Kết quả thực hiện phẫu thuật bắc cầu tại chỗ trong tắc động mạch mạn chi dưới bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá van tại bệnh viện nhân dân 115

Kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ Theo bảng 7 và 8, qua 50 trường hợp được thực hiện loại phẫu thuật này, đã có 86% cho kết quả sớm sau mổ tốt, 4% chỉ đạt mức trung bình, và 10% chưa tốt. Phân tích các trường hợp Bn phải đoạn chi sau mổ cho thấy có nhiều yếu tố sẽ phải được cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi tiến hành phẫu thuật. Một số vấn đề có thể xảy ra sau các phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ điều trị tắc ĐM mạn tính chi dưới như: hẹp hoặc tắc miệng nối; nhiễm trùng vết mổ hay từ ổ loét hoặc mỏm cụt lan rộng, biến chứng tác động từ những bệnh lý nội khoa nặng kèm theo. Đặc biệt với một kỹ thuật mới được đưa vào áp dụng luôn cần có thời gian hoàn chỉnh và phát triển. Trong 05 trường hợp hẹp tắc miệng nối (bảng 8) dẫn tới Bn phải đọan chi, chiếm 10% các trường hợp đã có 3/5 Bn có các bệnh ĐTĐ, suy thận mạn hoặc cả hai. Cũng có 3/5 Bn sử dụng các loại cầu nối phức tạp. Tất cả 05 Bn đều có loét chi, nhiễm trùng lan tỏa và mức độ tắc ĐM mạn ở độ IV. Như vậy căn cứ vào các yếu tố để đảm bảo một miệng nối thông tốt sau phẫu thuật bắc cầu nối ĐM như đã trình bày ở trên thì có thể lý giải được một phần kết quả trong nghiên cứu chưa đáp ứng như mong muốn (bảng 8). Theo nghiên cứu của Bv Chợ Rẫy(5) trong 21 ca thực hiện cầu nối từ 5/2004 đến 12/2004 có 5 ca (chiếm 24%) có nhiễm trùng vết mổ, tắc miệng nối 01 trường hợp và hẹp miệng nối (hẹp 70% miệng nối xa) 1 trường hợp. Một số tác giả nước ngoài như Joseph Dennis gặp tỷ lệ tắc cầu nối sớm khoảng 2- 3%, Davidson là 4,2%.

pdf11 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 109 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả thực hiện phẫu thuật bắc cầu tại chỗ trong tắc động mạch mạn chi dưới bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá van tại bệnh viện nhân dân 115, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 82 KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI BẰNG TĨNH MẠCH HIỂN CÓ NỘI SOI PHÁ VAN TẠI BV. NHÂN DÂN 115 Cao Văn Thịnh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Thiếu máu mạn tính chi dưới thường gặp và do nhiều nguyên nhân. Điều trị nhóm bệnh này có nhiều phương pháp nhưng kết quả còn khiêm tốn. Phẫu thuật bắc cầu động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có thực hiện nội soi phá van đã được thực hiện mặc dù còn nhiều thách thức. Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ trong điều trị thiếu máu mạn tính chi bằng kỹ thuật tĩnh mạch hiển có nội soi phá van tại Bv Nhân Dân 115 từ 1/2006 đến 12/2010. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, có phân tích các trường hợp lâm sàng. Kết quả: Từ 01/2007 đến 12/2010 tại Bv Nhân Dân 115 đã phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ cho 50 trường hợp thiếu máu mạn tính chi dưới, gồm 10 nữ và 40 nam. Nguyên nhân thiếu máu mạn chi dưới do biến chứng của bệnh đái tháo đường (06 Bn), xơ vữa động mạch (37 Bn), Suy thận mạn (03 Bn) và bệnh Buerger (4 Bn). Các trường hợp sau phẫu thuật có kết quả tốt chiếm 86%, trung bình 4% và xấu 10%. Kết luận: Ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển có thực hiện nội soi phá van trong phẫu thuật bắc cầu nối điều trị thiếu máu mạn tính chi dưới là kỹ thuật mới, tiến bộ, áp dụng khả thi tại Việt Nam. Những kết quả sớm sau triển khai kỹ thuật này tại BV Nhân dân 115 là bước đầu được ghi nhận. Bên cạnh những ưu điểm của kỹ thuật còn những thách thức được đặt ra như: Đánh gía cẩn thận Bn trước mổ và lựa chọn chỉ định phẫu thuật ; Tận dụng tối đa các phương tiện như siêu âm Doppler, DSA, CTscan trong chẩn đoán, theo dõi bệnh và nội soi lòng mạch phá van khi thực hiện kỹ thuật ; Tích luỹ kinh nghiệm và huấn luyện kỹ càng cho nhóm các Bs phẫu thuật viên thực hiện kỹ thuật mới tại cơ sở điều trị ; Tăng cường số lượng các bệnh nhân được thực hiện kỹ thuật mới trong phẫu thuật bắc cầu nối nhằm tăng tính thuyết phục và tính khoa học của nghiên cứu. Từ khóa: Phẫu thuật bắc cầu động mạch tại chỗ có thực hiện nội soi phá van, thiếu máu mạn tính chi dưới. ABSTRACT INSITU SAPHENOUS VEIN BYPASS GRAFT WITH ANGIOSCOPEFOR VALVECTOMIES IN THE SURGICAL TREATMENT OFCHRONIC ARTERIAL ISCHEMIA OF THE LOWER LIMBS Cao Van Thinh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 81 - 91 Introduction: Chronic low-extremity arterial ischemia is a common disease with many causes. While there are many treatments available to these patients, none yield more than modest results. In situ saphenous vein bypass graft with angioscope in which valves are cut under direct visualization is a surgical technique newly available in Vietnam. Although there are many difficulties, preliminary results suggest that the implementation of this technique will improve the management of this disease. Objectives: Assessment of preliminary results of in situ saphenous vein bypass graft technique with angioscope. * Khoa Ngoại Lồng Ngực - ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Cao Văn Thịnh ĐT: 0908.338.823 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 83 Methods: Prospective and case study. Patients with chronic ischemia of the lower extremity were admitted to the Vascular-Thoracic Unit, 115 people’s Hospital, HCM city. Results: For nearly 2 years (June 2004 to Sep 2006), at department of General Surgery – 115 People’s Hospital, our Unit received 50 cases with chronic ischemia of the lower extremity, including 26 females and 34 males with the average age 54. The causes of diseases included diabetics (10 cases), arterial sclerotherosis (32 cases) and the others (8 cases). 9 cases were carried out bypass technique in which 3 patients were done with in situ saphenous vein bypass graft with angioscope. The result of 3 patients is good. The ischemia was improved and ulceration at foot was dry and heal. Conclusion: In situ saphenous vein bypass graft with angioscope is a surgical technique which has been applied in many developed countries on the world. It is newly available in Vietnam. Advantages of this technique are less damage to veins and nerves, and disadvantages are equipment, indications, technique and the role of anaesthesia, but with the preliminary results, we think that the implementation of this technique will improve the management of this disease in Vietnam. Key words: Chronic low-extremity arterial ischemia, in situ saphenous vein bypass graft with angioscope. ĐẶT VẤN ĐỀ Tình trạng thiếu máu mạn tính chi dưới có thể gặp cả ở các bệnh nhân (Bn) có hoặc không có đái tháo đường. Vị trí tắc mạch mạn thường thấy như động mạch đùi, khoeo, chầy hay mu chân. Khi tổn thương càng ở đầu xa, việc điều trị và tiên lượng càng khó khăn hơn. Không ít các trường hợp bệnh đã phải đoạn chi. Với mục đích giảm thiểu số Bn phải đoạn chi, nhiều nhà khoa học đã nỗ lực áp dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật thích hợp nhằm tăng tưới máu phần ngọn chi. Nếu tính từ thập niên 40-50 việc điều trị tắc hệ thống từ động mạch chầy chỉ bằng đoạn chi, thậm chí phẫu thuật đoạn chi được coi là một đặc thù dành cho biến chứng của bệnh đái tháo đường. Trong thập niên 60-70 phẫu thuật bắc cầu nối đùi – khoeo đã được nghiên cứu và áp dụng thành công. Vào những năm 80, nhóm các Bác sĩ ở New York đã sử dụng kỹ thuật ghép tại chỗ và có khả năng bắc cầu nối đến động mạch chầy. Năm 1985 Campbell(1,4) cùng các đồng nghiệp ở Boston (Mỹ) đã ghi nhận một trường hợp Bn có tổn thương động mạch chầy nhưng còn mạch mu chân và người bệnh đã được bắc cầu nối từ động mạch đùi xuống động mạch mu chân thành công. Kỹ thuật này đã mở ra nhiều khả năng trong điều trị chứng tắc mạch mạn ở Bn đái tháo đường. Phẫu thuật bắc cầu bằng tĩnh mạch hiển có thể sử dụng đoạn tĩnh mạch tự thân đảo chiều hay thuận chiều. Một số trường hợp có thể dùng tĩnh mạch cánh tay khi tĩnh mạch hiển không sử dụng được. Với kỹ thuật ghép tại chỗ, tĩnh mạch hiển được giữ thuận chiều và phải thực hiện thủ thuật phá van tĩnh mạch đảm bảo sự lưu thông tốt của dòng máu chảy. Hiện nay kỹ thuật này đã được nhiều tác giả nước ngoài sử dụng thường qui và cho hiệu quả khả quan. Ở Việt Nam, bệnh lý thiếu máu chi dưới khá thường gặp chủ yếu do xơ vữa động mạch hoặc bệnh Buerger, biến chứng của bệnh đái tháo đường. Phẫu thuật bắc cầu nối phục hồi lưu thông tưới máu ngọn chi cũng đã được nghiên cứu áp dụng. Giai đoạn 1990-1994 tại Bệnh viện (Bv) Chợ Rẫy TP.HCM theo Phạm Thọ Tuấn Anh đã thực hiện được 21 trường hợp, đa số là tắc trung tâm (tắc gần). Trong 7 trường hợp dùng tĩnh mạch tự thân, chủ yếu dùng đảo đầu khi ghép nối, chỉ có 01 trường hợp được dùng thuận chiều. Những khó khăn khi ghép tĩnh mạch hiển tại chỗ thuận chiều không chỉ đơn thuần về kỹ thuật mà có liên quan đến vấn đề phá van tĩnh mạch hiển. Với những tiến bộ về y học trong những năm gần đây cho phép áp dụng nội soi lòng mạch giúp hướng dẫn và kiểm tra khi tiến hành phá van tĩnh mạch sẽ đảm bảo cho thành công chung của cuộc phẫu thuật. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 84 Trong khoảng 03 năm qua, từ cuối năm 2003, với sự hợp tác quốc tế và sự phối hợp làm việc tốt hơn giữa các chuyên khoa như tim mạch, nội tiết, gây mê hồi sức, chăm sóc bàn chân và phẫu thuật mạch máu. Kỹ thuật ghép bắc cầu tĩnh mạch hiển tại chỗ có sử dụng nội soi phá van đã được bàn bạc, nghiên cứu và bắt đầu áp dụng tại Bv Bình Dân và nay tại Bv Nhân Dân 115 TP.HCM. Kết quả của những trường hợp phẫu thuật phối hợp giữa các Bác sĩ Việt Nam và các Bác sĩ Mỹ thuộc Đại học Harvard, với những trang thiết bị cần thiết tối thiểu và một số kinh nghiệm ban đầu rút ra từ cách chọn bệnh, chỉ định phẫu thuật, theo dõi đánh giá sau mổ đến xây dựng kế hoạch phát triển kỹ thuật mới tại các cơ sở điều trị tại Việt Nam là rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn. Phân tích các trường hợp lâm sàng có thiếu máu mạn tính chi dưới được phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ có nội soi phá van tĩnh mạch hiển sẽ làm cơ sở cho việc triển khai mạnh hơn kỹ thuật mới tại Việt Nam, nhằm hội nhập và tiếp cận một cách tích cực trong điều trị các bệnh lý về mạch máu ngoại biên trong hoàn cảnh hiện nay. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Nhận xét kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá van trong điều trị tắc động mạch mạn tính chi dưới tại BV Nhân Dân 115 TP.HCM từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2010. Mục tiêu chuyên biệt Đặc điểm dịch tễ học và bệnh lý tắc động mạch mạn của nhóm bệnh nghiên cứu. Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá van trong điều trị tắc động mạch mạn chi dưới. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, phân tích các trường hợp lâm sàng. Đối tượng nghiên cứu Tất cả các bệnh nhân có thiếu máu mạn tính chi dưới được phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá van gặp tại BV Nhân Dân 115 từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2010. Thu thập và phân tích các dữ liệu Tuổi, giới, lý do nhập viện, bệnh sử và tiền sử bệnh. Kết quả thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng. Chỉ định và dự kiến phẫu thuật. Kết quả sớm sau phẫu thuật. Kỹ thuật bắc cầu ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển có nội soi phá van Thực hiện một đường rạch da dài để bộc lộ toàn bộ tĩnh mạch hiển trong (theo hình vẽ) tới vị trí đầu dưới đoạn cần làm cầu nối. Sau khi tĩnh mạch hiển được bộc lộ và buộc thắt các nhánh bên sẽ sử dụng dụng cụ nội soi phá van (có loại phá van thẳng được dùng khi đoạn tĩnh mạch ghép ngắn khoảng 20-25cm. Loại phá van sợi mềm dùng khi tĩnh mạch ghép trên 25cm, trên đầu mỗi dụng cụ có móc phá van – theo hình vẽ). Khi đã bộc lộ được hai đầu đoạn tĩnh mạch hiển cần ghép, đặt đầu camera của máy nội soi lòng mạch vào phần đầu trên của đoạn tĩnh mạch hiển đã bộc lộ, và sợi mềm phá van được luồn ngược lại từ dưới lên. Khi luồn sợi mềm phá van được lắp bằng một ống nong đầu tù và sẽ được thay bằng đầu hình móc khi đã luồn hết đoạn tĩnh mạch. Thủ thuật phá van tĩnh mạch được thực hiện khi kéo dần sợi dây mềm xuống phía dưới, lưu ý kéo tới đâu thì đầu đèn nội soi bám theo tới đó và theo dõi qua việc truyền hình ảnh van bị phá trực tiếp trên màn hình. Tại vị trí đầu đèn luôn được bơm dung dịch nước muối sinh lý làm sạch vi trường, giúp quan sát tình trạng của van tĩnh mạch một cách thuận lợi. Quá trình quan sát này cho phép hướng dẫn, kiểm tra công đoạn phá van và có thể đánh giá được ngay hiệu quả. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 85 Việc phá van tĩnh mạch hiển có thể để nguyên tại chỗ theo đúng vị trí giải phẫu hoặc bóc tách ra ngoài phá van rồi đặt trở lại theo đúng chiều thuận về mặt cơ thể học. Ngoài ra phẫu thuật viên có thể bơm nước kiểm tra dòng chảy từ trên xuống (theo chiều dòng máu động mạch sẽ đi qua) xem dòng chảy có dễ dàng hay không, các nhánh bên đã được khống chế tốt chưa và có thể nong một cách nhẹ nhàng khẩu kính tĩnh mạch định ghép sao cho phù hợp với động mạch đi kèm. Kỹ thuật nối ghép hai đầu sẽ được thực hiện ngay sau đó giữa tĩnh mạch và động mạch. Dễ dàng nhận thấy đầu trên tĩnh mạch ghép đủ lớn, phù hợp với động mạch đùi. Sau nối hai đầu cần kiểm tra sự lưu thông dòng máu bằng Doppler loại bỏ túi hoặc chụp động mạch có cản quang tại chỗ. Kiểm tra các vị trí buộc nhánh bên và khâu phủ dưới da, may da kín. Kỹ thuật nội soi hướng dẫn và kiểm tra phá van tĩnh mạch hiển Đánh giá kết quả phẫu thuật Phẫu thuật viên có thể sờ mạch đánh giá được dòng chảy tại vị trí trước và sau đầu nối, sau đó sử dụng Doppler loại bỏ túi hoặc chụp động mạch tại chỗ sau mổ đánh giá sự lưu thông của dòng chảy khi cần thiết. Giai đoạn Bn tái khám có thể cho Bn chụp DSA kiểm tra vị trí đoạn ghép bắc cầu sau mổ 3- 6 tháng. Tắc động mạch mạn tính diễn tiến từ từ theo nhiều giai đoạn. Có nhiều cách phân loại các giai đoạn bệnh. Nhưng phân loại của Lerich và Fontaine có ưu điểm đơn giản, dễ áp dụng: Triệu chứng lâm sàng Giai đoạn I Không có triệu chứng; Không có tổn thương tắc nghẽn đáng kể về mặt huyết động học Giai đoạn II Đau cách hồi nhẹ và không ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày; Đau cách hồi nặng gây cản trở đến sinh hoạt hàng ngày Giai đoạn III Đau ngay cả khi nằm nghỉ ngơi Giai đoạn IV Hoại tử từng phần chi, loét chi do thiếu máu cục bộ tại chỗ và thiếu máu cục bộ lan toả ở xa; Hoại tử lan rộng quá bàn chân Khi bệnh ở giai đoạn III và IV, các tổn thương đã rõ ràng, việc chẩn đoán trở nên dễ dàng. Ngược lại ở giai đoạn II, cần phải khám kỹ, chẩn đoán phân biệt với một số bệnh cơ xương khớp hay gặp ở người cao tuổi. Giai đoạn này Bn có các dấu hiệu cường giao cảm như: vã mồ hôi, lạnh chi, một số bệnh nhân có dấu hiệu tím tái chi. Đánh giá kết quả sau phẫu thuật làm cầu nối tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển, có sử dụng phá nội soi phá van, nguyên tắc là dựa vào kết quả thăm khám lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng. Tuy nhiên với nhóm các Bn lớn tuổi, thường kèm theo các bệnh nội khoa nặng nên trong đánh giá sau phẫu thuật không tính diễn biến bất thường của các bệnh lý kèm theo. Nhóm nghiên cứu chia làm các mức độ sau: - Kết quả tốt: Các trường hợp Bn sau mổ bắc cầu nối tại chỗ có hiệu quả tốt, cầu nối lưu thông sau mổ, vết loét ngọn chi (nếu có, hoặc mỏm cụt) liền tốt. Tình trạng thiếu máu nuôi chi so với trước mổ được cải thiện rõ. Không có các biến chứng sau mổ. - Kết quả trung bình: Các trường hợp Bn sau mổ bắc cầu nối tại chỗ có hiệu quả, nhưng ở mức độ không hoàn toàn. Vết loét hay mỏm cụt liền chậm. Có thể kèm theo một vài biến chứng nhẹ và được cải thiện sau điều trị như chảy máu, tụ máu vết mổ, nhiễm trùng vết mổ. - Kết quả xấu: Không có sự cải thiện về tình trạng tưới máu vùng hạ lưu sau mổ. Cầu nối lưu thông kém. Phần mô loét hay mỏm cụt không liền, nhiễm trùng lan tỏa dẫn đến phải đọan chi. Xử lý và trình bày Sử dụng các bảng phân tích dữ liệu, bằng phần mềm thống kê y học. Trình bày kết quả nghiên cứu dưới các bảng, biểu và có hình ảnh minh họa. KẾT QUẢ Từ tháng 1/2007 đến 12/2010 tại BV Nhân Dân 115, khoa phẫu thuật Lồng ngực – Mạch Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 86 máu đã tiếp nhận và phẫu thuật cho 50 trường hợp thiếu máu chi dưới. Trong đó ghi nhận: + Có 40 nam và 10 nữ, tỉ lệ nam/nữ là 4/1. + Tuổi trung bình 69, người lớn tuổi nhất 93 tuổi và nhỏ tuổi nhất 28 tuổi. + Nhóm tuổi thường gặp nhất là trên 50 tuổi, chiếm 45/50 (90%). Nghiên cứu các nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây bệnh cho thấy: Bảng 1: Phân bố bn theo các yếu tố nguy cơ Yếu tố nguy cơ Số Bn (N=50) Tỉ lệ Xơ vữa động mạch (XVĐM) 37 74% XVĐM + đái tháo đường 06 12% XVĐM + suy thận mạn 03 6% Bệnh Buerger 04 8% Cộng 50 100% Như vậy, đa số các Bn gặp có nguyên nhân gây hẹp, tắc động mạch mạn tính là XVĐM. Ngoài ra có khoảng gần ¼ các trường hợp khác có các bệnh lý nguy cơ kèm theo như đái tháo đường, suy thận mạn và bệnh Buerger. Mức độ thiếu máu nuôi vùng hạ chi trong tắc động mạch mạn được đánh giá theo tiêu chuẩn của Leriche - Fontaine cho thấy: Bảng 2: Phân độ theo leriche-fontaine Phân độ Số Bn (N=50) Tỉ lệ Độ I 0 0 % Độ II 6 12 % Độ III 15 30 % Độ IV 29 58 % Cộng 50 100 % Trên phân nửa số Bn được thực hiện phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ có mức độ IV, trái lại không gặp các trường hợp có mức độ I. Xem xét các vị trí tổn thương tắc hoặc hẹp khít có vai trò quan trọng trong tiên lượng và kỹ thuật thực hiện, qua nghiên cứu cho thấy: Bảng 3: Các vị trí tổn thương gây tắc mạch: Vị trí tắc động mạch mạn (chia theo 3 vùng giải phẫu) Số trường hợp (N=50) Tỉ lệ Từ ĐM chủ - chậu trở xuống 05 10 % Từ ĐM đùi – khoeo trở xuống 32 64 % Từ ĐM chày – mác trở xuống 13 26 % Cộng 50 100% Vị trí tắc ĐM mạn chiếm đa số các trường hợp bắt đầu vị trí đùi khoeo trở xuống. Các bệnh lý nội khoa kèm theo có ý nghĩa quan trọng trong tiên lượng bệnh và việc điều trị phối hợp. Bảng 4: Các bệnh lý nội khoa kết hợp Bệnh lý nội khoa nặng kết hợp Số Bn Tỷ lệ Bệnh tim mạch (Bn cao HA, TMCT, bệnh van tim..) 44 88 % Đái tháo đường 07 12 % Suy thận mạn 03 4 % Các bệnh lý tim mạch chiếm tỷ lệ cao. Tuy nhiên phẫu thuật bắc cầu ở các bệnh ĐTĐ cũng là một thách thức đáng lưu ý. Việc thực hiện phẫu thuật bắc cầu nối phụ thuộc vào tình trạng tổn thương gây tắc hẹp. Một số trường hợp phải thực hiện 02 cầu nối nhắm cung cấp máu nuôi vùng hạ chi. Bảng 5: Số lượng cầu nối thực hiện trên bn Số lượng cầu nối thực hiện trên Bn Số Bn Tỷ lệ Sử dụng 01 cầu nối đơn thuần 05 10 % Sử dụng 02 cầu nối phối hợp 45 90 % Cộng 50 100 % 90% các trường hợp Bn được thực hiện 01 cầu nối ĐM. Các loại cầu nối ĐM đã được thực hiện phụ thuộc vào vị trí tổn thương, có giá trị trong tiên lượng sau phẫu thuật. Bảng 6: Phân bố các loại bắc cầu đm Loại cầu nối thực hiện Số Bn Tỷ lệ Chủ - Đùi và Đùi – Khoeo 02 4 % Đùi –Đùi và Đùi – Khoeo 03 6 % Đùi – Khoeo 29 58 % Đùi – Chầy sau (mu chân) 03 6 % Khoeo – chầy sau (mu chân) 13 26 % Cộng 50 100 % Đa số các trường hợp Bn đã được thực hiện loại cầu nối Đùi - Khoeo. Loại phẫu thuật ít làm nhất là Đùi-Chầy sau và cùng lúc làm 02 phẫu thuật Đùi-Đùi và Đùi-Khoeo (6%). Sau phẫu thuật bắc cầu ĐM diễn biến và tiên lượng về tình trạng lưu thông của cầu nối phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 87 Bảng 7: Kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ: Kết quả sớm sau PT bắc cầu nối tại chỗ bằng TM hiền Số các trường hợp Tỷ lệ Kết quả tốt 43 86 % Kết quả trung bình 02 04 % Kết quả xấu 05 10 % Cộng 50 100% Qua 05 trường hợp tắc cầu nối và phải đoạn chi sau mổ cho thấy có 03 Bn có ĐTĐ và suy thận mạn kết hợp. Đa số các trường hợp cho kết quả tốt. Phân tích các trường hợp sau phẫu thuật cho kết quả như không mong đợi liên quan đến mức độ tắc mạch (tính theo LERICHE-FONTAINE), vị trí tắc mạch và các bệnh lý kèm theo. Bảng 8: Phân tích các trường hợp kết quả sớm sau mổ xấu. Bn Tuổi giới Mức độ tắc mạch Loại cầu nối Bệnh kèm theo 1- Phạm Văn N. Nam 58t Độ IV (loét, hoại tử chi) Đùi – Đùi và Đùi – Khoeo (T) Cao HA, XVĐM (Theo dõi sau 1 năm) 2- Trịnh Hoàng S. Nam, 65t Độ IV (loét, hoại tử chi) Khoeo – mu chân (T) ĐTĐ, Suy thận mạn (Theo dõi sau 3 th) 3-Nguyễn Ngọc Đ. Nam, 45t Độ IV (loét, hoại tử chi) Đùi – Mu chân (P) Bệnh Buerger (theo dõi sau 1 năm) 4- Đòan Thị H. Nữ, 73t Độ IV (loét, hoại tử chi) Đùi – Khoeo (T) ĐTĐ, Suy thận mạn (Sau 2 tuần) 5- lưu Văn Sang Nam 68t Độ IV (loét, hoại tử chi) Khoeo – Chầy sau (P) Cao HA, Suy thận mạn (Sau 2 tuần) Như vậy có 10% các trường hợp sau phẫu thuật làm cầu nối tại chỗ phải đoạn chi, đây là các trường hợp bệnh nhân khi nhập viện đã có tình trạng thiếu máu nuôi chi kéo dài, mức độ tắc mạch nặng (độ 4), ngọn chi viêm loét hoại tử lan rộng, 01 Bn phải làm 2 cầu nối, 01 Bn cầu nối đầu xa nhất. Hầu hết các Bn đều có bệnh nặng nội khoa kèm theo, đặc biệt là đái tháo đường và suy thận mạn kèm theo. BÀN LUẬN Tần suất gặp bệnh nhân thiếu máu mạn tính chi dưới Tình trạng thiếu máu mạn tính chi dưới xuất hiện khi có hẹp hay tắc động mạch (ĐM) chính cung cấp máu nuôi hai chân(7). Gồm ĐM chủ bụng, chậu gốc, đùi chung, đùi nông, đùi sâu, khoeo, chầy trước, chày sau, ĐM mác và mu chân. Mức độ thiếu máu rất khác nhau giữa các Bn, có thể được chia làm 04 độ trên lâm sàng theo Leriche – Fontaine. Đặc điểm của tắc mạch mạn tính là tình trạng thiếu máu kéo dài, không đột ngột như thiếu máu nuôi chi cấp gặp trong trường hợp Bn có vết thương mạch máu hoặc huyết khối. Trái lại khả năng phục hồi cũng diễn biến từ từ và cần có sự hợp tác của Bn sau phẫu thuật. Tần suất gặp thiếu máu mạn chi dưới ở nhóm Bn không có đái tháo đường chiếm khoảng 0,25% - 1% ở các nước Âu –Mỹ, một số quốc gia khác có báo cáo tỉ lệ mắc bệnh chênh lệch như ở Nhật 16%, Israel 5%... Tiếc rằng ở Việt Nam tới nay chưa có những nghiên cứu dịch tễ học độc lập, chuẩn mực về vấn đề này. Tuy nhiên trong một số báo cáo cho thấy giai đoạn 1976-1980 Nguyễn Thị Hiền gặp 68 trường hợp. Tại Bv Chợ Rẫy giai đoạn 1990-1991 Phạm Thọ Tuấn Anh tập hợp được 74 trường hợp và giai đoạn 1992-1994 có 83 trường hợp(7). Tại Bv Nhân Dân 115 TP.HCM, giai đọan đầu khi mới thành lập Đơn vị phẫu thuật Lồng ngực - Mạch máu 2004-2006 gặp 50 trường hợp tắc ĐM mạn chi dưới nhập viện điều trị(2). Tuy nhiên so với một số cơ sở điều trị khác như Bv Chợ Rẫy, Nhân Dân Gia Định và Bình dân(7,5,3) thì số lượng bệnh gặp ở Bv Nhân Dân 115 còn khiêm tốn. Bên cạnh các Bn thiếu máu nuôi chi dưới mạn không do đái tháo đường còn gặp nhóm các Bn có đái tháo đường. Theo Nguyễn Thy Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 88 Khuê(4) vùng đông nam á được coi là vùng dịch tễ của bệnh đái tháo đường. Ở Việt nam, nghiên cứu điều tra giai đoạn 1990-1992 tại Hà Nội và các vùng lân cận gặp tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường khoảng 1,1%. Huế 0,96% và TP.HCM 2,25%, trong đó đái tháo đường type II chiếm 90%. Theo Campbell(1) vai trò của phẫu thuật bắc cầu mạch máu đối với Bn đái tháo đường là rất lớn. Tác giả cho rằng sau khi giải quyết tốt các biến chứng về thần kinh, nhiễm trùng thì vấn đề suy động mạch gây thiếu máu nuôi dưỡng chi sẽ trở thành nguyên nhân chính dẫn tới đoạn chi của trên 95% các BN. Nguyên nhân gây thiếu máu mạn tính chi dưới Về nguyên nhân gây giảm tưới máu chi dưới rất đa dạng. Có thể BN có hay không có đái tháo đường, Bn có tình trạng xơ vữa động mạch, Bn có bệnh Buerger và một số nguyên nhân ít gặp khác. Trong đó bệnh lý xơ vữa ĐM liên quan nhiều đến rối loạn chuyển hóa mỡ, với các yếu tố nguy cơ như thuốc lá, cao huyết áp, đái tháo đường, di truyền, cách sống ít hoạt động hay làm việc quá sức, ăn uống thất thường Tình trạng xơ vữa động mạch là nguyên nhân thường gặp nhất của bệnh tắc các động mạch lớn như: động mạch chủ ngực, bụng, động mạch thân cánh tay đầu, động mạch dưới đòn v.v Ngoài các động mạch lớn, các động mạch nhỏ cũng bị tổn thương. Tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng với bệnh Buerger là: trong bệnh xơ vữa động mạch chỉ có lớp nội mạc bị tổn thương, còn lớp áo giữa và áo ngoài hầu như còn nguyên vẹn. Bệnh buerger, là một bệnh lý về mạch máu, viêm tắc động mạch không do xơ vữa, biểu hiện bằng tình trạng viêm tắc các động mạch vừa và nhỏ của chi. Tình trạng này 60% xảy ra ở chi dưới và 40% xảy ra ở chi trên. Đa số gặp ở bệnh nhân nam, dưới 40, hút nhiều thuốc lá. Các triệu chứng của bệnh là tình trạng thiếu máu mạn tính chẳng hạn hồi, hội chứng Raynaud, kèm theo loét hoặc hoại tử đầu ngón. Hiện nay có nhiều giả thuyết nhắc đến vai trò gây dị ứng của thuốc lá, di truyền của bệnh. Theo bảng 1 và 4 cho thấy trong 50 trường hợp được phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ do thiếu máu mạn chi dưới có tương đối đủ các nguyên nhân gây bệnh. Trong đó XVĐM thường gặp nhất do nhóm Bn lớn tuổi. Ngoài ra với các bệnh lý nội khoa nặng đi kèm có ảnh hưởng đáng kể đến tiên lượng bệnh. Bảng 8 cho thấy trong các Bn phải đọan chi sớm sau mổ đã có 3/5 các trường hợp có ĐTĐ, suy thận mạn hoặc cả hai. Như vậy nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ rất cần được các Bác sĩ điều trị lưu ý nhiều hơn. Bệnh đái tháo đường gây viêm tắc động mạch mạn tính được coi là một biến chứng rất hay gặp. Người ta cho rằng ở lứa tuổi từ 30 đến 60 tuổi tỷ lệ mắc bệnh viêm tắc động mạch ngoại biên mạn tính cao gấp 3-4 lần ở nam và cao gấp 5-7 lần ở nữ so với người không mắc bệnh tiểu đường. Trong các thói quen xấu thì hút thuốc có vai trò hàng đầu trong các yếu tố nguy cơ gây bệnh viêm tắc động mạch ngoại biên. Theo m ộ s ố nghi ên c ứu tỷ lệ hút thuốc lá ở những bệnh nhân bị viêm tắc động mạch ngoại biên khoảng 90-98%(2,4). Nguy cơ xuất hiện bệnh tỷ lệ thuận với mức độ thuốc lá được sử dụng mỗi ngày, phần lớn những bệnh nhân bị bệnh Buerger đều hút nhiều thuốc lá. Vận động ít cũng là một vấn đề cần lưu ý. Nếu vận động thường xuyên sẽ làm cải thiện các cơn đau cách hồi và các biến đổi về huyết động học. Ngoài ra, việc vận động còn làm tăng tình trạng thích nghi của hoạt động chuyển hoá trong các tế bào với tình trạng gắng sức. Tình hình điều trị bệnh thiếu máu mạn chi dưới Thời gian qua Y học thế giới đã luôn cố gắng giải quyết tình trạng thiếu máu nuôi chi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 89 dưới một cách tích cực cả về nội, ngoại khoa và các phương pháp kết hợp. Về nội khoa, việc sử dụng thuốc trong điều trị đi kèm với các biện pháp hỗ trợ. Bn được sử dụng thuốc chống kết tập tiểu cầu, thuốc vận mạch, được tư vấn bỏ thuốc lá, điều trị các bệnh kết hợp khác như cao huyết áp, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa mỡ một số tác giả còn lưu ý việc dùng thuốc giảm đau, kỹ thuật pha loãng máu đồng thể tích, sử dụng oxy cao áp. Về mặt ngoại khoa có thể kể đến phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm lưng, bóc lớp trong động mạch, phẫu thuật cầu nối ngoài giải phẫu và phương pháp tạo hình trong lòng mạch. Tuy nhiên trong những năm gần đây kỹ thuật bắc cầu nối xa xuống đến cẳng và bàn chân đang phát triển, đặc biệt có sử dụng tĩnh mạch ghép tự thân tại chỗ kết hợp có ứng dụng kỹ thuật phá van tĩnh mạch, do vậy không phải đảo ngược đầu đoạn ghép và đương nhiên đã tận dụng được một số lợi điểm đáng kể(3,4). Bảng 2 và 3 cho thấy thực trạng các tổn thương giải phẫu tắc ĐM mạn tính chi dưới của nhóm Bn trong nghiên cứu. Có lẽ vì nhiều lý do mà đa số các Bn khi tới bệnh viện đã ở mức độ tắc mạch muộn (độ III và IV), với các vết loét sâu, lan tỏa. Chính sự viêm nhiễm lan tỏa và phá hủy tới tổ chức cơ, xương đã làm tiên lượng bệnh xấu đi. Trong các bước tiến hành điều trị các trường hợp này, nhóm nghiên cứu thực hiện chiến lược “3 bước” đó là cắt lọc, giải thoát mủ hay tổ chức hoại tử ngay thì đầu, có kết hợp với kháng sinh toàn thân. Tiếp theo là lựa chọn kỹ thuật và làm phẫu thuật bắc cầu. Cuối cùng sau khi bắc cầu sẽ đoạn tối thiểu (ngón, bàn ) khi đã đánh giá tương đối chính xác phần tổ chức đã được nuôi dưỡng nhờ phẫu thuật bắc cầu. Bảng 5 và 6 phản ánh tình hình phẫu thuật “bắc cầu nối tại chỗ” điều trị tắc ĐM mạn chi dưới tại Bv Nhân Dân 115 trong những năm gần đây. Dựa trên kết quả khảo sát tình trạng tắc mạch mạn qua siêu âm Doppler và hình ảnh chụp ĐM có cản quang (DSA, MRI, CT 64 lát ) mà các Bs chuyên khoa lựa chọn chỉ định phẫu thuật bắc cầu. Có thể sử dụng 1 hay 2 (ít khi dùng tới 3 cầu nối) nhằm cung cấp càng nhiều máu nuôi cho vùng hạ lưu càng tốt. Với các cầu nối ĐM cho tới nay vẫn thường dùng các vật liệu nhân tạo (ống Dacron hay Gore-tex) hoặc sử dụng tĩnh mạch tự thân. Người ta cho rằng về lý thuyết cũng như trên thực tế các kỹ thuật bắc cầu ĐM khác nhau sẽ có ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của phẫu thuật bắc cầu. Tuy nhiên tới nay còn ít các báo cáo cụ thể về vấn đề này. Tại Việt Nam loại kỹ thuật này vẫn được áp dụng tại các trung tâm chuyên khoa, nhưng số lượng không nhiều và chưa được theo dõi kỹ nên việc đánh giá cũng còn khó khăn. Phẫu thuật bắc cầu nối điều trị tắc động mạch mạn chi dưới Phẫu thuật bắc cầu nối đã từng được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1913 bởi Ernst Jaeger (Đức) khi lần đầu tiên tiến hành điều trị một trường hợp phồng động mạch ngoại biên. Tới năm 1984 Jean Kunlin (Pháp) đã làm cầu nối điều trị một trường hợp tắc động mạch đùi nông mạn tính(4,7). Đa số các tác giả đều thừa nhận vai trò của phẫu thuật bắc cầu nối trong điều trị tắc động mạch mạn tính chi dưới là rất quan trọng, mặc dù để thực hiện được cuộc phẫu thuật như dự kiến phải có những điều kiện nhất định và trong đó vấn đề quan trọng là phải có sự tái hiện dòng máu chảy phía đầu dưới của đoạn tắc, trái lại phẫu thuật bắc cầu nối không thể thực hiện được. Theo kinh nghiệm của Campbell(1) trong một số ít các trường hợp, việc tiến hành phẫu tích thăm dò trước cũng có những giá trị nhất định. Ngoài ra, muốn phẫu thuật bắc cầu ĐM thành công còn có những yếu tố khác đi kèm như sự chấp nhận của Bn và thân nhân, tình trạng các bệnh lý nội khoa nặng kèm theo của người bệnh và tình trạng thiếu máu nuôi chưa Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 90 quá mức trầm trọng gây loét hay hoại tử ngọn chi lan rộng. Theo đánh giá của một số chuyên gia, trong những năm gần đây tỷ lệ các Bn được phẫu thuật làm cầu nối ngày càng nhiều. Chỉ tính riêng tại Bv Chợ Rẫy(5) vào giai đoạn trước năm 1992 chỉ có 03 ca làm cầu nối trong 2 năm. Giai đoạn 1992-1994 trong 2,5 năm đã có 31 ca được thực hiện, và trong 7 tháng (từ 05/2004 đến 12/2004) có tới 21 ca được thực hiện. Tại Bv Nhân Dân 115, Khoa phẫu thuật lồng ngực – mạch máu hoạt động từ 6/2004, tính chung trong khoảng 27 tháng, với 50 ca tắc động mạch mạn tính được điều trị đã có 23 trường hợp có chỉ định làm cầu nối, chiếm 46%, nhưng chỉ có 9 ca thực sự được tiến hành, chiếm 39,1% các trường hợp có chỉ định. Trong 14 ca có chỉ định làm cầu nối nhưng không thực hiện được đã có 5ca Bn không đồng ý mổ, 5 ca Bn có những bệnh nặng nội khoa kèm theo và Bn xin về, 4 ca Bn tới muộn, chi có loét và hoại tử lan rộng nên phải thực hiện phẫu thuật đoạn chi(2). Bên cạnh phẫu thuật bắc cầu, các trường hợp tắc động mạch đầu xa dưới gối thường được điều trị bằng cách cắt thần kinh giao cảm lưng cùng bên, chăm sóc đoạn chi thiếu máu và có thể thực hiện phối hợp điều trị nội khoa (dùng thuốc, liệu pháp oxy cao áp...) hoặc phải đoạn chi ngay thì đầu loại bỏ phần thiếu máu kéo dài đã hoại tử. Ngay cả sau khi đã làm cầu nối phục hồi dòng máu chảy thì việc chăm sóc, theo dõi đánh giá mức độ cải thiện phần loét ở ngọn chi tới đâu vẫn rất cần thiết. Vấn đề chọn loại vật liệu thực hiện phẫu thuật bắc cầu mạch máu cầu được cân nhắc giữa vật liệu nhân tạo và tĩnh mạch hiển tự thân. Mặc dù tới nay vẫn còn một số ý kiến tranh luận, nhưng nhìn chung đa số các tác giả đều đồng tình với việc sử dụng tĩnh mạch hiển tự thân do những ưu điểm nổi bật của tĩnh mạch tự thân. Bảng 6 cho thấy các loại cầu nối đã thực hiện. Với các trường hợp sử dụng 01 cầu nối, toàn bộ được dùng bằng tĩnh mạch hiển tự thân. Với 02 cầu nối, đoạn gần (chủ-đùi hoặc đùi-đùi được dùng bằng các đoạn ống Gore-tex số 6 và 8). Kỹ thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ có nội soi phá van Phẫu thuật bắc cầu nối có ưu điểm đưa máu trực tiếp đến vùng bị thiếu máu mà không làm tổn thương đến thần kinh hay tĩnh mạch đi kèm với ĐM bị tắc và giữ được tuần hoàn bàng hệ. Điều kiện cần thiết để có thể tiến hành phẫu thuật bắc cầu nối là còn tồn tại phần ĐM phía dưới chỗ bị tắc nghẽn. Có 5 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự lưu thông của cầu nối(7) bao gồm: - Vị trí xuất phát của cầu nối. - Tính chất riêng của cầu nối. - Vị trí đầu xa cầu nối. - Kỹ thuật nối ghép. - Nguyên nhân gây tình trạng thiếu máu mạn tính chi dưới. Với tĩnh mạch hiển khi sử dụng làm cầu nối có thể để tại chỗ hoặc đảo ngược đầu. Ưu điểm của việc dùng tĩnh mạch tự thân tại chỗ (không đảo đầu bằng cách phá các van tĩnh mạch) là giữ được sự nguyên vẹn nội mạc và mạch nuôi của mạch máu: Tĩnh mạch được sử dụng thường có đường kính một đầu lớn và một đầu nhỏ, phù hợp về kích thước để làm miệng nối với đầu gần và đầu xa của ĐM. Cầu nối ít có khả năng bị xoắn vặn. Tuy nhiên việc ghép tại chỗ (không đảo đầu) phải đi kèm với kỹ thuật phá van tĩnh mạch. Do đó các tác giả đã từng sử dụng kỹ thuật nàu luôn lưu ý các nguy cơ khi phá van tĩnh mạch như: + Dễ gây chấn thương lớp nội mạc để lại sẹo và nguy cơ tắc cầu nối. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 91 + Nguy cơ nhiễm trùng cao do bộc lộ toàn bộ tĩnh mạch. + Nguy cơ phá van hay thắt các nhánh bên có thể gây thông động tĩnh mạch. + Thời gian phẫu thuật thường kéo dài. + Đoạn cầu nối dễ bị gập góc, nhất là khi bắc cầu nối phía trên gối. Một số tác giả khác còn cho rằng, cầu nối trên gối có thể sử dụng tĩnh mạch tự thân tại chỗ hay đảo ngược. Với các cầu nối nằm dưới gối nhất là đầu gối xa, dùng tĩnh mạch tự thân tại chỗ cho kết quả tốt hơn dùng tĩnh mạch đảo ngược đầu. Và không nên dùng ống nhân tạo làm cầu nối dưới gối; Ngoài ra cũng lưu ý các biến chứng nếu dùng thuốc kháng đông dài ngày và có thể dùng tĩnh mạch tiếp nối giữa ống nhân tạo. Kết quả theo dõi đánh giá tại Boston(1) với hơn 1000 Bn bắc cầu nối tại chỗ có sử dụng nội soi lòng mạch khi phá van. Sau 05 năm cầu nối còn thông tốt là 75%, bảo tồn chi trong 5 năm là 85% và tử vong chung chiếm 1%. Đặc biệt những nghiên cứu cũng cho thấy có kết quả tương tự ở Bn người cao tuổi và nhóm khác. Bảng 6 và 7 cho thấy kỹ thuật bắc cầu nối tại chỗ đã được ứng dụng tại Bv Nhân Dân 115, với 50 trường hợp được thực hiện theo đúng kỹ thuật còn rất khiêm tốn. Có thể vì một số lý do nhất định về kỹ thuật, phương tiện và quan điểm nên kỹ thuật này tới nay vẫn chưa được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam. Kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ Theo bảng 7 và 8, qua 50 trường hợp được thực hiện loại phẫu thuật này, đã có 86% cho kết quả sớm sau mổ tốt, 4% chỉ đạt mức trung bình, và 10% chưa tốt. Phân tích các trường hợp Bn phải đoạn chi sau mổ cho thấy có nhiều yếu tố sẽ phải được cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi tiến hành phẫu thuật. Một số vấn đề có thể xảy ra sau các phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ điều trị tắc ĐM mạn tính chi dưới như: hẹp hoặc tắc miệng nối; nhiễm trùng vết mổ hay từ ổ loét hoặc mỏm cụt lan rộng, biến chứng tác động từ những bệnh lý nội khoa nặng kèm theo. Đặc biệt với một kỹ thuật mới được đưa vào áp dụng luôn cần có thời gian hoàn chỉnh và phát triển. Trong 05 trường hợp hẹp tắc miệng nối (bảng 8) dẫn tới Bn phải đọan chi, chiếm 10% các trường hợp đã có 3/5 Bn có các bệnh ĐTĐ, suy thận mạn hoặc cả hai. Cũng có 3/5 Bn sử dụng các loại cầu nối phức tạp. Tất cả 05 Bn đều có loét chi, nhiễm trùng lan tỏa và mức độ tắc ĐM mạn ở độ IV. Như vậy căn cứ vào các yếu tố để đảm bảo một miệng nối thông tốt sau phẫu thuật bắc cầu nối ĐM như đã trình bày ở trên thì có thể lý giải được một phần kết quả trong nghiên cứu chưa đáp ứng như mong muốn (bảng 8). Theo nghiên cứu của Bv Chợ Rẫy(5) trong 21 ca thực hiện cầu nối từ 5/2004 đến 12/2004 có 5 ca (chiếm 24%) có nhiễm trùng vết mổ, tắc miệng nối 01 trường hợp và hẹp miệng nối (hẹp 70% miệng nối xa) 1 trường hợp. Một số tác giả nước ngoài như Joseph Dennis gặp tỷ lệ tắc cầu nối sớm khoảng 2- 3%, Davidson là 4,2%. KẾT LUẬN Qua 50 trường hợp được phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá van trong điều trị thiếu máu mạn tính chi dưới tại Bệnh viện Nhân Dân 115 từ 1/2007 đến 12/2010, mặc dù số liệu còn hạn chế nhưng có thể rút ra một số nhận xét sau: - Bệnh nhân tắc động mạch mạn tính chi dưới đã được phẫu thuật tại Bv Nhân Dân 115 đa số là nam giới, có độ tuổi trung bình 68- 69. Nguyên nhân chủ yếu gặp xơ vữa động mạch. Bệnh nhân nhập viện phổ biến có tắc mạch mức độ III và IV kèm theo có loét chi. Phần lớn các trường hợp tắc kéo dài từ động mạch đùi chung Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 92 trở xuống. Và tất cả các bệnh nhân đều có các bệnh lý nội khoa nặng kèm theo, trong đó nhiều nhất gặp bệnh lý tim mạch. - Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ chủ yếu thực hiện một cầu nối và đa số gặp loại cầu nối đùi – khoeo. Kết quả sớm sau phẫu thuật tốt đạt 86%, có 10% cầu nối lưu thông kém và bệnh nhân phải đoạn chi sau mổ. Các trường hợp đoạn chi gồm các bệnh nhân có đái tháo đường, suy thận mạn hoặc Buerger. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Campbell DR. (2000): ‘’Vascular problems and the indication for bypass or amputation in the diabetic’’, Hội thảo chăm sóc bàn chân đái tháo đường TP.HCM 6/6/2000 – ĐH Y Dược TP.HCM, Tr 60-61. 2. Cao Văn Thịnh và cs. (2006): “Phẫu thuật bắc cầu nối điều trị thiếu máu mạn chi dưới bằng ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển có nội soi phá van” Tạp chí Y Học Viện Nam, tập 328, Tr 258-270. 3. Cao Văn Thịnh, Campbell DR., Văn Tần và cs. (2004): ‘’Nội soi lòng mạch phá van tĩnh mạch hiển ghép tại chỗ trong phẫu thuật bắc cầu nối điều trị thiếu máu nuôi mạn tính chi dưới ‘’, Hội nghị nội soi và phẫu thuật nội soi – ĐH Y Dược TP.HCM, BV Hoàn Mỹ 14,15,16/10/2004, Tr 164-177. 4. Gibbons GW, Pomposelli FB, Logerfo FW. (1995): Arterial reconstruction: femoral to popliteal,tibial, peroneal, and pedal, magement of diabetic foot problems, W.B. Saunders Company, pp 194-204. 5. Lê Phi Long, Phạm Thọ Tuấn Anh, Nguyễn Hoàng Bình. (2005): ‘’Đáng giá kết quả sớm phẫu thuật cầu nối điều trị tắc động mạch mạn tính chi dưới’’, Hội nghị KHKT lần 22-ĐH Y Dược TP.HCM – Y học TP.HCM, tập 9, phụ bản số 1, Tr 27-32. 6. Nguyễn Thy Khuê. (2000): ‘’Xử trí bệnh đái tháo đường tại Việt Nam’’, Hội thảo chăm sóc bàn chân đái tháo đường TP.HCM 6/6/2000 – ĐH Y Dược TP.HCM, Tr 1-5. 7. Phạm Thọ Tuấn Anh. (1994): Phác đồ điều trị ngoại khoa tắc động mạch mạn tính chi dưới, Luận án tiến sĩ Y Học – ĐH Y Dược TP.HCM.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_thuc_hien_phau_thuat_bac_cau_tai_cho_trong_tac_dong.pdf
Tài liệu liên quan