Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng huy động vốn tại Ngân hàng công thương Hà Tây

Công tác huy động vốn của Ngân hàng Thương mại có vai trò rất quan trọng không chỉ trong hoạt động cả bản thân Ngân hàng mà còn trong phạm vi một nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác này trong nội bộ hệ thống Ngân hàng Thương mại nói riêng và hệ thông tín dụng nói chung rất được chú trọng. Chuyên đề này đi vào phân tích xem xét, đánh giá, đồng thời đưa ra một vài kiến nghị và biện pháp nhằm mở rộng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương tỉnh Hà Tây. Trong đó tập trung chủ yếu vào hoạt động huy động vốn từ nguồn gửi tiết kiệm của dân cư và các tổ chức kinh tế đồng thời đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động của công tác này theo hướng triển khai các loại hình huy động cho vay đảm bảo cho việc kết hợp hài hoà giữa mở rộng đầu vào và đầu ra cho phù hợp với đặc điểm, mục tiêu, hoạt động của Ngân hàng trong thời gian tới .

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng huy động vốn tại Ngân hàng công thương Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đích là tạo cho khách hàng có được nhiều kỳ hạn gửi phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền mà họ có. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. 1.2.3 Huy động vốn thông phát hành các chứng chỉ có giá: Các chứng chỉ có giá là công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này có tính chất tương đối ổn định để sử dụng cho một mục đích nào đó tuy nhiên lãi suất thường cao hơn tiền gửi thông thường. Việc phát hành các chứng chỉ có giá cần phải tuân theo những quy định của bộ tài chính. Các chứng chỉ có giá gồm : * Trái phiếu ngân hàng: Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành trái phiếu, các NHTM chịu sự quản lý của NHNN, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng. * Kỳ phiếu ngân hàng: Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc điểm giống như trái phiếu nhưng có thời gian ngắn hạn hơn trái phiếu, vì vậy nó được sử dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng. * Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một ngân hàng, người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường. 1.3 Vốn vay của các ngân hàng. Nguồn vốn này có đặc điểm là chi phí sử dụng cao mang tính tập chung. Ngân hàng chủ động đi vay với lãi suất cao, thời hạn ngắn chủ yếu đáp ứng nhu cầu thanh khoản. 1.3.1 Vay vốn của các NHTM và các TCTD: Mục đích của vốn này là để nhằm đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời gian ngắn. Trong thị trường có một số ngân hàng cho vay quá nhiều dẫn đến thiếu hụt vốn dự trữ.Trong đó lại có những ngân hàng thừa vốn dự trữ nên các ngân hàng này cho vay lẫn nhau để đảm bảo thanh toán. 1.3.2 Vay vốn của NHTW: NHTW cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn, vay thanh toán, vay ngắn hạn bổ xung...NHTW có cho NHTM vay hay không phụ thuộc vào: - Chính sách tiền tệ mà NHTW đang theo đuổi: Nếu NHTW muốn mở rộng mức cung tiền để thúc đẩy kinh tế phát triển thì NHTW sẽ đáp ứng nhu cầu vay của NHTM một cách dễ dàng và ngược lại. - Hạn mức tín dụng của NHTM được NHTW cấp đã được sử dụng hết chưa: thông thường NHTW cấp cho mỗi ngân hàng một hạn mức tín dụng và NHTM được phép vay trong hạn mức này. Đây là nguồn vốn có chi phí rất cao do đó NHTM chỉ sử dụng khi thực sự cần thi 1.4 Huy động vốn trong thanh toán và vốn khác. 1.4.1 Nguồn vốn trong thanh toán: rong quá trình làm trung gian thanh toán NHTM cũng có một khoản vốn gọi là khoản vốn trong thanh toán như vốn trên tài khoản tiền gửi mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi bảo chi séc và các khoản tiền phong tỏa do các Ngân Hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại. 1.4.2 Vốn tài trợ ủy thác: Đây là nguồn vốn mà Ngân Hàng nhận làm Ngân Hàng đại lí, nhận ủy thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để cho vay trung, dài hạn thực hiện những chương trình dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh. Thông qua nghiệp vụ này Ngân Hàng sẽ được hưởng phí hoa hồng và Ngân Hàng không có trách nhiệm thẩm định những khách hàng loại này. Nguồn vốn loại này rất đa dạng, phong phú với đặc điểm là lãi suất rất thấp, thời gian trả nợ thường dài (với vốn ODA là 30-40 năm). Đây là nghiệp vụ mang tính chất trung gian của NHTM mà qua đó NHTM có thể đáp ứng nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế. 2. Hoạt động sử dụng vốn. 2.1 Ngân hàng cho vay vốn đối với khách hàng. Hoạt động cho vay là một hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận. Các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn từ 60-80% tổng số tài sản có của NHTM và đem lại hơn 60% doanh lợi cho ngân hàng. Đại bộ phận tiền huy động được ngân hàng cho vay theo 3 loại: 2.1.1 Cho vay ngắn hạn: tín dụng ngắn hạn là hình thức cho vay của NHTM cho khách hàng vay có thời gian ngắn dưới 1 năm do đó khoản vay này thường được dùng để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời phục vụ cho thanh toán hàng hoá, tài trợ, bổ sung vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương và phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Do nguồn vốn tín dụng ngắn hạn dùng để cung cấp vốn cho chi tiêu, mua nguyên vât liệu, trả lương, bổ sung vốn lưu động nên số vốn thường nhỏ, nguồn vốn được quay vòng nhiều. Thời hạn thu hồi nhanh và rủi ro tín dụng ngắn hạn thường không cao, ít chịu ảnh hưởng biến động kinh tế. 2.1.2 Cho vay trung hạn và dài hạn: các khoản tín dụng có thời hạn từ 1 đến dưới 5 năm được coi là trung hạn, các khoản tín dụng từ 60 tháng trở lên được gọi là khoản cho vay dài hạn( nhưng thời gian cho vay tối đa bằng thời gian khấu hao cần thiết để hình thành tài sản cố định bằng vốn vay). Những khoản cho vay này thường có giá trị lớn, Trong khi đó đối tượng sử dụng vốn từ nguồn trung và dài hạn thường là những tài sản cố định có thời gian sử dụng lâu dài vì vậy thời gian sử dụng vốn lâu, nguồn vốn không được quay vòng nhiều. Thời hạn thu hồi vốn chậm, rủi ro cho vay trung hạn và dài hạn thường cao, chịu nhiều biến động không lường trước của nền kinh tế hơn tín dụng ngắn hạn nhiều chính vì vậy lãi suất cho vay trung và dài hạn cũng cao hơn nhiều so với cho vay ngắn hạn. 2.2 Hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư của NHTM diễn ra chủ yếu trên thị trường tài chính thông qua việc mua bán các chứng khoán và góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp, đây là hoạt động cũng mang lại lợi nhuận thấp nhưng lại có tính ổn định cao. 2.2.1 Đầu tư chứng khoán: Đây cũng là nghiệp vụ sinh lời của NHTM, trong nghiệp vụ này, ngân hàng đầu tư vào hai loại chứng khoán là chứng khoán Nhà nước và chứng khoán Công ty. Hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động đầu tư vào các tài sản tài chính thông qua việc mua bán các chứng khoán. Thu nhập của ngân hàng thu được từ hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Hoạt động này tuy ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro chính vì vậy ngân hàng phải thận trọng trong việc đầu tư để tránh thua lỗ. 2.2.2 Đầu tư liên doanh liên kết: Ngoài nghiệp vụ trên, ngân hàng còn có thể tiến hành đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu hoặc hùn vốn, góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp, ngân hàng,tổ chức tín dụng khác để hùn vốn cùng đầu tư và sẽ được phân chia lơi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh. 3. Mối quan hệ giữa vốn và sử dụng vốn Huy động vốn và sử dụng vốn là hai vấn đề có liên quan mật thiết với nhau. Ngân hàng không chỉ huy động thật nhiều vốn mà còn phải nơi đầu tư và cho vay có hiệu quả. Nếu ngân hàng chỉ chú trọng tới huy động vốn mà không cho vay hoặc đầu tư thì sẽ bị ứ động vốn làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Còn nếu không huy động đủ vốn để cho vay thì sẽ mất cơ hội mở rộng khách hàng, làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường. Việc tăng trưởng nguồn vốn là điều kiện trước nhất để mở rộng đầu tư tín dụng, để chủ động đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sử dụng vốn là hoạt động nối tiếp quyết định hiệu quả của hoạt động huy động vốn, quyết định hiệu quả của hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để đạt được mục tiêu sinh lời và an toàn, mỗi ngân hàng cần phải tự xây dựng cho mình một chính sách huy động và sử dụng vốn phù hợp, hiệu quả với mình. Một một chính sách hiệu quả là danh mục nguồn vốn và tài sản sao cho đảm bảo sự phù hợp tương đối về quy mô, kết cấu thời hạn và lãi suất của nguồn vốn được xem là tích cực khi nó thoả mãn các các tiêu chuẩn sau: - Đảm bảo khả năng thanh toán cần thiết - Sự phù hợp về độ nhạy cảm với lãi suất của nguồn vốn và tài sản - Sự linh hoạt trong cơ cấu để điều chỉnh theo hướng có lợi cho kết quả kinh doanh bằng việc có thể khai thác cơ hội và tránh các rủi ro có thể có. Nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn có lợi cho kinh doanh nhưng khi lãi suất thay đổi theo chiều hướng tăng rất dễ dẫn đến rủi ro. iii. vai trò của nhtm đối với nền kinh tế. 1. Góp phần thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đặc trưng cơ bản của Ngân hàng là cho vay có hoàn trả với một mức lãi suất nhất định và với một thời hạn nhất định, chính điều này đã bắt buộc mọi cá nhân và doanh nghiệp khi vay vốn của Ngân hàng phải cân nhắc và phải sử dụng vốn đó một cách có hiệu quả nhất, để có thể bảo toàn vào sinh lợi được vốn đó, sau đó phải trả vốn vay và lãi đúng thời hạn. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường công tác hạch toán, giảm chi phí sản xuất nhưng phải tăng chất lượng sản phẩm và tăng vòng quay của vốn. Qua đó, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trước khi quyết định một món vay Ngân hàng thường tiến hành thẩm định tín dụng, chỉ thực hiện cho vay đối với những cá nhân, doanh nghiệp phải có sự sắp xếp, bố trí tổ chức sản xuất phù hợp, để có cơ hội vay vốn của Ngân hàng, đây chính là động lực, là cơ sở giúp cho việc tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, qua đó tăng hiệu quả nền kinh tế. 2. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Ngân hàng thương mại bằng hoạt động của mình đã thức hiện việc phân bổ vốn giữa các vùng qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng khác nhau trong một quốc gia.Từ đó tạo điều kiện cho những vùng kinh tế chưa phát triển có điều kiện tiếp cận và sử dụng vốn một cách hiệu quả để phát triển kinh tế của vùng. Tạo điều kiện cho các vùng trong nước phát triển kinh tế đồng đều từng bước chuyển dịch cơ cấu hợp lý theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. 3. Tạo môi trường thực thi chính sách tiền tệ của Trung ương. Để thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương phải sử dụng các công cụ như lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ...Chính các NHTM là “môi trường” để NHTW sử dụng các công cụ này. Mặt khác NHTM còn là tổ chức phải chấp hành những quy định trong nội dung của các công cụ chính sách tiền tệ và đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của các chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Thông qua các NHTM, NHTW phát hành thêm hoặc thu hồi bớt tiền từ lưu thông về.Cũng thông qua NHTM sự biến động lãi suất, tỷ giá hối đoái ... của nền kinh tế được phả hồi về NHTW để NHTW có các giải pháp điều tiết phù hợp theo yêu cầu của chính sách tiền tệ. 4. Là cầu nối kinh tế giữa kinh tế quốc gia và kinh tế quốc tế. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước và thế giới, tạo điều kiện cho việc hoà nhập của nền kinh tế trong nước với nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới. Với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới cùng với chính sách mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới thì hoạt động của các Ngân hàng thương mại được mở rộng và thúc đẩy cho việc mở rộng hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nước. Với hoạt động rộng khắp của mình, các ngân hàng có khả năng được nguồn vốn từ các cá nhân và các tổ chức nước ngoài góp phần bảo đảm được nguồn vốn cho nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể mở rộng hoạt động của họ ra nước ngoài một cách rễ dàng hơn, hiệu quả hơn nhờ hoạt động thanh toán quốc tế, bảo lãnh. Chính từ sự mở rộng các quan hệ quốc tế mà nền kinh tế trong nước có sự thâm nhập vào thị trường quốc tế và tăng cường khả năng cạnh tranh với các nước khác trên thế giới. Chương II thực trạng hoạt động huy động vốn ở ngân hàng công thương hà tây I. khái quát về ngân hàng công thương Hà Tây. 1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng công thương Hà Tây. Ngân hàng Công thương Hà Tây là đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, được thành lập theo Nghị định số 53 NĐ-HĐBT (nay là Chính phủ). Ngân hàng chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1988 gọi là Ngân hàng Công thương tỉnh Hà Sơn Bình, có trụ sở tại Thị xã Hà Đông và có một chi nhánh Ngân hàng Công thương trực thuộc tại Thị xã Hoà Bình. Ngày 9 tháng 10 năm 1991, Tỉnh Hà Sơn Bình được Quốc hội quyết định tách ra thành hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình. Vì vậy, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Quyết định số 127QĐ-NHNNVN về việc giải thể Ngân hàng Công thương tỉnh Hà Sơn Bình và thành lập chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây ngày 30 tháng 8 năm 1991 và chi nhánh Ngân hàng Công thương tại Thị xã Hoà Bình chuyển sang thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Quyết định chuyển giao có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1991. 2. Chức năng và nhiệm vụ: Ngân hàng công thương Hà Tây có chức năng nhiệm vụ sau: 2.1 Chức năng huy động vốn : - Nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ của các tổ chức kinh tế và dân cư - Nhận tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình thức phong phú và hấp dẫn. Tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ, tiết kiệm dự thưởng và tiết kiệm tích luỹ… - Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu… 2.2 Chức năng cho vay, đầu tư : - Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế và dân cư. - Tài trợ xuất, nhập khẩu; chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất. - Tài trợ và cho vay hợp vốn với những dự án lớn, tham gia hoàn vốn dài. - Cho vay tài trợ, uỷ thác của các tổ chức Quốc tế, tổ chức phi Chính phủ và các Hiệp định tín dụng khung. - Thầu chi và cho vay tiêu dùng. - Hùn vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính trong nước và Quốc tế. - Đầu tư trên thị trường vốn, thị trường trong nước và Quốc tế… 2.3 Cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác: Ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ phần lớn cho doanh nghiệp và các nhà xuất khẩu. THực hiện nhiệm vụ thanh toán quốc tế mở thư tín dụng (L/C) cho khách hàng, bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ chứ tín dụng trong và ngoài nước, tư vấn đầu tư mua trả góp, các dịch vụ lữ hành...Kinh doanh ngoại hối mua bán ngoại tệ, kinh doanh vàng bạc đá quý, chiết khấu các loại giấy tờ có giá. 3. Cơ cấu Ngân hàng Công thương Hà Tây: Cơ cấu Ngân hàng Công thương Hà Tây gồm: 1 giám đốc, 3 phó giám đốc, 8 phòng với 8 trưởng phòng, Điểm giao dịch Số 1 và Điểm giao dịch Số 2, tổng số cán bộ là 80 người. Trình độ học vấn : 1 tiến sĩ kinh tế, 3 thạc sĩ kinh tế, 66 người trình độ Đại học, còn lại có trình độ Cao đẳng và Trung cấp. Bảng 2.1 : sơ đồ cơ cấu tổ chức NHCT Hà Tây P. Tiếp thị tổng hợp P.Tiền tệ kho quĩ P.thông tin điện toán P.khách cá nhân P.khách hàng DN Phòng Tài trợ thương mại Phòng Kế toán giao dịch Điểm giao dịch số 1 P.Giao dịch số 12 Ban giám đốc P.Tổ chức hành chính Điểm gi Quỹ tiế kiệm số 18 3.1 Ban giám đốc Ban giám đốc trực tiếp ra các quyết định, hướng dẫn thi hành và quản lý hoạt động của tất cả các phòng ban tại Hội sở và phòng giao dịch. Trong hoạt động kinh doanh hàng ngày, mục tiêu của Ngân hàng Công thương Hà Tây là: “Phát triển – An toàn – Hiệu quả”. 3.2 Phòng Kế toán giao dịch: Là bộ phận thanh toán liên hàng và bộ phận thanh toán bù trừ. Chức năng chính của phòng kế toán là thực hiện các nghiệp vụ thanh toán bù trừ, thanh toán liên hàng trong hệ thống và ngoài hệ thống. Thực hiện cơ chế tài chính của ngành theo các văn bản chế độ hiện hành (thanh toán giao dịch với khách hàng khi khách hàng đến mở tài khoản, bộ phận chi tiêu, theo dõi các tài khoản khi đến hạn thì báo cho các phòng ban liên quan, thu lãi định kỳ đối với khách hàng). 3.3 Phòng Tài trợ thương mại : Có chức năng phát hành, thông báo, xác nhận, thanh toán thư tính dụng nhập khẩu, nhờ thu xuất khẩu; nhờ thu hối phiếu trả ngay (D/P) và nhờ thu chấp nhận hối phiếu (D/P), chuyển tiền trong nước và Quốc tế, chuyển nhanh Western Union, thanh toán uỷ thu, uỷ nhiệm chi séc, chi trả lương cho doanh nghiệp qua thanh khoản, chi trả kiều hối… 3.4 Phòng Khách hàng doanh nghiệp: Tổ chức phân tích,thẩm định các dự án cho các doanh nghiệp vay, hoàn thiện hồ sơ cho vay bảo lãnh,cấp tín dụng cho hách hàng.Chỉ đao kiểm tra phân tích hoạt động tín dụng phân loại nợ, phân tích nợ quá hạn để tìm ra nguyên nhânvà cách giải quyết kịp thời. 3.5 Phòng Khách hàng cá nhân: cũng có chức năng giống phòng khách hàng doanh nghiệp nhưng chỉ quản lý các khác hàng là cá nhân. 3.6 Phòng Thông tin điện toán: Tổng hợp thống kê và lưu trữdữ liệu. Làm nhiệm vụ tin học khắc phục những trục trặc kỹ thuật đảm bảo sự thông suốt các hoạt động tin học của chi nhánh.Xử lý nghiệp vụ phat sinh. 3.7 Phòng Tiền tệ kho quỹ: Phòng có chức năng cất giữ, bảo quản, kiểm đếm, kiểm soát tiền. Đồng thời là nơi bảo quản các giấy tờ có giá, các hồ sơ thế chấp của khách hàng. 3.8 Phòng Tiếp thị tổng hợp : Tham mưu cho giám đốc về hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn.Xây dựng và theo dõi tiến độ thực hiện kinh doanh của đơn vị trực thuộc.Tổng hợp kịp thời kết quả kinh doanh hàng ngày của chi nhánh.Xây dựng kế hoạch kinh doanh, tuyên truyền quảng bá và các công tác liên quan đến công tác tiếp thị 3.9 Phòng Tổ chứchành chính: Chức năng chính của phòng là quản lý nhân sự, lư trữ các văn bản pháp luật. Trực tiếp quản lý con dấucủa ngân hàng. Xét duyệt nâng bậc lương, chỉ đạo điều hành quy hoạch cán bộ, bổ nhiệm miễn nhiệm kỷ luậtcán bộ, tuyển dụng cán bộ trong cơ quan. Phát động các phong trào thi dua, quản lý hồ sơ cán bộ và làm các công việc văn thư, lễ tân khác. II. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng công thương Hà Tây. 1. Công tác quản lý điều hành. Tình hình huy động vốn tại ngân hàng công thương Hà Tây. Bảng 2.2: tình hình huy động vồn tại nhct hà tây Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 So sánh Tổng số Số % Tổng số Số % Tuyệt đối tương đối Tổng nguồn 686,246 100% 777,923 100% 91,677 13.36% 1, Theo kỳ hạn 686,246 100% 777,923 100% 91,677 13.36% Không kỳ hạn 193,549 36.93% 336,533 43.04% 143,084 73.96% Có kỳ hạn 492,697 63.07% 443,126 56.96% -49,671 -10.08% 2, Theo loại tiền 686,246 100% 777,923 100% 91,677 13.36% VNĐ 435,080 63.40% 569,494 73.21% 134,414 30.89% USD 251,166 36.60% 208,429 26.79% 6,737 2.68% 3,Theo thành phần KT 686,246 100% 777,923 100% 91,677 13.36% Tiền gửi dân cư 296,725 43.24% 378,482 48.65% 81,757 27.55% Tiền gửi TCKT 203,418 29.64% 335,183 43.09% 131,765 64.78% Vay các TCTD 120,000 17.49% 60,000 7.71% -60,000 -50% Phát hành giấy tờ có giá 66,103 9.63% 4,258 0.55% -61,845 93.56 % Đơn vị : triệu đồng (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh tổng hợp năm 2006 – 2007) Huy động vốn là hoạt động quan trọng nhất của hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và của ngân hàng công thương Hà Tây nói riêng. Vì vậy trong những năm gần đây ngân hàng đã luôn chủ động tích cực phát triển công tác huy động vốn. Để có cái nhìn cụ thể hơn ta đi phân tích: Phân theo kỳ hạn: -Nguồn tiền gửi có kỳ hạn: luôn chiếm tỷ trọng lớn.Trong năm 2007 vốn huy động được là 443,126 triệu đồng giảm hơn so với năm 2006 là 49,671 triệu đồng (tương đương 10.08%). Đây là khoản tiền gửi ngăn hạn của dân cư, giúp ngân hàng cho vay nhưng khoản vay ngắn hạn với hiệu quả tối ưu.Nhưng trên thực tế nguồn tiền gửi này đang giảm mạnh. Vì vây ngân hàng cần có các giải pháp giải quyết kịp thời bởi nếu như lượng cho vay ngắn hạn nhiều hơn vốn huy động được thì ngân hàng sẽ phải lấy từ nguồn vốn trung và dài hạn. Như vậy có thể dẫn tới bị thua lỗ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng. -Nguồn tiền gửi không kỳ hạn có xu hướng tăng năm 2007 huy động được là 336,533 triệu đồng tăng 143,084 triệu đồng (tương đương 73.9%).nguồn vốn này tăng chủ yếu là do tài khoản thanh toán của các TCKT gửi tiền vào chỉ nhằm mục đích thanh toán nên tính ổn định không cao. Vì vậy ngân hang nên thận trong khi sử dụng nguồn vốn này. Phân theo loại tiền: Tình trạng huy động vốn bằng nguồn tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ ở Ngân hàng Công thương Hà Tây trong các năm luôn chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn và có xu hướng giảm dần so với VNĐ trong tổng nguồn gửi tiết kiệm. Cụ thể, trong năm năm 2007 chỉ còn 26.793% tăng 6,737 triệu (tương đương 2.68%) so với năm 2006. Về đồng VNĐ thi luôn chiếm tỷ lệ cao năm 2006 chiếm 63.4% trong tổng nguồn năm 2007 chiếm73.21%. Nguyên nhân của sự sụt giảm này có thể là do đồng USD trên thị trường có sự sựt giảm mạnh, sự chênh lệch về lãi suất tiền gửi của đồng VNĐ so với lãi suất tiền gửi ngoại tệ...Do tâm lý của dân cư với những người có ít ngoại tệ thì họ thường để ở nhà để đề phòng những trường hợp khi có chi tiêu đột suất, họ cất giữ như vàng, vì thực tế các đồng ngoại tệ, đặc biệt là ngoại tệ mạnh hầu như không mất giá mà lại có xu hướng tăng lên so với tiền Việt Nam. Còn với những người có trong tay một khối lượng ngoại tệ lớn thì đối với họ tiền lãi ít có ý nghĩa và họ sợ gửi Ngân hàng khi rút ra gặp nhiều phiền phức. Do vậy, dẫn đến tình trạng luôn luôn tồn tại một khối lượng lớn ngoại tệ nằm ngoài lưu thông. Do trên địa bàn Thành phố hiện nay có rất nhiều tổ chức tín dụng cả trong và ngoài nước, nên tạo ra một sự cạnh tranh gay gắt trong các hoạt động huy động vốn, mà đặc biệt là huy động vốn bằng ngoại tệ. Chính vì điều này mà nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của Ngân hàng Công thương tỉnh Hà Tây sẽ bị hạn chế nhiều. Nguồn ngoại tệ sụt giảm gây khó khăn rất lớn cho hoạt động kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu của khách hàng.Trong thời gian tới ngân hàng cần đưa ra biện pháp nhằm đẩy mạnh nguồn vốn huy động ngoại tệ hơn nhằm đáp ứng nhu cầu về tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. 1.2.3 Phân theo thành phần kinh tế: *Nguồn tiền gửi tiết kiệm từ dân cư : Đối với các NHTM nguồn tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn có tính ổn định cao và chiếm tỷ trọng lớn trong thực hiện đầu tư. Qua bảng 3.2 ta thấy nguồn tiền này tăng đều theo các năm chiếm tỷ trọng cao. Năm 2006 huy động được là 296,725 triệu đồng sang đến năm 2007 đạt 378,482 triệu đồng (tương đương 49.2%) và tăng 28.99% so với năm 2006 điều này cho thấy mức ổn định của nguồn vốn tiết kiệm từ dân cư. Đây là loại tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng số tiền gửi của ngân hàng. Bảng 3.2: cơ cấu nguồn tiền gửi dân cư (2006 – 2007) Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Tổng số Số % Tổng số Số % Tổng nguồn 296,725 100% 378,482 100% Không kỳ hạn 345.000 0.116% 6.000 0.002% Dưới 12 tháng 156,028 52.583% 220,411 58.236% Từ 12 đến 24 tháng 133,298 44.923% 154,116 40.719% Từ 24 tháng trở lên 7,054 2.378% 3,949 1.043% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh tổng hợp năm 2005 – 2006 – 2007) Ta thấy nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn luôn luôn đạt mức trên 90% trong tổng nguồn tiền tiết kiệm tăng trưởng mạnh đặc biệt năm 2007 đạt 378,482 triệu đồng.Qua đây thấy chính sách của NH trong việc huy động nguồn tiền từ dân cư đã đạt được hiệu quả đáng kể. Với một tỷ trọng như vậy trong nguồn vốn tiết kiệm, nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn này có thể bảo đảm đầy đủ nhu cầu tín dụng của khách hàng trong những thời hạn nhất định và Ngân hàng hoàn toàn có được sự chủ động trong việc sử dụng nguồn này.Tuy nhiên, đây là loại tiền gửi có lãi suất cao nhất trong các loại tiền tiết kiệm nên Ngân hàng muốn sử dụng nguồn này có hiệu quả đòi hỏi Ngân hàng phải có những biện pháp thích hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất chi phí cho việc huy động loại tiền này tránh việc nâng lãi suất quá cao ảnh hưởng đến lãi suất cho vay. Nguồn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn tiền tiết kiệm, cụ thể là: năm 2006 huy động được 0.116% chưa đến mức 1% năm 2007 chỉ ở con số : 0.002% trên tổng nguồn vốn tiết kiệm. Điều này cho ta thấy sự mất cân đối lớn giũa hai loại tiền này. Vì vậy ngân hàng cần có biện pháp điều chỉnh thích hợp vì nguồn tiết kiệm không kỳ hạn này có lãi suất rất thấp tính ổn định không cao bằng nguồn tiền tiết kiệm có kỳ hạn nhưng lại ổn định hơn nguồn tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chúc kinh tế. *Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế: Qua bảng 2.2 ta thấy: nguồn vốn huy động từ các TCKT có một chuyển biến rõ rệ. Năm 2006 ngân hàng chỉ huy động được 203,418 triệu đồng chiếm 29.64% tổng nguồn vốn huy động. Đến năm 2007 ngân hàng đã huy động được 335,183 triệu đồng chiếm 43.09% tổng nguồn vốn huy động và tăng 64.78%so với năm 2006, quy mô huy động tăng cả về chất và lượng điều này chứng tỏ ngân hàng đã chủ động trong việc tiếp cận với các TCKT. Tuy nhiên ,kết quả nay chưa khăng đinh rằng hoạt động huy động vốn của ngân hàng là hiệu quả. Để thấy rõ hiệu quả của hoạt động huy động vốn từ TCKT ta phân tích bảng sau : Bảng 4.2 cơ cấu nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế Đơn vị :triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng số Số % Tổng số Số % Tổng số Số % Không kỳ hạn 156,472 81.33% 193,204 94.98% 330,533 98.61% Dưới 12 tháng 3,951 2.05% 905,000 0.44% 4,650 1.39% Từ 12 đến 24 tháng 31,987 16.62% 9,309 4.58% - Từ 24 tháng trở lên - - - Tổng nguồn 192,409 100% 203,418 100% 335,183 100% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh tổng hợp năm 2005 – 2006 – 2007) Qua bảng số liệu 4.2 ta thấy: Năm 2005, 2006 lượng tiền gửi không kỳ hạn lần lượt đạt mức 156,472 triệu đồng và 193,204 triệu đồng (tương đương 81.33% và 94.98% so với tổng tiền gửi của tổ chức kinh tế); Năm 2007 đạt 280,037 triệu đồng, tương đương với 98.61% tổng tiền gửi của tổ chức kinh tế. Đây là nguồn vốn có chi phí huy động thấp nhất. Nhưng tính ổn định của nó cũng rất thấp vì nó luôn biến động, do khách hàng gửi vào đây với mục đích thanh toán nên họ có thể rút ra để chi trả, thanh toán bất cứ lúc nào, mà ngân hàng không được phép từ chối. Vì vậy sử dụng nguồn vốn này ngân hàng phải thận trọng, nếu không sẽ gặp rủi ro lớn. Bên cạnh đó, ta thấy nguồn tiền gửi có kỳ hạn lại có tỷ trọng thấp đặc biệt là năm 2007 chỉ huy động được 4,650 triệu đồng (tương đương 1.39% so với tổng tiền gửi ) trong đó tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng là không huy động được. Điều này cho thấy ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng mất cân đối giữa tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.Tình trạng này làm giảm sức cạnh tranh và giảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.Trong thời gian tới ngân hàng cần phải giảm tỷ trọng nguồn tiền gửi không kỳ hạn từ TCKT và tăng tỷ trọng tiền gửi trung và dài hạn từ các TCKT để nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. *Vay các TCTD: Tại Ngân hàng Công thương Hà Tây, tỷ trọng từ nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác trong tổng nguồn là nhỏ, năm 2006 vay 120,000 triệu đồng (tương đương 17,486% so với tổng số vốn huy động).Trong năm 2007 tính đến ngày 31/12 các khoản vay là 60,000 triệu đồng đều vay từ các định chế tài chính, và bằng 7.713% trong tổng số nguồn vốn huy động. Như vậy, năm 2007 quy mô vốn huy động của Ngân hàng Công thương Hà Tây là khá lớn và đạt hiệu quả kinh doanh với 60,000 triệu đồng vay từ các định chế tài chính phần nào giúp cho khả năng thanh khoản và đáp ứng đầu tư cho vay. *Phát hành giấy có giá trị: Thực tế, việc huy động nguồn tiền loại này ở Ngân hàng Công thương tỉnh Hà Tây vào năm 2007 chưa được cao, cụ thể chỉ đạt mức 4,259 triệu đồng, chiếm 0.593% tổng số vốn huy động giảm 50% so với năm 2006. Tỷ lệ này chứng tỏ trong thời gian vừa qua Ngân hàng không sử dụng hết vốn huy động. Do vậy, nhu cầu về vốn huy động không cần đến vốn từ phát hành kỳ phiếu, nên Ngân hàng Công thương tỉnh Hà Tây đã ngừng phát hành kỳ phiếu, do vậy khách hàng chuyển sang gửi tiền tiết kiệm nên số lượng tiền gửi tiết kiệm tăng cao, còn số tiền gửi kỳ phiếu chiếm tỷ lệ nhỏ. 1.2 Hoạt động sử dụng vốn: Bất cứ ngân hàng nào cũng hoạt động theo nguyên tắc “Đi vay để cho vay”, tức là huy động vào phải sử dụng nguồn vốn đó để kinh doanh và đảm bảo khả năng thanh toán với khách hàng. Điều đó cho thấy nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc phân phối lại nguồn vốn trong nền kinh tế một cách hợp lý giúp ngân hàng thực hiện tốt chức năng của mình. Bảng 5.2: tình hình sử dụng vốn của Nhct Hà tây Đơn vị :triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 So sánh tuyệt đối So sánh tương đối Tổng dư nợ 229,359 310,832 81,023 35.33% Doanh số cho vay 477,833 630,000 152,167 31.85% Doanh số thu nợ 407,537 549,554 142,017 34.85% Nợ quá hạn 2,875 3,400 525 18.26% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh tổng hợp năm 2005 – 2006 – 2007) Tổng dư nợ đạt năm 2007 đạt 229,359 triệu đồng tăng 81,023 triệu đồng (tương đương 35.33%so với năm 2006. Việc đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh kết hợp với việc phát triển các nghiệp vụ dịch vụ Ngân hàng nên số lượng khách hàng đến với Ngân hàng ngày càng lớn. Doanh số cho vay của Ngân hàng Công thương tỉnh Hà Tây trong năm 2007 là: 630,000 triệu đồng tăng 152,167 triệu đồng so với năm 2006, cho thấy sự mở rộng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng tính đến thời điểm cuối năm 2007 luôn trong tình trạng không sử dụng hết vốn huy động và đã điều chuyển vốn về Ngân hàng Trung ương. Từ những số liệu này cho thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng có sự tăng trưởng rõ rệt đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Doanh số thu nợ của ngân hàng đạt hiệu quả khá cao.Năm 2007 doanh số thu nợ là 407,537 triệu đồng tăng 152,167 triệu đồng (tương đương 31.85%) so với năm 2006. Nợ quá hạn năm 2006 là 2,875 triệu đồng năm 2007 nợ quá hạn là 3,400 triệu đồng tăng 525 triệu đồng (tương đương 18,26%). Ta thấy nợ quá hạn của ngân hàng như vậy là tương đối thấp. Có được kết quả này là do ngân hàng đã quan tam hơn đén công tác thẩm định vốn và đặc biệt là việc thu hồi nợ để không kéo dài trở thành nợ xấu dẫn đến không thu hồi được vốn. 2. Cân đối giữa hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn tại ngân hàng công thương Hà Tây Trong suốt thời gian hoạt động, ngân hàng công thương tỉnh Hà Tây đã không ngừng nỗ lực để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngân hàng luôn bám sat để năm bắt nhu cầu về vốn từ đó đưa ra những chiến lược nhằm mở rộng hình thức hoạt động của mình, tăng về cả quy mô lẫn tỷ trọng trong các lĩnh vực như: huy động vốn, sử dụng vốn...Tuy vậy muốn biết ngân hàng hoạt động thực sự hiệu quả hay không ta có thể thấy được qua bảng cân đối giữa huy độn vốn và sử dụng vốn. Bảng 6.2: Cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn Đơn vị :triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 Tăng giảm Số tiền % Tổng vốn huy động 686,246 777,923 91,677 13.36% Doanh số cho vay 477,833 630,000 152,167 31.85% Hệ số sử dụng vốn 0.696 0.810 - - Qua bảng số liệu trên ta thấy việc sử dụng vốn của ngân hàng tăng dần qua các năm, nguồn vốn huy động đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho vay bởi hệ số sử dụng vốn là trên mức trung bình năm 2006 là 0.696 và năm 2007 là 0.810. Những con số này cho thấy ngân hàng đó giữ khá ổn định sự cân bằng giữa huy động và sử dụng vốn, nó cũng giúp phần đảm bảo an toàn thanh toán cho ngân hàng.Tuy nhiên, ta cũng thấy sự tăng trưởng của hoạt động sử dụng vốn có phần tăng trưởng nhanh hơn so với hoạt động sử dụng vốn. Điều này có nghĩa là ngân hàng cần có các chính sách phù hợp để tăng cường hoạt động huy động vốn để phù hợp với nhu cầu của khách hàng và sự biến động của thị trường. Đặc biệt là trong thời gian tới với sự biến động mạnh mẽ của thị trường tiền tệ, sự nóng lên chưa từng thấy trong nền kinh tế Việt Nam, vốn VNĐ khan hiếm.Trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà không có người cho vay. Đây là một thách thức lớn đối với tất cả các ngân hàng. III. Đánh giá về công tác huy động vốn của ngân hàng công thương Hà Tây 1. Kết quả đạt được của công tác huy động vốn trong năm qua tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hà Tây: Trong năm qua, chi nhánh tỉnh Hà Tây luôn nâng cao chất lượng nghiệp vụ huy động vốn, làm tốt công tác huy động tiền gửi dân cư. Huy động vốn trên cơ sở phục vụ các ban quản lý dự án, Ban bồi thường giải phóng mặt bằng làm cơ sở thay đổi lãi suất đầu vào có lợi cho công tác kinh doanh. Tích cực huy động các nguồn vốn của TCKT và của Doanh nghiệp. Các Điểm giao dịch đều được trang bị công nghệ hiện đại khi giao dịch với khách hàng. áp dụng các biện pháp tiếp thị đa dạng, chăm sóc khách hàng truyền thống như: áp dụng lãi suất huy động linh hoạt và hợp lý, tặng quà khuyến mại, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, thực hiện thu – chi tiền lưu động theo yêu cầu của khách hàng, chi lương tại đơn vị cho người lao động, ký kết các hợp đồng gửi tiền, đảm bảo thực hiện thanh toán nhanh, chính xác, an toàn ngay trong ngày Kết quả là: Tổng nguồn vốn huy động và nguồn vốn khác đến năm 2007 đạt 777,923 tỷ đồng tăng 13.9% so với năm 2006 -Nguồn vốn VNĐ tăng 85.1%; nguồn vốn ngoại tệ tăng 9.7%; -Tiền gửi TCKT tăng 96.12%; tiền gửi dân cư tăng 43.29%. - Đạt 91% kế hoạch được NHCT Việt Nam giao. Đạt kết quả trên có sự phối kết hợp và đổi mới phong cách làm việc có hiệu quả của tập thể và cá nhân đã tận tụy với công việc, với khách hàng không kể ngoài giờ, thường xuyên nắm thông tin, tiếp cận khách hàng. 2. Những tồn tại và nguyên nhân trong công tác huy động vốn tại NHCT Hà Tây: Sau khi xem xét, đánh giá tình hình hoạt động của Ngân Hàng Công thương Hà Tây trong thời gian qua, mà đặc biệt là tình hình huy động vốn, bên cạnh những thành tựu đạt được nói trên thì hoạt động huy động vốn của ngân hàng vẫn còn tồn tại những hạn chế sau: Như ta đã phân tích trên, nguồn tiền gửi của tổ chưc kinh tế ở kỳ hạn trên 24 tháng là không huy động được, còn tiền gửi không kỳ hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy, nguồn vốn huy động của Ngân hàng từ tổ chức kinh tế luôn phải linh động vì doanh nghiệp có thể rút ra bất cứ lúc nào. Điều này sẽ gây rủi ro cho Ngân hàng nếu các doanh nghiệp đồng thời rút vốn với số lượng lớn, nguồn tín dụng của Ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Đặc biệt, trong năm 2007 ở kỳ hạn từ 12 đến 24 tháng Ngân hàng cũng không huy động được từ các tổ chức kinh tế, số lượng tiền các doanh nghiệp gửi vào ở kỳ hạn dưới 12 tháng cũng chiếm tỷ trọng rất nhỏ 1.39% tương đương 4,650 triệu đồng. Điều đó dẫn đến lãi suất đầu vào lớn không ổn định ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Bên cạnh đó các hình thức huy động vốn chưa thực sự đa dạng và phong phú, các sản phẩm dịch vụ cũng chưa nhiều để khách hàng lựa chọn, chương trình hiện đại hoá ngân hàng đang trong giai đoạn triển khai chưa hoàn thiện. Các chiến lược quảng bá sản phẩm chưa linh hoạt, phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thêm vào đó do tinh hình kinh tế xã hội trong và ngoài nước đều có những biến động phức tạp, tình hình lạm phát ngày càng gia tăng, chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng ,thị trường chứng khoán chững lại ,giá vàng tăng vọt ,USD giảm mạnh,giá cả tăng, lương lại không tăng phù hợp với mức tăng của giá cả nên trong dân cư khoản tiền nhàn rỗi ít đi dẫn đến tiền gửi ngân hàng cũng giảm, vốn huy động giảm mạnh. Tất cả những vấn đề nêu trên đã tạo ra một cuộc chiến cạnh tranh quyết liệt về lãi suất của các NHTM trong đó có ngân hàng công thương Hà Tây. Trước sự cạnh tranh quyết liệt ấy mặc dù ngân hàn đã có các chiến lược về lãi suất nhưng chưa thực sự cải thiện được tình hình. Chương III giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng huy động vốn tại ngân hàng công thương hà tây I. Mục tiêu và nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng Hà Tây trong thời gian tới Từ kết quả cuả hoạt động huy động vốn, những mặt khó khăn và tồn tại trong năm 2007 nêu trên đòi hỏi phải có sự phấn đấu nỗ lực của các Ngân hàng thương mại trong nước nói chung và chi nhánh NHCT Hà Tây nói riêng cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng và mở rộng vốn đầu tư, đẩy mạnh huy động nguồn Các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản: Nguồn vốn huy động và nguồn vốn khác đến năm 2010 đạt 1000 tỷ đồng. Trong đó: Vốn huy động VNĐ đạt 850 tỷ đồng; Dư nợ cho vay đến năm 2010 đạt 900 tỷ đồng, tăng 55% so với năm 2007. Trong đó: Đầu tư cho doanh nghiệp Nhà nước: tối đa 42% tổng dư nợ cho vay; Đầu tư không có đảm bảo tối đa 30% tổng dư nợ cho vay. Nợ nhóm 2: Phấn đấu thấp hơn kế hoạch NHCT Việt Nam giao (1,57 tỷ đồng) Nợ xấu phấn đấu thấp hơn kế hoạch NHCT Việt Nam giao (4 tỷ đồng) Thu hồi nợ xử lý rủi ro ngoại bảng đạt kế hoạch NHCT Việt Nam giao Đẩy mạnh phát triển dịch vụ thẻ và các dịch vụ khác phấn đấu thu dịch vụ tăng 35% so với năm 2007. Thực hiện lợi nhuận hoạch toán vượt kế hoạch được giao. Thu nhập CBCNV tăng 25% so với năm 2007. II. Một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất lượng huy động vốn tại ngân hàng công thương Hà Tây. 1 Mở rộng các hình thức huy động vốn: -Tiết kiệm có mục đích: là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn người gửi tiền có thể thoả thuận với ngân hàng hàng tháng sẽ trích từ tiền lương của mình một số tiền nhất định để gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm có mục đích. Với tài khoản này ,người gửi sẽ nhận được lãi suất thấp hơn lãi suất tiết kiệm nhưng bù lại họ sẽ được ngân hàng xét duyệt cho vay số tiền để thực hiện mục đích khi số tiền đạt 2/3 giá trị ký kết mua tài sản. Đây là một hình thức thu hút được nhiều tiền gửi từ dân cư với chi phí thấp và có tính ổn định cao. Một số hình thức huy động tiết kiệm có mục đích: Tiết kiệm xây dựng nhà của, tiết kiệm học đường... - Tiết kiệm điện tử: là hình thưc tiết kiệm trên mạng, khách hàng trướ khi gửi tiền phải có tài khoản tại ngân hàng, số dư tiền gửi ít nhất phải bằng số tiền đó.khi khách hàng muốn gửi tiền chỉ cần thông báo cho ngân hàng qua mạng, ngân hàng sẽ thực hiện hoạch toán ngay tại thời điểm đó. Hình thức này nhanh chóng, thận tiện,tiết kiệm thời gian và đảm bảo an toàn cho khách hàng. -Đối với kỳ phiếu trái phiếu: cho phép thực hiện nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu,mua một nơi có thể chiết khấu ở nhiều nơi, được vậy khách hàng vừa được lãi suất cao lại có thể rút tiền nhanh chóng. Đảm bảo NH và khách hang đều có lợi. 2 Đa dạng và mở rộng các dịch vụ ngân hàng: - Dịch vụ mua bán, gửi vàng taị ngân hàng: Theo các chuyên gia kinh tế lượng vàng hiện đang cất trũ trong dân cư là rất lớn. Cùng với thời điểm hiện nay khi mà cơn sốt giá cả gây nhiều bất ổn trên thị trường, giá vàng tăng kỷ lục thì việc ngân hàng quan tâm đến lĩnh vực này để huy động được một lượng lớn vốn ít chi phí. Ngân hàng không chỉ cất trũ vàng mà khi khách hàng có nhu cầu mua vàng thì thay vì đến cửa hàng mua vàng khách hàng có thể đến ngân hàng nộp một số tiền theo giá thị trường để mua vàng. Ngân hàng sẽ cất trũ nó cho người mua. Khi cần thanh toán khách hàng chỉ cần yêu cầu ngân hàng là được. Hình thức này an toàn thuận tiện nhanh chóng lại giảm bớt chi phí huy động của ngân hàng. - Nâng cao các dịch vụ chi trả lương thẻ ATM, dịch vụ khấu trừ tự động ... 3 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt, hợp lý: - Trước tình hình biến động lãi suất hiện đang là vấn đề nóng ảnh hưởng rất lớn tới công tác huy động vốn của ngân hàng. Để khắc phục tình trạng này ngân hàng cần điều chỉnh cơ chế lãi suất linh hoạt nhằm đảm bảo hợp lý giữa lãi suất đầu vào và đầu ra để lãi suất cho vay không quá cao khiến các doanh nghiệp nâng giá thành sản phẩm khiến giá cả leo thang lạm phát gia tăng. Tuy nhiên cũng không để lãi suất tiền gửi thấp để tình trạng khách hàng rút tiền từ ngân hàng mình sang gửi tiền ở ngân hàng khác. Vì vậy ngân hàng cần có một lãi suất hợp lý để có thể lôi kéo khách hàng về phía mình. Ngoài ra, cần điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn một cách hợp lý.Với biểu lãi suất thay đổi từng thời kỳ có thể vận dụng mức lãi suất tối đa cho loại tiền gửi có kỳ hạn cần tăng tỷ trọng trong khi các loại tiền gửi khác không nhất thiết phải áp dụng mức tối đa nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn dài hơn có lãi suất cao hơn. 4 Tăng cường công tác marketing: Trong thời buổi cơ chế thị trường, việc chiếm lĩnh thị phần là một trong những chiến lược trọng tâm của ngân hàng. Để hoạt động này diễn ra suôn sẻ thuận lợi thì việc tuyên truyền quảng cáo là việc hết sức quan trọng. Trong thời gian qua, ngân hàng đã thực hiện việc tuyên truyền quảng cáo nhưng hiệu quả chưa cao, nhầt là tuyên truyền gửi tiết kiệm, mở tài khoản cá nhân, thanh toán qua ngân hàng... Trong thời gian tới ngân hàng cần tập trung quảng cáo với một dịch vụ trọng tâm: lãi suất tiền gửi ,hình thức gửi ,tiện ích của việc mở tài khoản cá nhân... nội dung quảng cáo phải cho khách hàng thấy được việc gửi tiền vào ngân hàng là an toàn, hiệu quả, uy tín, thuận tiện, khi cần có thể sử dụng được ngay và có lợi ích rõ ràng. Muốn làm tốt công tác marketing thì cần tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng trong các giờ cao điểm, có thể tạo trang web để quảng bá các tiện ích của ngân hàng. Khuyến khích các khách hàng là doanh nghiệp làm ăn lâu năm với ngân hàng bằng các ưu đãi bằng vật chất hay dịch vụ...Tổ chức các hội thảo, tư vấn đầu tư cho khách hàng về lựa chọn dự án, sản phẩm... Với nguồn tài chính tương ứng. 5 Đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ : Nhân tố con người trong hoạt động ngân hàng đóng một vai trò vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hiệu quả công tác huy động vốn nói riêng. Ngân hàng công thương tỉnh Hà Tây phải thường xuyên hơn nữa tổ chức đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. Khuyến khích nhân viên của toàn bộ chi nhánh tham gia các khóa học nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ, tiếp cận các kiến thức mới, học hỏi kinh nghiệm và mở rộng quan hệ. Các nhân viên giao dịch với khách hàng cần phải có thái độ ân cần, niềm nở, thao tác nghiệp vụ nhanh, giải thích các thắc mắc của khách hàng một cách lễ độ và dễ hiểu. Nhìn chung hiện nay trình độ cán bộ của ngân hàng công thương tỉnh Hà Tây là cao, đáp ứng được nhu cầu kinh doanh xong việc tổ chức, phân công cán bộ cần được coi trọng hơn nữa. Công tác tổ chức cán bộ phải coi phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định mọi thắng lợi trong kinh doanh. 6.Xây dựng văn hoá doanh nghiệp. Vấn đề văn hoá doanh nghiệp còn là một vấn đề mới mẻ trong các doanh nghiệp Việt Nam, mặc dù nó là yếu tố cơ bản, có tác động rất nhiều tới thành công hay thất bại của công việc kinh doanh. Trong thời kì các ngân hàng đang cạnh tranh nhau quyết liệt như hiện nay, hơn bao giờ hết văn hoá doanh nghiệp có một tầm quan trọng đặc biệt. Nó là tài sản vô hình, là nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh. Là một Chi nhánh với quy mô chưa lớn, xây dựng và tạo lập văn hoá doanh nghiệp chuẩn mực là điều không thể trong một sớm một chiều đối với ngân hàng công thương tỉnh Hà Tây. Tuy nhiên việc thay đổi cung cách làm việc, phong cách phục vụ khách hàng, mối quan hệ giữa các cán bộ trong ngân hàng, bầu không khí làm việc đoàn kết, vui vẻ, gắn bó… sẽ mang lại hiệu quả công việc rất lớn. Và một điều tất nhiên, khách hàng rất tin tưởng khi được làm việc với một ngân hàng như vậy. 7. Hoàn thiện cơ chế khoán tài chính Khoán là giao kế hoạch công tác cho từng nhóm, từng cá nhân để thực hiện trong một thời hạn nhất định nhằm gắn chặt quyền lợi và nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân trong ngân hàng. Hầu hết cán bộ nhân viên trong chi nhánh chỉ quan tâm đến công việc mà mình phụ trách mà chưa thực sự chú ý đến công tác của Ngân hàng. Cán bộ ngân hàng là người được trực tiếp quản lý địa bàn hiểu được khối lượng tiền nhàn rỗi trong dân thì việc áp dụng khoán nguồn vốn huy động với một tỷ lệ nhất định với du nợ trên địa bàn là hợp lý và cần thiết. Để làm được điều này đòi hỏi phải có sự đồng tâm, nhất trí của toàn bộ cán bộ, nhân viên trong ngân hàng và sự hiểu biết sâu sắc của từng cán bộ. Việc quyết toán công tác khoán phải kịp thời và chính xác đặc biệt là cơ chế thưởng đối với người hoàn thành kế hoạch và phạt đối với người không hoàn thành kế hoạch, phải phù hợp sao cho vừa kích thích được nhân viên mà không ảnh hưởng đến thu nhập của Ngân hàng. III. một số kiến nghị 1. Đối với Ngân hàng Nhà nước: *Nhằm hướng tới mở rộng huy động vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là “kênh” qua NHTM thì NHNN cần có những chính sách mềm dẻo, linh hoạt theo hướng sau : * Khởi thảo và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh hoạt. Trong đó cần khuyến khích tiết kiệm, tập trung vốn nhàn rỗi đầu tư cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy các NHTM và TCTD cạnh tranh lành mạnh, tự chủ trong kinh doanh. NHNN cần dùng lãi suất làm “đòn bẩy” thúc đẩy các NHTM chú trọng huy động vốn. * NHNN cần tăng cường phối hợp tốt với các ngành quản lý quỹ đầu tư nước ngoài, quỹ viện trợ từ các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ nước ngoài, nhằm động viên mọi nguồn vốn nước ngoài chảy qua “kênh” NHTM. * NHNN cần có những hướng dẫn cụ thể về các hình thức huy động vốn như : Tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, cần có những quy định cụ thể về áp dụng lãi suất đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài như 10 thời điểm, 20 thời điểm. * NHNN cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các TCTD bắt buộc phải công khai cho công chúng biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Qua đó nhằm giúp khách hàng có được hướng giải quyết đúng đắn trong việc đầu tư, giao dịch với Ngân hàng. 2. Đối với Chính phủ Chính phủ là cơ quan có vai trò điều hành mọi hoạt động của nền kinh tế, do vậy Chính phủ rất quan trọng trong việc điều hành mọi hoạt động của một Quốc gia. Chính phủ là cơ quan thực hiện việc luật pháp hóa những chủ trương, chính sách và những biện pháp cần thiết trong từng giai đoạn phát triển Đất nước.Tuy vậy, Chính phủ cũng cần nắm bắt kịp thời những gì chưa cụ thể trong hệ thống pháp luật để từ đó tiến hành bổ sung tạo điều kiện xây dựng môi trường pháp lý hoàn thiện và ổn định, đảm bảo cho mọi người dân an tâm, tin tưởng khi sống và làm việc theo pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam. Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng nói chung và lĩnh vực hoạt động NH nói riêng, đặc biệt là trong phạm vi huy động vốn nhằm phục vụ công cuộc CNH-HĐH Đắt nước hiện nay thì Chính phủ cần tiếp tục quan tâm và hỗ trợ NH từ nhiều phía. *Tạo sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô:Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của NH, nó có thể tạo thuận lợi nhưng cũng có thể gây trở ngại hạn chế cho công tác huy động vốn. Nhìn chung sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên đề cơ bản và quan trọng cho sự phát triển và tăng trưởng của Đất nước cũng như việc thu hút vốn vào NH Trong tình hình kinh tế hiện nay, một trong những nội dung của việc tạo lập sự ổn định kinh tế vĩ mô là kìm chế lạm phát, tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người bền vững, giữ cho đồng nội tệ ổn định giá trị. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để thực thi có hiệu quả các giải pháp nhằm huy động nguồn vốn cho các NHTM *Đẩy mạnh việc phát triển thị trường chứng khoán: Với cơ chế huy động vốn như hiện nay, thì nguồn vốn không thể đáp ứng theo nhu cầu của nền kinh tế đặt ra, đặt biệt là nguồn vốn trung-dài hạn, đồng thời cũng không tạo được sự thu hút và sử dụng vốn từ bên ngoài vào.Thị trường chứng khoán được hình thành và phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán.Thông qua thị trường chứng khoán sẽ tạo ra các kênh thu hút nguồn vốn nhàn rỗi chảy đến những nơi có nhu cầu đầu tư. Hiện nay các NHTM chủ yếu huy động vốn ngắn hạn, còn vốn trung-dài hạn thì được huy động thông qua việc phát hành các trái phiếu, tuy nhiên việc sử dụng công cụ này không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả cao, hơn nữa khả năng thnah khoản của trái phiếu không phải là đơn giản. Nếu thị trường chứng khoán phát triển thì việc phát hành và thanh khoản của trái phiếu sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.Nhờ vầy NH sẽ thuận lợi hơn trong quá trình huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội, đặc biệt là nguồn vốn trung – dài hạn trong các tầng lớp dân cư. * Củng cố lại hệ thống NHTM Việt Nam: Để nâng cao chất lượng hoạt động và tiến tới hội nhập với NHTM trong khu vực và thế giới thì việc cải cách và củng cố lại hệ thống NHTM Việt Nam là rất cần thiết. Nhà nước cần củng cố theo hướng sau: Đối với NHTM quốc doanh : Nhà nước cần cấp đủ, bổ sung thêm vốn điều lệ để tăng năng lực tài chính cũng như tăng sức mạnh cạnh tranh để hoà nhập vơí xu thế chung của các NHTM trong khu vực, cần có sự tách bạch giữa cho vay chính sách và cho vay thương mại, trừ một số trường hợp nhất định (phải được Bộ tài chính bảo lãnh), việc ái cấp vốn phải căn cứ vào thực trạng hoạt động của NHTM theo tiêu chuẩn quốc tế để có báo cáo chính xác với NHNN và Bộ tài chính Đối với các NHTM ngoài quốc doanh : Nhà nước cần có sự quản lý, thanh tra giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các NHTM này. kết luận Công tác huy động vốn của Ngân hàng Thương mại có vai trò rất quan trọng không chỉ trong hoạt động cả bản thân Ngân hàng mà còn trong phạm vi một nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác này trong nội bộ hệ thống Ngân hàng Thương mại nói riêng và hệ thông tín dụng nói chung rất được chú trọng. Chuyên đề này đi vào phân tích xem xét, đánh giá, đồng thời đưa ra một vài kiến nghị và biện pháp nhằm mở rộng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương tỉnh Hà Tây. Trong đó tập trung chủ yếu vào hoạt động huy động vốn từ nguồn gửi tiết kiệm của dân cư và các tổ chức kinh tế đồng thời đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động của công tác này theo hướng triển khai các loại hình huy động cho vay đảm bảo cho việc kết hợp hài hoà giữa mở rộng đầu vào và đầu ra cho phù hợp với đặc điểm, mục tiêu, hoạt động của Ngân hàng trong thời gian tới . Qua thời gian học tập tại trường và học hỏi tại ngân hàng công thương Hà Tây đề tài của em mới chỉ tập trung được một phần nội dung lý luận cơ bản về nguồn vốn của NHTM nói chung và ngân hàng công thương Hà Tây nói riêng. Do kiến thức và kimh nghiệm còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót ,em mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn thực tập và ngân hàng công thương Hà Tây đã giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và viết luân văn. Mục lục Trang Tài liệu tham khảo Giáo trình Tín dụng Ngân hàng: Trường Đại Học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội. Giáo trình Ngân hàng thương mại:Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. Các váo cao kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng công thương Hà Tây. Sách Ngân hàng thương mại : NXB Tài chính. Sách tiền tệ ngân hàng: NXB Thống kê. Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng: NXB Tài chính. Một số luận văn khoá trước. Danh mục viết tắt NHTM : Ngân hàng thương mại. NHNN : Ngân hàng nhà nước. NHTW : Ngân hàng trung ương. NHCT : Ngân hàng công thương. DN : Doanh nghiệp. KT : Kinh tế. CNH-HĐH : công nghiệp hoá hiện đại hoá. NH : ngân hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33467.doc
Tài liệu liên quan