Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Tài chính Bưu Điện

Vấn đề huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn luôn luôn là vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu và thường xuyên cập nhập đổi mới trong tư duy cũng như phương pháp để theo kịp với sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế. Công ty Tài chính Bưu Điện là một trung gian tài chính nên vấn đề này lại càng quan trọng hơn. Nó quyết định đến sự sống còn trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Hoạt động chính của Công ty là hoạt động tài chính như tín dụng, đầu tư tài chính và hoạt động kinh doanh ngân quỹ. Bước đầu còn có những khó khăn nhất định, nhưng với sự lãnh đạo linh hoạt, tài tình của ban lãnh đạo Công ty, Công ty Tài chính Bưu Điện đang dần dần đi vào quỹ đạo hoạt động và ngày một lớn mạnh. Trong tương lai, hiệu quả hoạt động của Công ty không chỉ dừng lại ở đó mà Công ty cần phát huy thực hiện tốt chức năng chính của mình là điều hoà vốn trong Tổng Công ty, đầu tư tiền vốn của mình mang lại hiệu quả cao nhất. Muốn vậy Công ty cần phải nỗ lực hơn nữa trong hoạt động của mình, đồng thời cần có được sự giúp đỡ thiết thực từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là Tổng công ty Bưu chính Viễn thông và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với việc nghiên cứu đề tài này, em hy vọng một số giải pháp đã được trình bày trong luận văn tốt nghiệp sẽ giúp Công ty Tài chính Bưu Điện vượt qua những khó khăn, thử thác trước mắt để đạt kết quả cao hơn trong lĩnh vực kinh doanh./.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Tài chính Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình Định 22/12/99 6.668.498 3.583.000 56.830.498 56.800.867 1.3 NHĐT&PT Bình Định 13/06/00 20.000.000 20.000.000 12.015.688 1.4 NHCT Đống Đa 15/03/00 55.926.000 705.063 65.867.000 1.5 NHCT Đống Đa 09/06/00 80.000.000 80.000.000 1.6 NHCT Đống Đa 18/05/01 80.000.000 80.000.000 A Tổng cộng trị giá các hợp đồng đồng tài trợ 431.383.498 197.142.232 II Uỷ thác đầu tư 2.1 NHTMCP Quân Đội 05/07/00 40.000.000 40.000.000 2.2 NHTMCP Quân Đội 10/10/00 21.000.000 21.000.000 2.3 NHĐT&PT Bình Định 06/11/00 150.000.000 150.000.000 140.141.822 2.4 NHĐT&PT Bình Định 22/02/01 100.000.000 100.000.000 99.066.012 2.5 NHĐT&PT Bình Định 02/08/01 100.000.000 100.000.000 99.211.064 2.6 NHĐT&PT Bình Định 09/10/01 100.000.000 100.000.000 98.656.290 2.7 NHĐT&PT Bình Định 05/11/01 100.000.000 100.000.000 98.819.675 2.8 NHĐT&PT Bình Định 28/12/01 100.000.000 100.000.000 6.358.855 2.9 NHTMCP Hàng Hải HN 24/07/01 20.000.000 20.000.000 NHTMCP Hàng Hải HN 24/12/01 10.000.000 10.000.000 2.10 NHTMCP Quân Đội 18/10/01 40.000.000 40.000.000 B Tổng cộng các hợp đồng uỷ thác đầu tư 781.000.000 542.253.718 C =(A+B) Tổng nguồn đồng tài trợ và uỷ thác 1.212.383.498 739.395.950 Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của Công ty Tài chính Bưu Điện 1999, 2000, 2001. Biểu đồ 2: Tỷ trọng vốn huy động thông qua đồng tài trợ và uỷ thác đầu tư của Công ty Tài chính Bưu Điện Qua các năm 1999, 2000, 2001. Nguồn số liệu được trích từ bảng 2. 2. Tình hình sử dụng vốn 2.1. Hoạt động tín dụng Khách hàng của Công ty Tài chính Bưu Điện là các đơn vị thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, các doanh nghiệp mà Tổng công ty tham gia góp vốn, các đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật đều có khả năng trả nợ và lãi đúng hạn nên Công ty có thể yên tâm về vấn đề bảo đảm an toàn cho các khoản vay. 2.1.1. Tín dụng trực tiếp Năm 1999, Công ty mới đi vào hoạt động nên cho vay hầu hết là các khoản vay ngắn hạn. Do đó, dư nợ cho vay ngắn hạn cuối năm 1999 là 2.978,571 triệu đồng. Trong khi đó dư nợ cho vay trung và dài hạn chỉ đạt 565,08 triệu đồng. Năm 2000 lại giảm xuống còn 642,857 triệu đồng là do các khách hàng bắt đầu chuyển sang vay để đầu tư dài hạn, dư nợ cho vay trung và dài hạn đã tăng lên 4,66 lần_đạt 2.634,66 triệu đồng. Sang năm 2001, cho vay ngắn hạn thực hiện vượt mức các chỉ tiêu đề ra và gấp 5,77 lần năm 2000. Nguyên nhân là do giải quyết được nhu cầu vay vốn ngoại tệ của các đơn vị thông qua việc chuyển nhượng ngoại tệ của Tổng công ty từ nguồn vốn vay, áp dụng mức lãi suất linh hoạt hợp lý, áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức, tăng cường tiếp thị,... Cho vay trung và dài hạn tiếp tục tăng lên 2,08 lần so với năm 2000. Các đơn vị vay vốn dài hạn là để đầu tư cho các công trình, các dự án có thời gian hoạt động dài hạn. Ngoài khách hàng cũ, Công ty mở rộng thêm quan hệ với 4 đơn vị mới là: Nhà máy Vật liệu Bưu Điện, Công ty cổ phần Xây lắp Bưu Điện Hà Nội, Trung tâm chuyển giao ứng dụng Công nghệ và Dịch vụ Viễn thông, Xí nghiệp in Tem Bưu Điện. Và những đơn vị này đã trở thành khách hàng thường xuyên của Công ty. Năm 2001 là năm đầu tiên Công ty thực hiện được việc cho vay trung hạn để đầu tư cho các dự án của các đơn vị hạch toán độc lập. Kết quả có 2 dự án đầu tư trung hạn của 2 đơn vị vay vốn qua Công ty với tổng hạn mức là 5,1 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2001 đã có 60/61 Bưu Điện Tỉnh, Thành và 4 công ty dọc có quan hệ tín dụng với Công ty. Ngoài số dự án Tổng công ty giao vay qua Công ty tăng hơn năm 2000, số dự án đơn vị tự đăng ký vay qua Công ty cũng tăng hơn năm trước. Cụ thể: Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 TCT giao vay 335 tỷ đồng 515 tỷ đồng Các đơn vị tự vay 86,6 tỷ đồng 130 tỷ đồng Như vậy, Công ty Tài chính Bưu Điện đang dần đi vào hoạt động đúng nghiệp vụ của mình đó là cho vay đối với các đơn vị có nhu cầu về vốn trong Tổng công ty. 2.1.2. Tín dụng uỷ thác Hoạt động cho vay bằng vốn uỷ thác của Công ty Tài chính Bưu Điện được thực hiện bắt đầu từ năm 2000. Đây là nguồn vốn của các tổ chức tín dụng khác uỷ thác cho Công ty để đầu tư vào các dự án trong ngành. Tỷ lệ vốn uỷ thác trong tổng số vốn Công ty có khả năng cho vay và đầu tư vào các dự án trong ngành Bưu chính Viễn thông là 76,82%. Nhưng thực tế thì không được như vậy. Cuối năm 2000, Công ty mới chỉ rút về được có 52,267 tỷ đồng, trong khi số vốn đã ký hợp đồng uỷ thác đầu tư là 221 tỷ đồng và được Tổng công ty bảo lãnh là 140,141 tỷ đồng, chỉ chiếm 37,29%. Năm 2001, Công ty đã giải ngân được 194,43 tỷ đồng, chiếm 48,35%. Như vậy, số vốn thực tế mà Công ty đã giải ngân được là rất thấp so với khả năng mà Công ty có thể thực hiện. Nguyên nhân là do Tổng công ty vẫn chưa thực sự tin tưởng vào khả năng của Công ty, chưa xem hoạt động của Công ty là một phần hoạt động của Tổng công ty mà vẫn quen với cách làm trước đây. Hoạt động tín dụng của Công ty Tài chính Bưu Điện được phản ánh ở bảng 3. Bảng 3: Hoạt động tín dụng của Công ty Tài chính Bưu Điện Đơn vị: 1000 đồng SST Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 I. Tín dụng trực tiếp 3.543.651 3.277.517 37.056.300 1. Cho vay ngắn hạn 2.978.571 642.857 31.576.000 2. Cho vay trung & dài hạn 565.080 2.634.660 5.480.300 II Tín dụng uỷ thác 20.266.997 194.430.300 Tổng cộng 3.543.651 23.544.514 231.486.600 Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của Công ty Tài chính Bưu Điện năm 1999, 2000, 2001. Biểu đồ 3: Biểu đồ kết quả cho vay ngắn, trung và dài hạn của Công ty Tài chính Bưu Điện trong các năm 1999, 2000, 2001. Nguồn số liệu được trích từ bảng 3. 2.2. Hoạt động kinh doanh ngân quỹ Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngân quỹ của Công ty chủ yếu là việc quản lý tiền gửi của mình tại các ngân hàng sao cho vừa đảm bảo an toàn về vốn, vừa tận dụng được các mức lãi suất cao nhất của từng kỳ hạn tại các ngân hàng nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cho Công ty. Trong năm 1999, tiền gửi ngân hàng của Công ty là 60,298 tỷ đồng chiếm 83,86% tổng vốn; năm 2000, con số tương ứng là 59,285 tỷ đồng chiếm 49,39% và năm 2001 là 45 tỷ đồng chiếm 37,48%. Vì lượng tiền gửi lớn nên tiền thu được từ lãi tiền gửi cũng rất đáng kể và hiện tạo nguồn thu lớn cho Công ty. Cụ thể tiền thu từ lãi tiền gửi năm 1999 là 5,745 tỷ đồng; năm 2000 là 4,221 tỷ đồng và năm 2001 là 3,213 tỷ đồng. Sở dĩ lãi tiền gửi giảm dần là do lãi suất trên thị trường có chiều hướng giảm và lượng tiền gửi của Công ty cũng giảm xuống do Công ty rút vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác có hiệu quả hơn. Tuy vậy, Công ty Tài chính Bưu Điện cũng đã có các biện pháp tích cực và hữu hiệu nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong việc quản lý nguồn ngân quỹ. Công ty đã thường xuyên lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hàng tuần, hàng tháng, quý, năm; theo dõi sát sao dòng lưu chuyển của từng đồng vốn, để từ đó có các quyết định gửi tiền vào các ngân hàng có hiệu quả cao nhất. 2.3. Hoạt động đầu tư tài chính Hoạt động đầu tư tài chính là nghiệp vụ được Công ty Tài chính Bưu Điện quan tâm và đầu tư nghiên cứu phương án đầu tư sao cho có hiệu quả cao nhất. Công ty đã thành lập phòng Đầu tư Chứng khoán với nhiệm vụ chủ yếu là đầu tư tài chính và kinh doanh trên thị trường tài chính. Mặc dù thị trường tài chính ở nước ta còn nhiều hạn chế nhưng thời gian qua, hoạt động này của Công ty cũng khá mạnh mẽ. Cụ thể như sau: - Mua trái phiếu kho bạc với tổng số tiền là 1,307 tỷ đồng. - Mua cổ phiếu của công ty cổ phần Dịch vụ Viễn thông(TST) 50 triệu đồng, cổ tức thu được trong năm 2000 là 4 triệu đồng. - Mua cổ phiếu của công ty Cổ phần Xây lắp Bưu điện Hacisco trị giá 100 triệu đồng. - Xây dựng phương án và hoàn thành các thủ tục đầu tư vào cổ phiếu của CT_IN: 50 triệu đồng. - Hoàn thành việc xây dựng phương án đầu tư vào cổ phiếu của PTC; cổ phiếu của Công ty cổ phần Du lịch Bưu Điện; Khách sạn Bưu Điện Nha Trang. - Hoàn thành việc xây dựng phương án đầu tư vào cổ phiếu SACOM trên thị trường chứng khoán; phương án đầu tư vào trái phiếu Chính Phủ đấu thầu qua TTGDCK. - Hoàn thành việc xây dựng phương án đầu tư vào cổ phiếu SACOM trên TTCK; Phương án đầu tư vào Trái phiếu Chính Phủ đấu thầu qua TTGDCK. - Hoàn thành việc phương án đầu tư thông qua uỷ thác cho thuê tài chính, đã ký thoả thuận nguyên tắc với công ty cho thuê tài chính Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam để thực hiện phương án này. - Quản lý vốn đã đầu tư, bao gồm TST, Hacico, Công trái. - Hoàn thành phương án Hợp tác đầu tư với xí nghiệp in, tuy nhiên do một số nguyên nhân khách quan nên dự án đã không thực hiện dược. - Xây dựng đề án thành lập Công ty cổ phần tư vấn và môi giới bảo hiểm. Mức thực thu của hoạt động đầu tư tài chính trong năm 2001 mới chỉ là thu từ kinh doanh giấy tờ có giá và lợi tức cổ phiếu là thấp( khoảng 7 triệu đồng), song trên thực tế mức dự thu từ các hoạt động đầu tư trong năm 2001 lớn hơn, khoảng 147 triệu đồng. 3. Hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện ở phần trên đã phân tích tình hình cụ thể các hoạt động của Công ty Tài chính Bưu Điện và phần nào đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của Công ty.Tuy nhiên, để có một cái nhìn tổng thể hơn về tình tình quản lý sử dụng vốn của Công ty cần thông qua một số chỉ tiêu sau: 3.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động: Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Vốn cố định bình quân 5.927.061.787 Năm 1999 = = 1,47 (3.897.034.211 + 4.169.074.848)/2 6.240.781.273 Năm 2000 = = 0,375 (4.169.074.848 + 29.171.894.365 ) /2 16.719.205.388 Năm 2001 = =0,53 (29.171.894.365 + 34.191.093.018)/2 Như vậy, so sánh hiệu suất sử dụng vốn cố định trong 3 năm qua ta thấy nó chưa ổn định. Năm 1999, Công ty đầu tư một đồng vốn cố định thì doanh thu thu được là 1,47 đồng; trong khi đó năm 2000 chỉ là 0,375 đồng và năm 2001 là 0,53 đồng doanh thu. Doanh thu thuần - Vòng quay vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân 5.927.061.787 Năm 1999 = = 0,088 (66.510.082.401 + 67.734.229.578)/2 6.240.781.273 Năm 2000 = = 0,0959 (67.734.229.578 + 62.286.408.760)/2 16.719.205.388 Năm 2001 = = 0,2257 (62.286.408.760 + 85.843.754.615)/2 Qua kết quả trên ta thấy vòng quay vốn lưu động của Công ty rất chậm, chưa đến 1 vòng /năm. Nguyên nhân là do các khoản cho vay của Công ty chủ yếu là cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, kết quả trên cũng cho thấy hoạt động cho vay ngắn hạn của Công ty cũng đang tăng lên một cách mạnh mẽ, cụ thể là vòng quay vốn lưu động năm 2001 đã tăng lên 0,2257 vòng/ năm so với năm 2000 là 0,0959 vòng/năm; tức là tăng thêm 0,1298 vòng/năm. Nếu tăng cường được các khoản cho vay ngắn hạn thì vòng quay vốn lưu động của Công ty sẽ nhanh hơn, điều đó giúp Công ty thu hồi vốn được nhanh hơn, có nhiều cơ hội kinh doanh vào các hoạt động có hiệu quả cao hơn. Lợi nhuận ròng - Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Vốn cố định bình quân 959.379.490 Năm 1999 = = 0,24 (3.897.034.211 + 4.169.074.848)/2 422.458.498 Năm 2000 = = 0,025 (4.169.074.848 + 29.171.894.365 ) /2 518.470.134 Năm 2001 = = 0,0164 (29.171.894.365 + 34.191.093.018)/2 Vì lượng vốn cố định tăng lên trong khi đó lợi nhuận lại giảm xuống nên làm cho hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm xuống. Nếu năm 1999, Công ty bỏ ra 1 đồng vốn cố định thì thu về được 0,24 đồng lợi nhuận thì năm 2001 chỉ thu về được có 0,0164 đồng. Lý do vì ở hiện tại những khoản đầu tư dài hạn chưa sinh lời, trong lúc đó vốn cố định lại chủ yếu đầu tư dài hạn. Trong thời gian tới thì các khoản đầu tư này sẽ có lãi, và hiệu quả sử dụng vốn cố định sẽ tăng lên. Lợi nhuận ròng - Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân 959.379.490 Năm 1999 = = 0,0143 (66.510.082.401 + 67.734.229.578)/2 422.458.498 Năm 2000 = = 0,0065 (67.734.229.578 + 62.286.408.760)/2 518.470.134 Năm 2001 = = 0,007 (62.286.408.760 + 85.843.754.615)/2 Lợi nhuận của Công ty năm 2000 giảm 56% và năm 2001 giảm 45,7% so với năm 1999 phần lớn là do hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm mạnh. Nếu trong năm 1999, Công ty bỏ ra 1 đồng vốn lưu động thu được 0,014 đồng lợi nhuận thì năm 2000 giảm xuống còn 0,0065 đồng và năm 2001 là 0,007 đồng. 3.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời Lợi nhuận sau thuế - Doanh lợi vốn = Vốn kinh doanh bình quân 959.379.490 Năm 1999 = = 0,014 (70.000.000.000 + 70.810.058.512)/2 422.458.498 Năm 2000 = = 0,0052 (70.810.058.512 + 91.458.303.125) 518.470.134 Năm 2001= = 0,0049 (91.458.303.125 + 120.034.847.634)/2 Chỉ số doanh lợi cho ta biết Công ty bỏ ra 1 đồng vốn sẽ thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận. Cụ thể: năm 1999, Công ty bỏ 1 đồng vốn sẽ thu về 0,014 đồng lợi nhuận; tương đương số đó năm 2000 là 0,0052 đồng và năm 2001 là 0,0049 đồng Chỉ số doanh lợi cho ta thấy lợi nhuận của Công ty đang giảm xuống, đó không phải là tình hình kinh doanh của Công ty đang bị xấu đi mà do Công ty đang chuyển đổi cơ cấu cho vay từ ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn nên lợi nhuận trước mắt chưa thu được. Lợi nhuận sau thuế - Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu 959.370.490 Năm 1999 = = 0,0137 70.000.000.000 422.458.498 Năm 2000 = = 0,006 70.000.000.000 518.470.134 Năm 2001 = = 0,0074 70.000.000.000 Chỉ số doanh lợi vốn chủ sở hữu cho biết một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Năm 1999, Công ty đầu tư 1 đồng vốn chủ sở hữu thu được 0,0137 đồng lợi nhuận; năm 2000 là 0,006 đồng và năm 2001 là 0,0074 đồng. Kết quả trên phản ánh lợi nhuận của Công ty năm 2000 giảm so với năm 1999, nhưng năm 2001 lại tăng lên so với năm 2000. Điều đó chứng tỏ hoạt động của Công ty đã dần dần đi vào quỹ đạo đã định hướng trước. iii. đánh giá về công tác huy động và hiệu quả sử dụng vốn của công ty tài chính bưu điện 1. Kết quả đã đạt được Với phương châm “ Tất cả cho kinh doanh”, Công ty đã đạt dược một số thành tựu sau: - Đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án theo kế hoạch của Tổng công ty đã giao cho Công ty với lãi suất hợp lý nhất; giảm thiểu nhiều thủ tục giấy tờ nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật, đồng thời đảm bảo an toàn vốn. - Triển khai một sồ hình thức đầu tư theo các nghiên cứu đã thực hiện: Mua cổ phần, kinh doanh chứng khoán, giấy tờ có giá khác,...Tiếp tục nghiên cứu để mở rộng các hình thức đầu tư mới, nhất là các hình thức đầu tư trực tiếp. - Cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng trong và ngoài Tổng công ty: + Tư vấn thẩm định dự án + Tư vấn quản lý (Tư vấn xây dựng quy trình, quy chế; Tư vấn cổ phần hoá) + Tư vấn về đầu tư + Tư vấn về Kiểm toán nội bộ... - Hoàn thiện hệ thống quy trình , quy chế, quy định và nội quy của Công ty hỗ trợ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh và công tác quản lý, điều hành của Công ty. 2. Hạn chế và nguyên nhân 2.1. Hạn chế Trải qua 3 năm họat động, Công ty Tài chính Bưu Điện đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong việc huy động và sử dụng vốn, tuy nhiên cũng còn nhiều hạn chế mà Công ty còn gặp phải sau: Là một mô hình hoàn toàn mới ở Việt Nam, hệ thống văn bản pháp luật về công ty tài chính hầu như chưa có. Công ty phải vật lộn với hệ thống cơ chế, chính sách về tiền tệ và tín dụng chồng chéo lẫn nhau. Công ty Tài chính Bưu Điện là một đơn vị thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, chịu sự quản lý của Tổng công ty nhưng Công ty cũng là một tổ chức tín dụng nên phải chịu sự quản lý của cả Ngân hàng Nhà nước. Vừa là một đơn vị thành viên trong Tổng Công ty, vừa là một tổ chức tín dụng độc lập nên hoạt động của Công ty liên tục gặp khó khăn, vướng mắc và thường xuyên phải xin văn bản chỉ đạo, nhiều khi chỉ là nghiệp vụ đơn thuần Là một tổ chức tín dụng độc lập, Công ty Tài chính Bưu điện không cho một khách hàng vay vượt quá 15% vốn tự có (10,5 tỷ), song do phạm vi hoạt động của Công ty chỉ trong Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông và các đơn vị thành viên đều hạch toán phụ thuộc, tất cả các đơn vị hạch toán phụ thuộc là một khách hàng, do đó Công ty không thể mở rộng hoạt động tín dụng quá 10,5 tỷ đồng. Một giải pháp khác là Công ty cho vay các đơn vị độc lập, song đây lại là thị trường truyền thống của các NHTM, lãi suất cho vay của Ngân hàng đối với các đơn vị này rất thấp nên Công ty cũng rất khó cạnh tranh. Mặt khác, trong ngành Bưu chính Viễn thông, nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ để mua sắm thiết bị là rất lớn song Công ty lại không được phép huy động vốn bằng ngoại tệ. Về huy động vốn: Công ty không có thông tin sớm về chiến lược đầu tư và nhu cầu vốn đầu tư, kế hoạch huy động vốn nên rất khó khăn trong quá trình huy động. Công ty cũng không được phép huy động vốn ngắn hạn dưới 1 năm và hạn chế trong đối tượng dầu tư vốn nên hoạt động lại càng bị bó hẹp. Về đầu tư tài chính: Do phạm vi hoạt động nên Công ty chỉ có thể đầu tư vào các liên doanh và Công ty cổ phần trong ngành nên doanh số rất nhỏ. Mục tiêu đặt ra khi thành lập Công ty là tạo ra sự chuyên môn hoá trong điều hành quản lý kinh tế, phát huy hiệu quả trong quản lý tất cả các nghiệp vụ kinh tế trong Tổng Công ty. Nhưng trên thực tế ,Công ty lại bị đặt ra ngoài cơ chế vận hành tài chính trong khi vị trí của Công ty là mắt xích quan trọng trong cơ chế đó. Tổng Công ty vẫn thực hiện vay và bao cấp về vốn cho các đơn vị thành viên thông qua ban tài chính, việc quản lý một lượng vốn tập trung ngắn, dài hạn với cơ chế đơn vị có vốn được hưởng lãi,đơn vị vay vốn phải trả lãi, Công ty Tài chính làm trung gian vay trả và chịu trách nhiệm thủ tục, rủi ro vẫn chưa được thực hiện. Ngoài ra, hiệp định thương mại Việt-Mỹ cũng mở ra cho Công ty những thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn,đặc biệt là phải chịu sự cạnh tranh của những tổ chức tín dụng khác. 2.2. Nguyên nhân 2.2.1. Về cơ chế, chính sách: Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu, nổi cộm nhất đã gây ra không ít khó khăn cho hoạt động của Công ty. Mô hình Công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà Nước mới ra đời chưa có quy chế, quy định rõ ràng để quy định hoạt động của Công ty tài chính. Hoạt động của Công ty Tài chính Bưu Điện phải chịu sự quản lý của cả Tổng công ty Bưu chính Viễn thông lẫn Ngân hàng Nhà Nước. Khi cần phục vụ cho Tổng công ty thì nó lại được coi là một tổ chức tín dụng độc lập, khi thực hiện nghiệp vụ kinh doanh của một tổ chức tín dụng thì nó lại được coi là Công ty con thuộc Tổng công ty. Như vậy đã làm hạn chế khả năng tự lập, sáng tạo, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Trong hoạt động huy động vốn, Công ty chỉ được huy động tiền gửi của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam và các đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật với thời hạn trên 1 năm. Với quy định này thì đối tượng huy động vốn của Công ty đã bị thu hẹp, hơn nữa các doanh nghiệp trong Tổng công ty cũng chỉ có vốn nhàn rỗi trong thời gian ngắn nên cho đến nay huy động bằng hình thức này vẫn chưa thực hiện được. Mặt khác, hiện nay Công ty chưa được thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến ngoại hối. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động nguồn vốn: - Công ty chưa được nhận tiền gửi cũng như vay vốn bằng ngoại tệ. Nó khiến cho Công ty không thể thoả mãn nhu cầu vốn về ngoại tệ của khách hàng. Trong lúc khách hàng có nhu cầu vốn về ngoại tệ rất lớn để hiện đại hoá công nghệ, máy móc, thiết bị. - Tổng công ty Bưu chính Viễn thông cũng đã uỷ thác cho Công ty bảo lãnh mua thiết bị (chủ yếu bằng ngoại tệ), nhưng cũng rất hạn chế, chưa phát huy hết khả năng của Công ty. - Trong hoạt động sử dụng vốn, Công ty cũng gặp nhiều khó khăn không kém. Theo quyết định số 296/1999/QĐ - NHNN ngày 25/8/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về giới hạn cho vay đối với một khách hàng của tổ chức tín dụng thì tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có. Như vậy, tổng các khoản cho vay đối với một khách hàng của Công ty Tài chính Bưu Điện không được vượt quá 15% vốn tự có, tức là 10,5 tỷ đồng. Nhưng trong hơn 100 đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông thì có tới 69 đơn vị hạch toán phụ thuộc và các đơn vị này được xem như một khách hàng. Đây là một hạn chế rất lớn đến khả năng cho vay của Công ty; 10,5 tỷ đồng là con số quá nhỏ bé so với nhu cầu thực tế của các đơn vị này. Quy định này cũng không tính đến tính đặc thù của ngành Bưu chính Viễn thông, là mạng lưới hoạt động khép kín trên toàn lãnh thổ nên việc hạch toán trong toàn ngành là hạch toán tập trung. Số đơn vị hạch toán độc lập trong Tổng công ty là những đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính phụ trợ. Một khó khăn không nhỏ nữa là các đơn vị trong Tổng công ty đã có quan hệ lâu đời với các ngân hàng thương mại nên được các ngân hàng ưu đãi rất nhiều. Trong lúc đó Công ty Tài chính Bưu Điện lại mới thành lập nên việc từ bỏ một bạn hàng quen thuộc để quay sang hợp tác với Công ty là khó có thể thực hiện ngay được. Về lãi suất, theo quyết định số 104/QĐ - NHNN ngày 2/5/1996 của Thông đốc NHNN về việc ban hành mẫu điều lệ của công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà nước thì lãi suất huy động và cho vay của công ty tài chính phải do Tổng Giám đốc Tổng công ty quyết định theo uỷ quyền của Hội đồng quản trị. Lãi suất cho vay của Công ty Tài chính Bưu Điện là lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng trung bình của 4 sở giao dịch các NHTM quốc doanh trên địa bàn Hà Nội. Nó sẽ làm giảm tính chủ động và linh hoạt của Công ty trong hoạt động tín dụng. Trong hoạt động đầu tư tài chính, việc phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa Tổng công ty với Công ty chưa rõ ràng, trong khi quy định về đầu tư tài chính của Nhà nước còn nhiều bất cập. Đó là sự chồng chéo giữa quy định của Nhà nước với quy định của Tổng công ty, làm hạn chế hoạt động này của Công ty. Cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động, nhất là hoạt động huy động và sử dụng vốn của Công ty. Những khó khăn này đòi hỏi Công ty phải có những giải pháp thích hợp để huy động được nguồn vốn đáp ứng nhu cầu của khách hàng và mặt khác phải sử dụng vốn có hiệu quả nhất. 2.2.2. Điều kiện về thị trường Tuy thị trường hoạt động của Công ty đã được mở rộng về phạm vi cũng như đối tượng, song nhìn chung đối tượng hoạt động của Công ty vẫn còn khá nhỏ bé. Hơn thế nữa, phần lớn các dự án của Ngành đã có kế hoạch nguồn vốn để thực hiện. - Nguồn vốn kinh doanh ngân quỹ trong năm 2002 có khả năng giảm do các hoạt động đầu tư trong năm 2002 sẽ tăng thêm, bên cạnh đó khả năng tìm kiếm thêm nguồn vốn dành cho hoạt động ngân cũng chưa tìm thấy do hiện nay chính sách đổi mới , sắp xếp lại DNNN mới đang được triển khai, chưa có hướng dẫn cụ thể. - Tiến trình cổ phần hoá của Tổng công ty vẫn diễn ra khá chậm chạp vì vậy ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạch đầu tư cổ phiếu trong Ngành cũng như hoạt động tư vấn cổ phần hoá, tư vấn phát hành của Công ty. - Với tiến trình hội nhập, mở cửa thị trường Bưu chính - Viễn thông sẽ dần tự do hoá tạo ra sự chia xẻ thị trường, có nhiều đối thủ cạnh tranh. - Các đơn vị vẫn chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ tài chính do chưa nhận thức về lợi ích của việc sử dụng các dịch vụ về tài chính, nhất là các dịch vụ tư vấn. Mặt khác, thị trường tài chính Việt Nam chưa hoàn thiện nên tạo ra không ít khó khăn cho Công ty Tài chính Bưu Điện. Bởi vì sự phát triển của công ty tài chính gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính. Nếu thị trường tài chính phát triển sẽ tạo thuận lợi cho các hoạt động của công ty tài chính, thúc đẩy sự phát triển của công ty tài chính. Thị trường tài chính nước ta chưa phát triển, làm cho quá trình lưu thông vốn bị hạn chế, do đó kìm hãm các hoạt động của Công ty Tài chính Bưu Điện. 2.2.3. Các yếu tố khác Ngoài các yếu tố cơ bản trên, Công ty Tài chính Bưu Điện còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố khác như : uy tín của Công ty, tiếp thị quảng cáo, cơ sở vật chất của Công ty,... Công ty Tài chính Bưu Điện mới ra đời chưa lâu nên chưa tạo được nhiều uy tín đối với khách hàng nên chưa thu hút được nhiều khách hàng. Mặt khác, công tác tiếp thị quảng cáo của Công ty cũng chỉ ở mức hạn chế nên khách hàng chưa biết nhiều thông tin về Công ty. Cơ sở vật chất như trụ sở, trang thiết bị cũng đóng góp một phần không nhỏ cho hoạt động của Công ty. Hiện tại, Công ty đang phải thuê trụ sở làm việc, chưa đảm bảo đủ không gian làm việc cho cán bộ công nhân viên nên năng suất làm việc cũng bị giảm, ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty. Chương III: một số giải pháp tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty tài chính bưu điện i. mục tiêu nhiệm vụ và phương hướng phát triển của công ty tài chính bưu điện trong những năm tới 1. Mục tiêu nhiệm vụ của Công ty Tài chính Bưu Điện Bước sang thế kỷ 21, Công ty Tài chính Bưu Điện đang có nhiều cơ hội cũng như thách thức để khẳng định mình. Trước những khó khăn và thuận lợi đó, Công ty đã đặt ra những mục tiêu nhiệm vụ cụ thể để phát triển kinh doanh, góp phần vầo sự phát triển chung của Tổng công ty và đất nước. - Tạo dựng một Công ty bền vững, ổn định và phát triển lâu dài, có nguồn nhân lực với yêu cầu chuẩn mực cao, thích ứng với tốc độ đổi mới và phát triển. - Hình thành nền tảng, cơ sở cho Công ty bằng hệ thống thể chế cho quan hệ điều hành hoạt động, quy trình cho tác nghiệp, có đạo đức nghề nghiệp và văn minh, văn hoá cho toàn Công ty và với mọi người. - Trở thành công cụ tài chính quan trọng của Tổng công ty, góp phần nâng cao cho khả năng cạnh tranh về thị trường đầu tư và thị trường tiêu thụ. - Tích luỹ vốn cho Tổng công ty bằng kết quả tối đa hoá lợi nhuận của Tổng công ty. 2. Phương hướng phát triển trong những năm tới của Công ty Tài chính Bưu Điện Trên cơ sở mục tiêu nhiệm vụ của Công ty đã được quy định và phạm vi hoạt động trong nội bộ Tổng công ty, phương hướng phát triển kinh doanh, phát triển sản phẩm và mở rộng thị trường của Công ty cũng được tập trung vào 5 chức năng nhiệm vụ chính như sau: Đầu mối huy động vốn và cho vay: Với chức năng cơ bản này, Công ty tài chính sẽ dần dần thực hiện nhiệm vụ Tổng công ty giao cho là đầu mối huy động nguồn vốn thông qua các nghiệp vụ: phát hành, huy động từ các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước phục vụ cho các dự án đầu tư của Tổng công ty. Thông qua nghiệp vụ cho vay theo uỷ thác của Tổng công ty, Công ty cũng sẽ góp phần thực hiện chủ trương chuyển quan hệ cấp phát vốn sang quan hệ vay trả đối với các đơn vị nhằm đạt hiệu quả cao hơn cho nguồn vốn đầu tư của Tổng công ty. Đầu tư tài chính: Thông qua nghiệp vụ mang tính chuyên môn hoá sâu này, Công ty Tài chính Bưu Điện thực hiện các hoạt động theo định hướng của Tổng công ty bao gồm: - Đầu tư vào các pháp nhân không do Nhà nước đầu tư 100% vốn. - Đầu tư vào các dự án theo các phương thức khác nhau. - Tham gia thành lập các pháp nhân kinh doanh. - Thực hiện tư vấn đầu tư. Điều hoà vốn: Từ các chức năng hoạt động của mình, với những phương thức quản lý, điều chuyển nguồn ngân quỹ – Công ty Tài chính Bưu Điện sẽ cung cấp dịch vụ quản lý ngân quỹ cho Tổng công ty và các đơn vị nhằm mang lại hiệu quả cao nhất từ nguồn vốn bằng tiền này. Kinh doanh trên thị trường tài chính: Với chức năng này, Công ty sẽ thực hiện phát triển các nghiệp vụ: - Kinh doanh các loại chứng từ có giá trên thị trường. - Tư vấn phát hành cổ phiếu cho các doanh nghiệp trong Ngành. Chức năng tư vấn: Nghiệp vụ tư vấn ngày càng trở nên có vai trò quan trọng hơn đối với các doanh nghiệp vá Công ty Tài chính sẽ thực hiện phát triển các nghiệp vụ tư vấn nhằm nâng cao hiệu quả của các đơn vị: Tư ấn cổ phần hoá, tư vấn quản lý và các nghiệp vụ tư vấn khác. ii. Một số giải pháp tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty tài chính bưu điện Vốn luôn luôn là yếu tố quyết định đến qúa trình hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Vấn đề không những là phải có vốn để sản xuất kinh doanh mà còn phải sử dụng nguồn vốn đó như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất, tránh lãng phí, thất thoát vốn. Công ty Tài chính Bưu Điện cũng không nằm ngoài quy luật trên. Công ty không những phải huy động nguồn để đàp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng mà còn phải sử dụng nguồn vốn đó để đầu tư sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Với những nhận định đó, trên cơ sở thực trạng, hạn chế trong công tác huy động và sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông và phương hướng phát triển của Công ty, em xin đưa ra một số giải pháp về công tác huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện sau: 1. Giải pháp tăng cường huy động vốn Hiện nay, Công ty Tài chính Bưu Điện nói riêng cũng như các Công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà nước khác đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong vấn đề huy động vốn. Nguồn vốn huy động để cho vay của Công ty chủ yếu là vốn tự có và nguồn uỷ thác đầu tư, nên chưa thể đáp ứng được nhu cầu về vốn rất lớn của các đơn vị trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Chính vì vậy Công ty phải xây dựng một kế hoạch hoàn chỉnh đối với hoạt động huy động vốn, nắm bắt được hướng phát triển của thị trường, có thông tin sớm về chiến lược đầu tư và nhu cầu vốn đầu tư để đa dạng hoá các nguồn huy động, tránh bị phụ thuộc bởi một số ít nguồn như hiện nay. 1.1. Tăng cường huy động nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty, các doanh nghiệp cùng ngành kinh tế kỹ thuật, các doanh nghiệp mà Tổng công ty có góp vốn kinh doanh. Muốn vậy, Công ty phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình so với các tổ chức tín dụng khác. Bởi vì các doanh nghiệp này có quan hệ lâu dài với các NHTM nên việc quay sang hợp tác ngay với Công ty Tài chính Bưu Điện sẽ không dễ dàng. Công ty cần phải có chính sách lãi suất huy đông linh hoạt, có nhiều hình thức ưu đãi,....để thu hút khách hàng ( Chẳng hạn như một doanh nghiệp gửi một số tiền tại Công ty, nếu sau này có nhu cầu vay vốn để đầu tư một dự án lớn thì Công ty có thể ưu tiên doanh nghiệp này hơn). 1.2. Hoàn thiện phương án huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu. Ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam là một trong những ngành làm ăn có lãi, có uy tín nhất ở nước ta. Vì vậy, việc phát hành trái phiếu Bưu Điện sẽ có rất nhiều thuận lợi, cùng với việc lãi suất của trái phiếu chính phủ đang giảm sẽ tăng thêm tính cạnh tranh cho trái phiếu Bưu Điện. Mặt khác, thị trường chứng khoán Việt Nam đã hình thành và đi vào hoạt động sẽ là một thuận lợi không nhỏ nữa cho trái phiếu Bưu Điện. Việc trái phiếu Bưu Điện ra đời sẽ làm phong phú thêm hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Như vậy, phương án phát hành trái phiếu Bưu Điện có tính khả thi cao và sẽ là một kênh huy động vốn có hiệu quả của Công ty. 1.3. Vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Đây cũng là một nguồn lớn và phong phú, nhưng lại phải chịu lãi suất cao làm tăng chi phí cho khoản vay. Hiện tại, Công ty Tài chính Bưu Điện đang sử dụng nguồn vốn này thông qua các hình thức đồng tài trợ và uỷ thác đầu tư khá hiệu quả. Vả lại, ngành Bưu chính Viễn thông là ngành làm ăn có hiệu quả nên các doanh nghiệp trong và ngoài nước rất muốn đầu tư vào. Công ty Tài chính Bưu Điện phải tận dụnglợi thế ngành nghề của mình để huy động nguồn vốn này hiệu quả hơn. Công ty cần nhanh chóng hoàn thiện phương án trình Nhà nước xin phép được uỷ thác quản lý các khoản tín dụng đầu tư trong nước. Đó cũng chính là mục tiêu quan trọng không những chỉ Công ty Tài chính Bưu Điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam mà còn cả mô hình Công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam. Đồng thời Công ty cũng cần tìm kiếm những phương thức huy động mới để chủ động hơn về nguồn. 1.4. Vay tín dụng ưu đãi của Chính phủ. Nếu vay nguồn vốn này thì Công ty sẽ giảm được chi phí cho khoản vay vì được ưu đãi nên lãi suất đi vay thấp. Trong điều kiện huy động vốn của Công ty còn gặp nhiều khó khăn thì nguồn vốn này mở ra một nguồn huy động mới. Tuy nhiên, Công ty sẽ phải có những hoạt động thiết thực thì chính phủ mới cho vay chứ không phải đối tượng nào cũng được vay. 1.5. Xây dựng phương án quản lý vốn và tài sản của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty để trình lên Tổng công ty xét duyệt. Đây là một nguồn vốn rất lớn, nếu được quản lý và điều tiết nguồn vốn này thì Công ty có rất nhiều lợi thế. Công ty có được nguồn vốn với chi phí thấp để đáp ứng kịp thời nhu cầu của các đơn vị, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các đơn vị thành viên nói riêng và Tổng công ty nói chung. 1.6. Nghiên cứu áp dụng những hình thức "Bảo đảm tiền vay" một cách hợp lý. Đối với những dự án không được Tổng công ty bảo lãnh thì cần phải nghiên cứu những hình thức bảo đảm tiền vay sao cho vừa đảm bảo chặt chẽ tránh rủi ro tín dụng, vừa đỡ phức tạp cho khách hàng. 1.7. Tăng cường mở rộng quan hệ, tìm kiếm các đối tác khác. Ngoài các đối tác quen thuộc, Công ty Tài chính Bưu Điện cũng cần tăng cường mở rộng quan hệ với các đối tác khác để tìm nguồn phục vụ nhu cầu vốn được phân nguồn qua Công ty như các Công ty Bảo hiểm, các NHTMQD, NHTMCP, NH liên doanh,....Công ty cũng cần mở rộng quan hệ với các tổ chức tín dụng nước ngoài để huy động nguồn ngoại tệ, phục vụ cho nhu cầu vốn ngoại tệ của các đơn vị trong Tổng công ty. Ngoài ra, Công ty Tài chính Bưu Điện cần phải tiếp tục nghiên cứu, rà soát các cơ chế chính sách, quy chế về huy động vốn để điều chỉnh cho thích ứng với cơ chế thị trường, phát huy tính chủ động sáng tạo. Công ty cũng cần phải chú trọng tăng cường trang thiết bị hiện đại , xây dựng trụ sở khang trang để phục vụ cho hoạt động huy động vốn, đảm bảo qúa trình chu chuyển vốn nhanh chóng chính xác, an toàn, hiệu quả. 2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là mục tiêu cần đạt được của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Không một doanh nghiệp nào lại muốn đồng vốn của mình bị thất thoát, không đem lại lợi nhuận. Lợi nhuận chính là động cơ để các doanh nghiệp tiến tới. Việc tìm cách tối đa hoá lợi nhuận cũng chính là công việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Muốn có lợi nhuận cao thì doanh nghiệp phải tối thiểu hoá các chi phí và tối đa hoá doanh thu. Với tình hình sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu điện trong thời gian qua và trong phạm vi cho phép, Công ty cần giải quyết cấc vấn đề cơ bản sau: 2.1. Tối đa hoá nguồn vốn hoạt động sinh lời, tối thiểu hoá nguồn vốn hoạt động không sinh lời. Vốn hoạt động không sinh lời của Công ty là các loại tài sản được đưa vào đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp. Đầu tư gián tiếp là các hoạt động như tín dụng, kinh doanh ngân quĩ, kinh doanh trên thị trường tiền tệ,... Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư tài chính (Liên doanh, góp vốn mua cổ phần,...) Vốn hoạt động không sinh lời của Công ty được coi là các tài sản cố định như nhà cửa, ô tô, trang thiết bị,... Bởi vì các tài sản này sau khi mua sắm sẽ được đưa vào sử dụng và trích khấu hao dần chứ không phải mua về để đem bán kiếm lời. Muốn tối thiểu hoá các tài sản hoạt động không sinh lời thì Công ty phải tính toán xem có nên mua tài sản đó không, trong khi vẫn còn cơ hội để sử dụng vốn vào kinh doanh thu lãi. Các tài sản này phải được tận dụng với hiệu suất tối đa, chi phí cho việc mua các tài sản này là tối thiểu. 2.2. Cân đối giữa tỷ lệ vốn sinh lời ổn định với tỷ lệ vốn sinh lời không ổn định, giữa đầu tư dài hạn với đầu tư ngắn hạn. Vốn sinh lời ổn định và đầu tư dài hạn thường dễ quản lý và có khoản thu nhập ổn định, nhưng có khả năng sinh lời không cao bằng vốn sinh lời không ổn định và đầu tư ngắn hạn. Các hoạt động đầu tư có tính rủi ro cao thì thường lợi nhuận cũng cao và ngược lại các khoản đầu tư có tính độ an toàn cao thì thường lợi nhuận thấp. Chính vì vậy, Công ty cần xem xét lại cơ cấu đầu tư sao cho hợp lý, vừa đảm bảo mức độ an toàn cho vốn, vừa không để mất cơ hội đầu tư có khả năng sinh lời cao. 2.3. Đa dạng hoá các phương thức sử dụng vốn. Công ty cần sử dụng vốn của mình vào nhiều mục đích ngoài hoạt động tín dụng như: Đầu tư trực tiếp vào các công trình dự án mà mình có khả năng; Đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu; Mở tài khoản tại các ngân hàng trong và ngoài nước,... Mục đích là để đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, kiếm cơ hội để đầu tư sinh lời phù hợp với khả năng của mình. Đồng thời qua đó cũng giảm thiểu rủi ro mà một phương thức hoạt động đem lại. 2.4. Luôn luôn xem xét đến chi phí cơ hội khi bỏ vốn đầu tư. Nếu không xem xét đến yếu tố này thì Công ty có thể bỏ qua những cơ hội đầu tư có hiệu quả cao. Mặt khác môi trường kinh doanh luôn luôn thay đổi, cơ hội chỉ đến một lần, vì vậy cần nhìn nhận, đánh giá một cách chính xác các chi phí cơ hội sẽ giúp cho Công ty có những quyết định đúng đắn, kịp thời trong việc sử dụng vốn để kinh doanh. 2.5. Tiếp tục xúc tiến các hoạt động như uỷ thác đầu tư và đồng tài trợ. Các hoạt động này trong thời gian qua được Công ty sử dụng với hiệu quả khá cao, cần phát huy hơn nữa trong thời gian tới. Hạn mức cho vay có hạn nên các hoạt đông này sẽ là giải pháp tốt nhất để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng. Với các hoạt động này, Công ty làm trung gian giữa người đi vay và người cho vay, trong đó Công ty cũng bỏ ra một phần vốn nhỏ để vừa tạo sự tin tưởng cho khách hàng, lại vừa đem lại lợi tức cho Công ty. 2.6. Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong các thủ tục cho vay. Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn cho khách hàng. Hoạt động tín dụng kết hợp các sản phẩm dịch vụ đi kèm như: Thẩm định hiệu quả các dự án đầu tư, tư vấn về quản lý tài chính, về thanh toán,… Hoạt động tư vấn sẽ tăng thêm thu nhập cho Công ty. Nhà tư vấn sẽ làm công việc phân tích tài chính dưới con mắt của nhà chuyên môn để giúp khách hàng nhận biết và ra quyết định đúng đắn. Có hoạt động tư vấn, khách hàng sẽ có được các quyết định đầu tư mang lại hiệu quả cao hơn. Điều đó không những giúp Công ty có thêm được thu nhập mà còn tăng uy tín của Công ty trên thương trường. Như vậy, Công ty sẽ thu hút được thêm khách hàng và từ đó sẽ có nhiều phương án sử dụng vốn hơn. 2.7. Có chính sách lãi suất cho vay mềm dẻo, linh hoạt tuỳ theo điều kiện thị trường của từng khu vực, từng miền để có một mức lãi suất hợp lý có thể cạnh tranh được với các ngân hàng. Hiện nay lãi suất cho vay của Công ty là lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng trung bình của 4 sở giao dịch các ngân hàng thương mại quốc doanh trênđịa bàn Hà Nội. Như vậy lãi suất cho vay của Công ty phụ thuộc vào chính sách lãi suất của các ngân hàng đó. Nó sẽ hạn chế tính linh hoạt và gây ra những khó khăn khi lãi suất của một số ngân hàng thay đổi. Do đó, Công ty cần xây dựng một chính sách lãi suất cho vay hợp lý hơn, phù hợp với điều kiện của Công ty và thị trường mà vẫn đảm bảo nguồn thu nhập tối ưu. 2.8. Tìm kiếm cơ hội đầu tư tài chính mới. Công ty cần làm việc với Tổng công ty để có kế hoạch đầu tư của Tổng công ty và các đơn vị thành viên nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư cho các dự án trong ngành, tăng cường tiếp xúc với các đơn vị để giới thiệu về các hình thức đầu tư mà Công ty có thể triển khai. Công ty phải cập nhập tình hình biến động của thị trườngcác loại chứng khoán, theo sát tiến trình cổ phần hoá để có quyết định kinh doanh chứng khoán chính xác . 2.9. Thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngân quỹ. Công ty lập kế hoạch lưu chuyển tiền tệ, nghiên cứu và tổng hợp các thông tin biến động về lãi suất, các yếu tố ảnh hưởng tới lãi suất để có kế hoạch ngân quỹ phù hợp .Xây dựng và duy trì hệ thống báo cáo về hoạt động ngân quỹ hàng tháng để lãnh đạo Công ty có thể quản lý và điều hành hoạt động này. 2.10. Nâng cao vai trò của công tác kế toán,luôn đảm bảo tính chính xác, trung thực của công tác kế toán. Qua các số liệu, báo cáo của bộ phận kế toán tập hợp mà Công ty có những quyết định tiếp theo như đầu tư hay không, mở rộng hay thu hẹp một hoạth động kinh doanh,... Nếu như số liệu bị sai lệch thì sẽ dẫn đến các quyết định không có hiệu quả của Công ty. Do vậy, công tác kế toán phải chính xác, trung thực để Công ty có những quyết định đúng đắn, có hướng đi phù hợp với khả năng hiện có và mang lại hiệu quả cao nhất. 2.11. Nâng cao tính liên kết giữa các phòng, tổ trong Công ty. Mỗi phòng, tổ trong Công ty có một chức năng nhiệm vụ riêng, tuy nhiên nó đều hướng vào mục tiêu chung của Công ty. Trong quá trình hoạt động, có những hoạt động đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều phòng, tổ. Như vậy, các phòng, tổ không những phải hoàn thành nhiệm vụ của mình mà còn có nhiệm vụ giúp đỡ, cộng tác các phòng, tổ khác hoàn thành nhiệm vụ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty. 2.12. Liên tục nâng cao khả năng chuyên môn của cán bộ công nhân viên trong Công ty. Hoạt động trong lĩnh vực tài chính là hoạt động đòi hỏi phải có trình độ cao. Nếu không có trình độ thì không thể đưa ra những đánh giá chính xác về tình hình tài chính của Công ty cũng như của đối tác, vì vậy rủi ro trong đầu tư là rất lớn, làm cho hiệu quả đầu tư không cao. Mặt khác, cán bộ công nhân viên có trình độ sẽ làm cho khách hàng tin tưởng hưon vào khả năng của Công ty. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trước hết, Công ty không những phải có cơ cấu nhân sự hợp lý mà còn phải chú trọng đào tạo, quản lý và tuyển dụng nhân lực có đủ trình độ chuyên môn làm việc. iii. Một số kiến nghị góp phần thực hiện tốt các giải pháp trên Như đã phân tích ở phần hạn chế thì khó khăn lớn nhất của Công ty Tài chính Bưu Điện vẫn là cơ chế chính sách của cơ quan quản lý Nhà nước. Cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể hoạt động của Công ty tài chính ở nước ta. Vì vậy mà Công ty cần kiến nghị lên các cơ quan quản lý Nhà nước để tạo thuận lợi cho quá trình hoạt động kinh doanh của mình nhằm tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 1. Đối với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Công ty Tài chính Bưu Điện là một thành viên trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông. Do đó hơn ai hết Tổng công ty phải năm bắt được những khó khăn của những đơn vị thành viên, trên cơ sở đó có những biện pháp hỗ trợ và tháo gỡ. Trong thời gian tới Tổng Công ty cần có những biện pháp để thúc đẩy hoạt động của Công ty Tài chính Bưu điện như sau: - Tăng cường tính độc lập, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho Công ty Tài chính Bưu điện, giúp Công ty cạnh tranh có hiệu quả hơn. - Xin Tổng công ty cho nhận uỷ thác huy động vốn và giải ngân cho Tổng công ty. Trước mắt xin Tổng công ty uỷ thác huy động vốn qua phát hành kỳ phiếu trong cán bộ công nhân viên Tổng công ty và giải ngân cho các dự án. Sau đó tiếp tục xin uỷ thác giải ngân sau khi Tổng công ty có được hạn mức vay mới với các ngân hàng thương mại quốc doanh. - ủy thác cho Công ty đầu tư một số dự án của Tổng công ty hoặc các đơn vị thành viên - Uỷ thác cho Công ty quản lý phần vốn góp của Tổng công ty trong các đơn vị liên doanh và công ty cổ phần. - Thử nghiệm giao cho Công ty Tài chính chịu trách nhiệm về hiệu quả trên vốn góp của Tổng công ty trong một số Công ty cổ phần mà Tổng công ty không đóng vai trò chủ đạo như vốn góp của các NHTMCP (Eximbank;Maribank). - Cho phép Công ty thí điểm điều hành ngân quĩ đối với một số khoản tài sản bằng tiền của Tổng công ty tại các Ngân hàng. - Cho phép Công ty thử nghiệm trong việc phối hợp các đơn vị thành viên để sử dụng tài sản bằng tiền của Tổng công ty tại các đơn vị có hiệu quả tài chính cao hơn. - Tổng công ty giao cho Công ty Tài chính thực hiện việc tư vấn đối với một số hoạt động tài chính như thẩm định dự án trước và sau đầu tư tạo cơ sở cho việc phát triển hoạt động này của Công ty. Trong đó có thể thẩm định việc tính toán, phưông án kinh doanh và hiệu quả đầu tư của các dự án độc lập. 2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Công ty Tài chính Bưu điện là một tổ chức Tài chính trung gian nên nó chịu sự điều hành, quản lý của NHNN Việt Nam. Vì vậy, NHNN cần tiến hành một số công việc sau để tạo điều kiện cho hoạt động của Công ty Tài chính Bưu Điện: - Sớm ban hành Nghị định về tổ chức, hoat động của Công ty Tài chính để có đủ một số điều kiện cho sự hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính trong Tổng Công ty . - Khái niệm về một khách hàng: Có quy định riêng với Tổng Công ty hạch toán tập trung như VNPT, cần coi mỗi đơn vị hạch toán phụ thuộc là một khách hàng hoặc có giới hạn tín dụng khác các đơn vị kinh doanh bình thường. - Ban hành quy định về hoạt động uỷ thác làm cơ sở cho hoạt động uỷ thác trong tín dụng và đầu tư . - Sửa đổi quy định về đồng tài trợ trong đó cho phép các Công ty Tài chính được làm tổ chức tín dụng đầu mối. - Cho phép Công ty được huy động và cho vay bằng vốn ngoại tệ. - Xây dựng một quy định riêng đối với hoạt động đầu tư của các Công ty Tài chính trong Tổng công ty, trong đó chức năng chính của Công ty tài chính là đầu tư vốn và đầu tư tài chính cho Tổng công ty ; Xây dựng bổ sung và nới rộng cơ chế hoạt động đầu tư tài chính cho các doanh nghiệp Việt Nam. - Mở rộng phạm vi đầu tư chứng khoán: Cho phép đầu tư vào chứng khoán của các công ty cổ phần có vốn góp của Tổng công ty và các đơn vị thành viên. - Cho phép mở tài khoản cho khách hàng có vay vốn của Công ty, do Công ty trực tiếp quản lý và thanh toán qua hệ thống ngân hàng. - Cho phép huy động vốn có thời hạn dưới 1 năm (3 tháng hoặc 6 tháng) đối với các đơn vị thành viên Tổng công ty. Kết Luận Vấn đề huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn luôn luôn là vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu và thường xuyên cập nhập đổi mới trong tư duy cũng như phương pháp để theo kịp với sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế. Công ty Tài chính Bưu Điện là một trung gian tài chính nên vấn đề này lại càng quan trọng hơn. Nó quyết định đến sự sống còn trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Hoạt động chính của Công ty là hoạt động tài chính như tín dụng, đầu tư tài chính và hoạt động kinh doanh ngân quỹ. Bước đầu còn có những khó khăn nhất định, nhưng với sự lãnh đạo linh hoạt, tài tình của ban lãnh đạo Công ty, Công ty Tài chính Bưu Điện đang dần dần đi vào quỹ đạo hoạt động và ngày một lớn mạnh. Trong tương lai, hiệu quả hoạt động của Công ty không chỉ dừng lại ở đó mà Công ty cần phát huy thực hiện tốt chức năng chính của mình là điều hoà vốn trong Tổng Công ty, đầu tư tiền vốn của mình mang lại hiệu quả cao nhất. Muốn vậy Công ty cần phải nỗ lực hơn nữa trong hoạt động của mình, đồng thời cần có được sự giúp đỡ thiết thực từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là Tổng công ty Bưu chính Viễn thông và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với việc nghiên cứu đề tài này, em hy vọng một số giải pháp đã được trình bày trong luận văn tốt nghiệp sẽ giúp Công ty Tài chính Bưu Điện vượt qua những khó khăn, thử thác trước mắt để đạt kết quả cao hơn trong lĩnh vực kinh doanh./. Danh mục tài liệu tham khảo Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Frederich S.Minskin. Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp, Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ - Phạm Long. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lê Nin của trường đại học Kinh Tế Quốc Dân Giáo trình Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại của trường đại học Kinh Tế TP HCM Tiền và hoạt động ngân hàng, Lê Vinh Danh. Ngân hàng thương mại, biên dịch: Lê Văn Tề Luật các tổ chức tín dụng. Luật doanh nghiệp. Tạp chí Ngân Hàng các số năm 1999, 2000, 2001. Tạp chí Tài Chính các số năm 1999, 2000, 2001. Các nội quy, điều lệ của Công ty Tài chính Bưu Điện Quy chế đồng tài trợ, cho vay ngắn hạn, quy trình nghiệp vụ đầu tư tín dụng của Công ty Tài chính Bưu Điện Các báo cáo tài chính, báo cáo tổng kết cuối năm của Công ty Tài chính Bưu Điện. Quy chế cho vay số 1267 ngày 31/12/2001 của Ngân hàng Nhà nước Luận văn tốt nghiệp khoá 39 khoa Ngân hàng – Tài chính trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty tài chính 3 I. Vốn và vai trò của vốn trong các doanh nghiệp 4 1. Khái niệm về vốn 4 2. Vai trò của vốn trong các doanh nghiệp 6 3. Phân loại vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 6 II. Chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp 11 1. Chi phí vốn của doanh nghiệp 11 2. Chi phí bình quân gia quyền của vốn 14 3. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp 15 III. Công tác huy động và sử dụng vốn của Công ty tài chính 15 1. Công ty tài chính trong nền kinh tế thị trường 15 2. Các nguồn huy động và sử dụng vốn của công ty tài chính 20 3. Hiệu quả sử dụng vốn của công ty tài chính 24 Chương II: Thực trạng huy động và sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện trong thời gian qua 30 I. Vài nét khái quát về Công ty Tài chính Bưu Điện 31 1. Quá trình hình thành của Công ty Tài chính Bưu Điện 31 2. Cơ cấu tổ chức, chức năng và cơ chế điều hành của Công ty Tài chính Bưu Điện 33 3. Tình hình hoạt động của Công ty Tài chính Bưu Điện từ khi thành lập cho đến nay 35 II. Thực trạng huy động và sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện 38 1. Tình hình huy động vốn 38 2. Tình hình sử dụng vốn. 42 3. Hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện 47 III. Đánh giá về công tác huy động và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện 52 1.Kết quả đã đạt được 52 2. Hạn chế và nguyên nhân 53 Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Tài chính Bưu Điện 59 I. Mục tiêu nhiệm vụ và phương hướng phát triển của Công ty Tài chính Bưu Điện trong những năm tới 60 1. Mục tiêu nhiệm vụ của Công ty Tài chính Bưu Điện 60 2. Phương hướng phát triển của Công ty Tài chính Bưu Điện trong những năm tới 60 II. Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Tài chính Bưu Điện 62 1. Giải pháp tăng cường huy động vốn 62 2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 65 III. Một số kiến nghị góp phần thực hiện tốt các giải pháp trên 69 1. Đối với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông 69 2. Đối với Ngân hàng Nhà nước 70 Kết luận 72 Danh mục tài liệu tham khảo 73 lời cảm ơn Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính, đặc biệt là TS. Đàm Văn Huệ, người đã hướng dẫn em trong quá trình viết luận văn tốt nghiệp này. Em cũng xin cảm ơn Ban lãnh đạo, các cán bộ nhân viên Công ty Tài chính Bưu Điện đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập. Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2002 Sinh viên thực hiện Nguyễn Văn Dũng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29770.doc
Tài liệu liên quan