tác giả Suhgrue (4,7%), DiMeco  (3,7%)(12,2).   Đặc điềm hình ảnh học  Tùy theo gốc bám của u bên tổn thương của  UMN mà có sự phân bố và hướng phát triển làm  tổn thương bán cầu đại não hoặc các thành của  xoang  TMDT,  có  thể  xâm  lấn  vào  xoang  hoặc  không xâm lấn vào xoang TMDT. UMNLN cạnh  XTMDT phát  triển một bên  liềm đại não chiếm  đa số 82,1%, hai bên  liềm đại não chiếm 17,9%.  So sánh với các tác giả, kết quả của chúng tôi u  nằm  ở  vị  trí  2  bên  cao hơn Phan Trung  Đông  1,9% và thấp hơn nhiều so với DiMeco 25,9%(11,2).  Phân bố UMNLN  cạnh XTMDT  theo vị  trí  gốc u bám dọc theo XTMDT và liềm đại não. Sự  phân  chia  này  rất  có  ý  nghĩa  trong  quá  trình  chẩn  đoán  lâm  sàng  và  quá  trình  phẫu  thuật.  Trong nghiên cứu chúng tôi, u ở vị trí 1/3 giữa có  tỉ lệ cao nhất 54,5%. Điều này cũng phù hợp với  các  tác  giả  Giombini  57,6%,  Caroli  61,4%,  Tomasello  52,2%;  cao  hơn  so  với  Phan  Trung  Đông 47,2% và Nguyễn Tấn Luông 40,9%(3,1,13,11,6).  Điều này cho thấy, UMNLN cạnh XTMDT, vị trí  thường gặp và phổ biến nhất ở 1/3 giữa.  Chúng  tôi dựa vào  cộng hưởng  từ đo kích  thước u nơi có đường kính lớn nhất. Kích thước  từ 4 ‐10 cm chiếm tỉ lệ cao nhất 69,7%, còn lại là u  có kích thước nhỏ hơn 4 cm. Điều này phù hợp  với đa số UMN  lành  tính, phát  triển chậm, âm  thầm,  đến khi khởi phát  triệu  chứng  lâm  sàng  thì kích thước u đã lớn.  Phù là dấu hiệu thường gặp trong UMN nội  sọ  94,6%.  So  sánh  với phù  quanh u  của UMN  trong sọ, tỉ lệ phù quanh u của chúng tôi cao hơn  với  kết  quả  nghiên  cứu  của  các  tác  giả  Phạm  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não     257  Ngọc  Hoa  (68,8%),  Nguyễn  Thị  Bảo  Ngọc  (72,9%), Osborn  (60%)(10,8). Đồng  thời gần  tương  đồng với Nguyễn Quốc Dũng (95,7%)(5).   Đặc điểm phương pháp phẫu thuật lấy u   Trong nghiên cứu của chúng  tôi được  thực  hiện tại bệnh viện Chợ Rẫy, hầu hết các trường  hợp  đều vi phẫu  lấy hết u không xâm  lấn vào  xoang, bảo tồn xoang và để  lại phần u xâm  lấn  vào  xoang  TMDT.  Đối  với  u  dính  vào  thành  xoang TMDT hoặc tĩnh mạch cầu nối vỏ não, thì  bóc  tách  nhẹ  nhàng,  cẩn  thận  để  tránh  tổn  thương mạch máu  gây mất máu  và  phù  não  nghiêm  trọng hơn. Nếu u dính  chặt,  thì  để  lại  phần u dính, không cố lấy mà tổn thương nặng  thêm, phần u xâm lấn vào xoang sẽ có kế hoạch  xạ phẫu Gamma Knife sau phẫu thuật. Kết quả  nghiên  cứu  có  20,5%  bệnh  nhân  được mổ  lấy  toàn bộ u và cắt phần  liềm não ngang u; 66,1%  mổ  lấy  toàn bộ u không cắt  liềm não và 13,4%  lấy gần hết u để lại phần u xâm lấn vào XTMDT.  Không có trường hợp nào  lấy bán phần u hoặc  sinh  thiết  u. Chúng  tôi  cũng  ghi  nhận  có mối  tương quan giữa  cách  thức  lấy u và  tình  trạng  khi xuất viện của bệnh nhân (p< 0,05).  Giải phẫu bệnh   Theo phân  độ mô học của  tổ  chức y  tế  thế  giới (WHO) năm 2007, UMN được chia thành 3  độ chính: Độ  I  lành  tính, nếu  được phẫu  thuật  lấy u triệt để thì xem như khỏi bệnh hoàn toàn.  Độ II cũng được xem như lành tính nhưng tỉ lệ  tái phát khá cao, nếu chỉ được phẫu  thuật đơn  thuần. Độ  III có độ ác  tính cao, nếu được phẫu  thuật lấy u và sau phẫu thuật chúng tôi thấy có  xạ  trị  kèm  theo.  Trong  nghiên  cứu  chúng  tôi,  UMN cạnh XTMDT xếp độ I chiếm đa số 79,5%;  độ II chiếm 17,8% và độ III chiếm 2,7%. Kết quả  này không khác biệt với nghiên cứu của Nguyễn  Tấn Luông có UMN lành tính chiếm hầu hết với  tỉ lệ 86,4%, UMN không điển hình chiếm 9,1% và  ác  tính  chiếm 4,5%(5). Kết quả này  cao hơn với  Sindou và Phan Trung Đông(12,11).  Trong  UMN  lành  tính,  nghiên  cứu  của  chúng tôi tỉ lệ UMN dạng thượng mô chiếm tỉ lệ  cao nhất. Đối với UMN dạng không  điển hình  và ác tính thì chúng tôi có 20,5%, cũng không cao  hơn  nhiều  so  với  Phan  Trung  Đông  11,6%,  Caroli 14,8%, DiMeco 12,3%(11,1,2).  Biến chứng của phẫu thuật  Biến  chứng  chung  hay  gặp  nhất  sau  phẫu  thuật  trong các nghiên cứu  trên  thế giới  là phù  não và chảy máu sau mổ. Theo Sughrue (2011),  biến chứng hay gặp nhất là động kinh sau mổ là  2,2%(12). Theo DiMeco (2006), biến chứng hay gặp  là phù não chiếm 8,3%(2). Raza (2011) biến chứng  thường gặp  là phù não 7%(3). Nguyễn Thế Hào  biến chứng chảy máu hay gặp nhất 9,8%(7). Phan  Trung Đông biến chứng gặp nhiều nhất là máu  tụ  sau mổ  11,6%,  tiếp  đó  là  rò  dịch  não  tủy  5,8%(11). Nguyên nhân phù não sau mổ chủ yếu  là nhồi máu  tĩnh mạch do  tổn  thương XTMDT  hoặc các tĩnh mạch vỏ não dẫn lưu về xoang.   Trong các nhóm nghiên cứu lấy triệt để u và  phần xoang bị u xâm  lấn,  tỉ  lệ biến chứng phù  não khá cao. Theo Hakuba và cs (1979), đã phẫu  thuật lấy triệt để u và phần xoang bị u xâm lấn,  có  tái  tạo XTMDT  17  trường  hợp,  kết  quả  liệt  hoàn  toàn sau phẫu  thuật 29%(4). Theo DiMeco,  Tomasello, Sughrue lấy hết u không xâm lấn vào  xoang và để lại phần u xâm lấn xoang TMDT, tỉ  lệ  biến  chứng  phù  não  thấp  hơn  nhiều(2,13,12).  Nghiên  cứu  chúng  tôi  có  8  (7,1%)  trường  hợp  phù não sau phẫu thuật, kết quả này thấp hơn so  với các tác giả như DiMeco 8,3%, Sughrue 10,4%,  Tomasello 9,7%(2,12,13).   Biến  chứng phẫu  thuật  cũng hay  gặp  nhất  máu tụ sau mổ và tỉ lệ này thay đổi tùy theo các  tác  giả. Kết  quả  của  chúng  tôi  thì  có  7  (6,2%)  trường hợp máu tụ sau mổ, so với các tác giả thì  thấp  hơn  Nguyễn  Thế  Hào  là  9,8%(3);  Phan  Trung  Đông  là  11,6%(11)  và  cao hơn DiMeco  là  1,85%(2), Sughurue 1,5%(12). Theo Gerlach, không  có nguyên nhân cụ thể nào, nhưng có nhiều yếu  tố thuận lợi cho chảy máu sau mổ UMN nội sọ  như bệnh nhân  lớn  tuổi, có bệnh rối  loạn đông  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 258 máu, mức độ xâm  lấn vào XTMDT, nguồn cấp  máu  trong  u,  kỹ  thuật  cầm  máu  trong  phẫu  thuật của phẫu thuật viên, vị trí, kích thước u và  bản chất giải phẫu bệnh của khối u(3). Trong các  trường hợp máu tụ của nghiên cứu chúng tôi, có  2/7  trường hợp  cần phải phẫu  thuật  lại hút bỏ  khối máu  tụ  đi,  bệnh  nhân  sau  đó  khỏi  hoàn  toàn và xuất viện.  KẾT LUẬN   UMN  là  một  trong  những  u  lành  tính  thường gặp, xuất hiện  ở người  lớn  là  chủ yếu.  Qua nghiên cứu 112 trường hợp UMNLN cạnh  XTMDT tại bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi nhận  thấy u xảy ra nhiều ở độ tuổi 41 – 50 tuổi và trên  60 tuổi. Thời gian khởi phát bệnh thường gặp là  trên 8  tuần với  triệu chứng củ yếu  là đau đầu,  yếu chi và động kinh. U đa số có kích thước lớn  từ 4 – 10 cm,  thường gặp  ở vị  trí 1/3 giữa LN‐ XTMDT và phát triển 1 bên là chủ yếu. Phần lớn  bệnh nhân được  lấy  toàn bộ u, đốt màng cứng  trên u với kết quả giải phẫu bệnh đa số là UMN  dạng thượng mô và dạng chuyển tiếp độ I. Đánh  giá  tình  trạng  lâm  sàng,  hình  ảnh  học  và  can  thiệp điều trị vi phẫu thuật gần như triệt để theo  phân  loại  của  Simpson  là  phương  pháp  thích  hợp, góp phần giảm  tỉ  lệ  tử vong và  cải  thiện  chất lượng cuộc sống của bệnh nhân có ý nghĩa.   TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Caroli  E,  Orlando  ER,  Mastronardi  L,  Ferrante  L  (2006),  “Menigiomas  ilfiltrating  the  superior  sagittal  sinus:  surgical  considerations of 328 cases”. Neurosurg Rev 29, pp. 236‐241.  2. DiMeco F, Li K, Casali C (2004), “Meningiomas Invading the  Superior  Sagittal  Sinus:  Surgical  Experience  in  108  Cases”.  Neurosurgery, 55 (6), pp. 1262‐1274.  3. Gerlach  R,  Raabe A  (2004),  “Postoperative  hematoma  after  surgery  for  intracranial meningiomas: causes, avoidable risk  factors and  clinical outcome”. Neurological Reseach, 26, pp.  61‐66.  4. Hakuba A, Huh CW, Tsujikawa S, Nishimura S (1979), “Total  removal of a Parasagittal Meningioma of the posterior third of  the sagittal sinus and  its repair by autogenous vein graft”.  J  Neurosurgery, 51, pp. 379‐382.  5. Nguyễn Quốc Dũng (1995), Nghiên cứu chẩn đoán và phân  loại các khối u trong hộp sọ bằng chụp cắt lớp vi tính. Luận  án Tiến sĩ Y học. ĐH Y Hà Nội.  6. Nguyễn Tấn Luông  (2013), Đánh giá kết quả  điều  trị phẫu  thuật u màng não  liềm não cạnh xoang  tĩnh mạch dọc  trên.  Luận văn Thạc sĩ y học. ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh.  7. Nguyễn Thế Hào, Phạm Quỳnh Trang (2011), “Đặc điểm lâm  sàng, chẩn đoán hình ảnh và kết quả phẫu thuật của u màng  não  vùng  xoang  tĩnh mạch  dọc  trên”.  Tạp  chí  Y  học Việt  Nam, (1), tr. 51‐ 54.  8. Nguyễn Thị Bảo Ngọc  (2011), Khảo  sát  đặc  điểm hình  ảnh  cộng hưởng từ của u màng não nội sọ. Luận văn tốt nghiệp  Bác sĩ nội trú. Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, tr. 55‐76.  9. Nowak  A,  Dziedzic  T  (2014),  “Surgical  treatment  of  parasagittal and  falcine meningiomas  invading  the  superior  sagittal sinus”. Neurologia Neurochirurgia Polska, 34, pp.1‐7.  10. Phạm Ngọc Hoa  (2002), Nghiên  cứu một  số  đặc  điểm  lâm  sàng và hình ảnh chụp cắt lớp vi tính của u màng não nội sọ.  Luận án Tiến sĩ Y học. Học Viện Quân Y.  11. Phan Trung  Đông  (2000),  Điều  tri phẫu  thuật u màng não  cạnh xoang tĩnh mạch dọc trên và liềm não. Luận văn thạc sĩ  Y học. ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh.  12. Sughrue ME, Rutkowski MJ, Shangari GS (2011), “Results and  management  of  parasagittal  and  facine  meningiomas”.  J  Neurosurgery, 114, pp. 731‐737.  13. Tomasello  FD,  Conti  A,  Cardali  S,  Angileri  FF  (2013),  “Venous  preservation–guided  resection:  a  changing  paradigm  in  parasagittal  meningioma  surgery”.  J  Neurosurg, 119, pp.74‐81.  Ngày nhận bài báo:       21/10/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   2/11/2014  Ngày bài báo được đăng:    5/12/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_dieu_tri_phau_thuat_u_mang_nao_liem_nao_canh_xoang_t.pdf
Tài liệu liên quan