Luận văn Nâng cao chất lượng phân tích tín dụng tại ngân hàng Phương Nam – chi nhánh Hà Nội

Đề tài: Nâng cao chất lượng phân tích tín dụng tại ngân hàng Phương Nam –chi nhánh Hà Nội MỤC LỤC CHƯƠNG 1: CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 . PHÂN TÍCH TÍN DỤNG CỦA NHTM : 1.1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM : 1.1.1.1 Khỏi niệm và phõn loại tớn dụng: v Khỏi niệm: Hoạt động tín dụng ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, đóng vai trũ quan trọng trong việc thúc đẩy cung cấp và lưu thông hàng hóa. Tùy từng lĩnh vực mà người ta hiểu về hoạt động tín dụng khác nhau, tuy nhiên có thể đưa ra khái niệm chung nhất về tín dụng như sau: Tớn dụng là một khỏi niệm chỉ mối quan hệ giữa cỏc chủ thể, trong đó chủ thể này chuyển cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng giá trị (có thể dưới hỡnh thỏi hàng húa hoặc hỡnh thỏi tiền tệ) với những điều kiện nhất định mà hai bên thỏa thuận. Theo đó, tín dụng ngân hàng là mối quan hệ trong đó ngân hàng - chủ thể chuyển quyền sử dụng cho cá nhân, hoặc doanh nghiệp - quyền sử dụng một lượng giá trị (dưới hỡnh thỏi tiền tệ) với những điều kiện mà hai bên thỏa thuận. Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng chính là hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, là một trong những hoạt động truyền thống và đặc trưng của NHTM . Không chỉ thể hiện vai trũ quan trọng ở việc chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản mà tín dụng cũn là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho các NHTM . Luật cỏc tổ chức tớn dụng của Việt Nam thỡ hoạt động tín dụng được hiểu là “ việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng” trong đó tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định với nguyên tắc có hoàn trả. Trờn khớa cạnh xó hội, hoạt động tín dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua việc lưu thông nguồn tiền trong nền kinh tế, nhờ hoạt động tín dụng, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được đưa vào phát triển các công trỡnh, cỏc dự ỏn, cỏc hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp , và điều này tạo nên sự phát triển của nền kinh tế. Ở những quốc gia có nền tài chính cũn chưa phát triển, kênh huy động vốn trực tiếp thông qua thị trường chứng khoán chưa hoàn thiện thỡ tớn dụng ngõn hàng vẫn là hỡnh thức hiệu quả, tối ưu và phổ biến nhất đối với cácdoanh nghiệp có nhu cầu về vốn. Với tầm quan trọng như vậy, hoạt động tín dụng cần được hoàn thiện và đạt được một chất lượng đủ tốt để duy trỡ cho sự phỏt triển của khụng chỉ riờng bản thõn tổ chức tớn dụng mà của cả nền kinh tế đất nước. Trên thực tế, nếu chất lượng tín dụng kém, các ngân hàng phản ứng lại bằng cách cắt giảm các khoản tín dụng mới mà họ có kế hoạch cung cấp đồng thời từ chối các yêu cầu gia hạn tín dụng. Cung tín dụng giảm trong trường hợp này sẽ kéo theo hiệu ứng giảm trong cầu các khoản chi cho đầu tư phát triển và chi cho tiêu dùng. Nếu quy mô cho vay của ngân hàng tiếp tục giảm như vậy nền kinh tế tất yếu sẽ bị suy thoái. Phân loại: Cú nhiều cỏch phõn loại tớn dụng khỏc nhau tuỳ theo yờu cầu của khỏch hàng và mục tiờu quản lý của ngõn hàng. Sau đây là một số cách phân loại * Phõn loại theo thời gian: Cú thể được phõn thành tớn dụng ngắn hạn, tớn dụng trung hạn và tớn dụng dài hạn. * Phõn loại theo hỡnh thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lónh và cho thuờ. * Phõn loại theo tài sản đảm bảo: gồm tớn dụng cú đảm bảo bằng uy tớn của chớnh khỏch hang (tớn chấp) hay tớn dụng cú đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. * Phõn loại theo rủi ro: căn cứ vào mức độ rủi ro, tớn dụng được phõn chia thành cỏc loại như tớn dụng lành mạnh, tớn dụng cú vấn đề, hay cỏc khiản nợ quỏ hạn cú khả năng thu hồi và cỏc khoản nợ quỏ hạn khú đũi Ngoài ra cũn cú cỏc cỏch phõn loại khỏc như phõn loại theo ngành kinh tế (như cho vay nụng nghiệp, lõm nghiệp ), theo mục đích (cho vay sản xuất kinh doanh, vay tiờu dung), 1.1.1.2. Các nghiệp vụ tín dụng + Chiết khấu thương phiếu: Thương phiếu được hỡnh thành chủ yếu từ quỏ trỡnh mua bỏn chịu hàng húa và dịch vụ giữa khỏch hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đũi tiền người mua ( hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.

doc92 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng phân tích tín dụng tại ngân hàng Phương Nam – chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩm định tín dụng phản ánh kết quả phân tích chưa hoàn thiện Tại SB – Hà Nội, hầu hết nhân viên tín dụng đều đã có trình độ đại học nhưng kinh nghiệm thực tế còn thiếu hoặc mới chỉ có kinh nghiệm công tác tại các lĩnh vực ngoài ngành ngân hang. Do vậy khả năng phân tích của nhân viên tín dụng, đặc biệt là kỹ năng đánh giá các dự án đầu tư, kỹ năng phân tích, kỹ năng lập hoàn thiện một bảng lưu chuyển tiền tệ từ đó là cơ sở cho việc có áp dụng phương thức cho vay, mức vay, thời điểm giải ngân, thu nợ thích hợp đối với từng khách hàng bị hạn chế. Bên cạnh đó, trình độ tin học, ngoại ngữ và kiến thức tổng hợp về thị trường còn thiếu rất nhiều do bản thân nhân viên tín dụng chưa nỗ lực trang bị cho mình. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc khai thác thông tin, tiếp nhận những phần mềm tiên tiến đã được áp dụng trên thế giới và trong khu vực. Một thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ nhân viên làm việc trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính tại các nước phát triển thường là những chuyên gia giỏi về kiến thức và nghiệp vụ, được tuyển chọn từ những sinh viên ưu tú tại các trường đại học. Đó cũng là một trong những yếu tố cần phải xem xét khi đưa ra giải pháp cho vấn đề này. Về mặt phản ánh kết quả phân tích trong tờ trình, hiện nay, tại SB – Hà Nội, tờ trình thẩm định tín dụng được áp dụng theo một mẫu thống nhất do Hội sở qui định. Tuy nhiên, chính những qui định này đã làm giảm tính sáng tạo, mở rộng trong quá trình phân tích tín dụng bởi một số mẫu chưa đưa ra đầy đủ những yếu tố cần phân tích. Bản thân các đánh giá về khách hàng còn sơ sài, ngắn gọn, không thể nhìn nhận và đánh giá hết các yếu tố rủi ro tiềm ẩn mặc dù điều này cũng có thể do năng lực đánh giá của nhân viên tín dụng hoặc do sự cố tình vi phạm về qui chế để che giấu cho khách hàng. Cho dù là do khách quan hay chủ quan về phía cán bộ tín dụng, một tờ trình với nhiều khiếm khuyết như trên sẽ đem lại rủi ro rất lớn cho ngân hang khi các cấp xét duyệt tín dụng đưa ra những quyết định mà không có điều kiện xem xét đánh giá lại toàn bộ. - Nguyên nhân do quy trình tín dụng của SB Việc kết hợp phân cấp trong việc quản lý tín dụng theo cả chiều dọc và chiều ngang, bên cạnh việc tăng khả năng kiểm soát rủi ro bằng quản lý tập trung thì lại là nguyên nhân gây ra tình trạng kéo dài thời gian xử lý một nhu cầu vay của khách hàng. Toàn bộ hồ sơ thẩm định vượt hạn mức phê duyệt của các giám đốc chi nhánh và phòng giao dịch được chuyển tới Hội đồng tín dụng cấp trên, việc quản lý giải quyết tập trung số lượng hồ sơ tái thẩm định khổng lồ này làm giảm hiệu quả của tái thẩm định và kéo dài thời gian cung cấp vốn vay cho khách hàng. Việc định giá và quản lý tài sản thuộc bộ phận thẩm định tài sản nên đã không gắn trách nhiệm của nhân viên tín dụng vào yếu tố tài sản của khách hàng. Đồng thời điều này cũng làm hạn chế sự phối hợp giữa nhân viên tín dụng và nhân viên thẩm định tài sản bởi nhân viên thẩm định tài sản đánh giá tài sản một cách khách quan theo đúng qui chế của SB mà không để ý đến các yếu tố về khách hàng. Tất cả những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hạn chế trong chất lượng phân tích tín dụng của SB – Hà Nội cần được xem xét lại một cách tổng thể từ đó đưa ra các giải pháp kịp thời và linh hoạt nhằm nâng cao chất lượng phân tích tín dụng trong tương lai. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG PHƯƠNG NAM- CHI NHÁNH HÀ NỘI ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG TẠI SB – HÀ NỘI: 3.1.1. Định hướng kinh doanh của SB – Hà Nội 3.1.1.1. Định hướng chung của SB Tiếp tục định hướng phát triển NHTMCP Phương Nam thành một Ngân hàng TMCP hàng đầu tại Việt Nam Với thương hiệu “Tín: một giá trị cao hơn tất cả”, SB luôn đa dạng hóa các loại hình sản phẩm, dịch vụ của mình. Tuy nhiên, trong chiến lược phát triển của mình, với mục tiêu trở thành một trong những Ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam và tiến tới là trong khu vực Đông Nam Á, SB cũng đặt ra cho mình đối tượng khách hàng chủ đạo là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa và nhỏ, chiếm tới 58,2% doanh số cho vay và hơn 50% doanh thu về dịch vụ của ngân hàng hiện nay. Tiếp tục duy trì tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối,an toàn và khả năng sinh lời, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh với những ngân hàng khác. Tập trung đầu tư hiện đại hoá, đào tạo nguồn nhân lực đổi mới công nghệ ngân hàng phù hợp với hiện đại hoá đủ năng lực hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển giá trị thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hoá doanh nghiệp. * Những cơ hội mới Ngày 28 tháng 5 năm 2007, tại Hội sở Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank) đã diễn ra lễ k‎ý kết hợp đồng hợp tác giữa Southern Bank và Tập đoàn Thu đổi Ngoại tệ Quốc tế ICE, Anh Quốc. ICE là một trong những tập đoàn thu đổi ngoại tệ hàng đầu trên thế giới. Nội dung của lễ ký kết hợp tác gồm các lĩnh vực:    - Cho vay hỗ trợ tài chính tiêu dùng (Consumer Finance and Lending) gồm cho vay mua hàng trả góp, cho vay mua nhà …    - Phát hành thẻ Visa/Master card trả trước: gồm thẻ Du lịch “Cash2Go”, thẻ sinh viên du học nước ngoài, thẻ chuyển trả lương…    - Hệ thống chuyển đổi ngoại tệ linh động (Dynamic Currency Conversion (DCC) cho thẻ ATMs và máy POS; hợp tác về công nghệ và quản lý hệ thống chuyển đổi ngoại tệ linh động cho thẻ ATMs và POS tại các điểm chấp nhận thẻ, đặc biệt là các khu vực chấp nhận thẻ tại nước ngoài được dùng để rút tiền mặt hoặc mua hàng hóa dịch vụ. Mở rộng các điểm chấp nhận thẻ ATMs và POS tại các sân bay quốc tế, trung tâm du lịch, khách sạn, trung tâm mua sắm… Sau lễ ký kết này, ICE sẽ cử các chuyên gia và cán bộ kỹ thuật có kinh nghiệm về các lĩnh vực nêu trên sang Việt Nam để cùng Southern Bank tiến hành các hoạt động đào tạo công nghệ và cách quản lý liên quan đến các sản phẩm dịch vụ cho tất cả các cán bộ chủ chốt và nhân viên nghiệp vụ của Southern Bank. Lễ ký kết hợp tác này là bước phát triển mới sau sự thành công của hợp đồng hợp tác thiết lập hệ thống quầy thu đổi ngoại tệ tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trước đây giữa Southern Bank và ICE. * Mục tiêu cụ thể Theo kế hoạch hoạt động được nhất trí và thông qua giữa Hội đồng quản trị và Ban điều hành SB, các chỉ tiêu hoạt động cụ thể năm 2008 được đưa ra như sau: Tăng vốn điều lệ từ 1.290,789 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng, mức tăng 132% Mức tăng trưởng nguồn vốn đạt 15.549 tỷ đồng, tăng 110.3% Tăng trưởng dư nợ đạt 7.700 tỷ đồng, tăng 65,2%, trong đó tỷ lệ nợ xấu dưới 2% tổng dư nợ. Lãi trước thuế: 312 tỷ đồng, tăng 65% Mức cổ tức chia là 15% Những mục tiêu khác: Tìm kiếm đối tác nước ngoài phù hợp để góp vốn và hợp tác hoạt động. Tiếp tục phát triển mạng lưới hoạt động của Ngân hàng, chủ động mua sắm tài sản cố định cho các địa điểm giao dịch của Ngân hàng. Thành lập các công ty con trực thuộc như Công ty Chứng khoán, công ty Quản lý quỹ đầu tư, công ty Cho thuê tài chính... 3.1.1.2.Định hướng kinh doanh của SB – Hà Nội Về huy động vốn: Chủ trương của SB – Hà Nội trong thời gian tới là tìm kiếm và khai thác tốt nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế với lãi suất thấp, mục tiêu phấn đấu tốc độ tăng trưởng tối thiểu cuối kỳ là 35% so với năm 2007. Về tín dụng: Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và chính sách của Hội Sở đề ra, SB – Hà Nội chủ trương đầu tư cho các doanh nghiệp trọng điểm làm ăn có hiệu quả và sản xuất các sản phẩm có vị thế cạnh tranh cao trên thị trường, ngoài ra phải linh động trong việc cấp tín dụng cho mọi thành phần kinh tế với nhiều hình thức cấp tín dụng khác nhau nhằm tăng dư nợ thêm 50% vào năm 2008. Thực hiện tốt công tác giám sát và quản lý hồ sơ cũng như khâu thẩm định khách hàng và phân loại khách hàng trước khi cho vay, nhằm giảm thiểu tỉ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ < 1,5% vào năm 2008. Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. Về thu dịch vụ : SB – Hà Nội phấn đấu đạt tỷ lệ thu từ dịch vụ chiếm 40% tổng doanh thu, bằng cách đẩy mạnh các dịch vụ TTQT, cho thuê kho quỹ, thu hộ, chi hộ... Về kết quả kinh doanh: Với mục tiêu lợi nhuận tăng 20% so với kế hoạch năm 2007, tức là tăng từ 22 tỷ đồng lên 26,5 tỷ đồng vào năm 2008, SB – Hà Nội phải đẩy mạnh toàn bộ các hoạt động của mình đồng thời phải có các biện pháp nhằm cắt giảm và hạn chế chi phí hoạt động ở mức hợp lý 3.1.2. Định hướng phát triển tín dụng của SB – Hà Nội - Sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động bằng cách mở rộng cho vay đối với khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Ổn định và duy trì mối quan hệ với các khách hàng cũ để nâng cao hiệu quả hoạt động, thu thập thông tin về các hoạt động đầu tư, chủ động tiếp thị và phục vụ đối với nhu cầu vay mới của những đối tượng khách hàng này. - Đẩy mạnh công tác marketing thu hút các khách hàng tiềm năng, đặc biệt là các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu...từ đó có điều kiện tăng dư nợ và thu dịch vụ TTQT. - Tham gia đồng tài trợ cùng các ngân hàng uy tín đối với những dự án có mức đầu tư lớn, nhằm giảm rủi ro đồng thời chủ động học hỏi, tận dụng kinh nghiệm của các Ngân hàng bạn. - Tập trung nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn các phương pháp thẩm định tiên tiến nhằm hoàn thiện quá trình thẩm định, nâng cao năng lực, chất lượng và hiệu quả tín dụng. -Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm định khách hàng, thẩm định dự án của cán bộ tín dụng. Đổi mới tác phong giao dịch ở tất cả các bộ phận nghiệp vụ, đảm bảo xử lý công việc nhanh gọn, an toàn, chính xác với thái độ hoà nhã, đúng mức và có tinh thần trách nhiệm. - Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ gắn liền với việc chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là với công tác tín dụng, thu hồi nợ... GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG TẠI SB- HÀ NỘI: Mục đích của các giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tín dụng là nhằm nâng cao tính chính xác, toàn diện và khách quan nhằm đảm bảo được các yêu cầu mà SB đặt ra là cho vay được và thu hồi nợ gốc và lãi vay theo đúng hợp đồng tín dụng. 3.2.1.Cải tiến nhằm hoàn thiện quy trình phân tích tín dụng: Giải pháp đầu tiên có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng nhất đến chất lượng phân tích tín dụng là hoàn thiện quy trình phân tích tín dụng. Hiện tại, quy trình phân tích tín dụng được áp dụng tại SB chưa được chuẩn hoá, chỉ mới hoàn chỉnh ở mức tương đối. Hiện nay, SB đã có sự tách biệt giữa công tác thẩm định món vay và giải quyết cho vay nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng và nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng. Với sự chuẩn hoá theo quy trình nghiệp vụ, công tác phân tích được thực hiện theo các bước rõ ràng, rút ngắn thời gian phân tích và phân định rõ trách nhiệm của mỗi bộ phận tham gia vào quy trình đó. Để có thể đưa ra quyết định cho vay, hồ sơ của khách hàng được nhân viên phục vụ khách hàng chuyển sang bộ phận thẩm định tín dụng và thẩm định tài sản. Nếu trong hạn mức phán quyết của các trưởng phòng và giám đốc chi nhánh có thể tự quyết, nếu vượt hạn mức thì món vay sẽ được chuyển lên phòng tái thẩm định - Sở Giao dịch và Trung tâm xét duyệt tín dụng, sau đó mới đưa ra phán quyết có cho vay hay không. Khi ngân hàng đồng ý cấp tín dụng, hồ sơ của khoản vay được chuyển sang bộ phận Loan CSR và bộ phận thẩm định tài sản, việc giải ngân được thực hiện từ Loan CSR. Ngoài ra còn nhiều bộ phận chức năng tham gia vào quá trình phán quyết và luân chuyển hồ sơ khoản vay đó. Quá trình luân chuyển hồ sơ tái thẩm định cần thực hiện theo đường truyền dữ liệu tin học nhằm giảm bớt thời gian và chi phí. Việc phân cấp tín dụng theo ngành dọc như trên cho phép ngân hàng quản lý tập trung, hạn chế rủi ro, tuy nhiên lại tạo ra sự cồng kềnh và kéo dài thời gian giải quyết một món vay. 3.2.2.Hoàn thiện nội dung phân tích tín dụng: Giải pháp thứ hai là hoàn thiện nội dung phân tích tín dụng. Ngân hàng cần xem xét lại các chỉ tiêu sử dụng khi phân tích, tuỳ khách hàng và từng món vay mà chú trọng đến các chỉ tiêu tài chính phù hợp. Đối với các món vay ngắn hạn, chỉ số mà ngân hàng cần lưu ý là các chỉ số lưu động, chỉ số nợ; đối với các khoản vay trung và dài hạn thì cần chú ý đến các chỉ số về khả năng sinh lời, khả năng trả nợ của khách hàng. Theo những tiêu chí trên, kết hợp với thông tin về điều kiện của khách hàng và đặc thù của khoản vay, cán bộ tín dụng chỉ cần lựa chọn những chỉ tiêu phù hợp để kết luận về khả năng trả nợ của khách hàng chứ không cần tiến hành phân tích toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp khách hàng. Như đã phân tích ở những phần trên, việc phân tích tín dụng được đặt ra với mục đích là dự báo về những rủi ro tiềm ẩn trong các khoản vay, từ đó tìm cách để hạn chế chúng. Do đó, trong nội dung phân tích cần chú ý đến những nguyên nhân dẫn đến khoản cho vay mất hoặc kém an toàn, khách hàng không có khả năng trả nợ: năng lực quản lý của khách hàng thông qua việc đánh giá về khả năng quản lý tài chính, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản lý..., cơ cấu vốn của khách hàng thông qua các chỉ số về cơ cấu nợ, mức độ tự chủ trong công nghệ, sản phẩm, thị trường, sự cạnh tranh và suy yếu của đối thủ.... Trong phân tích tín dụng, cần xây dựng mô hình hoặc phương pháp dự báo, tạo cơ sở vững chắc và tin cậy để xác định khả năng trả nợ của khách hàng trong tương lai. Về phương pháp, ngân hàng cần bổ sung dự kiến về các nguồn thu mà khách hàng có thể mang lại cho ngân hàng vào trong phân tích tín dụng bằng phương pháp Customer Profitability Analysis (CPA)- phương pháp phân tích khả năng sinh lợi từ khách hàng. Phương pháp này được xây dựng trên giả định rằng ngân hàng nên xem xét toàn bộ quan hệ khách hàng khi tính toán giá cả của mỗi khoản vay. CPA tập trung vào tỷ lệ thu nhập nhận được của khách hàng trong tổng thể các mối quan hệ, được xác định bằng công thức: Tỷ lệ thu nhập trước thuế Thu từ cho vay và các Chi phí cho vay và của ngân hàng xác định dịch vụ khác cung cấp cung cấp các dịch trên tổng thể các mối cho khách hàng vụ cho khách hàng quan hệ với khách hàng Giá trị cho vay ròng Trong đó: - Các khoản thu từ khách hàng bao gồm: lãi tiền vay, các khoản phí dịch vụ và các khoản thu khác. - Chi phí ngân hàng gánh chịu bao gồm: tiền công và tiền lương cho nhân viên ngân hàng, chi phí thẩm định khoản vay, chi trả lãi tiền gửi thanh toán, các khoản chi khác. - Giá trị cho vay ròng là toàn bộ giá trị lượng tín dụng mà khách hàng sử dụng tại thời điểm tính. Trên thực tế, mọi khoản vốn khách hàng sử dụng đều sẽ được xem xét trong quy trình định giá. Nếu tỷ lệ thu nhập được tính toán cho khách hàng trên tổng thể mối quan hệ là tích cực thì yêu cầu vay có thể được chấp nhận vì ngân hàng đã có một khoản thu nhập sau khi trừ đi chi phí đã bỏ ra. Ngược lại, nếu tỷ lệ thu nhập là tiêu cực, thì yêu cầu xin vay có thể từ chối hoặc ngân hàng phải xem xét lại lãi suất cho vay và các chi phí nhằm duy trì mối quan hệ với khách hàng trên cơ sở lợi nhuận. Mức độ tích cực và tiêu cực có thể được coi là trạng thái của tỷ lệ thu nhập, nếu tỷ lệ này lớn hơn không có thể coi là tích cực, nhỏ hơn không là tiêu cực. Tuy nhiên, một khách hàng có rủi ro cao có thể sẽ tạo ra cho ngân hàng một tỷ lệ thu nhập cao và ngược lại. Phương pháp CPA có ý nghĩa trong xem xét khả năng khách hàng có thể mang lại thu nhập cho ngân hàng như thế nào, nó chỉ là một trong những phương pháp nằm trong phân tích tín dụng để làm rõ quan hệ với khách hàng là chấp nhận được hay không. Bản thân phương pháp CPA không thể hiện được những rủi ro của khách hàng. 3.2.3.Xây dựng hệ thống thông tin khách hàng và xếp hạng tín nhiệm khách hàng trong hệ thống ngân hàng SB Thông tin trong tín dụng là các yếu tố đầu vào của quá trình phân tích tín dụng. Nguồn cung cấp thông tin cần được chọn lọc sao cho chất lượng của thông tin đến với ngân hàng là chính xác nhất. Để đạt được yêu cầu này cần phải: - Đa dạng hoá nguồn thông tin, tạo mối quan hệ thường xuyên giữa ngân hàng và đơn vị, cơ quan quản lý doanh nghiệp và khách hàng thường xuyên của doanh nghiệp. - Tạo chế độ báo cáo đối với quan hệ khách hàng, tránh tình trạng chỉ có cán bộ tín dụng là có thông tin về khách hàng, khi cán bộ đó không làm việc tại SB nữa thì những thông tin đó không được lưu trữ và lãng phí. - Hoàn thiện hệ thống lưu trữ thông tin tại SB, từng bước lập ra thư viện thông tin tín dụng online trong toàn hệ thống. Trong thư viện này, mỗi cán bộ tín dụng có thể cập nhật và dễ dàng khai thác, thu thập, sửa đổi, bổ sung thông tin về khách hàng cũng như nhận xét đánh giá về doanh nghiệp. Thư viện này cũng cho cán bộ tín dụng biết được những thông tin về kinh tế, môi trường pháp lý, những xu hướng phát triển ngành nghề, lĩnh vực của nhà nước và dự đoán được sự thay đổi đó. - Đối với các báo cáo doanh nghiệp gửi tới ngân hàng cần đảm bảo về tính chính xác và trung thực. Đây là nguồn thông tin mang tính pháp lý của doanh nghiệp đối với ngân hàng, là căn cứ đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khi nền kinh tế phát triển cao hơn, yêu cầu tất cả các báo cáo tài chính đều qua kiểm toán và có sự chứng nhận của các công ty kiểm toán đó về tính chân thực của các thông tin do các báo cáo mang lại. Hệ thống thông tin khách hàng bao gồm các yếu tố phi tài chính và tài chính được đưa vào chấm điểm tín dụng thông qua hệ thống các câu hỏi có khả năng phản ánh uy tín của khách hàng, những mặt quan trọng phản ánh được khả năng quản lý, kinh doanh của khách hàng. Các yếu tố phi tài chính bao gồm: * Uy tín trong quan hệ tín dụng: - Doanh nghiệp có bao giờ có nợ quá hạn chưa? Số lần nợ quá hạn> - Khi nợ đến hạn doanh nghiệp cần làm gì? Khả năng huy động nguồn vốn để trả nợ ngân hàng? - Nợ quá hạn của doanh nghiệp phát sinh do nguyên nhân nào? * Quan hệ với đối tác kinh doanh và người lao động - Đánh giá của đối tác đối với doanh nghiệp, đặc biệt là đối với ban lãnh đạo? - Quan điểm của lãnh đạo đối với việc trả công người lao động? * Trình độ lãnh đạo - Trình độ học vấn - Trình độ nghề nghiệp - Kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh - Khả năng giao tiếp, tiếp cận thông tin, khoa học * Quan hệ với ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác: chỉ tiêu này vừa phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vừa phản ánh uy tín của doanh nghiệp với ngân hàng trong quan hệ vay trả. Các yếu tố phi tài chính nói trên được xem xét và cho phép ngân hàng đánh giá được uy tín của khách hàng đối với ngân hàng nói chung và SB nói riêng để đưa ra quyết định có tiếp tục quan hệ tín dụng với doanh nghiệp khách hàng hay không. Các yếu tố tài chính bao gồm: * Lợi nhuận sau thuế: căn cứ vào lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, các cán bộ tín dụng hoặc cán bộ có thẩm quyền ra quyết định cấp tín dụng và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Đây là yếu tố quan trọng khi chấm điểm phân loại khách hàng vì nó phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm vay vốn, nó đặc biệt hiệu quả đối với cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên đối với cho vay trung và dài hạn thì cần phải xem xét cho điểm cho cả quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế chính là nguồn tài trợ chính cho ngân hàng từ dự án, do đó nếu chỉ đánh giá tầm quan trọng của chỉ tiêu này so với các chỉ tiêu khác thì chưa thật chính xác. * Khả năng thanh toán ngắn hạn: chỉ tiêu này được tính bằng tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chua cho tổng nợ ngắn hạn. Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn bao gồm tiền mặt, các khoản phải thu, đầu tư chứng khoán ngắn hạn. Việc đánh giá và cho điểm khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp là chỉ tiêu rất hiệu quả đối với các nước trên thế giới, tuy nhiên ở nước ta khi mà uy tín chưa được coi trọng hàng đầu thì các khoản phải thu của doanh nghiệp là rất ít so với thực tế. Do vậy việc cho điểm chỉ tiêu này chưa phải là yếu tố quyết định chủ yếu đến quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với ngân hàng. * Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/ tổng nguồn vốn: ở Việt Nam, các doanh nghiệp có vốn tự có tương đối thấp, vì vậy việc đánh giá chỉ tiêu này nhiều khi chưa chính xác, chưa phản ánh đúng khả năng tiềm ẩn của doanh nghiệp. Nhiều dự án rất hiệu quả, có tính khả thi cao song do vốn tự có của doanh nghiệp thấp nên chỉ được tham gia theo tỷ lệ của vốn tự có. Việc quy định cố định đối với mọi phương án kinh doanh và có phân biệt theo thành phần kinh tế là chưa phù hợp. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, huy động mọi nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Tỷ lệ vốn tự có tham gia vào từng dự án kinh doanh có thể giao quyền chủ động cho các tổ chức tín dụng. * Doanh thu: đây là chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh sự tăng trưởng trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng cần quan tâm đến quy mô của doanh nghiệp năm sau so với năm trước thì mới xác định đúng được tình hình tăng trưởng của doanh nghiệp và cho điểm chính xác. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều sử dụng phương pháp chấm điểm trong các phân tích tín dụng nhằm chuẩn hoá và thống nhất quá trình phân tích, tạo sự thuận lợi và chính xác cho các đánh giá của cán bộ tín dụng. Dựa vào các thông tin trên, doanh nghiệp được đánh giá trên cơ sở các yếu tố khách quan và được lượng hoá qua một hệ số nhất định. Các yếu tố được sắp xếp theo mức độ quan trọng. Điểm được tính theo các yếu tố, sau đó mới nhân với các hệ số của yếu tố đó để tính ra điểm tín dụng khách hàng đạt được theo công thức sau: M = Hi x Ti Trong đó: Hi : hệ số quan trọng của yếu tố thứ i Ti : điểm số của yếu tố thứ i M : tổng số điểm của khách hàng. Hi sẽ được điều chỉnh theo từng thời kỳ, với từng nhóm khách hàng cho phù hợp với tính chất quan trọng của yếu tố đó. Tổng số điểm tín dụng sẽ được so sánh với khung điểm chuẩn xây dựng cho cho tất cả khách hàng để xếp hạng doanh nghiệp với mức độ nhất định. Các cán bộ tín dụng phân tích tín dụng để áp dụng những tín dụng ưu tiên phù hợp đối với từng đối tượng khách hàng. Trong trường hợp chứ có điều kiện xây dựng cơ sở cho việc tính điểm các chỉ tiêu định tính trong công thức trên, thì có thể áp dụng trước cho tính điểm các chỉ tiêu tài chính bằng mô hình điểm số Z (Z- Credit scoring model). Đây là mô hình của tác giả E.I. Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại tín dụng đối với người vay phụ thuộc vào: Trị số tài chính của người vay Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của doanh nghiệp trong quá khứ Mô hình như sau: Z= 1.2 X1 +1.4 X2 + 3.3 X3 + 0.6 X4 + 1.0 X5 Trong đó: X1 : hệ số vốn lưu động/ tổng tài sản X2: hệ số lãi chưa phân phối/ tổng tài sản X3: hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/ tổng tài sản X4: hệ số giá trị thị trường của tổng vốn chủ sở hữu/ giá trị hạch toán của tổng nợ X5: hệ số doanh thu/ tổng tài sản Trị số Z càng cao, khách hàng có xác suất vỡ nợ càng thấp. Với trị số Z thấp hoặc âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm nguy cơ vỡ nợ cao. Cũng theo mô hình này Altman cho rằng bất cứ một công ty nào có điểm số thấp hơn 1.81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Tuy nhiên cần thiết trước tiên là xây dựng được các danh mục các chỉ tiêu, và mức độ quan trọng của các chỉ tiêu đó trong thẩm định. Đưa ra được thang điểm cho từng chỉ tiêu là rất khó khăn, nhất là trong điều kiện hiện nay của SB cũng như một số ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Sẽ có những khích lệ lớn nếu như SB thực hiện thêm chế độ cộng điểm thưởng hoặc trừ điểm phạt đối với khách hàng sau khi đánh giá. Điểm thưởng và điểm phạt sẽ tạo ra sự phân biệt và có những ưu đãi cho những khách hàng có chất lượng tốt. Trên có sở thang điểm và tính toán, cán bộ tín dụng sẽ đưa ra tổng số điwmr cho mỗi khách hàng và các nhóm khách hàng. Và đánh giá sẽ được thực hiện lại thường xuyên để từ đó thay đổi mức xếp hạng của doanh nghiệp. Ở mỗi nhóm khách hàng, mỗi mức xếp hạng SB cần có chính sách tín dụng rõ ràng: chính sách lãi suất, xem xét mức cho vay không có tài sản đảm bảo... đảm bảo những khách hàng tốt được hưởng những ưu tiên tốt hơn. Việc xây dựng được hệ thống chỉ tiêu và đánh giá, xếp loại khách hàng không dễ dàng đối với mỗi ngân hàng trong điều kiện loại hình khách hàng đa dạng, các chỉ tiêu tài chính đánh giá cho các ngành của Nhà nước còn chưa phản ánh chính xác. SB cần nhìn xa và học hỏi các tổ chức tín dụng khác và áp dụng vào điều kiện hiện tại của mình để xây dụng chính sách của riêng mình. 3.2.4.Nâng cao năng lực và phẩm chất cán bộ tín dụng: Trình độ cán bộ phân tích tín dụng là vấn đề đặt ra đối với tất cả các ngân hàng. Trình độ và phẩm chấp của cán bộ tín dụng có ý nghĩa quyết định cơ bản đến chất lượng phân tích tín dụng và sau nữa là hoạt động tín dụng của ngân hàng. Việc nâng cao trình độ của cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng được SB rất quan tâm. Tuy nhiên hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và sự biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế đặt ra cho SB những thách thức lớn về cán bộ. Những cán bộ trẻ có tri thức mới, lý thuyết mới, công cụ phân tích cập nhật thì chưa đủ kinh nghiệm và nhạy bén trong đánh giá quan hệ khách hàng. Lớp cán bộ cũ thì không theo kịp sự thay đổi và chưa trang bị được đủ lý thuyết mới. Để có thể có những cán bộ tín dụng ngân hàng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh cần có những biện pháp cụ thể: - Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng trên tất cả các mặt: ngoại ngữ, tin học để có thể tiếp cận nhanh chóng với kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến. Chọn lọc và đào tạo những cán bộ tín dụng có đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn cao, có chính sách đãi ngộ tốt với cán bộ tín dụng để họ có thể toàn tâm toàn ý làm việc, có chính sách quản lý khách hàng tốt, quản lý cán bộ tốt. - Tổ chức các lớp huấn luyện và đào tạo về kiến thức một số ngành cho cán bộ tín dụng để giúp họ có cơ sở thẩm định, đánh giá về phương diện chuyên môn, về tài sản thế chấp. Do vậy, việc đánh giá tài sản thế chấp như ô tô, nhà đất, các công trình xây dựng cơ bản của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế ảnh hưởng tới công tác phân tích tín dụng và hoạt động cho vay. - Đối với cán bộ tín dụng cần áp dụng chế độ kế hoạch về chỉ tiêu doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ quá hạn, trên cơ sở đó xác định mức lương của từng cán bộ tín dụng, đảm bảo được quyền lợi đi đôi với trách nhiệm. Nếu làm được như vây, tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng và hiệu quả của hoạt động cho vay sẽ được nâng cao. - Cần xây dựng chiến lượng nhân lực cho các năm tiếp theo trước yêu cầu của sự mở rộng và phát triển. Đội ngũ cán bộ tín dụng cần được đào tạo lực lượng kế cận cho những năm tới để đủ sức kinh doanh trong môi trường hiện đại khắc nghiệt và năng động hơn. 3.2.5.Áp dụng mô hình SWOT đánh giá rủi ro tín dụng một cách toàn diện: Đối với khách hàng là doanh nghiệp, yếu tố quan trọng nhất được xem xét là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó có hiệu quả hay không và việc nghiên cứu, đánh giá này cũng nằm trong mục tiêu chung là đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Hiện nay trên thế giới có nhiều mô hình được áp dụng để đánh giá mức độ rủi ro của các doanh nghiệp. SWOT là một trong những mô hình như vậy. Mô hình SWOT tập trung vào khai thác điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của doanh nghiệp trên cơ sở những tiêu chí nhất định. - Mô hình kinh doanh: bao gồm môi trường vĩ mô: điều kiện kinh tế, dân số, chính trị xã hội, hệ thống chính sách của Nhà nước...; và môi trường vi mô: cơ cấu tổ chức, điều lệ, nội quy, các chính sách cho người lao động.... Đối với những nhân tố này, điểm nổi trội của doanh nghiệp là gì, có khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh hay không, đâu là điểm yếu của doanh nghiệp, những thay đổi trong môi trường kinh doanh tạo cơ hội, thách thức gì cho doanh nghiệp?... Những câu hỏi như thế này được đặt ra nhằm giúp ngân hàng trả lời một câu hỏi bao trùm hết cả là: những rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình hoạt động của mình là gì? Doanh nghiệp làm gì để hạn chế những rủi ro đó? từ đó, ngân hàng quyết định xem có thể kiểm soát được những rủi ro đó hay không? - Ngành kinh doanh: lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp có là mũi nhọn hay không? Đây có phải là lĩnh vực kinh doanh đang có xu hướng phát triển trong thời gian tới hay không, vị trí của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác như thế nào? Nhóm câu hỏi này sẽ gợi ý cho ngân hàng nhận biết được vị trí hiện tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và trong ngành nói riêng. - Vấn đề quản lý: cần nằm được cơ cấu tổ chức điều hành và bộ máy lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp. Đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của đội ngũ lãnh đạo, mức độ tin cậy để ngân hàng có thể quan hệ lâu dài, tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo, khả năng nắm bắt và điều hành hoạt động của doanh nghiệp một cách chủ động. - Sở hữu: vấn đề sở hưuc quyết định rất lớn đến hoạt động của một doanh nghiệp. Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề sở hữu cần được hiểu ở một khía cạnh khác vì các doanh nghiệp Việt Nam có thể thuộc sở hữu của Nhà nước, công ty cổ phần mới xuất hiện chưa chịu tác động nhiều của yếu tố biến động cổ phiếu trên thị trường. Mỗi loại hình có những ưu thế riêng và hạn chế nhất định. Chẳng hạn với doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn thì khả năng quản lý kém chặt chẽ và linh hoạt trong khi công ty cổ phần quy mô vốn vừa phải thì việc điều hành qua Hội đồng quản trị rất chặt chẽ và hiệu quả, tuy nhiên về mức độ đảm bảo cho khoản vay của ngân hàng thì doanh nghiệp nhà nước lại có lợi thế hơn. Vậy chủ trương của ngân hàng là gì? - Khả năng sinh lời: bất cứ ngân hàng nào cũng muốn cho vay đối với những khách hàng làm ăn hiệu quả, doanh thu và lợi nhuận tăng trưởng một cách đều đặn. Do đó việc xem xét khả năng sinh lời của một doanh nghiệp là rất quan trọng. Việc xem xét và đánh giá rủi ro tín dụng một cách toàn diện trên môi trường kinh doanh cho phép ngân hàng hạn chế được rủi ro, đồng thời chất lượng phân tích tín dụng cũng được đảm bảo hơn. Mô hình SWOT được xây dựng trên các tiêu chí mang tính cả định tính và định lượng, với các ngân hàng có thể đã thực hiện phân tích đánh giá một hoặc một số tiêu chí của mô hình trong quy trình phân tích, tuy nhiên nếu xem xét có hệ thống và toàn diện sẽ tạo nên sự logic và hiệu quả hơn. 3.2.6.Nâng cao khả năng quản lý tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo là giải pháp phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi những khoản nợ đã cho khách hàng vay trong trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ. Với tầm quan trọng như vậy, việc quản lý tốt tài sản đảm bảo cũng là một trong những biện pháp góp phần tạo sự hiệu quả trong quản lý khoản vay và quản lý khách hàng. Đối với các khoản thế chấp, ngân hàng tiến hành quản lý các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản đó: sổ đỏ đối với quyền sử dụng đất, giấy đăng ký xe đối với phương tiện vận tải.... Đối với tài sản cầm cố, ngân hàng phải trực tiếp quản lý được tài sản đó. Đối với hàng hoá lưu kho tốt nhất là thực hiện gửi giữ bên thứ ba, tức là thực hiện thuê kho bãi. Tuỳ theo từng loại tài sản đảm bảo mà ngân hàng có những biện pháp quản lý riêng. Tuy nhiên vẫn tuân theo những quy tắc nhất định. Trước hết, cần xác định tính hợp pháp của tài sản và chủ sở hữu của tài sản đó. Việc xác minh các giấy tờ này phụ thuộc vào các cơ quan quản lý, ngoài ra ngân hàng cũng cần thực hiện những nhiệm vụ để kiểm tra và xác nhận các giấy tờ này như: tiếp cận trực tiếp khách hàng và tài sản này, xác định thông qua các cơ quan quản lý tài sản (Uỷ ban nhân dân, Sở Tài nguyên môi trường, Sở Địa chính...) để có các nguồn thông tin đáng tin cậy. Đối với những tài sản có yêu cầu mua bảo hiểm, SB giữ giấy chứng nhận bảo hiểm và được quyền thụ hưởng bảo hiểm đối với tài sản đó khi có rủi ro xảy ra. Ngân hàng thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và yêu câù khách hàng mua bảo hiểm, thực hiện nghiêm túc các quy định của ngân hàng. Đối với các tài sản là máy móc, thiết bị, có đặc tính kỹ thuật và thị trường, SB cần có những tư vấn và hiểu biết nhất định về đặc tính của tài sản để quản lý và kiểm soát tốt. 3.2.7.Trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng nhu cầu thu thập thông tin và phân tích thông tin Ngân hàng đã đưa việc tính toán các chỉ tiêu tài chính trong việc thẩm định tín dụng vào chương trình phần mềm vi tính. Với mỗi sự thay đổi trong các thông tin, các số liệu trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp, chương trình phần mềm hiện đại sữ đưa lại những kết quả một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả. Việc tính toán các chỉ tiêu thực chất là việc tiến hành xử lý các thông tin, nếu công việc xử lý thông tin này được đơn giản hoá, giảm chi phí và thời gian thì công việc thu thập thông tin có cơ hội được đầu tư nhiều hơn. Có như thế, nguồn thông tin sẽ có khả năng chính xác cao hơn, tức là công việc thẩm định sẽ có kết quả cao hơn. Đồng thời, giảm được thừoi gian đầu tư cho quá trình thẩm định sẽ làm cho ngân hàng chứng minh được năng lực của mình và tăng uy tín đối với khách hàng. Ngân hàng nên xây dựng cơ sở dữ liệu về thông tin khách hàng, trên đó quản lý tập trung các thông tin của khách hàng của tất cả các nghiệp vụ. Cơ sở dữ liệu đó cho phép lưu trữ thông tin về một khách hàng: số dư tiền gửi tiết kiệm, số dư về tiền gửi thanh toán, quan hệ tín dụng trong quá khứ và các thông tin về nghề nghiệp của khách hàng. Trên cơ sở dữ liệu tập trung đó, các cán bộ ngân hàng từ bộ phận nghiệp vụ tiết kiệm, bộ phận tiên gửi thanh toán, cán bộ tín dụng, hay cán bộ phát triển thẻ đều có thể truy cập và sử dụng. Có được hệ thống cơ sở dữ liệu như vậy giúp ngân hàng giảm bớt được chi phí và thời gian khi khai thác thông tin từ nguồn bên ngoài, đồng thời tận dụng nguồn thông tin mà mình thu thập được. Từ cơ sở dữ liệu tập trung đó, sẽ triển khai theo mô hình chân rết tới tận các phòng ban của toàn bộ ngân hàng, và được các bộ phận đó tiếp tục cập nhật thêm các dữ liệu để các thông tin khách hàng ngày càng được phong phú và chính xác. Để thực hiện điều đó, cần trang bị hệ thống các máy tính, hệ thống mạng nội bộ, mạng và các chương trình phần mềm chuyên dụng cho phép sử dụng trong phân tích và đánh giá cập nhật theo những yêu cầu của thực tế. 3.2.8.Các giải pháp bổ sung khác: Bên cạnh tự bổ sung năng lực cho mình, SB có thể bổ sung năng lực cho cán bộ tín dụng thông qua các hội thảo giữa các cán bộ tín dụng trong toàn hệ thống về các vấn đề còn tranh cãi, giữa phòng kinh doanh và bộ phận tái thẩm định, giữa phòng kinh doanh hội sở và chi nhánh, giữa phòng kinh doanh và các phòng ban khác như quản lý nợ, pháp chế để có thể có tiếng nói thống nhất trong quá trình thực hiện. Ngân hàng có thể lập ra quỹ hỗ trợ thẩm định để tạo nguồn chi phí cho các cán bộ tín dụng có thể mua thông tin từ các kênh thông tin một cách thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho công tác phân tích được chính xác, đầy đủ và kịp thời. KIẾN NGHỊ: 3.3.1.Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước: * Vấn đề cơ cấu lại nợ: Hiện nay số nợ rủi ro và tiềm ẩn rủi ro đã thực sự làm hạn chế thu nhập của các ngân hàng. Để làm lành mạnh hơn, trong sạch hơn dư nợ của các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước cũng đã đưa ra một số giải pháp cụ thể, trong đó có quyết định QĐ 127/2005/QĐ-NHNN về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, trong đó “cơ cấu lại thời hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ vay đối với khoản nợ vay của khách hàng”. Cụ thể như sau: các tổ chức tín dụng tự quyết định việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên cơ sở khả năng tài chính của mình và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay. Toàn bộ số dư nợ gốc vay của khách hàng có khoản nợ cơ cấu tại thời hạn trả nợ được coi là nợ quá hạn và phân loại vào nhóm nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Quyết định một mặt kiểm soát gắt gao hơn, nhưng mặt khác nó lại đội con số nợ quá hạn của các NHTM lên cao vượt bậc, song song với quá trình đó là các biện pháp trích dự phòng, thu nhập của ngân hàng sẽ tiếp tục giảm mạnh. Giải pháp này có tác động đối với ngân hàng và khách hàng, tuy nhiên để có thể giảm được vấn đề nợ quá hạn thì cần giải pháp cho quá trình trước khi giải quyết, thẩm định và quyết định cho vay. Đó là khâu đầu tiên , khâu quan tọng để lọc được những khách hàng tốt và là khâu đầu tiên để xây dựng được dư nợ lành mạnh cho các ngân hàng. * Tăng cường sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt: Ngân hàng Nhà nước cần xem xét và sớm ban hành các quyết định có tính chất tác động và dần tiến tới giảm thiểu các giao dịch tiền mặt, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, thay thế bằng các phương tiện thanh toán như thẻ thanh toán nội địa, thẻ tín dụng, sec chuyển khoản.... Ngân hàng Nhà nước cần sớm hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật quy định về thanht oán không dùng tiền mặt, xây dựng chính sách cho các ngân hàng thương mại thực hiện các đơn vị chấp nhận thanh toán không dùng tiền mặt, dần hình thành thói quen ít sử dụng tiền mặt trong dân cư, tăng cường giao dịch thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt. * Quy định thống nhất về công tác kế toán và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm toán: Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính quy định thống nhất về công tác kế toán và nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán. Công tác quản lý Nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh) chưa được chú ý đúng mức. Hiện nay chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước và số ít các doanh nghiệp tư nhân có hoạt động kế toán tương đối nghiêm túc và theo đúng quy định của pháp luật. Còn lại phần lớn các doanh nghiệp tư nhân làm kế toán rất sơ sài tuỳ tiện. Đấy là chưa kể các trường hợp lập cùng lúc nhiều bộ sổ kế toán hòng gian lận và che mắt các cơ quan chức năng. Tình trạng này thường xảy ra ở các doanh nghiệp tư nhân mà hoạt động của công tác kế toán không mấy phức tạp, ít nghiệp vụ. Do đó việc đánh giá tình hình tài chính ở các đơn vị này rất khó khăn. Để khắc phục những vướng mắc này, cán bộ tín dụng sẽ phải rất vất vả nếu phải kiểm tra lại toàn bộ các chứng từ phát sinh của đơn vị. Cách làm này sẽ cho ra kết quả trung thực, chính xác về tình hình linh doanh của đơn vị nhưng lại mất quá nhiều thời gian và công sức. Để hạn chế được bất lợi này, các cán bộ tín dụng có thể nhờ sự kiểm nghiệm của công ty kiểm toán nhưng hiện nay, các công ty kiểm toán lại chưa được sự tín nhiệm. Công ty kiểm toán Nhà nước còn quá non trẻ, đội ngũ cán bộ chưa dày dạn kinh nghiệm. Các công ty kiểm toán nước ngoài hoạt động có phần hiệu quả hơn song chủ yếu phục vụ cho các công ty liên doanh. Điều đáng quan tâm lại là năng lực, trình độ. Trên thực tế, chuyên môn của các kiểm toán viên cũng ngang tầm với kế toán doanh nghiệp thậm chí không nắm rõ tình hình tài chính bằng kế toán viên doanh nghiệp, nhất là trường hợp họ cố ý che giấu. Thực trạng như vậy đã đặt ngân hàng vào một sự nghi ngờ đối với những số liệu của kiểm toán, các kết luận kiểm toán lúc này chỉ mang tính chất tham khảo chứ không thể làm bằng chứng trực tiếp cho các quyết định tín dụng. Trước tình hình như vậy, Nhà nước cần ban hành những quy định có tính chất bắt buộc về sử dụng hệ thống kế toán đối với các doanh nghiệp cũng như các quy định chuẩn về mức độ tin cậy của công ty kiểm toán. Bản thân công tác kiểm toán cần nâng cao hiệu quả của mình để hỗ trợ ngân hàng. Đồng thời Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra sổ sách, phát hiện các doanh nghiệo vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời. * Những vấn đề về tài sản đảm bảo: Trước hết, Nhà nước là nơi ban hành và chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp tài sản của mọi công dân. Trong quan hệ tín dụng với ngân hàng, khách hàng thường sử dụng tài sản đảm bảo như nhà đất, phương tiện vận tải để đảm bảo cho khoản vay, ngân hàng sẽ giữ lại giấy chứng nhân quyền sở hữu các tài sản đó và các giấy tờ có liên quan khác. Rủi ro có thể xảy ra khi các giấy tờ đó có thể bị làm giả và không được phát hiện bởi cơ quan công chứng. Vấn đề đặt ra cho ngân hàng là cơ sở để đặt niềm tin vào các tài sản đó là ở đâu? Trong trường hợp giấy tờ giả thì trách nhiệm của cơ quan công chứng là ở đâu, mức độ như thế nào? Thứ hai liên quan đến việc định giá tài sản thế chấp. Việc làm này tiến hành tương đối dễ dàng bởi vì các ngân hàng đã có khung giá chuẩn quy định đối với từng loại nhà cửa, đất đai. Tuy nhiên, khung giá này phải thường xuyên được điều chỉnh theo biến động của thị trường, tránh trường hợp quá lỗi thời, nhất là trong tình hình kinh tế xã hội nước ta chưa ổn đinhk. Việc định giá không chỉ dừng lại ở đó mà cán bộ tín dụng cần xuống tận nơi tham quan hiện trường, tranh thủ điều tra giá trị vô hình của tài sản. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần quan tâm đến những yếu tố duy tâm theo truyền thống tư tưởng Việt Nam trong quá trình định giá tài sản: nhà thót hậu hay đã từng có án mạng... Tóm lại, Nhà nước cần ban hành các quy định, hiệu quả rõ ràng hơn và nhất là có tính cưỡng chế cao hơn về vấn đề thế chấp vốn ngân hàng. Đồng thời các quy định không nên dừng lại ở quyền và nghĩa vụ đối với người đi vay và người cho vay mà cần có quy định đối với các bên có liên quan, nhất là cơ quan công chứng. * Tham gia vào việc nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng: Muốn nâng cao trình độ đội ngũ Cán bộ ngân hàng thì ngân hàng Nhà nước cần tăng cường vai trò hỗ trợ cho nâng cao nghiệp vụ, phát triển đội ngũ nhân viên, trợ giúp về thông tin và kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại. Hàng năm, ngân hàng Nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các NHTM trong công tác thẩm định tín dụng. Bản chất của công tác thẩm định vô cùng phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực nên nó bị chi phối bởi mỗi nhân tố tác dụng lên mỗi lĩnh vực. Tất cả các liên quan ở tầm vĩ mô đều có ảnh hưởng như thể các hạ tầng cơ sở đối với công tác thẩm định dự án. Tuy nhiên, bản thân công tác thẩm định phải luôn tự hoàn thiện và nâng cao chất lượng công việc. Điều này phụ thuộc vào khả năng và sự nỗ lực của ngành ngân hàng, của hệ thống, của từng chi nhánh và của mỗi cán bộ làm công tác tín dụng. * Cần có nhiều cải cách trong cơ chế giám sát hoạt động của các NHTM: Trong thời gian qua cơ chế giám sát rủi ro của ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng đã có nhiều đổi mới như: đưa ra các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, phương pháp giám sát dựa trên hệ thống chỉ tiêu giám sát CAMELS... Tuy nhiên, cơ chế giám sát hoạt động của ngân hàng Nhà nước còn nhiều hạn chế về tính giám sát toàn diện rủi ro trong hoạt động ngân hàng, về tính độc lập tương đối, về phương pháp tổ chức thanh tra giám sát và năng lực thanh tra viên. Vì vậy, vấn đề cải cách cơ chế giám sát hoạt động của NHTM trong bối cảnh hội nhập là rất cần thiết. Nội dung của cải cách là nhằm chuyển sang một cơ chế giám sát hiệu quả đối với các định chế tài chính, nhất là đối với các NHTM Nhà nước, theo đó: - Mục tiêu hoạt động giám sát ngân hàng cần phải được nêu rõ, khả thi và công khai minh bạch. Cụ thể, mục tiêu của giám sát ngân hàng là nhằm: đảm bảo thị trường tài chính hiệu quả, ổn định và có khả năng cạnh tranh, tạo ra hệ thống quản trị rủi ro hiệu quả đối với các rủi ro hoạt động, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro pháp lý, rủi ro thị trường, rủi ro uy tín, rủi ro chiến lược. - Quyền lực của cơ quan giám sát ngân hàng cần phải được quy định rõ trong luật, đủ để cho phép cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng thực hiện các chức năng của họ có hiệu quả. Đồng thời, cơ quan giám sát ngân hàng cần phải có đủ nguồn lực và vị trí tương đối độc lập về mặt chính trị để đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Mặt khác, cơ quan giám sát ngân hàng phải có cơ chế công khai minh bạch và chịu trách nhiệm rõ ràng, để các cơ quan giám sát có thể đề ra được các quyết định công bằng hiệu quả và chất lượng cao. - Các thanh tra viên cần phải có kiến thức đầy đủ về các rủi ro trong hoạt động ngân hàng và các công cụ quản lý rủi ro, hiểu rõ môi trường hoạt động ngân hàng và các kênh chuyển tải các rủi ro. Do vậy, ngân hàng Nhà nước cần đổi mới phương pháp đào tạo thanh tra viên. Kiến thức về hoạt động ngân hàng của thanh tra viên phải toàn diện. - Hoạt động giám sát của ngân hàng Nhà nước đối với các định chế tài chính phải chuyển từ cơ chế giám sát việc chấp hành như hiện nay sang cơ chế giám sát rủi ro dựa vào cơ chế thị trường gián tiếp. Cơ chế này sẽ giúp nâng cao các kỹ năng và công cụ quản lý rủi ro. Phương pháp quản lý theo rủi ro là yêu cầu không thể thiếu đối với hoạt động kinh doanh hằng ngày của các tổ chức tín dụng, nó đòi hỏi việc phân tích tín dụng một cách chặt chẽ hơn, yêu cầu việc thu thập và xử lý thông tin một cách có hệ thống hơn. - Việc thực hiện chuẩn mực của Basel I phải trở thành một sự bắt buộc đối với tất cả các ngân hàng trong nước cũng như nước ngoài. Điều này, trước mắt sẽ tạo ra những thách thức cho các NHTM, nhưng lại là bước quan trọng để có thể cạnh tranh hiệu quả trong trung hạn và sẽ tạo ra sự bình đẳng trên sân chơi đầy cạnh tranh. Đồng thời tạo những nền tảng cơ bản để tiến tới áp dụng Basel II trong tương lai. - Cần nâng cao cơ sở hạ tầng tài chính như phát triển thị trường trái phiếu, các công cụ phòng ngừa rủi ro và cải thiện tính kịp thời và chính xác của báo cáo số liệu thông qua hệ thống báo cáo thống kê của ngân hàng Nhà nước để nâng cao chất lượng hoạt động giám sát từ xa. - Tăng cường và nâng cao hiệu quả của thanh tra tại chỗ, để kịp thời ngăn chặn những hành động mạo hiểm chấp nhận rủi ro của các NHTM nhừm cạnh tranh để tăng thị phần. - Ngoài việc quy định các tỷ lệ an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng như tỷ lệ đủ vốn, tỷ lệ thanh khoản... ngân hàng Nhà nước cần có các chính sách giám sát đối với các rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, chính sách về duy trì trạng thái ngoại hối, duy trì các tài sản có tính thanh khoản cao, chính sách quản lý về dịch vụ ngân hàng điện tử. Trong các chính sách này phải quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của ban điều hành, quy định quy trình quản lý rủi ro, hướng dẫn đánh giá, kiểm soát và giám sát rủi ro. Bên cạnh đó, ngân hàng Nhà nước phải có các quy định về các công cụ tài chính phát sinh, như giao dịch phát sinh ngoại hối, lãi suất, hàng hoá, hoán đổi cổ phiếu và trái phiếu... - Hội nhập kinh tế tất yếu sẽ hình thành các tập đoàn tài chính tại Việt Nam, vì vậy ngân hàng Nhà nước cần sớm xây dựng chính sách giám sát tổng hợp, tức là giám sát toàn bộ các đơn vị phụ thuộc, nhằm đảm bảo an toần về năng lực, sự ổn định cả về số lượng và chất lượng của tập đoàn tài chính. Giám sát tổng hợp tập trung vào các rủi ro trong nội bộ tập đoàn tài chính và bản thân mỗi đơn vị phụ thuộc. - Trong bối cảnh hội nhập, để hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, bền vững, ngoài việc phải đổi mới cơ chế giám sát của từng các tổ chức tín dụng, phải có yêu cầu các tổ chức tín dụng công khai hoá thông tin tài chính ở cấp độ cao và có hệ thống kiểm toán độc lập. Việc yêu cầu báo cáo công khai phải được hỗ trợ bằng một hệ thống chuẩn mực kế toán phù hợp với thông lệ, được quốc tế công nhận. - Cần phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiện tại theo hướng góp phần giải quyết được các yếu kém của cơ chế giám sát và những yếu kém về thể chế khác. Do vậy, điểm mấu chốt của bảo hiểm tiền gửi là phải xác định được những yếu kém của ngân hàng và có biện pháp điều chỉnh kịp thời. 3.3.2.Kiến nghị đối với các ban ngành có liên quan: - Bộ Tài chính cần có sớm ban hành và có biện pháp kiểm soát chặt chẽ quy chế tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, qua đó đảm bảo chuẩn mực kế toán được thực hiện thống nhất, tạo điều kiện xây dựng những phương pháp đánh giá và thuận lợi cho ngân hàng trong việc kiểm tra, đánh giá, phân tích năng lực tài chính và tình hình hoạt động của doanh nghiệp - Các bộ, ngành, địa phương cần phối hợp chặt chẽ hơn trong việc trao đổi và cung cấp các thông tin, lập và phát triển một mạng thông tin trong toàn quốc với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan trong việc đổi mới hệ thống cung cấp thông tin phục vụ cho việc đưa những mức phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực. Tạo cơ sở để phân tích, so sánh và đánh giá mức độ phát triển của mỗi đối tượng doanh nghiệp trong xu hướng chung của toàn ngành. - Việc xử lý tài sản thế chấp, tài sản bảo lãnh gặp rất nhiều vướng mắc. Số lượng những món vay thu hồi được từ bán tài sản chiếm tỷ lệ thấp so với số lượng món vay khó thu hồi. Các Bộ công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có những văn bản thống nhất để việc phát mại tài sản thế chấp của các NHTM được tiến hành thuận lợi hơn. - Các bộ, ban, ngành cần ban hành những chỉ dẫn, quy định cụ thể hơn đối với việc đăng ký giao dịch đảm bảo. KẾT LUẬN Với bất cứ một ngân hàng nào, mục đích hoạt động được xác định rõ ràng đó là tăng lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Trong các hoạt động của ngân hàng, tín dụng có thể nói là hoạt động mang tới nhiều rủi ro nhất và đòi hỏi sự quan tâm số một của tất cả các ngân hàng thương mại. Nâng cao chất lượng phân tích là biện pháp cụ thể nhằm góp phần giảm bớt rủi ro trong hoạt động này. Trong những năm qua, SB – Hà Nội đã không ngừng hoàn thiện và tập trung mạnh vào việc nâng cao chất lượng phân tích tín dụng. Là một cán bộ tín dụng, với kinh nghiệm và thực tế làm việc của mình, người viết cảm thấy tâm huyết với đề tài của luận văn. Về cơ bản, luận văn đã phân tích và giải quyết được một số vấn đề, đó là: - Những lý luận chung về tín dụng và chất lượng phân tích tín dụng, qua đó giúp người đọc có được những kiến thức tổng quát về tín dụng, phân tích tín dụng và hiểu được vai trò của việc nâng cao chất lượng tín dụng. - Trình bày và đánh giá chung về tình hình tín dụng và phân tích tín dụng tại SB – Hà Nội, thông qua một ví dụ điển hình để từ đó rút ra những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế đó. - Từ những hạn chế và nguyên nhân đã được phân tích, người viết đã mạnh dạn đóng góp các giải pháp và kiến nghị để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng phân tích tín dụng tại cơ sở mình nói riêng cũng như tại các NHTM nói chung. Để hoàn thành luận văn của mình, tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Vũ Duy Hào, các thầy cô giáo Khoa Ngân hàng - Tài chính và các thầy cô Viện Sau đại học - Trường Đại Học KTQD, những ý kiến góp ý của Ban lãnh đạo Ngân hàng TMCP Phương Nam – Chi nhánh Hà Nội. Luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót trong nôi dung và phần trình bày, rất mong được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35483 .doc
Tài liệu liên quan