Luận văn Mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây

Làng nghề có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của tỉnh Hà Tây. Trong những năm thực hiện đường lối của Đảng và tỉnh uỷ Hà Tây, nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục, nhiều làng nghề mới được hình thành, sản phẩm làm ra ngày càng đa dạng và phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề đã cho phép khai thác triệt để tiềm năng về lao động, nguyên liệu, trình độ tinh xảo của các nghệ nhân. Song khó khăn lớn nhất của làng nghề hiện nay là vốn đầu tư, điều này đang cản trở sự phát triển kinh doanh của làng nghề. Mở rộng cho vay phát triển làng nghề là vấn đề rất cần thiết. Việc đề xuất các giải pháp nghiên cứu nhằm mở rộng cho vay đối với làng nghề sẽ giúp làng nghề mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh đồng thời giúp ngân hàng mở rộng thị trường, tăng lợi nhuận. Trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp luận văn đã tập trung hoàn thành một số nội dung chủ yếu: - Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về hoạt động cho vay và vấn đề mở rộng cho vay phát triển làng nghề. Cho vay đối với làng nghề có tác dụng rất lớn đến sự phát triển làng nghề: đáp ứng nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh của làng nghề và tăng lợi nhuận cho ngân hàng. - Chuyên đề đã phân tích thực trạng hoạt động cho vay đối với làng nghề ở chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây; những tồn tại, nguyên nhân và giải pháp khắc phục. - Chuyên đề đề cập đến định hướng kinh doanh của chi nhánh trong những năm tới và định hướng để mở rộng cho vay đối với làng nghề. - Mở rộng cho vay phát triển làng nghề là vấn đề cần thiết đòi hỏi sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp trong xã hội nên những ý kiến đề xuất chỉ là những đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề do vậy khó tránh khỏi những thiếu khuyết, vướng mắc và còn nhiều vấn đề sẽ tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện. Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo Th.S Lê Thanh Tâm, thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ cùng các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính và các cô chú phòng tín dụng NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây.

doc87 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đồng thời trong quá trình cho vay ngân hàng đã biết áp dụng mức lãi suất linh hoạt trong từng thời kỳ và có sự chú ý đến đối tượng khách hàng làng nghề hơn. Mặt khác, các hộ đã mạnh dạn vay vốn để đầu tư thiết bị sản xuất, mặt bằng…để nâng cao năng suất lao động, cải tiến sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Do đó mà cơ cấu dư nợ của các hộ, cơ sở sản xuất có những chuyển biến tích cực. Nếu xét so với tổng dư nợ của chi nhánh thì dư nợ của làng nghề chiếm tỷ trọng nhỏ: Năm 2003 là: 11,65%, năm 2004 là: 11,89%, năm 2005 là: 12,78% . Kết quả trên cho thấy dư nợ làng nghề tuy có tăng qua các năm nhưng so với tổng dư nợ cho vay của ngân hàng vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Điều này được thể hiện ở biểu đồ 04 dưới đây: Biểu đồ 04. Dư nợ làng nghề qua các năm 2003 – 2005. Triệu đồng Nguyên nhân xuất phát từ tài sản đảm bảo của các hộ, cơ sở sản xuất thường không đủ điều kiện để được vay vốn hoặc nếu có thì cũng chỉ đáp ứng 20% - 30% nhu cầu vay. Bên cạnh đó, các hộ vẫn có tâm lý ngại quan hệ với ngân hàng vì cho rằng thủ tục phức tạp, thời gian để được cấp tín dụng là dài. d/ Tình hình nợ quá hạn: Hoạt động cho vay của làng nghề trong bất kỳ trường hợp nào cũng chứa đựng nhiều rủi ro đòi hỏi ngân hàng phải quản lý nợ chặt chẽ, bảo đảm giảm thiểu rủi ro một cách thấp nhất. Trong hoạt động cho vay đối với làng nghề ngân hàng cũng luôn chú trọng công tác mở rộng tín dụng phải đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng. Vì vậy, trong những năm qua ngân hàng luôn giữ được tỷ lệ nợ quá hạn ở mức thấp cho phép. Nợ quá hạn trong cho vay đối với làng nghề thể hiện ở bảng sau: Bảng 6. Dư nợ quá hạn làng nghề năm 2003- 2004 Đơn vị: triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Tốc độ tăng Năm 2005 Tốc độ tăng 1. Nợ quá hạn 2.486 3.625 45,82 % 15.669 332 % - Hộ sản xuất 2.380 2.984 25,38 % 10.202 242 % - Cơ sở sản xuất 106 641 504 % 5.467 753 % 2.Tỷ lệ nợ quá hạn 0,68% 0,84% 2,89% 3. Tổng nợ quá hạn 26.758 33.087 23,65 % 123.909 274 % 4. Tỷ trọng nợ quá hạn/tổng nợ quá hạn 9,3% 10,9% 12,64% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây năm 2003, 2004, 2005) Dựa vào bảng 6 cho thấy: nợ quá hạn liên tục tăng qua các năm, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn luôn ở mức cho phép (dưới 3%). Năm 2003, nợ quá hạn là: 2.486 triệu đồng chiếm 0,68% trong tổng dư nợ của làng nghề. Năm 2004, nợ quá hạn là 3.625 triệu đồng tăng 1.139 triệu đồng so với năm 2003, tỷ lệ nợ quá hạn là 0,84 %. Đến năm 2005 nợ quá hạn là; 15.669 triệu đồng, tăng so với năm trước đó là 12.044 triệu đồng, chiếm 2,89% tổng dư nợ của làng nghề. Nguyên nhân: một số ngân hàng cho vay sai quy trình định kỳ hạn nợ chưa phù hợp với đối tượng, khách hàng sử dụng vốn sai mục đích còn xảy ra tuy tỷ lệ nhỏ nhưng nguy cơ dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng sẽ xảy ra bất cứ lúc nào, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của chi nhánh. Trong đó, nợ quá hạn của hộ sản xuất luôn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng nợ quá hạn đặc biệt năm 2003 chiếm đến 96% tổng nợ quá hạn của làng nghề đến năm 2005 thì giảm xuống còn 65% so với tổng nợ quá hạn năm 2005. Tương ứng là tỷ trọng nợ quá hạn của các cơ sở tăng lên từ 4% lên 35%. Nguyên nhân là do: các hộ sản xuất mang tính thủ công, tính chuyên môn hoá không cao, một phần do tính yếu kém của người quản lý nên sản phẩm của các hộ thường gặp khó khăn hơn trong tiêu thụ sản phẩm. Do đó nợ quá hạn của các hộ thường lớn hơn các cơ sở. Nếu so tổng nợ quá hạn của toàn chi nhánh thì nợ quá hạn của làng nghề chiếm một tỷ lệ không lớn. Năm 2003 tỷ trọng nợ quá hạn làng nghề so với tổng dư nợ quá hạn của toàn chi nhánh là: 9,3 %, năm 2004 con số này tăng nên là: 10,9 %, đến năm 2005 chiếm 12,64 %. Điều này thể hiện qua biểu đồ 05 dưới đây: Biểu đồ 05: Nợ quá hạn làng nghề so với tổng nợ quá hạn của toàn chi nhánh NHNo & PTNT Hà Tây qua các năm 2003 – 2005 Triệu đồng. Tuy nợ quá hạn làng nghề chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ nhưng cũng không thể nói là chất lượng tín dụng đối với làng nghề là tốt bởi dư nợ của làng nghề chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ của ngân hàng. 2.2.5. Thị phần tín dụng của chi nhánh NHNo & PTNT trong hoạt động cho vay làng nghề: Hà Tây có 14 huyện thị với 325 xã và trên 2,5 triệu dân. Nền kinh tế hàng năm tăng trưởng khá, các tổ chức tín dụng trên địa bàn hoạt động mạnh. Tính đến hết năm 2005 tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng trên địa bàn toàn tỉnh là 7.210 tỷ đồng, tăng 647 tỷ so với đầu năm. Trong đó: Dư nợ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển: 985 tỷ. Dư nợ Ngân hàng Công Thương: 1.143 tỷ. Dư nợ QTDND: 515 tỷ. Dư nợ Ngân hàng Chính sách xã hội: 340 tỷ. Dư nợ Ngân hàng nhà Đồng bằng sông Cửu Long: 27 tỷ. Dư nợ NHNo & PTNT : 4.200 tỷ. Thông qua số liệu trên phản ánh vị thế và vai trò của NHNo trong công tác cho vay phục vụ kinh tế địa phương phát triển đặc biệt là cho vay khu vực nông nghiệp, nông thôn trong đó có các làng nghề. Thị phần của NHNo chiếm 58,2 % số dư nợ của các tổ chức tín dụng. Mặc dù chưa có số liệu chính xác về thị phần của NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây đối với cho vay làng nghề nhưng có thể nói thị phần tín dụng của NHNo &PTNT Hà Tây là lớn nhất. Nguyên nhân là do NHNo có màng lưới các chi nhánh rộng khắp toàn tỉnh trong khi đó các TCTD khác thường chỉ tập trung ở các thị xã cho nên khả năng tiếp cận với khách hàng là khó khăn hơn đặc biệt là khách hàng ở các làng nghề. 2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT TỈNH HÀ TÂY TRONG THỜI GIAN QUA. 2.3.1. Kết quả đạt được: Với định hướng chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước là tập trung đầu tư để phát triển kinh tế khu vực nông nghiệp, nông thôn mà nội dung quan trọng là khôi phục và phát triển các làng nghề, chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây đã thực hiện cho vay mở rộng đối với làng nghề. Trong những năm qua vốn tín dụng của ngân hàng đã góp phần khá lớn và quan trọng vào quá trình phát triển của làng nghề. Có thể nói rằng hoạt động cấp tín dụng đối với làng nghề như ở trên đã phân tích, NHNo &PTNT tỉnh Hà Tây đã có những bước đi đúng đắn và phù hợp, góp phần không nhỏ vào việc cung ứng vốn cho đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh tại làng nghề, đồng thời cũng mang lại hiệu quả cho chính bản thân ngân hàng. Những thành tựu mà ngân hàng đạt được trong hoạt động cho vay đối với làng nghề trong những năm qua có thể khái quát như sau: Dư nợ cho vay làng nghề liên tục tăng qua các năm thể hiện sự quan tâm của ngân hàng đối với lĩnh vực ngành nghề. Chất lượng tín dụng của làng nghề được nâng lên rõ rệt từ việc cài đặt chương trình tự động quản lý nợ, phân loại nợ theo nhóm đã giúp các ngân hàng cơ sở thường xuyên phân tích thực trạng nợ để có giải pháp xử lý, thu hồi nợ xấu. Đến năm 2005 tỷ lệ nợ xấu ở các làng nghề là 2,89%. Ngày càng nhiều hộ sản xuất, cơ sở sản xuất có quan hệ vay vốn với ngân hàng. Năm 2005 số hộ sản xuất có quan hệ với ngân hàng là: 24.735 hộ tăng 6.476 hộ so với năm 2004 (18.259 hộ), tốc độ tăng trưởng là: 35,46 % với dư nợ là 315.022 triệu đồng. Có 115 sở sản xuất tăng 16 cơ sở so với năm 2004 (99 cơ sở), tốc độ tăng trưởng là: 16,16 % với dư nợ là: 189.203 triệu đồng. 2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân: a. Hạn chế: Mặc dù dư nợ cho vay làng nghề liên tục tăng qua các năm nhưng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ của toàn chi nhánh, thường chỉ chiếm 11%- 12%. Điều này cho thấy ngân hàng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của làng nghề. Số hộ, cơ sở sản xuất có quan hệ tín dụng có tăng nhưng chỉ chiếm phần nhỏ so với số hộ, cơ sở sản xuất làng nghề. Số hộ có quan hệ tín dụng với ngân hàng là: 24.735 hộ chiếm 28% so với tổng số hộ làm nghề (số hộ làm nghề 88.670 hộ). Cơ sở làng nghề có quan hệ tín dụng với ngân hàng chỉ chiếm 5% so với tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh (hiện nay là 2.164 doanh nghiệp). Tỷ lệ nợ quá hạn ở mức thấp nhưng lại có xu hướng tăng qua các năm với tốc độ tăng khá lớn: năm 2004 so với năm 2003 tốc độ tăng là: 45,8% đến năm 2005 tốc độ tăng là 3,3 lần so với năm 2004. Ngân hàng mới chỉ áp dụng hai phương thức vay vốn là: phương thức cho vay từng lần và phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Trong đó phương thức cho vay từng lần là chủ yếu. Nhiều hộ sản xuất có nhu cầu vốn thường xuyên, có tín nhiệm trong quan hệ vay vốn với ngân hàng nhưng mỗi lần vay mới lại phải làm lại hồ sơ từ đầu, gây tốn kém mất thời gian. Điều này làm nản lòng người vay vốn trong khi phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng lại hầu như không áp dụng với các hộ vay vốn. b. Nguyên nhân: Nguyên nhân thuộc về ngân hàng: Ngân hàng chưa thực sự quan tâm đến việc vay vốn đối với làng nghề thể hiện là ngân hàng chưa có chính sách tín dụng cụ thể đối với làng nghề. Về quy mô tín dụng: phần lớn quy mô tín dụng đối với các hộ sản xuất là nhỏ. Ngân hàng vẫn còn e dè trong việc vay cho vay đối với các hộ, các cơ sở sản xuất nên khi cho vay vẫn căn cứ vào tài sản bảo đảm trong khi vấn đề về tài sản thế chấp ở các làng nghề còn nhiều bất cập trong việc xác định giá trị tài sản. Về lãi suất cho vay: hiện tại lãi suất cho vay đối với làng nghề là lãi suất thống nhất áp dụng cho mọi đối tượng vay vốn, ngân hàng chưa có sự ưu tiên về lãi suất khi cho vay đối với đối tượng ở các làng nghề. Mức lãi suất áp dụng là cao đối với các hộ, cơ sở sản xuất ở làng nghề do đó không thu hút được khách hàng ở làng nghề đến vay vốn. Về qui trình tín dụng: quy trình tín dụng thường bị kéo dài đặc biệt trong khâu thẩm định. Nguyên nhân là do sự phân cấp quyết định cho vay phải qua nhiều cấp quản lý, gây sự chồng chéo khi xét duyệt cho vay. Trong hồ sơ đòi hỏi nhiều giấy tờ nhiều loại chữ ký của các cơ quan khác nhau. Trong quy trình tín dụng một số ngân hàng cơ sở thực hiện quy trình cho vay còn sai sót, định kỳ hạn nợ chưa phù hợp cũng như chu kỳ sản xuất kinh doanh của các hộ, cơ sở sản xuất làm nghề. Việc phân tích nợ và chuyển nợ theo nhóm đối tượng chưa kịp thời. Công tác kiểm tra, kiểm soát tín dụng của một số ngân hàng cơ sở chưa chặt chẽ, chưa kiên quyết xử lý thu hồi nợ. CBTD vẫn chưa đi sâu nghiên cứu hoạt động của các làng nghề về thị trường, sản phẩm, qui trình sản xuất, công nghệ..cũng như xu thế phát triển của ngành nghề. Nhiều cán bộ mới vào chưa nắm vững quy trình nghiệp vụ nên khi cho vay còn nhiều sai sót. Bên cạnh đó, một số CBTD vẫn còn bỡ ngỡ trong việc lựa chọn các hình thức cho vay do chưa nắm vững các hình thức cho vay. Các chi nhánh ngân hàng cấp huyện hiện đang phải sử dụng hệ thống máy tính được trang bị từ rất lâu, tốc độ xử lý chậm cũng làm ảnh hưởng đến việc cho vay, phân loại nợ…làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Chiến lược Marketing của chi nhánh tiếp xúc với khách hàng ở làng nghề còn hạn chế. Nhiều hộ, cơ sở chưa nắm được các thông tin thủ tục quy trình cho vay, các giấy tờ hồ sơ cần thiết để được vay vốn ngân hàng nên phải đi lại nhiều lần, mất thời gian và chi phí tốn kém. Marketing mới chỉ thực hiện đơn giản ở mức tổ chức các đợt khuyến mại, thái độ niềm nở nhiệt tình của nhân viên, treo băng rôn trước cửa ngân hàng. Nguyên nhân thuộc về làng nghề: Nhu cầu vốn ở các làng nghề là lớn, họ thực sự cần vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ nhưng không thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng vì những lý do sau: Không đủ bảo đảm tiền vay: đối với các cơ sở, hộ sản xuất ở làng nghề phần lớn không đủ điều kiện vay tín chấp thì cũng chính là khách hàng không đủ tài sản đảm bảo cho việc vay vốn. Tài sản đảm bảo ở các làng nghề là động sản và bất động sản. Đối với tài sản là bất động sản : quyền sử dụng ruộng đất, nhà cửa ở nông thôn phần lớn không có giấy tờ. Đối với tài sản là động sản như: phương tiện vận tải, máy móc thiết bị… thường không đồng bộ chắp vá, nhiều bộ phận là tự chế giá trị sử dụng lớn nhưng giá trị thì thấp. Do vậy mà việc định giá tài sản là rất khó khăn, tài sản đảm bảo thông thường chỉ đáp ứng 20 %- 30% nhu cầu xin vay. Nhiều doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH mới thành lập một vài năm gần đây nên chưa tạo lập được uy tín trong sản xuất kinh doanh, vì vậy họ cũng khó tìm được người bảo lãnh cho mình. Chưa hiểu biết đầy đủ về thủ tục vay vốn: Thực tế rất ít chủ cơ sở, chủ hộ có khả năng lập được dự án, trình bày rõ ràng các đề xuất vay vốn của dự án đó. Nguyên nhân là do các chủ hộ, chủ cơ sở chưa được trang bị những kiến thức cơ bản về tài chính tín dụng, về quản trị kinh doanh. Vì vậy khi ngân hàng yêu cầu chứng minh những điều kiện trong quy chế cho vay đặt ra chẳng hạn phương án sản xuất kinh doanh thì họ không biết được phải chuẩn bị những gì, nên khâu hoàn thiện thường mất nhiều thời gian, điều này làm nản lòng người vay vốn. Do đó để chớp thời cơ trong kinh doanh họ phải tìm đến những nguồn phi chính thức khác. Rủi ro trong sản xuất kinh doanh cao: trong điều kiện môi trường kinh doanh, môi trường pháp luật chưa ổn định nhưng các doanh nghiệp tư nhân và các công ty TNHH không ngừng tăng về số lượng. Hiện nay trên toàn tỉnh có 2.164 doanh nghiệp. Song do hạn hẹp về vốn, uy tín trên thị trường chưa được tạo dựng, vì vậy họ khó có thể ứng phó trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, điều này cản trở cho việc tiếp cận vay vốn ngân hàng. Khó khăn trong việc cung cấp các thông tin và báo cáo tài chính: Do đặc điểm sản xuất quy mô nhỏ nên các chủ hộ, chủ cơ sở đều xem nhẹ công tác kế toán. Một số thực sự lúng túng trong việc thực hiện công tác kế toán và lập báo cáo tài chính do những quy định về chế độ kế toán phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện sản xuất. Một số khác lại thực hiện chỉ để đối phó với cơ quan quản lý. Đây là nguyên nhân gây ra sự không tin tưởng của ngân hàng đối với các thông tin mà các chủ hộ, chủ cơ sở sản xuất cung cấp. Bên cạnh đó không ít hộ chỉ giới hạn sản xuất kinh doanh trong phạm vi tự có. Ở những hộ này thường sử dụng công nghệ truyền thống là phổ biến. Công nghệ cổ truyền cũng có ưu điểm vốn ít, phù hợp trình độ của người lao động. Song nó cũng có nhiều hạn chế như: năng suất thấp, chất lượng sản phẩm không đồng đều. Vì thế những hộ này thường chỉ vay mượn vốn, kể cả vốn tại QTDND. Các nhân tố khác: Chính sách lãi suất: trong thời gian qua, NHNN quy định lãi suất thống nhất, chưa có sự ưu đãi đối với làng nghề. Điều này không thu hút được khách hàng. Việc làng nghề chưa được thừa nhận về địa vị pháp lý cũng gây ra tâm lý e ngại của ngân hàng khi mở rộng vay vốn vào khu vực vày. Giá cả thị trường tăng cao đặc biệt là giá xăng dầu, vật liệu xây dựng, lương thực, thực phẩm đã ảnh hưởng đến giá thành sản xuất, hạn chế nhịp độ kinh doanh của các thành phần kinh tế nói chung và làng nghề nói riêng. Việc sử lý tài sản thế chấp gặp khó khăn, theo quyết định 165 không bán được tài sản thế chấp thì không xử lý rủi ro được mặc dù đơn vị có đủ năng lực tài chính. Điều này hạn chế khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng. CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT TỈNH HÀ TÂY. 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH DOANH CỦA CHI NHÁNH NHNO& PTNT TỈNH HÀ TÂY TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1.1. Định hướng phát triển kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây trong thời gian tới Thực hiện đường lối chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, định hướng phát triển của NHNo & PTNT Việt Nam, chi nhánh NHNo & PTNT Hà Tây đang ngày càng nỗ lực góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển của đất nước. Nhận thức được vai trò của mình là ngân hàng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, làng nghề và tiểu thủ công nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để Hà Tây trở thành tỉnh có nền kinh tế đa dạng công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ chi nhánh NHNo & PTNT Hà Tây trong những năm tới có những phương hướng hoạt động như sau: Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác huy động nguồn vốn, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt để mở rộng kinh doanh. Từng cấp ngân hàng thực hiện theo hướng: Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn thực hiện có hiệu quả đề án chiến lược huy động vốn giai đoạn 2006 - 2010 chỉ đạo tốt chiến lược khách hàng, củng cố và mở rộng hệ thống màng lưới có chính sách lãi suất phù hợp với thị trường. Thường xuyên tuyên truyền sâu rộng các sản phẩm gắn với quảng bá thương hiệu, nâng cao chất lượng phục vụ. Mở rộng các dịch vụ ATM, chuyển tiền nhanh, chi trả kiều hối, nghiệp vụ thẻ TD…Để thu hút khách hàng tăng trưởng nguồn vốn. Tiếp tục mở rộng đầu tư vào các thành phần kinh tế trên cơ sở phân loại thị trường, lựa chọn khách hàng để đầu tư có hiệu quả. Toàn tỉnh xác định đầu tư vào thị trường nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ chính, đáp ứng đủ vốn cho kinh tế hộ phát triển, tiếp tục mở rộng màng lưới cho vay qua tổ nhóm vừa phát triển thị phần, mở rộng khách hàng vừa giảm quá tải cho cán bộ tín dụng. Mặt khác coi trọng đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ doanh nghiệp, làng nghề, kinh tế trang trại, hộ tư nhân cá thể, thực hiện tốt cơ chế đảm bảo tiền vay, áp dụng hình thức cho vay phù hợp với phân loại khách hàng . Tăng cường đổi mới hiện đại hóa công nghệ ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế, tiếp tục đổi mới hệ thống thiết bị vi tính, phát triển dịch vụ ngân hàng mới, triển khai thực hiện tốt chương trình WB trong toàn tỉnh, triển khai lắp đặt thêm máy ATM tại các ngân hàng cơ sở khu cụm công nghiệp, khu chung cư … Đáp ứng yêu cầu quản lý và mở rộng dịch vụ, thu hút khách hàng, nâng cao uy tín của NHNo. Quan tâm chỉ đạo và làm tốt công tác kiểm tra kiểm soát, tập trung sửa sai dứt điểm những sai sót theo kết luận của thanh tra NHNN, các đoàn kiểm tra của NHNN tỉnh và tự kiểm tra của ngân hàng cơ sở, chú trọng kiểm tra chất lượng tín dụng mới cho vay, tổ chức kiểm tra đối chiếu tiền gửi, tiền vay với khách hàng, tiếp tục triển khai đề án đổi miền cán bộ tín dụng, cán bộ kế toán phòng giao dịch và ngân hàng cấp III, luân chuyển cán bộ quản lý theo qui định từ đó vừa kiểm tra chất lượng kinh doanh vừa tạo động lực thúc đẩy kinh doanh phát triển. Tập trung chỉ đạo xây dựng nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, xây dựng phương án đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nâng cao kiến thức hội nhập, nghiệp vụ pháp luật, maketing. Đào tạo phổ cập 100% cán bộ biết sử dụng máy tính và nghiệp vụ WB cho các ngân hàng cơ sở để nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh đáp ứng nhu cầu hội nhập trong thời gian tới. Cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho khách hàng giao dịch với ngân hàng, đa dạng hóa các phương thức cho vay đáp ứng được nhu cầu vốn tín dụng cho khách hàng có như vậy việc triển khai các sản phẩm mới thuận lợi và đạt kết quả. Xây dựng và triển khai thực hiện phong trào “văn minh giao tiếp” của cán bộ ngân hàng trong quá trình giao dịch làm việc với khách hàng. Cụ thể trong năm 2006, mục tiêu của chi nhánh NHNo & PTNT Hà Tây : Tổng nguồn vốn huy động: 5.760 tỷ, tăng 1000 tỷ so với đầu năm, tốc độ tăng trưởng cả năm là 21,2 %. Trong đó huy động tiền gửi từ dân cư 3.700 tỷ chiếm tỷ trọng 64 % tổng nguồn vốn . Tổng dư nợ 4.900 tỷ đồng, tăng 660 tỷ so với đầu năm, tốc độ tăng trưởng cả năm 15,5%. Trong đó tỷ lệ dư nợ trung, dài hạn chiếm 40% tổng dư nợ. Nâng cao chất lượng tín dụng tỷ lệ nợ quá hạn dưới 3,5 % tổng dư nợ. Phát triển dịch vụ: tiếp tục làm tốt công tác chuyển tiền nội tệ, ngoại tệ, trả tiền kiều hối Western union, phát hành thẻ ATM, thẻ tín dụng …phấn đấu năm 2006 tỷ lệ thu dịch vụ thu nhập ròng tăng gấp 2 lần so với năm 2005. Tài chính: phấn đấu quỹ lương chi cho cán bộ công nhân viên theo chế độ, có dự phòng và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. - Giữ vững các phong trào thi đua, kinh doanh phát triển bền vững đảm bảo an toàn tài sản và con người… 3.1.2. Định hướng cho vay đối với làng nghề tại chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây trong thời gian tới: Cho vay đối với làng nghề vẫn luôn được chi nhánh chú trọng. Trong năm tới ngân hàng có kế hoạch mở rộng cho vay đối với làng nghề như sau: Đẩy mạnh cho vay kinh tế hộ gia đình, kinh tế khu vực kinh tế vừa và nhỏ, chú trọng mở rộng cho vay đối tượng sản xuất hàng hoá, sản xuất kinh doanh của các làng nghề đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu. Từng bước chuyển dịch cơ cấu tín dụng sang đối tượng ít rủi ro an toàn hơn, khai thác triệt để thế mạnh của từng chi nhánh đối với cho vay làng nghề đưa tốc độ cho vay cao hơn. Trong cho vay đối với làng nghề, ngân hàng tạo mối quan hệ chặt chẽ với các hội phụ nữ, hội nông dân, với chính quyền các cấp mở rộng cho vay qua tổ nhóm tín chấp chiếm lĩnh thị trường vay vốn nhỏ lẻ, giữ vững uy tín của NHNo & PTNT Hà Tây. Cùng với việc tổ chức xếp loại khách hàng nói chung cũng sẽ tổ chức xếp loại khách hàng ở các làng nghề theo quy định để làm cơ sở xét duyệt cho vay hợp lý nhằm khuyến khích các cơ sở, hộ sản xuất ở làng nghề mạnh dạn đến vay vốn ngân hàng 3.2. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT TỈNH HÀ TÂY. Để góp phần khôi phục và phát triển làng nghề Hà Tây, một số giải pháp mở rộng cho vay dưới đây nên được thực hiện: 3.2.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng đối với làng nghề Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Với đặc điểm sản xuất kinh doanh đa dạng, nhu cầu vay vốn ngày càng tăng đòi hỏi chi nhánh NHNo& PTNT tỉnh Hà Tây phải có chính sách tín dụng riêng đối với làng nghề. a. Mở rộng cho vay đối với làng nghề nên được đặt thành một nội dung lớn trong chiến lược phát triển của ngân hàng trong thời gian tới. Với số lượng làng nghề trên toàn tỉnh nhiều như hiện nay nhưng tỷ lệ khách hàng ở làng nghề có quan hệ tín dụng với ngân hàng còn rất hạn chế. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng nên chú trọng cho vay làng nghề nhiều hơn, khi đặt thành một nội dung lớn, ngân hàng tất yếu sẽ xây dựng những biện pháp để mở rộng cho vay có hiệu quả. Từ đó nó trở thành một định hướng đối với cán bộ tín dụng khi ra quyết định cho vay. b. Mở rộng quy mô tín dụng: Các khoản cho vay đối với làng nghề thường là dưới 100 triệu, các khoản cho vay trên 100 triệu là rất ít. Với tốc độ phát triển sản xuất như hiện nay tại các làng nghề thì ngân hàng nên tăng mức cho vay đối với các hộ. Khi cho vay đối với làng nghề đặc biệt là đối với các hộ thì ngân hàng thường dựa vào tài sản đảm bảo để quyết định khối lượng khoản vay, do vậy mà các hộ thường được vay vốn dưới mức nhu cầu. Để tăng quy mô tín dụng cho làng nghề thì ngân hàng không nên quá coi trọng vào tài sản đảm bảo mà lấy tính khả thi của dự án sản xuất kinh doanh để làm cơ sở ra quyết định cho vay. Mặt khác, ngân hàng nên định giá tài sản đảm bảo của khách hàng ở các làng nghề theo giá thực tế của thị trường để nâng mức cho vay có thế chấp tương ứng giá trị tài sản đảm bảo. c. Áp dụng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với làng nghề: Lãi suất liên quan đến chi phí vốn của khách hàng nên nó đặc biệt được khách hàng quan tâm. Khách hàng luôn có sự so sánh lãi suất của các ngân hàng khác nhau để quyết định đi vay. Bởi vậy ngân hàng nên có cơ chế lãi suất ưu đãi đối với khách hàng tại các làng nghề. Trong thời gian vừa qua ngân hàng quy định mức lãi suất chung áp dụng cho mọi đối tượng. Để hoà nhập kịp với cơ chế thị trường thì bản thân mỗi cơ sở, mỗi hộ sản xuất tại làng nghề phải nhanh chóng chuyển đổi công nghệ kỹ thuật nhưng nhu cầu vốn đòi hỏi lớn, thời gian phát huy hiệu quả chậm, lãi suất tiền vay đổ đều như các đối tượng thương mại dịch vụ khác sẽ là cản trở cho sản xuất làng nghề phát triển. Ngân hàng nên có sự hạch toán trên cơ sở lãi suất trần, đảm bảo lãi suất thực dương mà vẫn có tác dụng thúc đẩy kinh tế làng nghề phát triển. Bên cạnh việc sử dụng tích cực các nguồn vốn từ các tổ chức thế giới qua các dự án với lãi suất thấp, ngân hàng phải chọn đối tượng đầu tư phù hợp và có ưu tiên lãi suất theo những biện pháp xử lý thích ứng. Ngân hàng có thể giảm lãi suất cho vay đối với làng nghề trên cơ sở: Giảm lãi suất nhưng không để có sự chênh lệch qua lớn giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Muốn vậy ngân hàng cần phải tìm các nguồn vốn rẻ, dài hạn hơn để tài trợ nhu cầu của làng nghề. Hạ lãi suất với các dự án nằm trong chương trình, định hướng phát triển của Trung ương và địa phương. Các dự án xử lý môi trường của làng nghề cần được quan tâm xử lý như: nước thải, rác thải,…các dự án đổi mới máy móc thiết bị công nghệ và các dự án phát triển vùng nguyên liệu. Tạo ra sự ổn định lâu dài cho sự phát triển làng nghề. d. Về cơ chế bảo đảm tiền vay: Trong thực tế khi giải quyết một khoản vay của khách hàng ở các làng nghề, ngân hàng thường yêu cầu phải có tài sản đảm bảo và CBTD coi đây là điều kiện cơ bản bảo đảm an toàn khi cho vay. Mặc dù sau khi nghị định 178/1999/NĐ- CP ngày 29/12/1999 đã tạo sự thông thoáng và công bằng hơn với các đối tượng vay vốn. Cho vay không có tài sản đảm bảo được mở rộng cho phép ngân hàng lựa chọn khách hàng để cho vay khi không có tài sản đảm bảo nếu khách hàng có đủ điều kiện. Tuy nhiên khi cho vay đối với làng nghề, ngân hàng thường đòi hỏi có tài sản thế chấp và coi đó là yếu tố quan trọng khi ra quyết định cho vay. Các chủ hộ và cơ sở làm nghề thường là người có tư cách đạo đức tốt nên ngân hàng có thể cho vay không cần tài sản đảm bảo. Đối với những cơ sở làng nghề đã có quan hệ tín dụng với ngân hàng, có uy tín, có tài chính lành mạnh, có năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh đang ở giai đoạn phát triển ngân hàng có thể dựa vào uy tín của họ để cho vay không có tài sản đảm bảo. Đối với khách hàng có quan hệ tín dụng lần đầu, có phương án kinh doanh có khả năng phát triển ngân hàng nên mạnh dạn sử dụng phương pháp đảm bảo tiền vay hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba nếu không có tài sản đảm bảo. Bảo lãnh của bên thứ ba thường là bảo lãnh của UBND huyện, hiệp hội nghề nghiệp, hợp tác xã… đối với các thành viên làm nghề. Đặc biệt đối với các làng nghề truyền thống thường gặp nhiều khó khăn ngân hàng có thể cho vay qua bảo lãnh. Trong trường hợp này ngân hàng nên đòi hỏi bên bảo lãnh nâng cao trách nhiệm khi bảo lãnh tức chia sẻ một phần hay toàn bộ khi rủi ro xảy ra đồng thời giám định kỹ chất lượng khoản vay trước khi hồ sơ vay vốn gửi lên ngân hàng. Có như vậy mới tạo điều kiện cho khách hàng ở làng nghề có điều kiện vay vốn và ngân hàng cũng có điều kiện mở rộng cho vay đối với làng nghề. 3.2.2. Đa dạng hoá các hình thức cho vay: Đa dạng hoá các hình thức cho vay là một vấn đề tất yếu không chỉ cho vay đối với làng nghề mà đối với các đối tượng nói chung. Việc áp dụng nhiều hình thức cho vay sẽ đáp ứng nhu cầu vốn của các cơ sở, hộ sản xuất làng nghề đồng thời ngân hàng sẽ sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng. Điều này sẽ dẫn đến giảm được chi phí quản lý, chi phí hoạt động, lợi nhuận tăng lên, hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Hơn nữa nhu cầu về vốn của khách hàng là rất đa dạng mà việc áp dụng nhiều hình thức cho vay khác nhau là cần thiết, nó sẽ giúp ngân hàng tránh được nhiều rủi ro không đáng kể. a. Mở rộng hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng Hiện tại cho vay đối với làng nghề tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây phần lớn là áp dụng phương thức cho vay từng lần, một số ít các món vay là cho vay theo phương thức hạn mức tín dụng. Trong thời gian tới ngân hàng cần mở rộng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các hộ, cơ sở sản xuất có đủ điều kiện nhằm đơn giản thủ tục, giảm hồ sơ vay vốn đồng thời tiết kiệm chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng, đáp ứng kịp thời vốn cho làng nghề đặc biệt là các cơ sở có nhu cầu vốn thường xuyên. b. Triển khai áp dụng hình thức tín dụng cho thuê tài chính đối với các làng nghề Cho thuê tài chính là hoạt động cho vay trung và dài hạn giữa bên cho thuê và bên đi thuê trên cở sở hợp đồng cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Khi triển khai hình thức tín dụng này ngân hàng sẽ mua máy móc thiết bị theo yêu cầu của các hộ, cơ sở sản xuất và nắm quyền sở hữu với tài sản thuê; khách hàng nắm quyền sử dụng tài sản thuê và có trách nhiệm định kỳ thanh toán tiền thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê có quyền mua lại hoặc tiếp tục thuê hoặc trả lại tài sản thuê. Tại các làng nghề số doanh nghiệp là khá nhiều nếu mạnh dạn áp dụng phương thức này sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp có được công nghệ hiện đại và đồng bộ để sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao. Mặt khác, do sản xuất ở nhiều làng nghề thường mang tính thời vụ nên nếu áp dụng hình thức này sẽ giúp họ tiết kiệm được những chi phí phát sinh khi máy không được sử dụng đồng thời khách hàng chỉ phải trả tiền thuê nên tiết kiệm được số tiền để mua nguyên liệu, trả lương… NHNo Việt Nam đã thành lập công ty cho thuê tài chính và bước đầu phát triển, đối tượng tìm đến đa phần là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây cần xây dựng đề án cụ thể để triển khai, phát triển tích cực nghiệp vụ này. c. Đẩy mạnh cho vay đối với làng nghề qua các tổ chức trung gian: Cho vay qua tổ chức trung gian là hình thức cho vay gián tiếp. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay…. Đa số khách hàng ở làng nghề đều phân tán, nằm sâu trong các ngõ xóm, điều kiện đi lại khó khăn, nhiều món vay nhỏ lẻ; chi phí hoạt động của ngân hàng cũng như chi phí giao dịch của khách hàng tăng cao làm giảm hiệu quả hoạt động từ cả hai phía. Mặt khác, do số lượng khách hàng ở các làng nghề lớn trong khi cán bộ tín dụng là không nhiều nên một cán bộ tín dụng phải phụ trách nhiều khách hàng từ 30 – 40 hộ, cơ sở sản xuất. Đây là nguyên nhân dẫn đến phát sinh nợ quá hạn hay tâm lý e ngại khi cho vay với khu vực này. Để khắc phục tình trạng trên, ngân hàng cần mở rộng hình thức tín dụng gián tiếp. Ngân hàng cho vay qua tổ, hội, đội như: tổ hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân, hội phụ nữ, hội nông dân…Các tổ chức này sẽ đứng ra bảo lãnh cho các thành viên trong hội vay vốn của ngân hàng nhằm mục đích phát triển kinh tế cho các thành viên trong hội Khi cho vay thông qua tổ chức như: Quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức hội, đoàn thể… ngân hàng sẽ mua lại các giấy nợ trong hạn của Quỹ tín dụng nhân dân, các hội, các đoàn thể. Các tổ chức này thường gần với các làng nghề và có quan hệ gần gũi do vậy mà xác định đúng nhu cầu vay vốn và đảm bảo khả năng trả nợ tiền vay của khách hàng. Đối với những làng nghề cách xa ngân hàng, việc thu thập thông tin về khách hàng là rất khó khăn thì hình thức này tỏ ra có ưu thế rõ rệt mặc dù mạng lưới của chi nhánh đã rộng khắp toàn tỉnh. Ngân hàng cũng nên đẩy mạnh cho vay qua tổ nhóm hợp tác. Tổ, nhóm hợp tác là loại hình mới xuất hiện ở các làng nghề Hà Tây tuy số lượng chưa nhiều nhưng đã tỏ ra có ưu thế rõ rệt. Đặc trưng của mô hình này là một số hộ sản xuất kết hợp với nhau thành lập tổ sản xuất và bầu ra một chủ hộ giỏi nhất và có uy tín làm tổ trưởng. Tổ hợp tác sẽ cùng nhau tìm thị trường đầu vào cung cấp nguyên liệu, sản suất sản phẩm và tìm thị trường đầu ra. Bên cạnh đó tổ hợp tác còn có thể ký chung một hợp đồng tín dụng. Điều này sẽ làm giảm chi phí cho ngân hàng bởi thay vì phải thẩm định, kiểm tra nhiều hợp đồng tín dụng thì CBTD chỉ phải kiểm tra một hợp đồng. Đối với các thành viên trong tổ hợp tác sẽ nhận được vốn vay mặc dù họ không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Như vậy, mô hình tổ chức nhóm sẽ buộc các chủ hộ phải giám sát, đồng thời giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình sử dụng tiền vay để hạn chế rủi ro phát sinh. Bên cạnh đó tổ hợp tác còn giúp ngân hàng trong khâu thẩm định dự án vốn vay cẩn thận, chu đáo ở các cơ sở trước khi gửi dự án lên ngân hàng, ấn định mức vay phù hợp với nhu cầu thực tế của từng đối tượng không quá cao hay quá thấp. Ngân hàng có thể cho vay qua các người buôn. Họ là các doanh nghiệp, công ty, cửa hàng cung cấp nguyên liệu và thu mua sản phẩm của làng nghề. Việc cho vay theo cách này có thể hạn chế người vay sử dụng sai mục đích. Quá trình cho vay sẽ được tiến hành như sau: Ngân hàng sẽ ký hợp đồng tín dụng với các cơ sở làng nghề. Người vay mua hàng và bán hàng. Các nhà buôn tập trung hóa đơn bán hàng gửi lên ngân hàng đề nghị thanh toán. Sau đó ngân hàng thu nợ của người vay. Khi cho vay với hình thức này ngân hàng sẽ nắm chắc được số tiền cho vay được dùng cho việc mua nguyên liệu hay tiêu thụ sản phẩm, khắc phục rủi ro đối với cho vay trực tiếp do thị trường tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu không ổn định, phụ thuộc vào các nhà buôn và các nhà cung cấp nguyên liệu ở các tỉnh lân cận. Tuy nhiên khách hàng chưa quen với cách sử dụng và lập các chứng từ cũng như hình thức này. Do vậy CBTD cần phải hướng dẫn họ về cách lập chứng từ, qui trình để họ hiểu rõ được những ưu điểm của hình thức cho vay này. 3.2.3. Mở rộng cho vay trung và dài hạn để đổi mới trang thiết bị kỹ thuật công nghệ: Hiện nay vấn đề đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất đã được các làng nghề chú trọng đặc biệt đối với các làng nghề chế biến lương thực thực phẩm như: làng nghề bánh kẹo dệt kim La Phù, làng nghề may công nghiệp may dân dụng thôn Thượng… Tuy nhiên sự chuyển đổi một số khâu trong quá trình sản xuất từ lao động thủ công lên lao động cơ khí hiện đại tiến tới là sự thay thế dây chuyền máy móc kỹ thuật cho sản xuất tại các cơ sở, hộ sản xuất làng nghề đòi hỏi vốn trung dài hạn là rất lớn, trong khi đó khả năng về vốn tự có của các cơ sở sản xuất là có hạn. Thời gian qua chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây chủ yếu cho vay ngắn hạn do chưa có sự tin tưởng về khả năng phát triển kinh tế làng nghề trong cơ chế thị trường. Do vậy người sản xuất làng nghề không có điều kiện nâng cao máy móc, kỹ thuật trong sản xuất. Một vài cơ sở sản xuất đã chủ động tự liên doanh, liên kết nhưng khả năng đó còn hạn chế. Vì vậy để tạo điều kiện cho các cơ sở, hộ sản xuất tại các làng nghề đổi mới kỹ thuật công nghệ NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây cần mở rộng đầu tư tín dụng trung và dài hạn đúng mức, đúng đối tượng, góp phần nâng cao năng lực sản xuất của cơ sở, hộ sản xuất tạo tiền đề cho vay ngắn hạn hiệu quả. Trước mắt đối với những khoản vay này do thời gian dài nên ngân hàng cần đòi hỏi tài sản đảm bảo. Các tài sản này có thể là chính máy móc, thiết bị hình thành từ vốn vay. 3.2.4. Hoàn thiện quy trình tín dụng đối với làng nghề. Quy trình tín dụng đối với làng nghề nên được hoàn thiện hơn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn. Do vậy ngân hàng nên quy định mức phán quyết đối với các khoản vay chẳng hạn: ngân hàng nên cho phép CBTD và trưởng phòng tín dụng có quyền quyết định những khoản vay dưới 100 triệu ( hiện nay là 50 triệu) những khoản vay trên 100 triệu thì phó giám đốc hoặc giám đốc có quyền quyết định. Điều này tạo sự chủ động cho CBTD khi quyết định cho vay đồng thời làm giảm khối lượng của ban lãnh đạo, qua đó mà có thể rút ngắn thời gian, thực hiện quy trình, nhanh chóng ra quyết định cho vay. Trong quá trình cho vay ngân hàng nên giải quyết nhanh gọn, linh hoạt tránh gây phiền hà, mất thời gian cho khách hàng, mạnh dạn áp dụng hình thức sổ vay vốn. Trong quá trình thẩm định CBTD nên chú ý đến đặc điểm của làng nghề để đánh giá tính khả thi của dự án như: tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, chất lượng sản phẩm, trình độ tay nghề của người thợ… Trong quy trình tín dụng đối với làng nghề ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến công tác kiểm tra, kiểm toán trong hoạt động của chi nhánh. Xác định rõ hoạt động kiểm tra, kiểm toán nói chung, cho vay làng nghề nói riêng là một công việc vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác cho vay. Công tác kiểm tra thường là nhằm thực hiện hoàn chỉnh quy trình tín dụng và phát hiện những sai sót trong quá trình cho vay để kịp thời ngăn chặn, sửa chữa cải tiến và nâng cao hiệu quả, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Để thực hiện được điều đó ngân hàng cần tiến hành: Công tác tự kiểm tra đối với CBTD: CBTD tự kiểm tra xem xét lại các khoản vay kiểm tra trước trong và sau khi cho vay. Tổ chức kiểm tra chéo giữa các CBTD, cụ thể hoá thành nhiệm vụ, phân công cán bộ phụ trách địa bàn này kiểm tra địa bàn khác để phát hiện và sửa chữa sai sót kịp thời. Thực hiện tốt công tác kiểm tra phân tích nợ hàng tháng, quý. CBTD kết hợp với kế toán, kiểm tra viên tiến hành phân tích nợ, xác định khả năng thu hồi nợ, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn. Từ đó có kế hoạch đôn đốc xử lý thu hồi nợ kịp thời. Thành lập đoàn kiểm tra chuyên đề tín dụng đối với ngân hàng cơ sở. Quy định cụ thể đối với cán bộ chuyên trách, lãnh đạo các cấp kiểm tra bao nhiêu món vay hàng tháng. 3.2.5. Tăng cường biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng: Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp để mở rộng cho vay đối với làng nghề chi nhánh cũng cần có biện pháp để phòng ngừa rủi ro tín dụng. Đồng thời với việc phân loại nợ hàng tháng, quý, trích quỹ dự phòng rủi ro theo quy định Ngân hàng cũng nên chủ động có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế rủi ro. Ngân hàng có thể phối hợp với các công ty bảo hiểm để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay. Theo cách này ngân hàng sẽ làm đại lý để người vay vốn được mua bảo hiểm như: bảo hiểm đối với người vay vốn, bảo hiểm tài sản thế chấp, bảo hiểm tài sản hình thành từ vốn vay. Ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng mua bảo hiểm khi khách hàng đến vay vốn. Nếu làm được điều này sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thực sự yên tâm khi đầu tư vốn vào các làng nghề. Ngân hàng nên mở rộng hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay tại các làng nghề số doanh nghiệp ngày một tăng, nếu thực hiện được điều này một mặt hỗ trợ cho doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư nâng cấp dây chuyền kỹ thuật nhưng thiếu tài sản thế chấp có thể được vay vốn ngân hàng. Mặt khác giúp doanh nghiệp và ngân hàng hạn chế rủi ro bất thường xảy ra trong quá trình sử dụng vốn và sản xuất kinh doanh. 3.2.6. Đổi mới công nghệ, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng: Đổi mới hiện đại hoá công nghệ ngân hàng: là yêu cầu cấp thiết của hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay nếu như họ muốn tồn tại và phát triển. Đổi mới công nghệ ngân hàng không chỉ đơn thuần là trang bị kỹ thuật hiện đại mà còn gắn liền với việc đổi mới qui trình sản xuất. Thời gian trước đây khách hàng tự tìm đến ngân hàng thì hiện nay do sự cạnh tranh gay gắt nên ngân hàng cần tìm các biện pháp để tiếp cận khách hàng. Trên địa bàn tỉnh không chỉ có NHNo mới cho vay làng nghề mà cả Ngân hàng Công thương, QTDND cũng đang có những biện pháp để mở rộng cho vay đối với làng nghề. Do vậy NHNo cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trong việc vay vốn đối với khu vực nông nghiệp nông thôn, vốn là thị trường chính của ngân hàng. Ngân hàng có thể tập trung vào những khía cạnh sau: Hiện đại hoá hệ thống thanh toán bằng việc trang bị hệ thống máy vi tính và cải thiện hệ thống thanh toán. Hiện nay, hệ thống máy tính của ngân hàng chưa được trang bị đầy đủ đặc biệt ở các ngân hàng huyện, ngân hàng cấp 4 hệ thống máy tính còn thiếu nếu có cũng là những máy cũ khả năng xử lý chậm. Việc trang bị thêm những thiết bị hiện đại sẽ giúp ngân hàng quản lý những khoản vay tốt hơn. Triển khai toàn chi nhánh chương trình hiện đại hoá ngân hàng World Bank. Ở các ngân hàng cấp III, cấp IV chương trình sử dụng vẫn là Foxp chưa sử dụng chương trình WB, nên còn gây chậm chễ trong hoạt động cho vay. Ngân hàng cần mở rộng cho vay đối với các đối tượng khác: Bên cạnh đó, để đẩy mạnh cho vay đối với làng nghề thì ngân hàng cần thiết mở rộng cho vay đối với các đối tượng khác theo hướng sau: - Kết hợp việc đầu tư để thay đổi quy trình sản xuất cũ của làng nghề với việc đầu tư vốn cho vùng sản xuất, vùng cung cấp nguyên liệu và các cá nhân làm dịch vụ thu mua và cung cấp nguyên vật liệu cho làng nghề. Trên cơ sở khái quát khả năng phát triển sản xuất và tiêu thụ hàng hoá của làng nghề như cho vay ứng trước tiền hàng, bảo lãnh mở L/C trả chậm với hàng nhập khẩu, cho vay để thu mua sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời với các biện pháp trên thì ngân hàng cũng nên mở rộng các dịch vụ ngân hàng bằng các biện pháp: Thường xuyên tổ chức khảo sát nghiên cứu thị trường nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm để có kế hoạch và biện pháp mở rộng kinh doanh. Ngân hàng nên thực hiện tư vấn cho các hộ, cơ sở sản xuất ở làng nghề về cách lập báo cáo, phương án, dự án… tư vấn về công nghệ, kỹ thuật, các đối tác cung cấp nguyên liệu, thu mua sản phẩm nhằm đảm bảo cơ sở cho làng nghề tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng vốn vay có hiệu quả. Ngân hàng cũng nên phối hợp với các ngành hữu quan như sở thương mại, sở công nghiệp,.. để có những thông tin chính xác về các làng nghề phục vụ đầu tư có hiệu quả. Ngân hàng cần mở rộng các hình thức tiếp thị đối với làng nghề về các dịch vụ ngân hàng: Các khách hàng ở làng nghề đặc biệt là các hộ sản xuất chưa có thói quen quan hệ với ngân hàng. Do vậy ngân hàng không thể đợi cho khách hàng đến với mình mà mình phải tự tìm đến với khách hàng. CBTD có thể tìm đến các làng nghề đang phát triển để phổ biến về các điều kiện cần và đủ để vay vốn, những ưu đãi của ngân hàng, chỉ dẫn và giải đáp thắc mắc. Thông qua đó CBTD cũng có thể thu thập thông tin khách hàng ở các làng nghề về: qui trình công nghệ, sản phẩm của làng nghề…Điều này là không khó đối với ngân hàng bởi NHNo hiện đang có một hệ thống chi nhánh rộng khắp toàn tỉnh. Ngân hàng cũng đẩy mạnh quảng cáo về các dịch vụ tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp như: thu hộ, chi hộ, bảo lãnh… bằng cách tăng cường công tác quảng cáo trên báo chí, truyền thanh, truyền hình của địa phương, phát tờ rơi, treo băng rôn trước cửa ngân hàng…Chi nhánh có thể mở rộng củng cố màng lưới hệ thống ngân hàng liên xã, ngân hàng lưu động, củng cố vừa tạo điều kiện cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đối với cơ sở làng nghề, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên việc mở rộng màng lưới cần đảm bảo yêu cầu sau: Phải gần với dân, sát dân, tiện lợi cho dân, mở tại các nơi mà làng nghề đang phát triển để vừa giữ vững thế mạnh hiện có với khách hàng truyền thống đồng thời thu hút thêm các cơ sở, hộ sản xuất tham gia vay vốn ngân hàng. 3.2.7. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng trong lĩnh vực cho vay làng nghề: Trình độ, năng lực của CBTD là vấn đề then chốt ảnh hưởng quyết định đến chất lượng tín dụng. Để mở rộng cho vay đối với làng nghề có hiệu quả thì ngân hàng cần đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên sâu về làng nghề. Trước hết một cán bộ tín dụng phải nắm vững nghiệp vụ tín dụng, hiểu rõ bản chất của các hình thức cho vay, phương thức vay..do đó sẽ lựa chọn hình thức, lãi suất phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Trong hoạt động cho vay đối với làng nghề có nhiều phức tạp đặc biệt là vấn đề tài sản đảm bảo do đó đòi hỏi CBTD phải hiểu rõ địa bàn mình phụ phụ trách, hiểu rõ về đặc điểm thị trường ngành nghề. Từ đó thấy được lĩnh vực ngành nghề nào đang có xu hướng phát triển. Đồng thời, CBTD phải luôn cập nhật những thông tin về nhà đất, công nghệ, lao động… bởi nó sẽ giúp CBTD khi thẩm định để ra quyết định cho vay. Ngân hàng khuyến khích CBTD tự nghiên cứu, học tập để cập nhật kiến thức về pháp luật, thị trường, tin học … Bằng cách cung cấp các tài liệu, văn bản mới về chế độ chính sách của ngành, pháp luật của nhà nước. Để tạo động lực cho CBTD say mê, nhiệt tình trong công tác thì ngân hàng cần có chế độ thưởng phạt công minh. CBTD là người trực tiếp, giám sát món vay nên nếu khoản vay an toàn thì không sao nhưng nếu khoản vay có vấn đề thì họ lại là người phải chịu trách nhiệm. Do vậy để khuyến khích cán bộ tích cực trong công tác cho vay, thu nợ ngân hàng nên có thêm chế độ khen thưởng kịp thời đối với CBTD thực hiện nhiều món vay an toàn, hiệu quả. Tránh tình trạng là cán bộ tín dụng có tâm lý e ngại khi cho vay đối với khách hàng ở làng nghề vì vay nhiều thì họ không được gì. Những hình thức khen thưởng nên được cụ thể hóa bằng vật chất. Ngược lại, đối với những cán bộ vi phạm qui trình nghiệp vụ tín dụng là trái với chính sách tín dụng ngân hàng thì nên có biện pháp xử lý kịp thời. Có như vậy mới nâng cao được trách nhiệm của CBTD trong hoạt động cho vay. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ: 3.3.1. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam: NHNo & PTNT Việt Nam cần sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể về các phương thức cho vay theo quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN để làm cơ sở cho NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây thực hiện. Hỗ trợ giúp NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây về tài chính tạo điều kiện về cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị; tiếp tục xây mới trụ sở của ngân hàng loại 4, trang bị máy vi tính phục vụ triển khai chương trình World Bank. Đơn giản các thủ tục, hồ sơ vay vốn tạo điều kiện giúp ngân hàng hoàn thiện hồ sơ nhanh chóng nhất, giảm bớt các thủ tục chi phí không cần thiết cho cả ngân hàng và khách hàng. 3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước: NHNN là cơ quan chỉ đạo điều hành chính sách của toàn hệ thống ngân hàng trong đó có NHNo &PTNT Hà Tây do vậy NHNN có ảnh hưởng lớn đế hoạt động của chi nhánh. Để tạo thuận lợi cho NHNo Hà Tây mở rộng cho vay với làng nghề NHNN cần làm một số công việc sau: NHNN cần có chính sách lãi suất ưu tiên đối với một số lĩnh vực đầu tư làng nghề. - NHNN cần có chính sách xử lý rủi ro đối với nợ cho vay có tài sản đảm bảo nhưng không bán được. Giảm thời gian thử thách chuyển về nhóm nợ thấp hơn đối với gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn khi đã trả hết nợ. 3.3.3. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng: a. Kiến nghị với nhà nước: Xuất phát từ đặc điểm và vai trò của kinh tế làng nghề yêu cầu các chính sách pháp luật phải đảm bảo giữa quy hoạch với chính sách, giữa khuyến khích và hạn chế nhằm mục tiêu kích thích cho làng nghề phát triển Nhà nước cần chú ý hoàn thiện một số chính sách sau: Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo môi trường kinh doanh cho làng nghề. Tạo mọi thuận lợi cho môi trường sản xuất kinh doanh ở làng nghề, đặc biệt chú ý chính sách trợ giúp làng nghề về thị trường tiêu thụ. Cần hoàn thiện chính sách thuế đối với làng nghề chỉ nên đánh thuế các cơ sở sản xuất có đăng ký kinh doanh; chính sách công nghệ để tạo điều kiện cho các làng nghề đổi mới công nghệ. Tạo điều kiện khuyến khích hoạt động của các hội nghề nghiệp. b. Kiến nghị với các cơ quan khác: Chỉ định cơ quan chức năng quản lý chủ quản đối với làng nghề để có thể thường xuyên giám sát và giúp đỡ các cơ sở làng nghề cả về quản lý, kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm, nắm chắc các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của từng làng nghề nhằm giúp cơ quan cấp trên và các ngành chức năng có được số liệu chính xác để từ đó đưa ra quyết định đúng đắn. Chỉ đạo ngành thuế phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu đề xuất các giải pháp thu thuế cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề, tạo điều kiện và kích thích sản xuất làng nghề phát triển đồng thời hướng dẫn các cơ sở, các hộ sản xuất dần đi vào chế độ hạch toán kinh tế, hoạt động theo đúng luật và chính sách ban hành. Chỉ đạo kiên quyết và dứt điểm việc giải phóng mặt bằng xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, coi đây là nhiệm vụ quan trọng trong thời gian trước mắt để phát triển làng nghề. KẾT LUẬN Làng nghề có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của tỉnh Hà Tây. Trong những năm thực hiện đường lối của Đảng và tỉnh uỷ Hà Tây, nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục, nhiều làng nghề mới được hình thành, sản phẩm làm ra ngày càng đa dạng và phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề đã cho phép khai thác triệt để tiềm năng về lao động, nguyên liệu, trình độ tinh xảo của các nghệ nhân. Song khó khăn lớn nhất của làng nghề hiện nay là vốn đầu tư, điều này đang cản trở sự phát triển kinh doanh của làng nghề. Mở rộng cho vay phát triển làng nghề là vấn đề rất cần thiết. Việc đề xuất các giải pháp nghiên cứu nhằm mở rộng cho vay đối với làng nghề sẽ giúp làng nghề mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh đồng thời giúp ngân hàng mở rộng thị trường, tăng lợi nhuận. Trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp luận văn đã tập trung hoàn thành một số nội dung chủ yếu: Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về hoạt động cho vay và vấn đề mở rộng cho vay phát triển làng nghề. Cho vay đối với làng nghề có tác dụng rất lớn đến sự phát triển làng nghề: đáp ứng nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh của làng nghề và tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Chuyên đề đã phân tích thực trạng hoạt động cho vay đối với làng nghề ở chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây; những tồn tại, nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Chuyên đề đề cập đến định hướng kinh doanh của chi nhánh trong những năm tới và định hướng để mở rộng cho vay đối với làng nghề. Mở rộng cho vay phát triển làng nghề là vấn đề cần thiết đòi hỏi sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp trong xã hội nên những ý kiến đề xuất chỉ là những đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề do vậy khó tránh khỏi những thiếu khuyết, vướng mắc và còn nhiều vấn đề sẽ tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện. Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo Th.S Lê Thanh Tâm, thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ cùng các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính và các cô chú phòng tín dụng NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đặng Chí Chơn: Tiền tệ và ngân hàng – NXB TP. Hồ Chí Minh năm 1992. TS. Phan Thị Thu Hà: Giáo trình Ngân hàng thương mại – NXB Thống kê Hà Nội- 2004. PGS.TS Lê Văn Tề: Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – NXB Thống Kê năm 2002. Bùi Văn Vượng: Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam – NXB Hà Nội năm 1998. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX – NXB Chính Trị Quốc Gia. Luật Các Tổ chức tín dụng Việt Nam. NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2003, 2004, 2005. Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2003, 2004, 2005. Quyết định 72/ QĐ – HĐQT – TD NHNo&PTNT Việt Nam. Sổ tay tín dụng NHNo&PTNT Việt Nam Sở công nghiệp Hà Tây: Niên giám làng nghề tỉnh Hà Tây năm 2005. Báo cáo tổng kết hoạt động làng nghề Hà Tây năm 2005 Tạp chí Dự báo kinh tế - năm 2005 Tạp chí Ngân hàng – năm 2004 & 2005. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ - năm 2005. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36398.doc
Tài liệu liên quan