Luận văn Những bài học kinh nghiệm và một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán thực hiện

Kiểm toán là một trong những lĩnh vực mới ở nước ta. Trước đây, trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, khái niệm về kiểm toán còn rất ít người, kể cả những cán bộ quản lí kinh tế biết đến. Chỉ từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN, các hoạt động kinh tế, xã hội vận động theo sự điều chỉnh của quy luật kinh tế thị trường, từ đó đặt ra các yêu cầu, đòi hỏi cấp bách và khách quan về đổi mới các công cụ quản lí kinh tế, vai trò của công tác kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng mới được xác lập và ngày càng nâng cao, trở thành công cụ tài chính đắc lực, làm lành mạnh nền kinh tế, cung cấp các thông tin xác thực, có độ tin cậy cao trong công tác quản lí, đem lại niềm tin cho các cơ quan quản lí và tất cả những người quan tâm. Với sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, công tác kiểm toán nước ta đã và đang trong quá trình phát triển. Cơ quan kiểm toán Nhà nước được hình thành và hoạt động với kết quả đáng khích lệ. Các công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam và nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam đã hoạt động tích cực và góp phần đáng kể vào công tác quản lí kinh tế tại nhiều doanh nghiệp. Đó là những kết quả thực tế, khách quan không ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, nếu nghiêm túc đánh giá về hoạt động kiểm toán ở nước ta hiện nay, từ góc độ nghiên cứu khoa học, có thể thấy còn khá nhiều vấn đề cần trao đổi, trong đó có một số vấn đề nổi cộm đang được quan tâm hiện nay như: xây dựng hệ thống các quy định, chuẩn mực nghề nghiệp; đảm bảo sự thống nhất trong kết quả kiểm toán đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán độc lập về báo cáo kiểm toán mà họ phát hành.

doc89 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những bài học kinh nghiệm và một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chúng tôi nhận thấy trong quá trình kiểm toán. Những vấn đề trình bày trong thư quản lí này được chúng tôi rút ra từ việc thực hiện các thủ tục kiểm toán thông thường, chủ yếu nhằm giúp chúng tôi trình bày ý kiến về Báo cáo tài chính năm 2002. Do đó những ý kiến của chúng tôi không bao gồm tất cả các đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ mà một cuộc kiểm toán đặc biệt có thể đưa ra. Nhân dịp này chúng tôi xin bày tỏ lời cám ơn chân thành đối với lãnh đạo Tổng Công ty Xi măng Việt Nam, Công ty A và toàn thể cán bộ công nhân viên phòng Tài chính kế toán, các phòng ban có liên quan của Công ty đã giúp đỡ và cộng tác chặt chẽ cùng chúng tôi trong quá trình thực hiện công tác kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2002. Kính thư, Công ty dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Phó giám đốc (Kí tên, đóng dấu) Lê Đăng Khoa Mục lục thư quản lí: Cho năm tài chính kết thúc vào ngày 31/12/2002 A. Tóm tắt thực hiện: Bảng dưới đây tóm tắt phần quan trọng của mỗi đề xuất mà chúng tôi muốn đưa ra sau khi thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính cho niên độ kế toán kết thúc vào ngày 31/12/2002 của Công ty A nhằm giúp Công ty hoàn thiện công tác kế toán. Các đề xuất Mức độ ưu tiên Ghi chú A B 1. Về việc thực hiện chế độ chứng từ, hoá đơn theo quy định 2. Về hạch toán các khoản tạm ứng 3. Về hạch toán và theo dõi hàng mua đang đi đường 4. Hạch toán nguyên vật liệu, hàng hoá tồn kho 5. Về hạch toán chi phí chờ phân bổ 6. Về hạch toán quản lí và khấu hao TSCĐ 7. Về hạch toán thuế GTGT 8. Về hạch toán các khoản công nợ phải thu, phải trả 9.Về việc hạch toán chi phí kinh doanh 10. Về việc hạch toán doanh thu 11. Hạch toán các khoản thu nhập khác ỹ ỹ ỹ ỹ ỹ ỹ ỹ ỹ ỹ ỹ ỹ Chú thích: Mức độ ưu tiên A: Các biện pháp cần thực hiện càng sớm càng tốt B: Các quy định có thể chưa cần thực hiện ngay nhưng cần thực hiện trong tương lai. B. Các đề xuất chi tiết: 1. Về việc thực hiện chế độ chứng từ hoá đơn theo quy định: Quy định: Theo quy định hiện hành tại Quyết định 1141 TC/QĐ/CĐ kiểm toán ngày 01/11/1995 về việc ban hành chế độ kế toán trong doanh nghiệp, Quyết định 167/2000/QĐ - BTC ngày 25/10/2002 về chế độ Báo cáo tài chính doanh nghiệp của Bộ Tài chính thì mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh trong các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đều phải lập chứng từ kế toán hợp lí, hợp lệ làm căn cứ hạch toán và ghi sổ kế toán. Cũng theo quy định tại Quyết định số 885/1998/QĐ - BTC ngày 16/7/1998 của Bộ Tài chính về chế độ quản lí và sử dụng hoá đơn thì các khoản chi mua hàng hoá, dịch vụ có giá trị trên 100 nghìn đồng thì phải có hoá đơn tài chính. Qua kiểm tra chúng tôi thấy: Tại Công ty A năm 2002 một số phiếu thu, phiếu chi chưa ghi đầy đủ các yếu tố cần thiết trên chứng từ, cụ thể là không ghi các yếu tố: dòng kèm theo ... chứng từ gốc, đã nhận đủ tiền (viết bằng chữ) ... Một số phiếu xuất kho ghi chép nội dung chưa rõ ràng, còn gạch xoá nhiều. Một số khoản chi mua vật tư, hàng hoá, văn phòng phẩm, tiếp khách, chi phí xây dựng đề án phát triển Công ty có giá trị trên 100.000 đồng chưa có hoá đơn tài chính theo quy định. ảnh hưởng: Các chứng từ thu, chi phát sinh còn thiếu hoặc chưa đầy đủ các yếu tố cần thiết của chứng từ, nội dung chưa rõ ràng, không có hoá đơn tài chính hoặc thiếu chứng từ gốc hợp lệ ... đều ảnh hưởng đến tính hợp lí hợp lệ của chứng từ. Các khoản chi này theo quy định sẽ không được tính vào chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Đề xuất: Công ty A cần nghiên cứu và chỉ đạo và hướng dẫn bộ phận kế toán thực hiện đúng chế độ chứng từ, hoá đơn theo quy định hiện hành của Nhà nước về công tác tài chính và kế toán. . . . . . . . . . 8. Về hạch toán các khoản công nợ phải thu, phải trả: Quy định: Theo quy định của chế độ kế toán Việt Nam ban hành: Định kì và cuối năm trước khi lập Báo cáo tài chính, kế toán phải tiến hành đối chiếu và xác nhận công nợ với từng khách nợ và chủ nợ, đặc biệt là các khoản nợ quá hạn và nợ khó đòi. Qua kiểm tra chúng tôi thấy: Tại thời điểm lập Báo cáo tài chính, đơn vị đã tiến hành đối chiếu các khoản công nợ phải thu, phải trả song chưa thường xuyên, chưa đầy đủ, còn nhiều đối tượng nợ chưa được đối chiếu xác nhận dẫn đến trong năm 2002, kế toán đơn vị đã hạch toán trùng một số bút toán công nợ, làm tăng khống chi phí và tăng khống công nợ tài khoản 331 “Phải trả người bán” trong năm lên là 438.353.900 đồng ảnh hưởng; Tình hình đối chiếu công nợ chưa đầy đủ làm tăng khống một số bút toán công nợ phải trả người bán như đã nêu trên làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính cũng như các chỉ tiêu tài chính liên quan trên Báo cáo tài chính. Đề xuất: Theo ý kiến của chúng tôi, Công ty A cần chỉ đạo và hướng dẫn, đôn đốc bộ phận kế toán theo dõi chi tiết công nợ thực hiện công tác mở sổ, hạch toán đúng quy định và thường xuyên tiến hành kiểm tra, rà soát, đối chiếu, xác nhận nợ đối với từng chủ nợ và khách nợ. 9. Về việc hạch toán chi phí kinh doanh: Theo quy định hiện hành tại Thông tư số 63/1999/TT-BTC ngày 7/6/1999 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn quản lí doanh thu, chi phí và giá thành sản phẩm, dịch vụ tại DNNN thì các khoản chi sau đây không được hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kì: - Các khoản chi mang tính chất phúc lợi - Các khoản chi không có chứng từ hoặc chứng từ không hợp pháp ... Qua kiểm tra chúng tôi thấy: Tại Công ty A trong năm tài chính 2002 còn hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kì một số khoản chi như: Chi sửa chữa các công trình mang tính chất phúc lợi 98.757.000 đồng Trong năm 2002, đơn vị còn hạch toán trùng một số bút toán về các khoản chi sửa chữa lớn thuê ngoài vào chi phí với tổng tiền là 438.353.900 đồng (như đã nêu ở mục 8). Vấn đề này chúng tôi đã kiến nghị và đơn vị đã thống nhất thực hiện điều chỉnh trong Báo cáo tài chính. ảnh hưởng: Việc hạch toán các khoản chi không đúng quy định nêu trên sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả lãi, lỗ trong năm, ảnh hưởng đến tình hình nộp Ngân sách Nhà nước cũng như các chỉ tiêu tài chính liên quan của đơn vị. Đề xuất: Theo ý kiến của chúng tôi, đề nghị Công ty A chỉ đạo bộ phận kế toán thực hiện đúng các quy định hiện hành của Nhà nước vế chế độ hạch toán kế toán, quản lí doanh thu, chi phí và giá thành sản phẩm. Bảng số 11: Báo cáo của Ban giám đốc Công ty B Công ty cổ phần B Điện thoại: xxx Số xxx Trường Chinh - Quận Tân Bình Fax: xxx Thành phố Hồ Chí Minh ---------------------------------------------------------------- Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 03 năm 2003 Báo cáo của ban giám đốc Tổng quan về doanh nghiệp: Công ty cổ phần B là doanh nghiệp được thành lập dưới hình thức chuyển từ DNNN thành Công ty cổ phần theo Quyết định số xxx/QĐ-UB-kiểm toán ngày xxx/06/1998 và Quyết định số xxx/QĐ-UB-CNN ngày xxx /2/1998 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh; là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đầy đủ, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Ngân hàng theo quy định của pháp luật và tổ chức hoạt động kinh doanh theo giấy phép đăng kí số xxx ngày 31/8/1998 của Sở Kế hoạch đầu tư, các giấy phép thay đổi kinh doanh khác của phòng đăng kí kinh doanh Sở Kế hoạch đầu tư TP Hồ Chí Minh cấp. Vốn điều lệ của Công ty hiện nay: 13.347.000.000 đồng. Trụ sở của Công ty đặt tại số xxx Trường Chinh – Quận Tân Bình – TP Hồ Chí Minh. Theo quyết định thành lập và các giấy phép đăng kí thay đổi kinh doanh, hoạt động kinh doanh chính của Công ty bao gồm: - Sản xuất, kinh doanh ngành in, ngành ảnh, ngành bao bì, đồ chơi trẻ em và thiết bị giáo dục, phát hành sách báo, băng và đĩa từ. - Kinh doanh thương mại và dịch vụ tổng hợp, quảng cáo, rạp hát, chiếu bóng và các loại hình vui chơi giải trí, sửa chữa lắp ráp thiết bị điện tử, dịch vị phần mềm tin học, cho thuê, in sang băng đĩa từ và các dịch vụ đời sống khác. - Tham gia hoặc trực tiếp đầu tư trong và ngoài nước về lĩnh vực văn hoá và kỹ thuật sản xuất các sản phẩm ngành văn hoá. - Sản xuất nguyên vật liệu cho ngành bao bì, sản xuất mực in ... Danh sách Ban giám đốc và ban kiểm sát nhiệm kì hiện nay của Công ty Họ và tên Chức vụ Giới tính Nhiệm kì Hoàng Văn Điều Lại Thị Hoà Nguyễn Văn Sơn Lê Thị Thảo Lý Thị Mai Nguyễn Kim Anh Chủ tịch HĐQT Tổng giám đốc điều hành Phó chủ tịch HĐQT Giám đốc tài chính Uỷ viên HĐQT Giám đốc sản xuất Trưởng ban kiểm soát Phó trưởng ban kiểm soát Kiểm soát viên Nam Nữ Nam Nữ Nữ Nữ Bổ nhiệm ngày 14/8/1998 nt nt nt nt nt Công ty thực hiện kiểm toán: Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) là đơn vị kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2002 của Công ty. Trách nhiệm của Ban giám đốc: Ban giám đốc Công ty cổ phần B có trách nhiệm lập Báo cáo tài chính phản ánh một cách trung thực và hợp lí tình hình tài chính, kết qủa hoạt động kinh doanh của Công ty cho kì hoạt động từ ngày 01/01/2002 đến ngày 31/12/2002. Trong việc lập báo cáo, các yêu cầu sau được tuân thủ: - Tuân thủ các quy định của chế độ kế toán Việt Nam và các quy định hiện hành khác có liên quan. - Lựa chọn các chính sách kế toán thích hợp và áp dụng các chính sách đó một cách nhất quán. - Đưa ra các phán đoán và ước tính một cách hợp lí và thận trọng về các thông tin trình bày trên Báo cáo tài chính. Ban giám đốc cam kết rằng Công ty cổ phần B đã tuân thủ các yêu cầu trên trong việc lập Báo cáo tài chính. Hội đồng quản trị và Ban giám đốc có trách nhiệm đảm bảo rằng sổ kế toán được ghi chép một cách phù hợp để phản ánh một cách trung thực, hợp lí tình hình tài chính của Công ty tại mọi thời điểm và đảm bảo tuân thủ hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành. Hội đồng quản trị và Ban giám đốc cũng chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn cho tài sản của Công ty và thực hiện các biện pháp thích hợp để ngăn chặn, phát hiện các hành vi gian lận và sai phạm khác. T/M Ban giám đốc Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng giám đốc điều hành (Kí tên, đóng dấu) Hoàng Văn Điều Nguồn: Trích tài liệu làm việc của kiểm toán viên Bảng số 12: Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính của Công ty B Số 01 – Lê Phụng Hiểu Công ty dịch vụ Tư vấn Tài chính Điện thoại: (84-4)8241990 Kế toán và Kiểm toán Fax: (84-4)8353973 ---------------------------------------------------------------------------- Số: 178/BCKT/TC Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính cho giai đoạn từ ngày 01/01/2002 đến ngày 31/12/2002 của Công ty cổ phần B Kính gửi: Hội đồng quản trị, Ban giám đốc Công ty cổ phần B Chúng tôi đã tiến hành kiểm toán Báo cáo tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán tại ngày 31 tháng 12 năm 2002; Báo cáo kết quả kinh doanh và Thuyết minh Báo cáo tài chính năm tài chính kết thúc ngày 31 tháng 12 năm 2002 được lập ngày 09 tháng 03 năm 2002 của Công ty cổ phần B (dưới đây gọi tắt là Công ty) Việc lập và trình bày Báo cáo tài chính này thuộc trách nhiệm của Ban giám đốc Công ty. Trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến là đưa ra ý kiến về Báo cáo tài chính căn cứ trên kết quả kiểm toán của mình. Cơ sở của ý kiến Chúng tôi đã thực hiện công việc kiểm toán theo các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Các chuẩn mực này yêu cầu công việc kiểm toán lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo hợp rằng các Báo cáo tài chính tài chính không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Chúng tôi đã thực hiện kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu và áp dụng các thử nghiệm cần thiết, các bằng chứng xác minh những thông tin trong Báo cáo tài chính , đánh giá việc tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng, các ước tính và xét đoán quan trọng của Ban giám đốc cũng như cách trình bày tổng quát các Báo cáo tài chính. Chúng tôi cho rằng công việc kiểm toán của chúng tôi đã đưa ra những cơ sở hợp lí để làm căn cứ cho ý kiến của chúng tôi. ý kiến của kiểm toán viên: Chúng tôi đã không thể tham gia kê hàng tồn kho vào ngày 31/12/2002 vì tại thời điểm đó chúng tôi chưa được bổ nhiệm làm kiểm toán. Với những tài liệu hiện có ở đơn vị chúng tôi cũng không thể kiểm tra được tính đúng đắn của số lượng hàng tồn kho tại thời điểm trên bằng các thủ tục kiểm toán khác. Trong năm 2002, Công ty chỉ có Xí nghiệp nhựa xuất khẩu Xuân Mai tính giá thành sản phẩm cho các sản phẩm của mình còn các sản phẩm của các đơn vị trựcthuộc khác của Công ty chưa tính được giá thành để xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kì. Thêm vào đó, như đã trình bày trong Báo cáo tài chính trong năm và tính đến ngày 31/12/2002 Công ty đã gánh chịu một khoản lỗ là 473.850.690 đồng. Nợ ngắn hạn vượt quá tài sản của Công ty là 7.257.590.091 đồng. Vấn đề này cùng với các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán đã nêu ở ghi chú số 20 trong Thuyết minh Báo cáo tài chính làm nảy sinh sự nghi vấn về khả năng Công ty có thể tồn tại như một doanh nghiệp đang hoạt động. Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) từ các vấn đề nêu trên, xét trên những khía cạnh trọng yếu, Báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực, hợp lí tình hình tài chính của Công ty cổ phần B tại ngày 31 tháng 12 năm 2002, cũng như kết quả kinh doanh cho kì kế toán từ ngày 01/01/2002 đến ngày 31 tháng 12 năm 2002 phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lí có liên quan. Hà Nội, ngày 09 tháng 03 năm 2003 Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kiểm toán viên Kế toán và Kiểm toán (AASC) Phó giám đốc (Chữ kí) (Chữ kí, đóng dấu) Lê Đăng Khoa Nguyễn Văn Sâm Chứng chỉ kiểm toán viên Chứng chỉ kiểm toán viên số Đ-0057/KTV 0447/KTV Nguồn: Hồ sơ kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2002 của Công ty B Trên đây tác giả đã trích dẫn chi tiết bộ báo cáo kiểm toán chính thức của hai công ty A và B. Trong phạm vi của luận văn này tác giả không trình bày về các Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của khách hàng cũng như không nêu đầy đủ nội dung của thư quản lí do phạm vi trình bày của Báo cáo tài chính cũng như thư quản lí quá dài không phù hợp với giới hạn của luận văn và do sự không cần thiết của việc trích dẫn đó. Tác giả chỉ xin đưa ra một phần nội dung của thư quản lí có liên quan đến các sự kiện, chỉ tiêu trong các bước công việc trước đã được trình bày. Toàn bộ nội dung chương II của luận văn đã trình bày những nét khái lược về quy trình kiểm toán của AASC, minh hoạ một cách cụ thể, chi tiết và chung nhất về trình tự các công việc, các thủ tục kiểm toán viên AASC thực hiện trong giai đoạn kết thúc kiểm toán của các cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính mà sản phẩm cuối cùng là báo cáo kiểm toán. Quá trình này được mô tả khái quát trên sơ đồ 6. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chẳng hạn như khi kiểm toán một khoản mục trong Báo cáo tài chính, căn cứ vào kết quả của cuộc kiểm toán đã hoàn tất, kiểm toán viên AASC lập biên bản kiểm toán thay vì phát hành báo cáo kiểm toán để trình bày kết quả kiểm toán và ý kiến của mình về khoản mục đã được kiểm toán. Phụ lục 01 (bảng số 13) đưa ra ví dụ về biên bản kiểm toán do kiểm toán viên AASC phát hành. Chương III những bài học kinh nghiệm và một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán thực hiện I.Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán tại AASC: Kiểm toán là một trong những lĩnh vực mới ở nước ta. Trước đây, trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, khái niệm về kiểm toán còn rất ít người, kể cả những cán bộ quản lí kinh tế biết đến. Chỉ từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN, các hoạt động kinh tế, xã hội vận động theo sự điều chỉnh của quy luật kinh tế thị trường, từ đó đặt ra các yêu cầu, đòi hỏi cấp bách và khách quan về đổi mới các công cụ quản lí kinh tế, vai trò của công tác kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng mới được xác lập và ngày càng nâng cao, trở thành công cụ tài chính đắc lực, làm lành mạnh nền kinh tế, cung cấp các thông tin xác thực, có độ tin cậy cao trong công tác quản lí, đem lại niềm tin cho các cơ quan quản lí và tất cả những người quan tâm. Với sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, công tác kiểm toán nước ta đã và đang trong quá trình phát triển. Cơ quan kiểm toán Nhà nước được hình thành và hoạt động với kết quả đáng khích lệ. Các công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam và nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam đã hoạt động tích cực và góp phần đáng kể vào công tác quản lí kinh tế tại nhiều doanh nghiệp. Đó là những kết quả thực tế, khách quan không ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, nếu nghiêm túc đánh giá về hoạt động kiểm toán ở nước ta hiện nay, từ góc độ nghiên cứu khoa học, có thể thấy còn khá nhiều vấn đề cần trao đổi, trong đó có một số vấn đề nổi cộm đang được quan tâm hiện nay như: xây dựng hệ thống các quy định, chuẩn mực nghề nghiệp; đảm bảo sự thống nhất trong kết quả kiểm toán đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán độc lập về báo cáo kiểm toán mà họ phát hành. Hiện nay, Bộ Tài chính vẫn đang trong quá trình xây dựng một hệ thống các quy định, chuẩn mực nghề nghiệp làm nền tảng pháp lí cho việc thực hiện kiểm toán cũng như việc xem xét, kiểm tra, đánh giá chất lượng của hoạt động này. Hiện tại chúng ta chỉ mới ban hành được 21 chuẩn mực kiểm toán và 10 chuẩn mực kế toán. Các chuẩn mực này chủ yếu dựa trên hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế và quá trình tổng kết thực tiễn hoạt động của 15 công ty kiểm toán lớn tại Việt Nam. Thêm vào đó, ở nước ta, kết quả kiểm toán chưa thực sự được đánh giá cao và sử dụng phổ biến, sự thống nhất trong kết quả kiểm toán chưa được chú ý và tôn trọng, điều đó đã được thể hiện trong thực tế. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do hệ thống các văn bản pháp quy về quản lí kinh tế ở nước ta chưa ổn định, thiếu tính đồng bộ và nhất quán. Hệ thống các cơ quan tài chính được Nhà nước giao nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra khá nhiều dẫn đến sự trùng lắp trong hoạt động này mà xét trên toàn bộ cục diện nền kinh tế, các thông tin kinh tế công khai vẫn chưa có một lực lượng nào chịu trách nhiệm đầy đủ nên không đáng tin cậy. Hơn nữa, trong thực tiễn đã xuất hiện trường hợp, kết quả kiểm toán không nhất trí với kết quả kiểm tra của cơ qua tài chính, chủ yếu là cơ quan thuế. Sự thiếu thống nhất đã nêu trên gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Trong những trường hợp xảy ra sự thiếu thống nhất nêu trên, nếu sự sai phạm thuộc về kiểm toán viên và công ty kiểm toán thì vấn đề đặt ra là chất lượng của báo cáo kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên đối với ý kiến của họ trên báo cáo đó. Kết quả kiểm toán và báo cáo kiểm toán đều là sản phẩm cuối cùng của toàn bộ quá trình kiểm toán. Tuy nhiên, việc tổng hợp kết quả và lập báo cáo kiểm toán là nhiệm vụ chính của giai đoạn kết thúc kiểm toán, do đó, để đảm bảo sự thống nhất về kết quả kiểm toán đối với các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế cũng như để nâng cao chất lượng của báo cáo kiểm toán, ngoài việc hoàn thiện và ổn định các chính sách kinh tế đối với các loại hình doanh nghiệp, nhanh chóng bồi dưỡng và đào tạo cho các kiểm toán viên chuyên nghiệp, bồi dưỡng cho các kiểm toán viên nước ngoài hoạt động tại Việt Nam về kiến thức pháp luật Việt Nam ... thực tiễn luôn đòi hỏi xây dựng một quy trình kiểm toán chuẩn với các công việc chi tiết, cụ thể trong hoạt động kiểm toán Báo cáo tài chính bên cạnh xây dựng một hệ thống chuẩn mực kiểm toán làm cơ sở. Quy trình kiểm toán nói chung cũng như giai đoạn kết thúc kiểm toán nói riêng một khi đã được xây dựng một cách khoa học, đạt chất lượng cao và được quy định thành văn bản luật hướng dẫn hoạt động của kiểm toán viên sẽ trở thành cơ sở pháp lí trong việc quản lí và kiểm soát chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm toán cũng như chất lượng của báo cáo kiểm toán, ngoài ra, đó cũng là cơ sở quan trọng đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên trong mỗi cuộc kiểm toán. Qua phần cơ sở lí luận về giai đoạn kết thúc kiểm toán trong chương I đã cho ta thấy tầm quan trọng của giai đoạn này cũng như của hoạt động kiểm toán Báo cáo tài chính và đây được xem như một sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện vấn đề. Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam cũng đang trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Sự hội nhập nàyđòi hỏi hệ thống các quy định pháp luật của Việt Nam cũng phải phù hợp với quy định chung của quốc tế trong đó có các quy định về kế toán và kiểm toán. Do đó, việc phát triển của hoạt động của hoạt động kiểm toán cũng phải tuân theo xu hướng tất yếu này, đặc biệt là giai đoạn kết thúc kiểm toán bởi vì kết luận cuối cùng của kiểm toán về tình hình tài chính của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với quan hệ hợp tác của doanh nghiệp. Mặc dù các công việc kết thúc kiểm toán đã được đề cập cụ thể, chi tiết trong phần lí luận đã nghiên cứu căn cứ vào lí thuyết kiểm toán thế giới và một số chẩn mực kiểm toán quốc tế, nhưng thực tế ở nước ta cho thấy giai đoạn này chưa được chú trọng đúng mức. Tình trạng này không hoàn toàn do trình độ của kiểm toán viên mà một trong những nguyên nhân đầu tiên là do chúng ta chưa có các chuẩn mực kiểm toán hướng dẫn cụ thể trình tự hay nội dung các bước công việc trong giai đoạn kết thúc kiểm toán. Kiểm toán viên Việt Nam nói chung và kiểm toán viên AASC nói riêng thiết lập và thực hiện các thủ tục kết thúc kiểm toán chủ yếu từ kinh nghiệm của bản thân và triệt để vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới, các chuẩn mực kiểm toán quốc tế trên cơ sở phù hợp với hệ thống pháp luật, môi trường kiểm toán và trình độ quản lí kinh tế tài chính ở nước ta. Vấn đề hội nhập kinh tế đã và đang đặt ra những cơ hội và thách thức lớn đối với các công ty kiểm toán Việt Nam. Để có thể cạnh tranh được với các công ty kiểm toán nước ngoài khi các hiệp định thương mại quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam, các công ty kiểm toán Việt Nam chỉ có thể phát huy nội lực của chính mình. Xuất phát từ yêu cầu đó, nhu cầu hoàn thiện quy trình kiểm toán cũng như giai đoạn kết thúc kiểm toán sao cho khoa học, chặt chẽ, phù hợp và hiệu quả hơn là vấn đề tất yếu đặt ra trong thực tiễn hoạt động kiểm toán của nước ta cũng như trong việc nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng các lí thuyết kiểm toán của nước ngoài vào Việt Nam và luôn được AASC quan tâm hàng đầu. Muốn hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính thì phải hoàn thiện ngay từ mỗi giai đoạn kiểm toán. Giai đoạn kết thúc kiểm toán là một khâu quan trọng trong quy trình, có vai trò qua trọng và ảnh hưởng lớn đến kết quả của toàn bộ cuộc kiểm toán cũng như chất lượng của báo cáo kiểm toán, vì vậy, hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán là một vấn đề không thể thiếu đối với AASC cũng như bất cứ công ty kiểm toán nào trong quá trình phát triển của mình. II. Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính do AASC thực hiện: 1. Bài học từ thực tiễn nắm bắt và vận dụng các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán trong việc tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán của AASC: Việc nắm bắt và vận dụng các chuẩn mực về kế toán và kiểm toán trong khi tiến hành công việc là yêu cầu bắt buộc đối với các kiểm toán viên AASC nói riêng và những người hành nghề kiểm toán nói chung. Bởi vì, lẽ đương nhiên là kiểm toán viên không thể dành được quyền phán xử công việc kế toán trừ khi đã có những hiểu biết đầy đủ về đặc điểm kế toán của đơn vị, vì vậy, một kiểm toán viên trước hết phải là một chuyên gia lành nghề về kế toán tức là phải nắm vững chuẩn mực kế toán. Đồng thời, một kế toán viên được đào tạo tốt cũng không tự trở thành một kiểm toán viên có năng lực hiệu quả. Một chuyên gia kế toán chỉ có thể trở thành một kiểm toán viên khi được trải qua những kinh nghiệm trong thực tiễn. Các kinh nghiệm này là kinh nghiệm kiểm toán và đạt được một cách tốt nhất dưới sự giám sát thực tế của các kiểm toán viên lâu năm, có kinh nghiệm thuộc một tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp và được đào tạo một cách quy củ, bên cạnh đó, để đảm bảo cho các công việc được tiến hành đúng theo các chuẩn mực nghề nghiệp đã quy định, kiểm toán viên phải nắm vững chuẩn mực kiểm toán. Khi thực hiện kiểm toán cho khách hàng, kiểm toán viên AASC luôn nghiên cứu và vận dụng các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và quốc tế vào thực tiễn nhằm làm cho cuộc kiểm toán đạt được chất lượng tốt nhất. Tuy nhiên, việc vận dụng các chuẩn mực kiểm toán và quy trình kiểm toán của AASC không hề áp đặt, cứng nhắc. AASC đã không mang toàn bộ hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế và quy trình kiểm toán nước ngoài áp dụng máy móc vào Việt Nam, vì như vậy sẽ tạo ra sự khập khiễng, không ăn nhập với hệ thống pháp luật và trình độ quản lí cũng như trình độ của đội ngũ kiểm toán viên hiện nay. Đối với các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, kiểm toán viên AASC vận dụng một cách sáng tạo theo hướng phù hợp với từng đơn vị khách hàng. Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán Báo cáo tài chính do AASC thực hiện, một số chuẩn mực kiểm toán Việt Nam được vận dụng, đó là: Chuẩn mực số 580 - “Giải trình của Ban giám đốc”, chuẩn mực số 700 - “Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính”. Bên cạnh đó, kiểm toán viên AASC còn vận dụng các chuẩn mực kiểm toán quốc tế, bao gồm: chuẩn mực ISA 560 - “Các sự kiện phát sinh sau ngày kết toán”, chuẩn mực ISA 570 - “Tính liên tục của hoạt động kinh doanh”, chuẩn mực ISA 580 - “Giải trình của Ban giám đốc”, ... 2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán do AASC thực hiện: Sự thành công của mỗi doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường được quyết định bởi nhiều nhân tố. Đối với một công ty hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, quy trình kiểm toán đóng vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng phục vụ và đem lại sự thành công cho công ty. Ban lãnh đạo và các kiểm toán viên AASC đã sớm nhận biết điều này, chính vì vậy đã vận dụng triệt để các chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng như quy trình kiểm toán nước ngoài vào thực tiễn Việt Nam và đưa ra một trình tự chung cho giai đoạn kết thúc kiểm toán Báo cáo tài chính gồm năm bước: Bước 1: Soát xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán Các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán ở đơn vị khách hàng được kiểm toán viên AASC xem xét dưới hai góc độ: Sự kiện ảnh hưởng trực tiếp đến Báo cáo tài chính dẫn đến phải điều chỉnh một số chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính và sự kiện không bắt buộc phải điều chỉnh các chỉ tiêu cũng như số dư các tài khoản nhưng phải được thuyết minh trên Báo cáo tài chính. Nếu sau khi thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết, xác định được sự kiện xảy ra, kiểm toán viên cho rằng kết quả của sự kiện này ảnh hưởng nghiêm trọng đến Báo cáo tài chính đòi hỏi phải có sự điều chỉnh trên Báo cáo tài chính thì kiểm toán viên sẽ thoả thuận với Ban giám đốc khách hàng để thống nhất về các chỉ tiêu điều chỉnh trên Báo cáo tài chính. Trong trường hợp khách hàng không đồng ý, kiểm toán viên sẽ cân nhắc việc đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc không chấp nhận trên báo cáo kiểm toán. Có những trường hợp tồn tại sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán nhưng các điều kiện gây ra sự thay đổi về cách đánh giá các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính tồn tại sau ngày lập bảng cân đối tài khoản thì kiểm toán viên không yêu cầu điều chỉnh trên Báo cáo tài chính. Tuy nhiên, nếu sự kiện đó mang ý nghĩa quan trọng, kiểm toán viên sẽ yêu cầu Ban giám đốc đưa ra ghi chú trong thuyết minh Báo cáo tài chính để tránh sự hiểu lầm thông tin của người sử dụng Báo cáo tài chính. Chẳng hạn ở Công ty A và Công ty B đều có các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán như bị thu hẹp thị trường tiêu thụ, bị kiện. Tuy nhiên, vào thời điểm 31/12/2002 chưa có các điều kiện làm thay đổi cách đánh giá các chỉ tiêu doanh thu và chi phí do đó không cần điều chỉnh trên Báo cáo tài chính nhưng cần phải được thuyết minh. Các thủ tục kiểm toán được kiểm toán viên AASC thiết lập để soát xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán chỉ áp dụng cho các sự kiện trước ngày kí báo cáo kiểm toán. Ban quản lí doanh nghiệp chịu trách nhiệm thông báo cho kiểm toán viên về những sự kiện quan trọng có thể ảnh hưởng tới Báo cáo tài chính mà những sự kiện này xảy ra sau ngày phát hành báo cáo kiểm toán. Bước 2: Xem xét tính liên tục hoạt động của đơn vị khách hàng Trong quá trình kiểm toán, tính liên tục hoạt động của khách hàng được kiểm toán viên xem xét cả trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và giai đoạn kết thúc kiểm toán. ở giai đoạn lập kế hoạch, tính liên tục hoạt động được xem xét dựa trên các chỉ tiêu tài chính, trên cơ sở đó kiểm toán viên tính toán các tỷ suất tài chính, so sánh các chỉ tiêu tài chính năm hiện hành với năm trước và đưa ra dự đoán về tính liên tục hoạt động của doanh nghiệp. Còn ở giai đoạn kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên xem xét tính liên tục hoạt động của doanh nghiệp trong mối quan hệ với các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán, căn cứ vào dự đoán trong giai đoạn lập kế hoạch để đi đến kết luận cuối cùng về khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, khác với trình tự các bước công việc trong chương I đã đề cập, kiểm toán viên AASC xem xét tính liên tục hoạt động sau khi soát xét các sự kiện tiếp sau. Điều này giúp tránh được sự trùng lắp bởi vì nếu thực hiện theo trình tự ngược lại thì kiểm toán viên sẽ phải xem xét về khả năng liên tục hoạt động của doanh nghiệp hai lần. Để kết luận liệu doanh nghiệp có khả năng hoạt động tiếp hay không, ngoài việc xác định các dấu hiệu vi phạm cần chú trọng các yếu tố giảm nhẹ. Như đối với Công ty A mặc dù có dấu hiệu chứng tỏ tính liên tục hoạt động bị vi phạm nhưng do có sự giảm nhẹ nên kiểm toán viên vẫn đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong báo cáo kiểm toán. Bước 3: Thu thập thư giải trình của Ban giám đốc khách hàng Đối với khách hàng thường xuyên, thư giải trình thường do đơn vị tự lập theo mẫu hướng dẫn của kiểm toán viên ở các năm trước, còn đối với khách hàng năm đầu tiên, AASC sẽ cung cấp mẫu chuẩn và yêu cầu doanh nghiệp kí xác nhận. Trong thư giải trình gửi cho kiểm toán viên thường bao gồm các thông tin: nhận thức của Ban giám đốc về trách nhiệm của họ; tính sẵn có của các sổ sách, chứng từ kế toán; tính đầy đủ của các báo cáo nội bộ; thông tin về các nghiệp vụ liên quan đến bên thứ ba... Dĩ nhiên tuỳ theo yêu cầu của mỗi cuộc kiểm toán còn có thông tin về những yếu tố riêng biệt như các vụ tranh chấp, kiện cáo, thông báo của cơ quan thuế... AASC không sử dụng thư giải trình như một bằng chứng kiểm toán mà chỉ để minh chứng rằng Ban giám đốc đã được hỏi một số vấn đề và họ nhận thức được trách nhiệm của mình về việc hỗ trợ cho kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán. Bước 4: Đánh giá kết quả và lập Bảng tổng hợp kết quả kiểm toán Trong bước công việc này kiểm toán viên AASC đã thiết lập một trình tự khoa học, chặt chẽ từ việc soát xét giấy tờ làm việc, đánh giá tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán đến việc đưa ra kết luận về Báo cáo tài chính của đơn vị khách hàng. Tuy nhiên, kiểm toán viên cần chú trọng hơn đối với việc xem xét các thông tin khác đính kèm với Báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Lập bảng tổng hợp kết quả kiểm toán thực chất là xem xét và giải thích các phát hiện trong kiểm toán qua đó cho phép kiểm toán viên đánh giá một cách bao quát nhất cuộc kiểm toán, tạo điều kiện để đưa ra ý kiến chính xác nhất trong báo cáo kiểm toán trên cơ sở đó lập và phát hành báo cáo kiểm toán nhanh chóng, thuận tiện với độ tin cậy cao. Bước 5: Lập báo cáo kiểm toán Việc lập báo cáo kiểm toán cho đơn vị khách hàng ở AASC luôn được thực hiện đúng theo quy định về thời gian và đảm bảo về chất lượng do có sự liên hệ chặt chẽ giữa các bước công việc trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, nhờ vậy khối lượng công việc được giảm thiểu, tiết kiệm thời gian đồng thời nâng cao hiệu quả của cuộc kiểm toán. Toàn bộ các công việc trong giai đoạn kết thúc kiểm toán Báo cáo tài chính ở AASC hình thành nên một quá trình có tính chủ quan cao và dựa rất nhiều vào sự phán xét nghề nghiệp của kiểm toán viên trên cơ sở kết hợp một cách liên tục các thông tin thu được khi tiến hành kiểm toán. Khi cuộc kiểm toán hoàn tất, kiểm toán viên công bố báo cáo kiểm toán để đính kèm với Báo cáo tài chính đã công khai của khách hàng. Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính do AASC phát hành thõa mãn các quy định rõ ràng về nghiệp vụ của các quy tắc, chuẩn mực có liên quan và chịu ảnh hưởng theo phạm vi của cuộc kiểm toán và bản chất của các phát hiện. Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đạt được, AASC hôm nay đang phải đối mặt với thách thức lớn trong tiến trình hội nhập, do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót hạn chế, điều này đặt ra yêu cầu tất yếu phải không ngừng hoàn thiện. III. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính do AASC thực hiện: 1. Đối với công ty kiểm toán : Công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính do AASC thực hiện là phần công việc rất quan trọng và rất được Ban lãnh đạo cùng tập thể kiểm toán viên của Công ty quan tâm hoàn thiện. Hiện nay, việc tổ chức và thực hiện giai đoạn này chủ yếu nhờ vào khả năng xét đoán, kinh nghiệm và sự nhạy cảm nghề nghiệp của các trưởng phòng kiểm toán và kiểm toán viên có trình độ chuyên môn vững vàng. Mặc dù Công ty đã rất nỗ lực trong việc đưa ra những chỉ dẫn có tính khái quát để kiểm toán viên thực hiện và đã có những phần công việc được xây dựng khá chi tiết trong giai đoạn kết thúc kiểm toán Báo cáo tài chính nhưng để có thể thiết lập một quy trình chuẩn chi tiết, cụ thể và hiệu quả hơn, theo ý kiến cá nhân, em cho rằng cần bổ sung một số điểm như sau: 1.1. Về việc thẩm tra các khoản nợ ngoài dự kiến: Cơ sở của ý kiến: Nợ ngoài dự kiến là một điều kiện mà chỉ có thể khẳng định được kết quả cuối cùng khi xảy ra hoặc không xảy ra một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai. Do độ chắc chắn và quy mô số tiền có thể ước tính của khoản nợ tiềm ẩn trong tương lai này có thể ảnh hưởng đến nội dung trình bày của Báo cáo tài chính nên trong quy trình kiểm toán nước ngoài người ta thực hiện một bước công việc độc lập để thẩm tra các khoản nợ này. Tại AASC, thông thường kiểm toán viên không thực hiện các thủ tục kiểm toán để tìm kiếm và đánh giá các khoản nợ ngoài ý muốn trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, nguyên nhân có thể là do sự khó khăn trong việc đánh giá khả năng xảy ra các sự kiện giải quyết khoản nợ ngoài dự kiến và ước tính hợp lí số tiền của khoản nợ đó cho nên để quyết định về cách xử lí thích hợp đối với các khoản nợ ngoài dự kiến đòi hỏi những phán xét chuyên môn đáng kể hay nói cách khác đòi hỏi kiểm toán viên phải có trình độ chuyên môn cao. Tuy vậy, cũng có một số các khoản nợ tiềm ẩn thường được kiểm toán viên AASC kiểm tra như một phần nội dung của kiểm toán các chu trình trong giai đoạn thực hiện kiểm toán. Trong thực tế có những khoản nợ ngoài dự kiến có quy mô số tiền có thể ước tính là rất lớn, nếu không được xem xét sẽ dẫn đến sự sai sót nghiêm trọng trong Báo cáo tài chính, do đó, việc xem xét và khảo sát các khoản nợ ngoài dự kiến là rất cần thiết giải quyết thoả đáng về những thông tin cần công khai trên Báo cáo tài chính. ý kiến đề xuất: Kiểm toán viên có thể không nhất thiết phải tổ chức thẩm tra các khoản nợ ngoài dự kiến thành một bước công việc độc lập mà có thể thực hiện kết hợp với các bước công việc khác trong giai đoạn kết thúc kiểm toán như “soát xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán” hay “xem xét tính liên tục hoạt động” do các thủ tục kiểm toán trong các bước công việc này có thể áp dụng để tìm kiếm các khoản nợ ngoài ý muốn, chẳng hạn: thẩm vấn Ban giám đốc, thu thập xác nhận của luật sư hoặc cố vấn pháp luật của khách hàng, đọc các biên bản họp hội đồng quản trị ... Khi xem xét các khoản nợ ngoài dự kiến, kiểm toán viên cần xem xét theo các khía cạnh sau: ² Xét xem liệu những khoản nợ ngoài dự kiến đã được xác định có đầy đủ hay không ² Xét xem liệu có thể có rủi ro phát sinh một khoản nợ ngoài dự kiến hay không và nếu có thì xét tới giá trị tính bằng tiền của khoản nợ này. ² Xét xem liệu các khoản nợ ngoài dự kiến có được hạch toán và thuyết minh thích hợp hay không. 1.2. Về việc xem xét các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán: Cơ sở của ý kiến: Hiện nay, thị trường chứng khoán của Việt Nam đang bước đầu đi vào hoạt động, kết quả kiểm toán Báo cáo tài chính có tác dụng rất lớn hỗ trợ cho việc ra quyết định của những người sử dụng Báo cáo tài chính, hơn nữa, việc tham gia phát hành chứng khoán trên thị trường đặt ra yêu cầu về sự thống nhất thông tin trong tài liệu phát hành chứng khoán với các thông tin tài chính mà chuyên gia kiểm toán được biết. Như vậy thực tiễn đòi hỏi kiểm toán viên phải xem xét đến các yêu cầu và các quan điểm có liên quan đến việc phát hành chứng khoán cũng như đòi hỏi kiểm toán viên có thể phải thực hiện những thủ tục kiểm toán bổ sung khác cho đến thời điểm có tài liệu phát hành chứng khoán hoàn chỉnh [6, 174]. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560 cũng quy định: “Trường hợp đơn vị được kiểm toán phát hành chứng khoán trên thị trường thì kiểm toán viên phải xem xét đến các quy định pháp lý liên quan đến việc phát hành chứng khoán” [3, 34] Thời điểm tài liệu phát hành chứng khoán hoàn chỉnh thường là sau thời điểm phát hành báo cáo kiểm toán, do đó, việc xem xét các sự kiện sau ngày kí báo cáo kiểm toán là cần thiết, đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, có những sự kiện xảy ra sau ngày kí báo cáo kiểm toán không được kiểm toán viên phát hiện và xem xét mà sự kiện này có ảnh hưởng nghiêm trọng đến các thông tin trong Báo cáo tài chính đã kiểm toán thì thiếu sót đó có thể gây ra những hậu quả bất lợi cho người sử dụng Báo cáo tài chính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tại AASC cũng như một số công ty kiểm toán Việt Nam khác như VACO, A&C, AFC ..., trách nhiệm của kiểm toán viên đối với việc xem xét các sự kiện sau ngày kết thúc niên độ kế toán thường bị giới hạn bắt đầu là ngày lập Bảng cân đối tài sản và kết thúc vào ngày phát hành báo cáo kiểm toán mà không chú trọng đến các sự kiện sau ngày kí báo cáo kiểm toán, nguyên nhân là do tại Việt Nam chưa ban hành các văn bản pháp lí, các chuẩn mực kiểm toán quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của kiểm toán viên đối với các sự kiện này, còn các chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng chỉ ràng buộc trách nhiệm của kiểm toán viên với các sự kiện xảy ra trong thời gian từ khi lập Báo cáo tài chính đến ngày kí báo cáo kiểm toán. ý kiến đề xuất: Để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của những người quan tâm và sử dụng Báo cáo tài chính đã được kiểm toán và để nâng cao chất lượng của báo cáo kiểm toán cũng như hiệu quả và chất lượng của toàn bộ cuộc kiểm toán, AASC cần chủ động thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung đề phát hiện và đánh giá ảnh hưởng của các sự kiện xảy ra sau ngày kí báo cáo kiểm toán, đặc biệt là các sự kiện có ảnh hưởng đến tính liên tục hoạt động của doanh nghiệp chứ không phải chỉ chờ khách hàng thông báo các sự kiện này một cách thụ động. Kiểm toán viên có thể thực thi các biện pháp tương tự như đối với các sự kiện xảy ra trước khi kí báo cáo kiểm toán kết hợp với thẩm tra Ban giám đốc hoặc luật sư của đơn vị khách hàng về những vấn đề có liên quan đến Báo cáo tài chính sau ngày kí báo cáo kiểm toán. Việc xem xét thêm các sự kiện sau ngày phát hành báo cáo kiểm toán có thể làm kéo dài thời gian kiểm toán tuy nhiên rất cần thiết và hữu ích để đảm bảo cho cuộc kiểm toán hoàn thành với chất lượng tốt nhất, từ đó nâng cao uy tín của AASC với khách hàng. 1.3. Việc xem xét những thông tin tài chính và những thông tin phi tài chính khác đính kèm với Báo cáo tài chính đã được kiểm toán khi thực hiện đánh giá kết quả và lập Bảng tổng hợp kết quả kiểm toán: Cơ sở của ý kiến: Trong quá trình thực hiện kiểm toán, có thể kiểm toán viên đã áp dụng những thủ tục, biện pháp thích hợp và hữu dụng nhất để tìm ra được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán cần thiết trên cơ sở đó đưa ra được ý kiến chính xác nhất trên báo cáo kiểm toán và trong trường hợp này độ tin cậy của báo cáo kiểm toán cũng như chất lượng cuộc kiểm toán được đánh giá cao. Tuy nhiên, trong một số trường hợp độ tin cậy của các bản Báo cáo tài chính được kiểm toán có thể bị ảnh hưởng bởi sự thiếu nhất quán giữa các thông tin khác và Báo cáo tài chính. Các thông tin khác này có thể là báo cáo của nhà quản lí doanh nghiệp, của các giám đốc điều hành, các tin tài chính tổng hợp hoặc các vấn đề tài chính nổi bật, số liệu về giá trị mua sắm TSCĐ, các tỉ lệ tài chính và tên của các nhân vật chủ chốt, giám đốc. Trong thực tiễn kiểm toán do AASC thực hiện thông thường đính kèm với Báo cáo tài chính đã được kiểm toán chỉ có Báo cáo của Ban giám đốc. Nội dung của các báo cáo này thường ngắn gọn và tương tự nhau đối với các khách hàng khác nhau, thêm vào đó, các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và quốc tế cũng đã chỉ rõ rằng: mục đích và phạm vi của việc kiểm toán Báo cáo tài chính được hình thành trên cơ sở trách nhiệm của kiểm toán viên được giới hạn trong những thông tin được xác định trong báo cáo kiểm toán, do đó, việc xem xét các thông tin khác đôi khi bị xem nhẹ và bị bỏ qua. ý kiến đề xuất: Trong quá trình đánh giá tổng quát kết quả kiểm toán, kiểm toán viên cần xem xét những thông tin tài chính và những thông tin phi tài chính khác đính kèm với Báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Cho dù kiểm toán viên không có trách nhiệm thực hiện các thủ tục kiểm toán để xác định rằng các thông tin khác đó đã được xác định đúng thì kiểm toán viên vẫn phải đọc các thông tin này để xác nhận rằng chúng không mâu thuẫn nghiêm trọng với Báo cáo tài chính. Hơn nữa, qua việc đọc các thông tin khác này còn giúp kiểm toán viên nhận thức được các sự kiện bị xác định sai nghiêm trọng. 1.4. Về việc áp dụng thủ tục phân tích khi soát xét Báo cáo tài chính trong giai đoạn kết thúc kiểm toán: Cơ sở của ý kiến: Như đã đề cập đến trong chương II, sự thành công của AASC đạt được một phần là do Công ty đã áp dụng một quy trình kiểm toán phù hợp với phương pháp kiểm toán khoa học, đúng đắn. Điều đó thể hiện phần nào ở việc kiểm toán viên AASC đã thực hiện thủ tục phân tích đầy đủ trong cả ba giai đoạn của cuộc kiểm toán: thủ tục phân tích tổng quát trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thủ tục phân tích chi tiết trong giai đoạn thực hiện kế hoạch kiểm toán và phương pháp phân tích để soát xét tổng thể trong giai đoạn kết thúc kiểm toán. Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên AASC đã sử dụng phương pháp phân tích soát xét để đánh giá lại Báo cáo tài chính của doanh nghiệp dựa theo phân tích ngang (phân tích chênh lệch) và phân tích dọc (phân tích tỷ suất) để đánh giá lại những biến động lớn và các sai sót trọng yếu của những khoản mục, tài khoản ảnh hưởng tới Báo cáo tài chính. Trên cơ sở đó khẳng định lại những hiểu biết của kiểm toán viên về tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị khách hàng là chính xác. Tuy nhiên, trên thực tế, trong giai đoạn này, phương pháp phân tích ngang được kiểm toán viên AASC áp dụng thường xuyên hơn (xem bảng số 5) đặc biệt đối với những khách hàng có quy mô hoạt động nhỏ do phương pháp này có ưu điểm tốn ít thời gian, đơn giản, dễ thực hiện nhưng nó lại không cho thấy mối quan hệ giữa các số liệu trên Báo cáo tài chính. Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển đến một mức độ nhất định, các thông tin tài chính được công khai hoá một cách trung thực và các số liệu được thống kê đầy đủ, chính xác thì việc áp dụng các tỷ suất trong phân tích hoàn toàn có thể thực hiện được. ý kiến đề xuất: Kiểm toán viên cần sử dụng phương pháp phân tích trong giai đoạn kết thúc kiểm toán để đưa ra ý kiến đánh giá chính xác nhất đặc biệt là phân tích tỷ suất. Việc áp dụng phương pháp phân tích này có tác dụng rất lớn khi xem xét liệu mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong Báo cáo tài chính có phù hợp với bằng chứng kiểm toán đã thu thập và sự hiểu biết mà kiểm toán viên tổng hợp được về khách hàng hay không, bên cạnh đó, cung cấp thêm cơ sở để đánh giá Báo cáo tài chính năm nay có phù hợp với Báo cáo tài chính năm trước hay không? Kiểm toán viên nên bổ sung vào bảng số 5 đã trích dẫn ở chương II để thể hiện việc áp dụng thủ tục phân tích trên giấy làm việc như sau: bảng một số chỉ tiêu phân tích tài chính: Chỉ tiêu Năm nay Năm trước Chênh lệch Thực tế Ước tính Số tiền (3) % Số tiền (4) = (3)-(1) % Số tiền (1) % Số tiền (2) % 2. Một số kiến nghị đối với các bên hữu quan: 2.1. Đối với Nhà nước và Bộ Tài chính: Cơ sở của ý kiến: Theo thông lệ quốc tế, hoạt động kiểm toán chỉ có thể được phát triển trong một khuôn khổ pháp lí đầy đủ gồm những quy định mang tính pháp lí về quản lí hoạt động kiểm toán và những quy định mang tính nghề nghiệp. Trong hơn một thập kỉ qua hoạt động kiểm toán độc lập đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn một số tồn tại sau: ² Hệ thống luật pháp liên quan đến hoạt động dịch vụ kiểm toán và kế toán của Việt Nam chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Cụ thể, đến nay Việt Nam chưa ban hành đầy đủ chuẩn mực kế toán và chuẩn mực kiểm toán làm cơ sở đào tạo, thực hiện kiểm toán, đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán, chưa triển khai dịch vụ bảo hiểm nghề nghiệp, chưa thực hiện trách nhiệm vật chất. Hơn nữa, trong số 21 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã ban hành, ngoài chuẩn mực số 560 - “ Các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập Báo cáo tài chính” quy định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc, thủ tục cơ bản liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán khi xem xét các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán trong quá trình kiểm toán Báo cáo tài chính thì chưa có chuẩn mực quy định và hướng dẫn về quy trình, các thủ tục trong giai đoạn kết thúc kiểm toán do đó làm giảm sự ràng buộc trách nhiệm của kiểm toán viên với kết quả ở giai đoạn này. ² Uy tín của các công ty kiểm toán chưa cao, đặc biệt là các công ty TNHH do trình độ tổ chức hoạt động còn có nhiều hạn chế, không bắt kịp nhịp độ phát triển. ² Xuất hiện hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh ở một số công ty kiểm toán bằng cách hạ giá phí thông qua việc rút ngắn thời gian kiểm toán nhằm tiết kiệm chi phí thực hiện cuộc kiểm toán, dẫn đến việc tiến hành kiểm toán một cách qua loa, không đảm bảo tuân theo các chuẩn mực kiểm toán quy định ... Tất cả những tồn tại đó gây ra rất nhiều khó khăn đối với AASC cũng như các công ty kiểm toán khác trong giai đoạn kết thúc cũng như trong cả quá trình kiểm toán làm cho hiệu lực, độ tin cậy của báo cáo kiểm toán bị giảm sút, thêm vào đó sự không thống nhất về kết quả kiểm toán nếu chưa được giải thích rõ cũng gây ra tâm lí thiếu tin tưởng đối với báo cáo kiểm toán. ý kiến đề xuất: Qua phân tích thực trạng của công tác kiểm toán hiện nay của các công ty kiểm toán Việt Nam cho thấy AASC cũng như các công ty kiểm toán độc lập khác ở nước ta đang gặp nhiều khó khăn khiến cho hoạt động kiểm toán chưa thực sự xứng với tầm quan trọng của nó. Vì thế, Nhà nước cần phát huy vai trò điều tiết vĩ mô của mình đối với nền kinh tế để đưa ra những giải pháp khắc phục những tồn tại hiện nay trong hoạt động kiểm toán từ đó phát triển nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán và vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế. Đối với Bộ Tài chính, là cơ quan chủ quản của AASC cần có sự quan tâm hơn nữa để tạo điều kiện cho AASC hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Trước hết cần tạo cơ sở pháp lí đầy đủ cho hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán Báo cáo tài chính nói riêng bằng việc ban hành thêm các chuẩn mực kiểm toán đặc biệt là chuẩn mực hướng dẫn kiểm toán viên trong giai đoạn kết thúc kiểm toán. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng nên cân nhắc việc ban hành quy trình kiểm toán chuẩn cho kiểm toán viên độc lập theo từng loại hình doanh nghiệp. 2.2. Một số kiến nghị với khách hàng của AASC: Để cuộc kiểm toán hoàn thành với chất lượng tốt nhất ngoài việc phải có một đội ngũ kiểm toán viên với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm, nhạy cảm với các tình huống và một hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ còn cần có sự hỗ trợ về nhiều mặt từ phía khách hàng kiểm toán. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay kiểm toán độc lập đối với các nhà quản lí cũng như các chủ doanh nghiệp của Việt Nam còn là một khái niệm quá mới mẻ, có thể nói là xa lạ trong nhận thức của họ do đó thường xảy ra tình trạng các nhà quản lí cũng như nhân viên trong doanh nghiệp không chịu hợp tác với kiểm toán viên, gây khó khăn cho các kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán. Đặc biệt là trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, sự hợp tác của Ban giám đốc doanh nghiệp hỗ trợ rất nhiều cho các kiểm toán viên trong các bước công việc: “Xem xét các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán”, “Xem xét tính liên tục hoạt động của đơn vị khách hàng”, “Thu thập thư giải trình của Ban giám đốc”, điều này thể hiện rõ qua thực tế kiểm toán tại Công ty A và Công ty B. Hơn nữa, trong một số trường hợp, yếu tố chứng thực duy nhất có thể thu thập được là bản giải trình của Ban giám đốc, chẳng hạn như chuyên gia kiểm toán sẽ không mong gì có được những yếu tố chứng thực khác để xác minh cho ý định của Ban giám đốc giữ lại một khoản đầu tư nào đó nhằm để hưởng sự tăng giá trị dài hạn của nó. Nếu doanh nghiệp không chịu hợp tác thì sự từ chối này sẽ ảnh hưởng đến ý kiến của kiểm toán viên đưa ra trong báo cáo kiểm toán. Chính vì những lí do nêu trên, các đơn vị khách hàng cần phải có sự nhận thức đúng đắn về chức năng và vai trò của hoạt động kiểm toán từ đó có sự hỗ trợ nhất định cho các kiểm toán viên, công ty kiểm toán thực hiện giai đoạn kết thúc kiểm toán với hiệu quả cao nhất cũng như hoàn thành cuộc kiểm toán với chất lượng tốt nhất. Trên đây là một số phân tích và đề xuất nhằm hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán thực hiện. Hy vọng rằng những ý kiến này sẽ có ích cho AASC trong việc xây dựng thành công một quy trình chuẩn về giai đoạn kết thúc kiểm toán, chỉ dẫn cụ thể cho kiểm toán viên nhằm tạo một đường lối thống nhất trong bước công việc này, tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm toán viên trong quá trình thực hiện.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29694.doc
Tài liệu liên quan