Luận văn Một số giải pháp góp phần phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ Ngân hàng nhằm tăng thêm thu nhập tạI NHCT_HBT

Hơn 10 năm hoạt động, chi nhánh NHCT_HBT nói riêng và hệ thống NHCT VN nói chung đã có bước tiến đáng kể,đóng vai trò tích cực trong công cuộc công nghiệp hoá _hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên cũng qua nghiên cứu thực tế hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cho thấy vẫn còn một khoảng cách quá lớn giữa Ngân hàng Việt Nam và các Ngân hàng phát triển trên thế giới. Sự đơn điệu trong hoạt động kinh doanh vẫn đang là yếu điểm chưa được khắc phục của các NHTM Việt Nam. Trong xu thế nền tài chính thế giới đang hoà nhập mạnh mẽ như hiện nay, công cuộc hiện đại hoá Ngân hàng là yêu cầu tất yếu trong chiến lược phát triển của Ngân hàng Việt Nam. Nhận thức dược tầm quan trọng của việc hiện đại hoá Ngân hàng luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành từ 01/10/2000 cũng đã xác định rõ việc xây dựng hệ thống Ngân hàng đa dạng khuyến khích phát triển kinh doanh tổng hợp và đa dạng. Trước mắt với hệ thông Ngân hàng hiện đại sẽ là nhân tố thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán và nó là nền tảng phát triển nền kinh tế vững chắc trong tương lai Dịch vụ Ngân hàng là vấn đề còn khá mới mẻ đối với ngành Ngân hàng nước ta.Do vậy luận văn của em không tránh khỏi những thiếu xót, rất mong được thầy cô, ban lãnh đạo các cô chú trong NHCT_HBT cùng các bạn góp ý thêm. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của cô giáo, tập thể cán bộ chi nhánh NHCT_HBT đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp này.

doc80 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1146 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp góp phần phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ Ngân hàng nhằm tăng thêm thu nhập tạI NHCT_HBT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i có tình trạng như thế. Có vài nguyên nhân lí giải cho tình trạng đó. Đầu tiên là việc Ngân hàng bó hẹp phạm vi thanh toán của mình trong một loại thẻ duy nhất dẫn đến nhiều hạn chế. Thứ nhất là Ngân hàng không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng nếu người đó sử dụng nhiều loại thẻ khác nhau. Điều đó dẫn đến rủi ro mất khách hàng.Đó là một điều tối kị trong kinh doanh nhất là trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Thứ hai chi nhánh thực hiện thanh toán một thẻ duy nhất cho một Ngân hàng duy nhất, điều này không chỉ đem lại rủi ro cao cho Ngân hàng mà còn giới hạn thu nhập, bị phụ thuộc vào Ngân hàng đối phương. Nếu số người sử dụng thẻ Amex giảm thì dịch vụ này của chi nhánh giảm hoặc bị bỏ trống do “cầu “ bỏ ngỏ. Thứ ba chi nhánh không tận dụng hết khả năng của nhân viên. Như ta đã biết trong lịch sử Ngân hàng những người làm nghề Ngân hàng luôn được coi là những người thông minh nhất biết lợi dụng đồng tiền của người khác để sinh lời. Vì vậy chỉ bó hẹp một lĩnh vực trong một sản phẩm duy nhất thì quả là chi phí cơ hội bỏ ra quá lớn. Nguyên nhân thứ hai là công tác thanh toán thẻ của chi nhánh còn nhiều điểm bất hợp lý. Công tác chi trả được tiến hành tại các quỹ tiết kiệm các quầy giao dịch nhưng cán bộ thực hiện lại là người của phòng kinh doanh đối ngoại. Khi có khách hàng đem séc Amex đến quỹ tiết kiệm hoặc các phòng giao dịch thì nhân viên ở đây không thực hiện việc chi trả mà phải gọi cán bộ phòng kinh doanh đối ngoại đến vì lý do nhân viên ở các quỹ không có nghiệp vụ trong lĩnh vực này khó phân biệt được séc thật séc giả. Với quy trình thực hiện phức tạp đó đã gây cản trở trong việc thu hút khách hàng. Bởi lẽ chỉ bằng một thao tác đơn giản là khách hàng có thể rút tiền được ngay thì tại chi nhánh NHCT_HBT khách hàng phải đợi thêm một khoảng thời gian nữa để cán bộ phòng kinh doanh đối ngoại xuống kiểm tra séc.Thiết nghĩ với văn bản hướng dẫn chặt chẽ việc kiểm tra séc lại trong điều kiện thực hiện đối với một thẻ duy nhất thì cán bộ ở các quỹ tiết kiệm có đủ khả năng thanh toán séc du lịch.Đây là lí do cần được chi nhánh quan tâm cải tiến hoạt động để đạt tới kết quả cao hơn. Nguyên nhân nữa là qua tìm hiểu cho thấy khách hàng đến thanh toán séc chỉ là khách vãng lai với những món tiền rất nhỏ. Họ chỉ thanh toán khi cần thiết chứ không có ý định đặt quan hệ lâu dài. Giải thích tình trạng trên có ý kiến cho rằng đây không phải là nghiệp vụ chuyên sâu của chi nhánh. Nếu khách hàng muốn sử dụng séc họ có xu hướng đến với Ngân hàng ngoại thương ở đó chất lượng dịch vụ cao hơn, thời gian thanh toán nhanh hơn. Hơn nữa trong địa bàn hoạt động của chi nhánh còn có những Ngân hàng khác như Sài gòn công thương,Ngân hàng đầu tư,ADB, EXIM BANK" đều thực hiện tốt việc thanh toán séc du lịch. Cho rằng chi nhánh thực hiện nghiệp vụ này kém hiệu quả là đương nhiên vì đây không phải là lĩnh vực chuyên sâu của chi nhánh nên khả năng cạnh tranh kém hơn. Tuy nhiên trong cạnh tranh không thể “ an phận “ với kết quả như thế. Qua phân tích trên cho thấy còn nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan trong việc thực hiện chiến lược khách hàng. NHCT - HBT nên có biện pháp xử lý những tồn đọng trên để đẩy mạnh dịch vụ này không những giúp Ngân hàng tăng thêm thu nhập mà còn tạo lập được nguồn ngoại tệ. 1.3 Mua bán ngoại tệ : S ự phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại tất yếu đòi hỏi một công cụ đặc biệt mà nhờ đó các chủ thể hoạt động trên thị trường quốc tế có thể duy trì được sự phối hợp chặt chẽ về tài chính. Dịch vụ mua bán ngoại tệ chính là công cụ này. Mua bán ngoại tệ là một dịch vụ trọng yếu đem lại nguồn lợi quan trọng cho một Ngân hàng hiện đại phục vụ cho hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng gia tăng. NHCT_HBT thực hiện nghiệp vụ này từ năm 1990.Dịch vụ này đến nay đã chiếm một vị trí khá quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng ngoài việc đem lại thu nhâp từ lãi và thu phí dịch vụ còn giúp Ngân hàng có nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Doanh số mua bán một số ngoại tệ chính năm 2000: Mua Bán Lãi USD 9,521,423.62 9,111,168.30 DEM 1,840,551.24 1,840,551.24 JPY 17,058,200.00 17,058,200.00 CHF 4,497.07 4,497.07 FRF 79,870.05 79,870.05 VND 1.361.282.020 Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2001 Mua Bán Lãi USD 8,488,434.55 10,627,437.86 DEM 626,140.17 569,423.28 JPY 18,397,778.00 18,397,778.00 GBP 5,000.00 5,000.00 EUR 104,335.15 100,688.03 HKD 3,895.38 3,895.38 VND 114.922.823 Trong năm 2001 do việc thực hiện quyết định số 173/2000/TT_NHNN7, thông tư 08/2000/TT_NHNN7 và thông tư 01/2001/TT_NHNN7. Nên công tác quản lý ngoại hối đã được chấn chỉnh một cách chặt chẽ hơn,tình trạng găm giữ ngoại tệ đã được khắc phục, tỷ giá ngoại tệ không có đột biến lớn. Tuy nhiên do việc NHCTVN quy định trạng thái ngoại hối cho NHCT_HBT tương đối thấp so với nhu cầu của chi nhánh (từ tháng 9/2001 là 200,000.00 USD ) nên sự chủ động trong kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh bị hạn chế rất nhiều. Đồng thời do phần lớn ngoại tệ chi nhánh phải mua với tỷ giá trần nên phần chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán là rất nhỏ hoặc không có (tức là giá bán bằng giá mua ) dẫn đến lãi trong kinh doanh ngoại tệ giảm thấp. Năm 2001 lãi kinh doanh ngoại tệ chỉ đạt 144.922.823 đồng trong khi đó năm 2000 lãi trong kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh là 1.361.282.000 đồng. Nhưng trong năm qua mục tiêu của NHCT_HBT là thu hút khách hàng nên không đặt mục tiêu thu lãi kinh doanh ngoại tệ cao mà phấn đấu tăng thu dịch vụ phí. Cho nên phí dịch vụ năm 2001 là 1,051 tỷ tăng 180 triệu. Điều đó chứng tỏ hoạt động dịch vụ này có bước phát triển tốt. Tuy nhiên nằm trên địa bàn có rất nhiều tổ chức kinh tế trong nước có quan hệ với nước ngoài, lượng khách du lịch khá cao dẫn đến nhu cầu ngoại tệ rất lớn nhưng kết quả đạt được của chi nhánh không cao. Ngoài nguyên nhân do chính sách thắt chặt trạng thái ngoại hối của NHCT Việt Nam phải kể đến một số nguyên nhân khác mà chi nhánh phải tìm biện pháp khắc phục nhằm thu hút khách hàng về với mình từ đó tăng doanh số hoạt động của dịch vụ này. Thứ nhất phải kể đến việc huy động vốn ngoại tệ rất khó khăn “ lúc cần thì không có, khi có thì không cần”. Vẫn biết trong kinh doanh không phải lúc nào “cung” cũng gặp “cầu “. Tuy nhiên dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả ở chi nhánh phải kể đến sự bấp bênh không ổn định của “cung “. Hiện nay chi nhánh có ba nguồn ngoại tệ chính là : Thứ nhất ngoại tệ thu được từ các tổ chức kinh tế có quan hệ với Ngân hàng. Thứ hai ngoại tệ ngoài Ngân hàng như ngoại tệ du khách, đầu tư chui, kiều hối". Thứ ba là nguồn ngoại tệ do mua lại của Ngân hàng nhà nước hoặc Ngân hàng trong cùng hệ thống. Nhưng có thể nói khả năng phát triển của các nguồn này rất hạn chế. Nguồn ngoại tệ ngoài Ngân hàng thì khả năng nắm bắt kiểm soát rất khó. Nguồn ngoại tệ từ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì thực tế các đơn vị này luôn chần trừ kéo dài thời gian không muốn bán lại cho Ngân hàng bởi lẽ tỷ giá trong Ngân hàng luôn thấp hơn tên thị trường tự do hơn nữa bán thì dễ nhưng mua thì rất khó vì “cầu” luôn lớn hơn “cung”. Còn nguồn ngoại tệ do mua lại của các Ngân hàng trong cùng hệ thống thì chi phí rất cao. Ngoài lãi thoả thuận giữa các Ngân hàng với nhau còn phải cộng thêm 0,05% lãi điều chuyển mua bán ngoại tệ trong cùng hệ thống. Qua phân tích trên huy động vốn trong kinh doanh ngoại tệ đang là một bế tắc của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh. Nguyên nhân nữa là khả năng cạnh tranh của chi nhánh. Như phân tích ở trên chi nhánh có địa bàn hoật động trong khu vực tập trung nhiều dân cư, nhiều doanh nghiệp, khách du lịch. Nhưng đây cũng là địa bàn có nhiều Ngân hàng thương mại khác đang hoạt động như ADB,EXIM BANK, NHNTVN có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực này với quy mô lớn, uy tín trình độ cao, khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có nguồn thu ngoại tệ lớn. Và tỷ giá do các Ngân hàng đó công bố đặc biệt là Ngân hàng ngoại thương Việt Nam phản ánh chính xác tình hình cung cầu trên thị trường. Do đó khách hàng có thể dễ dàng biết được tỷ giá niêm yết giữa các Ngân hàng và giao dịch ở nơi nào có lợi nhất. Chính vì vậy nếu Ngân hàng không có những biện pháp tiếp thị, nâng cao chất lượng dịch vụ nắm bắt sát nhu cầu thị trường thì khó có thể vượt qua các Ngân hàng đó. 1.4 Dịch vụ chuyển tiền cá nhân : D ịch vụ chuyển tiền là một mảng lớn trong dịch vụ Ngân hàng nó ra đời sớm và là dịch vụ truyền thống của các Ngân hàng. Ngay từ năm 1990 khi chi nhánh NHCT_HBT còn trực thuộc NHCT thành phố Hà Nội đã thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền cá nhân. Việc chuyển tiền thông suốt an toàn tuy nhiên thời gian chuyển tiền còn rất chậm vì chưa được trang bị công nghệ hiện đại như hiện nay.Qua thời gian dịch vụ này ngày càng giữ vai trò quan trọng không những tạo cho Ngân hàng một nguồn thu nhập lớn mà còn thu hút một lượng lớn tiền mặt vào Ngân hàng. Nhận thức được vai trò quan trọng của dịch vụ này chi nhánh không ngừng hoàn thiện các thể thức thanh toán chuyển tiền qua mạng vi tính, thanh toán điện tử nối mạng trong toàn hệ thống, tổ chức thanh toán bù trừ giữa các Ngân hàng. Nhờ đó số lượng khách hàng chuyển tiền ngay một tăng lên. Đã có món chuyển tiền lên tới vài trăm triệu.Chứng tỏ dịch vụ này ngày càng được khách hàng tin tưởng lựa chọn. Tại Ngân hàng doanh số thực hiện năm 2000 là 61.847.717.313 đồng tăng 30% so với năm 1999. Năm 2001 số tiền chuyển là 83.739.107.460 đồng tăng 35% so với năm 2000. Qua đó ta thấy dịch vụ của Ngân hàng phát triển với tốc độ gia tăng cao. Có được kết quả này phải kể đến cố gắng của chi nhánh trong việc rút ngắn thời gian chuyển tiền và thủ tục khi khách hàng có nhu cầu chuyển tiền. Khi cần chuyển tiền người chuyển tiền chỉ cần điền vào giấy nộp tiền với nội dung quy định + Họ tên người chuyển tiền...... + Địa chỉ người chuyển tiền.... + Số tiền xin chuyển....... + Họ tên người nhận tiền....... + Địa chỉ người nhận tiền..... + Số CMT người nhận tiền......ngày cấp.....nơi cấp... + Lý do chuyển tiền...... Bên cạnh đó ngày 26/1/1994 Thống đốc NHNN có công văn 06 quy định về việc nhận và trả tiền mặt của Ngân hàng với mức phí rất thấp : Nếu chuyển bằng tiền mặt mức phí là 0,1% Nếu chuyển tiền qua tài khoản mức phí là 0,05% Và mức phí tối thiểu là 20.000đồng một món tối đa là 1.000.000 đồng một món. Trường hợp NHCT là là khách hàng của NHNN khi thanh toán và chuyển tiền trả phí dịch vụ cho NHNN bằng 50% mức phí thu được của khách hàng nhưng tối thiểu và tối đa vẫn áp dụng như trên. Có thể nói đó là mức phí hợp lý mà khách hàng dễ dàng chấp nhận được. Mặc dù đã được đánh giá là một trong những dịch vụ có tốc độ phát triển cao nhưng so với yêu cầu và tiềm năng vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tế dịch vụ này mới chỉ phục vụ khu vực nhà nước, các tổ chức kinh tế,cơ quan hành chính sự nghiệp còn đại bộ phận dân cư chưa tiếp cận với dịch vụ này của Ngân hàng. Mà trong thực tế thì nhu cầu về dịch vụ thanh toán và chuyển tiền của dân cư rất lớn họ thường xuyên sử dụng dịch vụ này nhưng không phải do Ngân hàng cung cấp mà lại do bưu điện cung cấp. Tại sao lại thế ? Trả lời câu hỏi này chúng ta hãy tìm hiểu vài nét về dịch vụ chuyển tiền qua bưu điện. Về cước phí tương đối cao hơn lệ phí chuyển tiền qua Ngân hàng song vẫn thu hút được đa số dân cư thậm chí cả các hộ kinh doanh chuyển tiền là do: Thứ nhất.Thủ tục gửi tiền và nhận tiền qua bưu điện rất đơn giản thuận tiện phù hợp với tâm lý người dân. Cụ thể muốn chuyển tiền từ tỉnh A sang tỉnh B thì người gửi tiền chỉ cần điện vào mẫu in sẵn : +Họ tên người gửi....... + Họ tên người nhận....... +Địa chỉ người gửi....... +Địa chỉ người nhận....... +Số tiền gửi....... (Bằng chữ.......) +Bưu đIện trả tiền....... Sau đó nộp tiền lấy phiếu là xong. Thủ tục nhận tiền cũng rất đơn giản, thuận lợi. Bưu điện trả tiền gửi giấy báo lĩnh tiền về tận địa chỉ của người nhận. Người nhận sau khi nhận được giấy báo chỉ cần mang CMT hoặc giấy giới thiệu của cơ quan hay UBND xã phường ra bưu điện là nhận tiền được ngay. Thứ hai về tổ chức mạng lưới. Hiện nay hệ thống bưu điện đã phát triển rất rộng từ thành phố thị xã đến các vùng nông thôn tại các thị trấn huyện xã Thứ ba là công nghệ chuyển tiền của bưu điện phát triển rất hiện đại đã rút ngắn thời gian chuyển tiền hơn rất nhiều so với Ngân hàng. Đi sâu phân tích ta thấy bưu điện đã tạo ra nhiều tiện ích cho người dân nên thu được nhiều kết qủa. Còn dịch vụ chuyển tiền qua Ngân hàng mặc dù mức phí rất thấp nhưng còn nhiều phức tạp chưa tạo nhiều tiện ích cho khách hàng nên chưa mở rộng được phạm vi và đối tượng chuyển tiền qua Ngân hàng. Cụ thể Mặc dù Ngân hàng đã rất cố gắng trong việc đơn giản hoá thủ tục cho người gửi tiền bằng cách đưa ra các mẫu in sẵn nhưng Ngân hàng lại yêu cầu người gửi phải viết chính xác số CMT, ngày cấp, nơi cấp của người nhận tiền. Điều này gây phiền hà cho người gửi vì để biết số CMT của người nhận thì người gửi phải điện thoại hỏi. Thậm chí có khi viết lại đảo số nên khi Ngân hàng B kiểm tra số CMT của người nhận không đúng thì phải tra soát Ngân hàng A gây phiền hà cho khách hàng và tăng phí tiền điện thoại cho người gửi. Còn về phía Ngân hàng khi tra soát điện báo chi phí tăng có khi lệ phí món tiền không đủ bù đắp Ngân hàng phải bù lỗ. Một thiếu xót nữa là thực tế phương pháp phục vụ chưa thật chu đáo. Chẳng hạn chưa hướng dẫn cụ thể cho người gửi tiền lựa chọn Ngân hàng trả tiền để thuận lợi cho người nhận tiền nhất Dịch vụ chuyển tiền của Ngân hàng chỉ mới thực hiện chuyển từ Ngân hàng mình đến Ngân hàng B mà chưa chuyển đến tay người nhận và cũng không có thông báo đến tay người được hưởng đến lĩnh tiền. Thực tế tại NHCT_HBT người gửi tiền chủ động thông báo cho người nhận về số tiền và Ngân hàng trả tiền để đến lĩnh tiền. Và tại chi nhánh cho thấy có đến 90% người được nhận tiền chủ động đến Ngân hàng lĩnh tiền trong số này có đến 80% chủ động hỏi tiền đến hay chưa qua điện thoại, số còn lại tự động đến Ngân hàng xem tiền về rồi thì lĩnh. Chỉ trong trường hợp thật cần thiết Ngân hàng mới báo cho người nhận tiền biết. Do đó dịch vụ chuyển tiền qua Ngân hàng mức phí rất thấp nhưng vẫn chưa thu hút được đông đảo dân cư thanh toán chuyển tiền qua Ngân hàng. Nhưng lý do nổi bật nhất mà các dịch vụ Ngân hàng cũng như các công cụ thanh toán qua Ngân hàng vẫn chưa được người dân hưởng ứng bởi vì công tác tiếp thị của Ngân hàng còn rất kém,nhiều người dân còn không biết trong Ngân hàng có dịch vụ chuyển tiền hoặc biết rất đại khái nên hình thành thói quen ngại tiếp xúc với Ngân hàng. Trên đây không những là tồn tại của riêng chi nhánh NHCT_HBT mà còn là trăn trở của toàn ngành Ngân hàng. Ngành Ngân hàng có trên 3000 cơ sở (chi nhánh và phòng giao dịch )nhiều hơn số bưu cục của ngành bưu điện trong cả nước (2815 bưu cục). Với mạng lưới Ngân hàng đã chứng tỏ ưu thế nổi trội của mình với phạm vi hoạt động rộng khắp đất nước. Vì vậy không có lý do nào để Ngân hàng thua kém bưu điện trong một lĩnh vực liên quan đến tiền tệ _ sản phẩm kinh doanh đặc trưng của Ngân hàng. 1.5 Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng trong khu vực dân cư M ở rộng dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng trong khu vực dân cư là một chủ trương lớn của ban lãnh đạo NHNN nhằm cải thiện tình hình dân cư tạo lập thành thói quen sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, thực hiện thanh toán qua Ngân hàng.Chủ trương này còn tạo ra hình thức huy động mới tập chung các nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư vào các tài khoản cá nhân để đầu tư phát triển. Dịch vụ này đã được chi nhánh triển khai từ khá lâu và đến nay đã thu được kết quả đáng khích lệ, việc mở tài khoản cá nhân có xu hướng gia tăng năm trước cao hơn năm sau. Năm 2000 tổng số tài khoản cá nhân là 899 tài khoản Trong đó : TK CBCNV Ngân hàng là 429 TK khách hàng là 470 Với số dư tài khoản cá nhân : 9.476 triệu Trong đó: Số dư TK CBCNV Ngân hàng : 1.504 triệu Số dư tài khoản khách hàng : 7.972 triệu Năm 2001 tổng số tài khoản cá nhân là 1.017 tài khoản Trong đó :TK CBCNV Ngân hàng là 416 TK của khách hàng là 601 Số dư tài khoản cá nhân : 11.064 triệu Trong đó :Số dư TK CBCNV Ngân hàng là 928 triệu Số dư TK khách hàng là 10.136 triệu Các công cụ thanh toán sử dụng qua tài khoản cá nhân chủ yếu thanh toán bằng thể thức uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu và séc... Có được kết quả như vậy là do chi nhánh triển khai mạnh mẽ việc mở tài khoản cá nhân, hoàn thiện dần các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng cùng với việc đổi mới công nghệ,khuyến khích CBCNV trong Ngân hàng tiên phong đi đầu trong việc mở tài khoản và sử dụng dịch vụ thanh toán, phục vụ tốt khách hàng, phối hợp với các ngành liên quan trong việc sử dụng dịch vụ thanh toán qua TK cá nhân. Ngoài ra môi trường pháp lý ngày càng được hoàn thiện hơn, thu nhập của một bộ phận dân cư tăng lên và ổn định. Tuy nhiên nếu so với các Ngân hàng ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, thanh toán không dùng tiền mặt là một nhu cầu không thể thiếu của người dân thì tại Việt Nam thanh toán không dùng tiền mặt vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Tham gia thanh toán chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức kinh tế còn dân cư tham gia rất ít. Vì vậy hàng ngàn tỷ đồng tiền mặt đang nằm trong tay từng cá nhân, hộ gia đình, thậm chí trong các quỹ doanh nghiệp dùng để thanh toán trực tiếp vẫn đang tồn tại không chỉ là mối quan tâm của chi nhhánh mà còn là của toàn ngành Ngân hàng. Vậy Ngân hàng phải tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra biện pháp thiết thực để dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt phát triển mạnh trong dân cư Từ thực tế cho thấy một số nguyên nhân làm cho việc thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng không được tầng lớp dân cư hưởng ứng nhiệt tình là : - Điều kiện kinh tế Việt Nam chưa cao dẫn đến thu nhập dân cư hầu như còn thấp.Vì thế việc mở TK cá nhân phần lớn hiện nay chỉ là hình thức. Khi số dư trên tài khoản vừa xuất hiện do Ngân hàng chuyển tiền lương vào thì lập tức các chủ tài khoản lại rút tiền ra ngay vì tiền lương chỉ đủ chi tiêu cho nhu cầu tối thiểu hàng ngày. Với lại hàng hoá dịch vụ trong xã hội chủ yếu được cung cấp bởi các tiểu thương, hộ kinh doanh nhỏ với giá trị không lớn nên họ cũng thường không chấp nhận séc thanh toán. -Trình độ dân chúng còn thấp hiểu biết về hoạt động Ngân hàng còn quá ít ỏi. Cá nhân cũng chưa thực sự tin tưởng vào hệ thống dịch vụ Ngân hàng,đặc biệt về thủ tục và thời gian thanh toán. _Về phía Ngân hàng cũng chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư dẫn đến chưa có biện pháp thiết thực. Mạng lưới thanh toán chưa rộng các Ngân hàng hầu như chỉ bó hẹp giao dịch trong hệ thống của mình, việc hợp tác giữa các Ngân hàng thiếu đồng bộ dẫn đến tốc độ thanh toán chậm, thủ tục thanh toán rườm rà. Các phương tiện thanh toán đặc biệt là séc _một phương tiện không dùng tiền mặt đơn giản và tiện lợi được thiết kế, quy định sử dụng chưa thuận tiện để người dân sử dụng dễ dàng. Chẳng hạn séc có phạm vi thanh toán hẹp, mẫu séc rườm rà, chưa có quy định cụ thể để người sử dụng séc yên tâm quyền lợi được đảm bảo. Hay uỷ nhiệm chi chưa được sử dụng như một lệnh chi thông dụng. _Công tác tuyên truyền quảng cáo của chi nhánh còn hình thức chưa hiệu quả, chưa thực sự tiếp cận, lôi cuốn khách hàng bằng những phương pháp thiết thực. Trên đây là một số nguyên nhân mà chi nhánh cần xem xét khắc phục để ngày càng mở rộng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng trong khu vực dân cư từ đó tạo thêm thu nhập cho Ngân hàng bằng các dịch vụ phí và còn thu hút dược lượng tiền nhàn rỗi lớn trong khu vực dân cư. 1.6 Các dịch vụ khác của NHCT_HBT N goài các dịch vụ chủ yếu và thường xuyên trên, chi nhánh còn thực hiện một số dịch vụ khác không thường xuyên. Như ta đã biết dịch vụ cầm đồ của chi nhánh ra đời rất lâu từ 1996. Đó là một lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng thương mại có thể nói tương đối an toàn vì nó được đảm bảo bằng tài sản. Nhưng lĩnh vực kinh doanh này của chi nhánh ngày càng giảm xuống do bị các tiệm cầm đồ của tư nhân chiếm lĩnh mất thị trường. Cho nên hoạt động này của chi nhánh ngày càng bị thu hẹp làm cho thu nhập từ dịch vụ này giảm xuống. Năm 2001 thu nhập từ dịch vụ này là 85.400.599 đồng giảm so với năm 2000 là 253.318.227 đồng. Vì vậy chi nhánh nên có những biện pháp thích hợp để dịch vụ này ngày càng chiếm được lòng tin của khách hàng, góp phần nâng cao thu nhập. Ngoài ra chi nhánh còn thực hiện các dịch vụ ngân quỹ, kiểm đếm hộ tiền, thu đổi ngân phiếu, bảo mật số dư tài khoản … cũng góp phần củng cố thu nhập cho Ngân hàng. Bên cạnh đó năm 2001 chi nhánh thực hiện dịch vụ uỷ thác đại lý. Kết quả bước đầu thu được từ dịch vụ này là 6.000.000 đồng. Nó tạo tiền đề cho những năm sau chi nhánh thực hiện dịch vụ này tốt hơn. 2. Nhận xét, đánh giá : T rước hết chúng ta cùng nhìn lại tình hình tín dụng của chi nhánh. Doanh số thu lãi cho vay Chỉ tiêu Thu lãi cho vay Tỷ trọng năm sau/năm trước Năm 1998 56.241.753.264 Năm 1999 40.046.324.526 71.2% Năm 2000 36.581.120.749 91,3% Năm 2001 38.989.813.029 106% Qua số liệu trên ta thấy việc thu lãi từ hoạt động tín dụng của chi nhánh trong những năm qua cũng gặp không ít khó khăn. Mặc dù năm 2001 chi nhánh có chú trọng đến công tác tín dụng nhưng kết quả đạt được chưa có khả quan. Đối với mô hình Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay là mô hình Ngân hàng truyền thống. Trong đó huy động vốn và cho vay là hai hoạt động chính đem lại 90% thu nhập cho Ngân hàng. Do đó sự phát triển của Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào sự vận hành nhịp nhàng hiệu quả của hai nghiệp vụ trên. Thực tế tại NHCT_HBT thì hoạt động huy động vốn phát triển rất cao làm cho nguồn vốn huy động tăng nhanh hơn nhiều tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay. Kết quả sự chênh lệch này chi nhánh phải điều chuyển vốn lên cấp trên tăng dần hằng năm. Năm 2000 điều chuyển lượng vốn là : 845 tỷ Năm 2001 điều chuyển lượng vốn là : 950 tỷ Đây không phải là dấu hiệu đáng khích lệ bởi vì lãi điều chuyển vốn thấp hơn nhiều so với lãi cho vay.Mặc dù vậy công tác tín dụng cũng không thể phát triển tự do bởi lẽ vốn của Ngân hàng sử dụng chủ yếu là “vốn đi vay để cho vay “. Hơn nữa thực trạng nợ quá hạn với hàng loạt quy định chặt chẽ về việc cho vay như tài sản thế chấp, năng lực tài chính lành mạnh là những rào cản rất lớn trong việc mở rộng tín dụng. Vì vậy có thể nói công tác tín dụng nói riêng và kinh doanh Ngân hàng nói chung đang lâm vào tình thế bế tắc. Vậy phải làm như thế nào để Ngân hàng tiếp tục phát triển, mở rộng thu nhập ? Những vấn đề đã trình bầy ở chương I cho chúng ta câu trả lời _ đó là hiện đại hoá Ngân hàng mà cụ thể là đa dạng hoá danh mục dịch vụ Ngân hàng với chất lượng cao. Như ta đã biết để cho vay được một món, Ngân hàng phải tốn rất nhiều chi phí trong việc thẩm định dự án, xem xét hồ sơ cho vay, xác minh tài sản thế chấp. v.v..mà chỉ thu được chênh lệch lãi suất tối đa là 0,35%. Bên cạnh đó còn bao nhiêu rủi ro khác có thể dẫn đến khả năng mất vốn. Trong khi đó dịch vụ Ngân hàng với mức phí trên 0,1% lại không chịu rủi ro nào, không phải đầu tư vốn như hoạt động tín dụng. Thêm nữa nếu tìm một khách hàng đủ tiêu chuẩn là rất khó khăn trong công tác tín dụng nhưng việc lôi kéo khách hàng trong lĩnh vực dịch vụ dễ dàng hơn nhiều bởi nó không chịu ràng buộc chặt chẽ như trong cho vay. Một lý do nữa nếu hoạt động tín dụng chỉ đơn thuần là cho vay thì dịch vụ Ngân hàng lại có một danh mục hoạt động phong phú. Đây là lợi thế rõ rệt của dịch vụ vừa tránh rủi ro “bỏ trứng vào một giỏ “, vừa có thêm nguồn thu nhập khác nhau. Nhận thức được điều đó các Ngân hàng hiện đại trên thế giới đều xác định đây là mục tiêu phát triển của mình. Để mau chóng đuổi kịp và hoà nhập vào nền tài chính thế giới chi nhánh NHCT_HBT cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển. Tình hình thực hiện dịch vụ tại chi nhánh năm 1999,2000,2001 Doanh số thục hiện dịch vụ của NHCT_HBT Tên danh mục Năm 1999 Năm 2000 Năm2001 Kinh doanh vàng bạc đá quý 2.713.000 1.096.000 125.000 Kinh doanh mua bán ngoại tệ 809.363.676 1.361.282.020 114.922.823 Thu phí các dịch vụ Ngân hàng 1.755. 471.214 2.916.720.846 2.945.046.198 Phí dịch vụ Ngân hàng được hạch toán vào tài khoản 8017.01 gồm các dịch vụ : +Thanh toán séc du lịch. +Chuyển tiền kiều hối. +Nhờ thu. +L/C nhập xuất. +Thông báo sửa đổi L/C. +Mua bán ngoại tệ. +Chuyển tiền cá nhân Tuy nhiên để thấy tốc độ phát triển của tình hình thực hiện dịch vụ ta xem xét bảng sau. Bảng :Tình hình thực hiện dịch vụ : Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng Dvụ/ Tổng thu nhập Tỷ trọng Dvụ năm sau/ năm trước Năm 1999 2.567.547.890 2,94% Năm 2000 4.279.098.866 4,1% 166% Năm 2001 3.050.277.021 2,7% 71% Qua số liệu trên ta thấy tình hình dịch vụ của Ngân hàng tương đối phát triển nhưng do lãi kinh doanh ngoại tệ năm 2001 quá thấp và kinh doanh vàng bạc bị thu hẹp đã ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập từ các dịch vụ giảm đáng kể. Tuy nhiên nhìn tổng quát thì tình hình phát triển các dịch vụ Ngân hàng của chi nhánh cũng đang từng bước nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cầu của một Ngân hàng hiện đại. Bởi vì một Ngân hàng hiện đại trên thế giới thì tỷ trọng Dvụ/Tổng thu nhập từ 40% _ 50%. So sánh kết quả đạt được của chi nhánh thì quả là sự chênh lệch quá lớn.Chưa nói đến 40%_50% mục tiêu đạt con số 10% cũng là thử thách mà chi nhánh không dễ vượt qua. Tóm lại qua nghiên cứu các dịch vụ của chi nhánh,nhận thấy những năm gần đây chi nhánh không phát triển thêm các dịch vụ mới nào mà trong khi đó những dịch vụ cũ đã không có bước tiến triển khả quan thậm chí có hoạt động còn đi thụt lùi. Như hoạt động thanh toán séc du lịch,chi nhánh đã chứng tỏ được sự nhạy bén của mình bằng việc thực hiện dịch vụ này từ rất sớm ( năm 1998 ) nhưng đã trải qua 3 năm thực hiện hoạt động này mới chỉ dừng lại ở việc chấp nhận thanh toán một loại thẻ duy nhất và doanh số thực hiện ngày càng thụt lùi. Ngoài ra dịch vụ cầm đồ cũng dần bị mất thị trường. Điều đó làm cho thu nhập từ dịch vụ có chiều hướng giảm. Đó là thực tế mà chi nhánh cần phải quan tâm và tìm biện pháp khắc phục. Hiện nay danh mục dịch vụ của chi nhánh đã trở nên quá hạn chế ngay cả với các Ngân hàng cùng hệ thống. Nắm bắt được nhu cầu hiện đại, các Ngân hàng trong nước mở chiến lược đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng, tăng chất lượng phục vụ,mở rộng phạm vi hoạt động như các dịch vụ thu đổi ngoại tệ, cho vay xây nhà, tư vấn đầu tư, mua nhà trả góp, chi trả lương cho khách sạn công ty nước ngoài....Mà hầu như các dịch vụ này chưa có trong danh mục dịch vụ của chi nhánh. Điều cuối cùng là NHCT_HBT hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Ngoài đối thủ tất yếu của chi nhánh là các Ngân hàng nằm cùng trên địa bàn ở đây còn phải nói đến các đối thủ cạnh tranh mới nằm ngoài hệ thống Ngân hàng đó là 3 công ty tài chính của các tổng công ty Dệt may, Cao su, Bưu chính viễn thông được nhà nước cấp giấy phép kinh doanh lần lượt đi vào hoạt động năm 2000 với chức năng chủ yếu là nhận tiền gửi của người lao động trong tổng công ty, phát hành trái phiếu huy động vốn của các tổ chức kinh tế.v.v. Và đối thủ nặng ký nhất của Ngân hàng bây giờ là bưu điện không chỉ cạnh tranh trên lĩnh vực chuyển tiền mà còn cả trên lĩnh vực huy động vốn tiết kiệm trong dân cư. Vậy Ngân hàng phải coi sự cạnh tranh này là động lực thúc đẩy Ngân hàng nỗ lực xây dựng một danh mục dịch vụ đa dạng với chất lượng cao. Từ những nhận xét trên có thể đi đến kết luận là hoạt động cung cấp dịch vụ của chi nhánh NHCT_HBT mới chỉ đạt dược mục tiêu ổn định và an toàn chưa đáp ứng dược mục tiêu phát triển. Chương III: Một số giảI pháp phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ nhằm tăng thu nhập tạI NHCT_HBT t rong cơ chế thị trường việc mở rộng kinh doanh của Ngân hàng thương mại thực hiện kinh doanh theo hướng đa năng, ngoài nghiệp vụ truyền thống, các Ngân hàng thương mại còn cung ứng đến thị trường và khách hàng những sản phẩm với tên gọi phổ biến là các dịch vụ Ngân hàng. Dịch vụ Ngân hàng với chất lượng cao là thành tố quan trọng quyết định đến hình ảnh uy tín của Ngân hàng và là cơ sở chủ yếu để thắt chặt mối quan hệ khách hàng quyết định khả năng sinh lời của Ngân hàng. Do đó đối với các Ngân hàng thương mại hiện đại thì dịch vụ Ngân hàng là mối quan tâm hàng đầu chiếm vị trí quan trọng mang lại nguồn thu chủ yếu và là công cụ cạnh tranh quyết định sự phát triển và thành công của Ngân hàng. Đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay bước đầu đã hoà nhập vào kinh doanh theo hướng thị trường có những cải tiến đáng kể về các dịch vụ Ngân hàng.Nhưng thẳng thắn mà nhìn nhận thì vị trí của lĩnh vực này còn quá khiêm tốn. Các nhà kinh doanh Ngân hàng ở Việt Nam vẫn giành nhiều quan tâm đến việc giải quyết những vướng mắc trong khâu cho vay,cách thức huy động vốn mà vô tình quên đi lĩnh vực quan trọng đó là dịch vụ Ngân hàng. Riêng NHCT_HBT đã có nhiều lỗ lực nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng.Tuy nhiên qua phân tích thực trạng tình hình cung cấp dịch vụ tại NHCT_HBT ở chương II cho thấy vấn đề này còn nhiều tồn tại và chưa được quan tâm đúng mức cho nên quá trình nâng cấp các dịch vụ diễn ra chậm, thu nhập từ hoạt động này còn chiếm tỷ lệ quá nhỏ trong tổng thu nhập. Những hạn chế trong quá trình cung ứng dịch vụ của Ngân hàng cho thấy đã đến lúc Ngân hàng phải đưa ra những chính sách cụ thể có tính thực tế không những hoàn thiện và phát huy các dịch vụ sẵn có mà còn triển khai xây dựng các dịch vụ mới nhằm đạt được danh mục dịch vụ đa dạng phong phú phục vụ mọi nhu cầu của khách hàng. Từ đó tạo đà cho Ngân hàng tiến tới mô hình hoạt động của một Ngân hàng hiện đại. Để góp phần phát triển các hoạt động dịch vụ nhằm thu nhập từ lĩnh vực này của NHCT_HBT nói riêng và của NHCT VN nói chung, em xin mạnh dạn trình bày một số ý kiến của mình. I. Một số ý kiến góp phần củng cố và hoàn thiện các dịch vụ Ngân hàng tạI NHCT_HBT 1. Dịch vụ chuyển tiền cá nhân Q ua phân tích và đánh giá tiềm năng phát triển dịch vụ chuyển tiền cá nhân cho thấy mặc dù NHCT_HBT đã có nhiều cố gắng trong lĩnh vực này nhưng cũng để tồn tại nhiều điểm chưa hợp lý mà Ngân hàng cần phải khắc phục để đạt được kết quả cao hơn cho mục tiêu tập trung nguồn vốn tăng lợi nhuận từ dịch vụ Cụ thể : Vấn đề đầu tiên :là phải đơn giản hoá thủ tục nhận và gửi tiền. Đối với giấy nộp tiền người gửi cần ghi các yếu tố sau : Họ tên người gửi....... Địa chỉ....... Số tiền bằng số.......(bằng chữ.......) Họ tên người nhận....... Địa chỉ người nhận....... Số CMT (nếu có)....... Ngân hàng trả tiền....... Ngân hàng không nên bắt buộc người gửi tiền phải nhớ số CMT của người nhận tiền. Tuy đây là yếu tố an toàn nhưng chi nhánh có thể tham khảo phương thức trả tiền của bưu điện yêu cầu người nhận chủ động mang giấy tờ tuỳ thân đến lĩnh tiền để không đặt người gửi tiền vào thế bị động. Nhưng đây không hẳn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến doanh số thực hiện bởi vì khi nộp tiền khách hàng chỉ việc điền vào các yếu tố trên giấy nộp tiền mà Ngân hàng in sẵn rồi nộp phí là xong. Việc này tương ứng với việc điền vào mẫu in sẵn của bưu điện. Và việc người gửi phải ghi số CMT của người nhận cũng không phức tạp hơn lắm thủ tục của bưu điện thay vì mang CMT đến nhận tiền người gửi phải có giấy giới thiệu,xác nhận của cơ quan đơn vị làm việc hoặc của UBND phường xã. Chi nhánh có thể yêu cầu NHNN sửa đổi chế độ chứng từ cho phép Ngân hàng được in giấy nộp tiền cho khách hàng (theo mẫu do NHNN quy định thống nhất ) khi giao dịch bằng máy tính. Khi đó khách hàng chỉ nói rõ các yếu tố để kế toán viên nhập và in ra phiếu thu. Khách hàng chỉ phải kiểm tra lại, kí tên và nộp tiền. Điều này vừa có lợi khách hàng là người già hoặc những người không biết chữ vừa tiết kiệm thời gian, chi phí in ấn giấy tờ vì người viết có thể viết sai nhiều lần Nhưng những thiếu xót chưa hợp lý trong thực tế chủ yếu là phương pháp phục vụ. Biểu hiện là việc giao dịch với khách hàng chưa thật chu đáo, chưa có sự hướng dẫn tận tình và chuyển tiền chưa có thông báo cho người nhận biết đến lĩnh tiền. Để nâng cao chất lượng dịch vụ này thì trong giao dịch với khách hàng cán bộ thực hiện phải vui vẻ, thân thiện giới thiệu hướng dẫn tận tình cho khách hàng làm thủ tục, chọn Ngân hàng chuyển tiền để người nhận thuận tiện trong việc lĩnh tiền. Lưu ý khách hàng kiểm tra CMT, địa chỉ, điện thoại của người nhận. Trong công tác chi trả tiền Ngân hàng có thể cử cán bộ chuyển tiền tận tay người nhận hoặc chủ động thông báo cho người nhận đến lĩnh tiền. Sở dĩ Ngân hàng cần lỗ lực hơn nữa trong việc cải tiến chất lượng dịch vụ vì so với công tác cho vay nhất là cho vay hộ sản xuất thì cán bộ tín dụng thậm chí phải trèo đèo lội suối đi khảo sát và mang tiền trực tiếp đến cho vay với chi phí rất lớn mới thu được chênh lệch lãi suất tối đa là 0,35% song còn chứa đựng rất nhiều rủi ro. Trong khi đó dịch vụ chuyển tiền hầu như không có rủi ro mà ngoài lệ phí thu được thì trong quá trình chuyển tiền Ngân hàng còn tranh thủ tập trung được nguồn vốn mở rộng tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng khác. Để giải quyết vấn đề này Ngân hàng có thể thành lập một tổ chuyên trách lĩnh vực dịch vụ này. Trực tiếp hướng dẫn khách hàng các thủ tục cần thiết khi nhận và trả tiền vừa thông báo hoặc chuyển tiền đến tận tay cho khách hàng, có thể kiêm nhiệm luôn đối với việc thông báo chi trả kiều hối. Như vậy vừa tận dụng được cán bộ hiện có lại vừa nâng cao chất lượng của cả hai dịch vụ này. Tiếp theo là Ngân hàng phải trang bị tốt thiết bị xử lý công nghệ phục vụ cho thanh toán được đồng bộ và liên hệ chặt chẽ giữa các Ngân hàng thương mại và giữa Ngân hàng thương mại với NHNN cũng như trong Ngân hàng giúp cho việc thanh toán, chuyển tiền nhanh chóng hơn. Tất cả các chuyển tiền ra ngoài tỉnh không kể lớn hay nhỏ cần được chuyển về xử lý tại Ngân hàng. Trong nội bộ Ngân hàng trước mắt phải có chương trình liên hàng nội tỉnh đi kèm thanh toán điện tử hiện nay và lâu dài cần khép mạng thanh toán điện tử chung để xử lý các chuyển tiền được nhanh chóng hơn. Vấn đề cuối cùng chi nhánh phải tăng cường tuyên truyền sâu rộng tập chung hướng vào khu vực dân cư để nhân dân hiểu biết rõ về công tác thanh toán qua Ngân hàng nói chung về dịch vụ chuyển tiền cá nhân nói riêng trên các mặt. Những đổi mới của việc thanh toán, việc ứng dụng công nghệ tin học trong thanh toán và thành quả trong từng thời kỳ, thủ tục thanh toán, thời gian chuyển tiền, mạng lưới thực hiện chuyển tiền … từ đó nhân dân hiểu rõ tin tưởng và giao dịch nhiều hơn với Ngân hàng. Tóm lại đây là một lĩnh vực dịch rất quan trọng của Ngân hàng cho nên việc đẩy mạnh công tác chuyển tiền ở đây không chỉ đơn thuần là thu dịch vụ phí, nó còn mang tính chất ý nghĩa quan trọng thu hút được lượng lớn tiền mặt vào Ngân hàng, thúc đẩy công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Từ đó Ngân hàng thực hiện được vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. 2. Chi trả kiều hối : N hư phân tích ở trên đã biết một số nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh số thực hiện dịch vụ chi trả kiều hối. Đó là hiện nay lượng kiều hối chuyển vào Việt Nam hầu như không qua Ngân hàng mà qua cá nhân và các đơn vị không chính thức. Việc kiểm soát và hạn chế các tổ chức này là nhiệm vụ của các ngành chức năng không nằm trong hoạt động của Ngân hàng.Vì vậy Ngân hàng không thể chủ động nắm bắt các tổ chức này mà trong phạm vi hoạt động của mình Ngân hàng chỉ có thể tự hoàn thiện dịch vụ để trở thành một điểm hấp dẫn để khách hàng tìm đến. Muốn làm được điều đó Ngân hàng phải xem xét các mặt mạnh, yếu của mình trong tương quan so sánh với các tổ chức không chính thức từ đó tìm ra biện pháp củng cố và hoàn thiện dịch vụ. Để khắc phục các điểm yếu đó chi nhánh phải phát triển công nghệ hiện đại cùng với việc mở rộng quan hệ với nhiều Ngân hàng nước ngoài. Chi nhánh chú ý đến việc tạo thêm tiện ích cho Ngân hàng qua dịch vụ chi trả kiều hối. Sẵn sàng chuyển đổi ngoại tệ theo yêu cầu khách hàng, có thể hướng khách hàng thường xuyên nhận tiền kiều hối vào việc đầu tư các dự án xuất nhập khẩu, khuyến khích khách hàng mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ, chỉ rút ngoại tệ khi cần hoặc bán lại ngoại tệ cho Ngân hàng …. Ngoài ra để khơi tăng nguồn kiều hối Ngân hàng nên thiết lập một bộ phận chuyên phụ trách việc thông báo và giao tiền tận nhà cho khách hàng. Mặc dù Ngân hàng sẽ tốn thêm một khoản chi phí nhất định nhưng chắc chắn lượng phí dịch vụ thu được tăng thêm do tiện ích này mang lại còn cao hơn nhiều. Song song với việc nâng cao chất lượng chi nhánh phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện đại chúng. Có như vậy người dân mới biết được những tiện ích mà dịch vụ này mang lại. NHCT_HBT cần có những phương án chuyển tiền nhanh hơn để có thể thu hút lượng kiều hối của kiều bào gửi về. Làm tốt được những việc này ngoài khoản phí thu được chi nhánh còn tạo lập được nguồn vốn ngoại tệ để thanh toán quốc tế. 3. Thanh toán séc du lịch : P hân tích thực trạng dịch vụ thanh toán séc du lịch tại NHCT_HBT cho thấy mặc dù dịch vụ này không còn là dịch vụ mới đối với chi nhánh nhưng doanh số thực hiện quá thấp, qua thời gian vẫn chưa có chuyển biến tích cực. Để củng cố và hoàn thiện dịch vụ em xin đưa ra một số giải pháp. Trước tiên để vực dậy nghiệp vụ này chi nhánh cần phải mở rộng phạm vi chấp nhận thanh toán séc du lịch, làm đại lý thẻ cho các Ngân hàng nước ngoài từ đó tăng cường các nguồn thu phí khác nhau. Việc bó hẹp phạm vi thanh toán trong một loại thẻ duy nhất sẽ hạn chế khả năng phát triển của dịch vụ, lãng phí nhân lực trong lĩnh vực này. Mặt khác thông qua công tác chi trả kiều hối chi nhánh đã thiết lập được mối quan hệ với nhiều Ngân hàng ở Anh,úc, Nhật Pháp … lại không còn bỡ ngỡ với dịch vụ này chắc chắn chi nhánh sẽ thực hiện tốt việc mở rộng phạm vi chấp nhận nhiều loại séc du lịch. Thứ hai chi nhánh cần hợp lý lại công tác chi trả của mình. Công tác kiểm tra và thanh toán séc Ngân hàng nên hướng dẫn cho cán bộ ở các quỹ tiết kiệm và phòng giao dịch biết để trực tiếp xử lý vừa rút ngắn thời gian thanh toán chi trả vừa tận dụng năng lực cán bộ nhân viên trong Ngân hàng. Đồng thời với hai biện pháp trên Ngân hàng phải quảng cáo thông tin cho khách hàng biết được sự đổi mới,đa dạng của dịch vụ với nhiều tiện ích mới. Ngay cả Ngân hàng cũng thừa nhận chi nhánh còn nhiều hạn chế trong khâu tiếp thị kinh doanh. Vì vậy song song với việc đổi mới hoạt động là khâu tiếp thị quảng cáo. Có như vậy thì dịch vụ này mới hoạt động hiệu quả. 4. Kinh doanh mua bán ngoại tệ T rong điều kiện kinh doanh ngoại tệ tại một chi nhánh như NHCT_HBT, để tạo điều kiện cho các quan hệ thương mại cũng như việc giao lưu kinh tế xã hội phát triển đồng thời góp phần tăng thu nhập cho Ngân hàng. Chi nhánh phải xử lý được những tồn tại trong việc mua bán ngoại tệ Trước hết chi nhánh phải tìm biện pháp mở rộng cung ngoại tệ. Như phân tích chi nhánh có 3 nguồn thu ngoại tệ, nhưng mỗi nguồn đều có những khó khăn riêng trong việc huy động.Trong đó ngoại trừ nguồn ngoại tệ huy động từ các Ngân hàng khác chỉ dùng trong tình thế bắt buộc.Thì hai nguồn còn lại chi nhành cần phải có biện pháp phát triển. Với những quy dịnh của NHNN trong thời gian qua Ngân hàng có thể kiểm soát được các nguồn ngoại tệ của các tổ chức tín dụng có quan hệ với chi nhánh. Nhưng vấn đề dặt ra là nguồn ngoại tệ trôi nổi ngoài hệ thống Ngân hàng. Với nguồn này chi nhánh không thể có biện pháp nào bắt buộc người nắm giữ ngoại tệ bán vào Ngân hàng. Mà để thu hút nguồn vốn này Ngân hàng phải nắm được nguyên nhân vì sao người dân không muốn bán ngoại tệ cho Ngân hàng. Lý do chính là tỷ giá Ngân hàng luôn thấp hơn trên thị trường tự do. Trước tình trạng đó muốn tạo ra sức hấp dẫn thực sự thì chi nhánh phải có một tỷ giá phù hợp không hoặc có chênh lệch rất ít so với thị trường tự do. Tuy nhiên vấn đề này không đơn giản,chi nhánh còn phụ thuộc vào tỷ giá quy định của NHCT VN và NHNN. Vì vậy trước mắt chi nhánh cần chú trọng đến việc mở rộng hai dịch vụ chi trả kiều hối và thanh toán séc du lịch. Sự phát triển của hai hình thức này với hiệu quả cao sẽ hỗ trợ tốt nhằm cải thiện “cung” ngoại tệ của chi nhánh. Ngoài ra chi nhánh tạo cơ hội cho những người có ngoại tệ đến Ngân hàng bán công khai mà không cần chứng minh vì sao có ngoại tệ này. Bên cạnh việc tạo cung,chi nhánh cần chú trọng đến việc kích thích cầu. Để làm được điều này Ngân hàng phải chú trọng đến công tác khách hàng, chủ động hướng dẫn khách hàng. Đối với khách hàng còn bỡ ngỡ Ngân hàng cần có những hình thức tư vấn miễn phí. Điều này vừa giúp Ngân hàng nâng cao uy tín vừa thúc đẩy hoạt động hiệu quả của nghiệp vụ nnày. Tuy nhiên thực sự thúc đẩy cả cung và cầu ngoại tệ cần có sự tác động của NHCT VN. Cụ thể : NHCT VN chỉ nên qui định không được bán ngoại tệ ra ngoài hệ thống còn trong hệ thống nên để các chi nhánh có thể được mua bán với nhau để chủ động hơn trong kinh doanh ngoại tệ Hiện nay NHCT qui định trạng thái ngoại tệ cho NHCT HBT đối với tất cả các loại ngoại tệ là USD 200,000.00. Mức qui định này là thấp đối với hoạt động của chi nhánh. Vì vậy NHCT_HBT nên đề nghị NHCT VN tăng trạng thái ngoại tệ đối với chi nhánh để đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng Nên chăng chi nhánh có thể đề xuất NHCT có cơ chế xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ với chi nhánh một cách hợp lý phù hợp với thực tiễn để khuyến khích chi nhánh tự huy động vốn ngoại tệ phục vụ nhu cầu khách hàng. Nếu các biện pháp trên được tiến hành đồng bộ hiệu quả sẽ giúp cho Ngân hàng một nguồn thu rất lớn từ kinh doanh ngoại tệ 5. Mở rộng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư : Q ua phân tích ở chương II ta thấy còn nhiều khó khăn trong việc mở rộng dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng hướng vào khu vực dân cư Theo em cần có những giải pháp sau : Chi nhánh cần cải tiến các thủ tục thanh toán với các thể thức có sẵn, khắc phục các nhược điểm trong quy định về thanh toán séc, có thể nguyên cứu phát hành thẻ thanh toán của Ngân hàng Thể thức thanh toán uỷ nhiệm chi (lệnh chi thường xuyên ) nếu khách hàng dùng để thanh toán các khoản dịch vụ ổn dịnh :tiền điện, điện nước, nhà nên sử dụng dưới hình thức lệnh chi khách hàng. Ngân hàng có những biện pháp thích hợp khuyến khích khách hàng mở tài khoản và thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Đối với người bán cung cấp hàng hoá, dịch vụ thường xuyên có tính chất thiết yếu thì hướng dẫn họ sử dụng hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu để đòi tiền. Tuy nhiên trong hình thức này ngân hàng cần nghiên cứu giảm bớt tính phức tạp của chứng từ thanh toán, đưa ra mẫu chứng từ vừa là chứng từ gốc (hoá đơn cung cấp hàng hoá) vừa là chứng từ đòi tiền, ghi sổ của ngân hàng. Chi nhánh cần qua tâm đầu tư trang thiết bị đồng bộ nhằm tăng tốc độ thanh toán và giảm phí. Tuyên truyền rộng rãi tiện ích của dịch vụ một cách hợp lý kèm theo khuyến mãi và công tác này phải lâu dài theo kiểu “ mưa dầm thấm lâu” Đảm bảo an toàn tiền gửi cho khách hàng, cung cấp các dịch vụ ưu đãi cho khách hàng tham gia thanh toán thường xuyên. II. Một số kiến nghị về công tác triển khai các dịch vụ mới của chi nhánh N hư phân tích ở trên ta thấy danh mục dịch vụ hoạt động của chi nhánh còn quá hạn hẹp dẫn đến tỷ trọng dịch vụ / tổng thu nhập rất nhỏ. Để khắc phục tình trạng này thì việc củng cố các dịch vụ hiện có là không đủ mà phải tiến hành song song với việc bổ xung các dịch vụ mới trong khả năng của chi nhánh 1 Tư vấn đầu tư Đây không phải là khái niệm quá xa lạ đối với Ngân hàng bởi từ lâu không chỉ NHCT VN mà ở một vài chi nhánh đã triển khai nghiệp vụ này. Tuy nhiên tại NHCT HBT vẫn chưa có hoạt động tư vấn đầu tư trong danh mục của mình. Từ trước đến nay ở đây chỉ có khái niệm tư vấn cho khách hàng khi thực hiện hợp đồng tín dụng mà chưa phát triển nó thành một dịch vụ cụ thể. Hiện nay tình hình kinh tế đang biến động rất phức tạp với những diễn biến khó lường. Điều này gây khó khăn đối với các tổ chức kinh tế. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự sa sút của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh bởi lẽ ông chủ nào của công ty TNHH,công ty tư nhân cũng được học hành qua trường lớp đào tạo các nghiệp vụ kinh doanh. Trong khi đó tại chi nhánh đội ngũ cán bộ có năng lực được đào tạo chính qui, lại luôn tiếp xúc với nhiều loại hình kinh doanh khác nhau cho nên có khả năng dự đoán được các biến động của nền kinh tế. Chính vì thế chi nhánh nên vận dụng thế mạnh của mình để triển khai hoạt động tư vấn đầu tư. Đặc biệt trong một thời gian ngắn nữa với sự ra đời TTCK thì dịch vụ này sẽ là một hoạt động mang lại thu nhập rất lớn cho Ngân hàng.Nhất là khi mọi người còn chưa am hiểu đầy đủ các thao tác kinh doanh trên TTCK. Tuy nhiên để Ngân hàng thực hiện dịch vụ này một cách có hiệu quả nhất khi TTCK bắt đầu hoạt động thì ngay bây giờ Ngân hàng cần triển khai hoạt động này một mặt để có thời gian hoàn thiện một mặt để khách hàng làm quen và biết đến dịch vụ này. Với sự chuẩn bị đó vào thời điểm ra đời của TTCK chi nhánh đã hội đủ điều kiện trở thành một thành viên tích cực của thị trường vốn này. 2.Chiết khấu thương phiếu : Tại các nước phát triển, chiết khấu thương phiếu, cầm cố thương phiếu là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng thương mại đem lại lợi nhuận cao mà tương đối ít rủi ro. Mặt khác đây là nghiệp vụ có thể tái tạo nguồn vốn ngắn hạn vì mục đích của tái chiết khấu hoặc tái cầm cố thương phiếu là vay nợ Ngân hàng.Ngoài ra Ngân hàng thương mại có thể thực hiện dịch vụ thu hộ thương phiếu,kì phiếu tài chính đến hạn để hưởng hoa hồng và khơi tăng nguồn vốn huy động ở nước ta quyết định số 198/QĐ _NH 5 ngày 16/9/1996 của Thống đốc NHNN ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn cũng có qui định về “chiết khấu chứng từ có giá “ nhưng trong mấy năm qua nghiệp vụ này của các Ngân hàng thương mại hầu như không đáng kể chủ yếu là mua lại các tín phiếu, trái phiếu ngắn hạn của nhà nước chưa đến hạn, NHCT _HBT cũng không ngoại lệ. ở đây Ngân hàng chỉ tiến hành thủ tục chiết phiếu trên thương phiếu xác lập bởi quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với khách hàng. Với nghiệp vụ này chi nhánh xem như một nghiệp vụ cho vay đơn giản từng lần. Tuy nhiên khi TTCK đi vào hoạt động thì hàng hoá của nghiệp vụ này sẽ trở thành đa dạng hơn. Đây là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu trên TTCK mà người thực hiện chính là các Ngân hàng thương mại. Nhận thức đúng được sự cần thiết của nghiệp vụ này đối với nền kinh tế trong thời kì phát triển cũng như để khắc phục tình trạng bỏ ngỏ của nghiệp vụ chứng khoán thương phiếu. Điều 57 luật NHNN và các TCTD có hiệu lực thi hành từ 1/10/2000 qui định tổng quát về “chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và chứng từ có giá ngắn hạn khác “ và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành đồng thời với luật thương mại để đa dạng hoá nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng. Đó là cơ sở pháp lý vững chắc để triển khai nghiệp vụ này. Do vậy Ngân hàng nên chú trọng triển khai hoạt động này ngay từ bây giờ vì chắc chắn thời điểm ra đời của TTCK sẽ không còn bao lâu 3. Dịch vụ thanh toán mua bán nhà Nhà đất không những là gia sản có giá trị to lớn mà còn là nhu cầu của mỗi con người. Nhà ở không chỉ liên quan đến các mặt sinh hoạt đời sống cá nhân mà nó còn liên quan đến tình hình kinh tế, an ninh trật tự xã hội. Nhằm đa dạng hoá hoạt động kinh doanh tiền tệ,tín dụng và dịch vụ Ngân hàng cũng như đáp ứng phần nào nhu cầu mua bán nhà của khách hàng trên địa bàn,NHCT_HBT nên xem xét triển khai dịch vụ này. Đây là một dịch vụ hoạt động tương đối mới mẻ và khá phức tạp. Do vậy để thực hiện được dịch vụ này,Ngân hàng phải nghiên cứu kỹ để đưa ra những kế hoạch cụ thể. Ngoài ra chi nhánh có thể học tập kinh nghiệm tổ chức thực hiện tại Ngân hàng á Châu chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh (ACB_SG). Điểm qua thực tế tại Ngân hàng ACB_SG qua 3 năm hoạt động có một lượng tiền, vàng rất lớn được thanh toán qua Ngân hàng.Chứng tỏ dịch vụ này đang có sức hút mạnh mẽ đối với khách hàng có nhu cầu mua bán nhà. Đặc biệt khi triển khai dịch vụ này thì các hoạt động không chỉ bó hẹp trong việc thanh toàn hộ mà còn phát sinh thêm nhiều yêu cầu khác có liên quan đến việc mua bán nhà : người mua còn thiếu một phần tiền, hay người bán cần ứng trước một khoản tiền để thanh toán nợ đến hạn. Do đó Ngân hàng có thể bổ sung và thực hiện thêm nghiệp vụ khác. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội chưa có nhiều Ngân hàng thực hiện dịch vụ thanh toán tiền mua nhà. Trong khi đó, kinh doanh bất động sản đang thu hút ngày càng nhiều người tham gia. Vì vậy Ngân hàng cần nắm được xu hướng vận động của nền kinh tế nhanh chóng triển khai nghiệp vụ này. Thực hiện được nghiệp vụ này không những thu được khoản phí rất lớn (ACB_SG tỷ lệ phí là 0,2 % trên giá trị mua bán nhà ) còn tạo ra nhiều tiện ích khác như nâng cao tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, mở rộng tín dụng và các dịch vụ khác.v.v... Kết luận Hơn 10 năm hoạt động, chi nhánh NHCT_HBT nói riêng và hệ thống NHCT VN nói chung đã có bước tiến đáng kể,đóng vai trò tích cực trong công cuộc công nghiệp hoá _hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên cũng qua nghiên cứu thực tế hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cho thấy vẫn còn một khoảng cách quá lớn giữa Ngân hàng Việt Nam và các Ngân hàng phát triển trên thế giới. Sự đơn điệu trong hoạt động kinh doanh vẫn đang là yếu điểm chưa được khắc phục của các NHTM Việt Nam. Trong xu thế nền tài chính thế giới đang hoà nhập mạnh mẽ như hiện nay, công cuộc hiện đại hoá Ngân hàng là yêu cầu tất yếu trong chiến lược phát triển của Ngân hàng Việt Nam. Nhận thức dược tầm quan trọng của việc hiện đại hoá Ngân hàng luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành từ 01/10/2000 cũng đã xác định rõ việc xây dựng hệ thống Ngân hàng đa dạng khuyến khích phát triển kinh doanh tổng hợp và đa dạng. Trước mắt với hệ thông Ngân hàng hiện đại sẽ là nhân tố thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán và nó là nền tảng phát triển nền kinh tế vững chắc trong tương lai Dịch vụ Ngân hàng là vấn đề còn khá mới mẻ đối với ngành Ngân hàng nước ta.Do vậy luận văn của em không tránh khỏi những thiếu xót, rất mong được thầy cô, ban lãnh đạo các cô chú trong NHCT_HBT cùng các bạn góp ý thêm. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của cô giáo, tập thể cán bộ chi nhánh NHCT_HBT đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0375.doc
Tài liệu liên quan