Luận văn Những giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá ở công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội

Trong điều kiện chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đã đặt ra những khó khăn thử thách cho doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước việc thích ứng được với cơ chế thị trường là một vấn đề hết sức nan giải. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp nhà nước đều được nhà nước bao cấp từ đầu vào cho đến đầu ra, nên cơ chế quản lý không có tính năng động và sáng tạo, việc sử dụng đầu vào không cần phải tính toán đến hiệu quả sản xuất gây nên lãng phí ngân sách nhà nước mà sản phẩm đầu ra lại đạt chất lượng thấp. Để thích ứng với cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh lành mạnh trong thị trường. Do đó, yêu cầu phải đổi mới phương thức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp này là một yêu cầu cấp thiết. Sau khi nghiên cứu tình hình doanh nghiệp sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên em thấy đây là một phương thức đổi mới phương thức quản lý vốn, tạo ra hiệu quả cao cho đồng vốn đưa vào sản xuất, tạo sự chủ động sáng tạo cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù có những thành tựu kể trên nhưng trên thực tế quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau như việc xác định giá trị doanh nghiệp, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá .Để điều chỉnh các vấn đề này đòi hỏi Nhà nước phải sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật mục đích dần hoàn thiện một khung pháp lý đầy đủ để điều chỉnh hoạt động chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Để giải quyết một số tồn tại trước mắt tạo tiền đề thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá trong tương lai em có đưa ra một số giải pháp như đã trình bày trong bài luận văn này. Em hy vọng các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nói chung và của công ty sản xuất xuất nhập khẩu nói riêng, giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn.

doc31 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá ở công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Nói đầu Trong nền kinh tế thị trường sản xuất và tiêu thụ là hai chức năng cơ bản của doanh nghiệp sản xuất. Tiêu thụ là hoạt động đi sâu vào sản xuất, chỉ thực hiện được khi sản xuất được sản phẩm. Trong cơ chế quản lý mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của các doanh nghiệp Nhà nước thì các doanh nghiệp lại lâm vào tình trạng khủng hoảng. Biểu hiện rõ nhất là thiếu vốn và phương thức quản lý vốn kém hiệu quả. Để thoát khỏi sự khủng hoảng và tồn tại trong môi trường cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác doanh nghiệp nhà nước buộc phải thay đổi phương thức quản lý vốn và tạo vốn trên cơ sở phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn huy động được Công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội là một công ty nhà nước. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong công ty chủ yếu là gia công hàng may mặc cho khách hàng theo đơn đặt hàng, hợp đồng kinh tế. Để công ty tồn tại và phát triển đứng vững trên thị trường thì hiện nay ngoài việc tổ chức sản xuất có hiệu quả thì việc cổ phần hoá doanh nghiệp là việc rất cần thiết giúp cho công ty và nhà lãnh đạo có nhiều vốn và quản lý chặt chẽ đạt hiệu quả cao hơn. Trong thời gian thực tập tại công tysản xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội em càng nhận thức được rõ hơn tính cấp thiết của vấn đề. Dựa trên những kiến thức được truyền thụ tại nhà trường đồng thời được sự giúp đỡ tận tình của các cô chú trong phòng kế hoạch, phòng kinh doanh, phòng nhân sự phòng tài vụ của công ty và của thầy giáo hướng dẫn em đã chọn đề tài “Những giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá ở công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp của mình, đề tài này giúp em hiểu sâu hơn về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần cùng công ty phát triển và tạo uy tín trên thị trường. Đề tài này gồm có 2 chương: Chương 1: Thực trạng về sản xuất xuất nhập khẩu của công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội. Chương 2: Những giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá ở công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội Do khả năng kiến thức và phương pháp luận còn hạn chế, thời gian thực tập có hạn nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô giáo, của cô chú cán bộ kinh doanh trong công ty, cùng các bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Chương 1: Thực trạng về sản xuất xuất nhập khẩu của công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội I. Giới thiệu về công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty hiện nay Công ty SX-XNK đầu tư thanh niên Hà Nội được thành lập ngày 02/04/1992 với tên gọi xí nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, là một đơn vị thuộc tổng đội thanh niên xung phong xây dựng kinh tế thủ đô vừa là một doanh nghiệp nhà nước, vừa là nơi dạy nghề và giải quyết việc làm cho thành niên thủ đô. Khi mới thành lập xí nghiệp chỉ có hai đơn vị: một xưởng len và hai phòng kinh doanh. Sau một thời gian hoạt động đã hình thành thêm hai phòng chức năng. Xưởng sản xuất và phòng kinh doanh đều hoạt động có hiệu quả... ngay từ năm đầu tiên đã chiếm được cảm tình của khách hàng về mặt chất lượng sản phẩm cũng như mẫu mã sản phẩm. với phương pháp tổ chức sản xuất một cách khoa học đã thực sự tạo tiền đề cho các năm sau. Tháng 9 năm 1993 đơn vị đã thành lập thêm xưởng may với hơn 20 máy công nghiệp đến tháng 12-1993 xưởng may đã đi vào hoạt động được sự giúp đỡ của trung ương đoàn xí nghiệp đã mạnh dạn vay vốn ngân hàng mở rộng xưởng may thêm 150 máy may với đầy đủ các máy may chuyên dùng như là hơi, ép mếch, máy cắt... Đến tháng 12-1994 theo đề nghị của xí nghiệp, UBND thành phố Hà Nội đã đổi tên xí nghiệp thành công ty mỹ nghệ Thanh Niên Hà Nội đồng thời bổ xung thêm một số chức năng nghành nghề sản xuất của công ty. Trong thời gian này xưởng may đã thực sự ổn định và phát triển, sản phẩm đầu tay là các mặt hàng phục vụ quân đội và một số quần áo cho thị trường. Cuối năm 1994 công ty đã bắt đầu may gia công hàng áo jacket xuất khẩu. xưởng len cùng các phòng ban kinh doanh tiếp tục phát triển đẩy mạnh doanh số. Ngày20-10-1994 bộ thương mại đã cấp giấy phép công nhận đơn vị đủ điền kiện xuất khẩu trực tiếp. Năm 1995 công ty đã tăng cưởng bổ xung một số thiết bị chuyên dùng cho xưởng may. Công nghệ may đã được hoàn thiện và khép kín với thiết bị hiện đại, sản phẩm như may áo jacket 2 lớp, 3 lớp, lớn đã được khách hàng khối EC chấp nhận hàng xuất khẩu theo chỉ tiêu hạn ngạch của bộ thương mại. Cuối năm 1995 xưởng len nghỉ hoạt động. trong thời gian này công ty vẫn tiếp tục khai thác thị trường trong nước và đã ký kết được một số đơn vị sử dụng đồng phục như đồng phục đường sắt, quân đội, đồng phục thuế. Tháng 9-1996 công ty thành lập thêm xưởng da công phong thiếp cho thị trường Nhật Bản, qua tổ chức sản xuất và dạy nghề đến tháng 12-1996 đã làm ra sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu đầu tháng 2-1997 đã xuất được ba chuyến hàng cho Nhật. Công nghệ sản xuất dần dần hoàn thiện và ổn định . Năm 1998-1999 bên cạnh việc ổn định sản xuất công ty tiếp tục tìm kiếm thị trường, phát triển thêm những hướng đi mới theo phương châm đa nghề. Doanh số tăng lên đáng kể để phù hợp với định hướng phát triển, theo đề nghị của công ty ngày 13-4-1999 UBND thành phố Hà Nội đã đổi tên thành công ty sản xuất –xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội tháng 9-2003 theo chủ chương của thành phố Hà Nội và yếu tố môi trường nên công ty đã tiến hành giải thể xí nghiệp này chuẩn bị cho việc sản xuất da ngoại thành với quy mô lớn hơn. Từ năm 2000 đến nay công ty đã thực sự hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức quản lý và sản xuất. Sản phẩm của công ty ngày càng chiếm được cảm tình của khách hàng về chất lượng cũng như giá bán sản phẩm. Quy mô cũng được mở rộng, tạo thêm việc làm tăng thêm thu nhập cho người lao động. 2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty Công ty được thành lập và hoạt động với chức năng chính là sản xuất và kinh doanh nhằm nâng cao gía trị vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh tăng thu nhập thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước và đặc biệt là giải quyết việc làm cho thanh niên thủ đô, đảm bảo quyền lợi về mặt vật chất và tinh thần cho người lao động. Sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng và chất đốt (than) và kinh doanh xuất nhập khẩu: Hàng thủ công mỹ nghệ, nông lâm sản, dệt, đan len, thảm len, may mặc, các thiết bị vật tư nguyên liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Xây lắp công trình giao thông thuỷ lợi vừa và nhỏ, xây dựng dân dụng, các công trình điện, đặt đường dây và trạm điện (từ 35KW trở xuống) 3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty. Trong công ty tùy theo trách nhiệm, lĩnh vực cụ thể mà các thành viên trong ban giám đốc, các phòng ban chức năng có nhiệm vụ khác nhau nhưng lại phối hợp với nhau chặt chẽ để đảm bảo cho sự vận hành của công ty được thông suốt. Sơ đồ quản lý của công ty theo cơ cấu trực tuyến chức năng giam đốc đứng ra trực tiếp lãnh đạo, nhưng các phòng ban phải có trách nhiệp phản ánh lên ban giám đốc. Sơ đồ này giúp cho việc quản lý chặt chẽ và gắn liền nhau hơn. ban giám đốc khối kinh doanh khối sản xuất khối quản lý phòng kinh doanh III phòng tài chính kế toán phòng hành chính lao động xn gia công phong thiếp xn xây dựng công trình xn may phòng kinh doanh I phòng kinh doanh II phòng mỹ nghệ xuất khẩu Ghi chú: chỉ mối quan hệ qua lại chỉ sự chỉ đạo, lãnh đạo của cấp trên xuống cấp dưới báo cáo của cán bộ về lãnh đạo công ty - Giám đốc: là người đứng đầu bộ máy quản lý của công ty. trịu chách nhiệm trước nhà nước về mọi hoạt động của công ty . - Phó giám đốc: là người giúp việc cho giám đốc, thay giám đốc khi vắng mặt và được giám đốc uỷ quyền cho điều hành hoặc phụ trách một số công việc . - Các phòng kinh doanh: trịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doành của công ty đồng thời tham miu cho giám đốc ký kết các hợp đồng với khách hàng. - Phòng hành chính-lao động: có chức năng quản lý, giám sát việc thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh, phụ trách việc sắp xếp, tuyển dụng công nhân viên của công ty, giải quyết chế độ chính sách về tiền lương,BHXH, văn thư, bảo vệ tài sản, quản lý tài sản của công ty. - Phòng tài chính kế hoặch: có chức năng quản lý tài chính và kế hoặch sản xuất kinh doanh. - Xí nghiệp gia công phong thiếp xuất nhập khẩu, xí nghiệp xây dựng công trình thực hiện tổ chức sản xuất, xây dựng theo nhiệm vụ được giao. * Mỗi bộ phận đều có một người thay mặt giám đốc công ty quản lý điều hành các hoạt động và trịu trách nhiệm trước giám đốc về hoạt động của bộ phận mà mình phụ trách II. Đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội. 1. Đặc điểm về lĩnh vực sản phẩm và thị trường của công ty Đặc điểm về lĩnh vực sản phẩm. Hiện nay công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội có 3 loại sản phẩm chủ yếu sau. Sản phẩm may Đồ mỹ nghệ Gạch tuynel Ngoài ra công ty còn mua và bán các loại nguyên vật liệu cho các sản phẩm của công ty như: than, gạch, ngói… và xây dựng các công trình dân dụng. * Đối với sản phẩm may: sản phẩm chủ yếu do khách hàng đặt yêu cầu cụ thể về chất lượng, kích thước, mầu sắc cũng như thời gian giao hàng. Sản phẩm may của công ty là bảo hộ lao động và hàng may gia công xuất khẩu, đây là sản phẩm chủ lực của công ty. * Đồ mỹ nghệ: sản phẩm chủ yếu là đồ lưu niệm, đồ gốm sứ chủ yếu sản phẩm xuất sang nước ngoài. * Gạch tuynel: là mặt hàng mới của công ty, sản phẩm được dùng cho các công trình xây dựng dân dụng, giao thông, thuỷ lợi… 1.2. Đặc điểm về thị trường của công ty Thị trường sản phẩm của công ty chủ yếu là nguyên liệu đầu vào của các công ty khác, sản phẩm của công ty phục vụ cho cả trong nước và nước ngoài. Thị trường chủ yếu như Nhật Bản, công ty hiện nay đang mở rộng thị trường sang một số nước khác như Mỹ, Hàn Quốc…công ty hiện cũng đang mở rộng làm đồ thủ công mỹ nghệ với nhiều mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời công ty cũng đang cử một số cán bộ thường xuyên đi tiếp thị ở cả trong và ngoài nước. Một số cán bộ có năng lực sang nước ngoài học hỏi thêm về các sản phẩm khác. Đặc điểm về công nghệ sản xuất sản phẩm và máy móc, trang thiết bị của công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội. 2.1. Quy trình công nghệ sản xuất của sản phẩm chủ yếu của công ty Công ty tổ chức hoạt động theo dây truyền công nghệ nên công việc được tổ chức theo trình tự các bước từ khâu này đến khâu khác.Từ khâu sản xuất đến khâu kiểm tra chất lượng để tránh trường hợp sản xuất bị sai hỏng. Hoạt động sản xuất của công ty chủ yếu là hàng may mặc theo hợp đồng cho khách hàng trong và ngoài nước. do vậy rất cần phong phú về sản phẩm, mỗi loại hợp đồng lại có những sản phẩm với kích thước khác nhau vì thế khi ký kết các hợp đồng thì giá bán của mỗi sản phẩm cũng thay đổi theo, song nhìn chung có thể khái quát sản phẩm hàng may mặc của công ty như sau: Công ty nhận nguyên vật liệu về kho công ty nguyên vật liệu này có thể mua hoặc do khách hàng cung cấp. Sau đó nguyên vật liệu được chuyển đến phân xưởng cắt, phân xưởng cắt này chịu trách nhiệm về vải, xem vải có lỗi hay không, trong các giai đoạn này phải đo vải cẩn thận xem định mức để xắp xếp phôi vải hiệu quản nhật. chỉ tiêu mức hàng ro khách hàng đặt da, bộ phận kỹ thuật của công ty từ định mức này mà xây dưng lại định mức thực tế để tổ chức cắt giảm nguyên vật liệu đảm bảo tiết kiệm, sau khi định mức cụ thể mới được đưa xuống sản xuất đại trà,chất lượng của công ty phụ thuộc rất nhiều vào công đoạn này tiếp theo được đưa từ phân xưởng cắt đến phân xưởng vắt sổ và điều chỉnh kích thước cho phù hợp với hợp đồng, sau đó đưa xuống phân xưởng may gia công,sau khi qua giai đoạn nàysản phẩm được dựng thành mẫu cụ thể, mọi xửa trữa được tiến hành ở giai đoạn này rồi đưa xuống phân xưởng Là. sau khi hoàn thiện sản phẩm được đưa qua bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm, sau đó thành phẩm được đưa xuống phân xưởng đóng gói sản phẩm, cuối cùng bộ phận kỹ thuật phải kiểm tra lần cuối mới được chuyển vào kho. phân xưởng vắt sổ phân xưởng căt kho vật tư phân xưởng máy phân xưởng là nhập kho phân xưởng đóng gói ksc 2.2. Đặc điểm về máy móc trang thiết bị của công ty Dưới đây là trang thiết bị máy móc trong công ty và tình hình sử dụng Bảng 1: chỉ tiêu sử dụng thiết bị của công ty trong 3 năm Chỉ tiêu Đvt 2001 2002 2003 Số máy may Máy 80 85 87 Tỷ lệ huy động thiết bị % 80 90 100 Sản lượng 1000 sp 50 55 57 Hiệu suất sử dụng thiết bị % 65 70 83 Số dây chuyền sản xuất D.chuyền 02 04 05 (Nguồn: phòng sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu) Ngoài ra thủ công mỹ nghệ chủ yếu là dùng thủ công không dùng máy móc. Đặc điểm về nhân lực của công ty Cơ cấu lao động của công ty Sử dụng lao động hợp lý và sử dụng một cách có hiệu quả là một nhân tố giúp cho công ty đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Để thực hiện điều này công ty đã từng bước thực hiện sắp xếp, bố trí lao động cho hợp lý hơn. Bảng 2: cơ cấu lao động của công ty qua 3 năm gần đây stt Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) 1 Tổng số lao động 350 100 380 100 398 100 Phân theo trình độ Đại học và trên đại học 26 7,43 34 8,95 38 9,55 Trung cấp và cao đẳng 36 10,29 38 10,00 42 10,55 Thợ bậc 6+7 33 9,43 37 9,74 41 10,30 Thợ bậc 5 36 10,29 40 10,53 44 11,06 Công nhân 219 62,58 231 60,78 233 58,54 2 Phân theo đối tượng Lao động quản lý 62 17,71 72 18,95 80 20,10 Lao động kỹ thuật 30 8,57 32 8,42 38 9,55 Lao động sản xuất phục vụ 258 73,72 276 72,63 280 70,35 3 Phân theo giới tính Lao động nam 80 22,86 85 22,37 87 21,86 Lao động nữ 270 77,14 295 77,63 311 78,14 (Nguồn: phòng tổ chức- hành chính) Qua bảng số liệu trên ta thấy tổng số lao động của nữ chiếm đại đa số trên 75% tổng lao động toàn công ty. Tỷ lệ này phù hợp với đặc điểm sản xuất của công ty đòi hỏi nhiều sự khéo léo, kiên nhẫn hơn là những đòi hỏi về thể lực. Lao động có chuyên môn của công ty được nâng cao dần nhưng chưa có sự cân đối vì lao động có trình độ trung cấp trở lên còn thấp, lao động chủ yếu của công ty là công nhân chiếm số lượng lớn. Năm 2002 chiếm 60,78%, năm 2003 chiếm 58,54% số lượng tuy có giảm nhưng vẫn còn cao trên 55% tổng số lao động của công ty. 3.2. Tình hình sử dụng lao động của công ty Hiện nay công ty bố trí lao động hai ca một ngày. Nừu có yêu cầu phải giao hàng nhanh, đúng tiến độ của khách hàng thì phải tăng thêm ca, làm thêm giờ để kịp đúng thời hạn giao hàng. Lao động nữ của công ty hầu hết đảm nhận công việc ở xí nghiệp may, làm thủ công mỹ nghệ, còn lao động nam thường được phân công ở các phòng đòi hỏi có sức khoẻ và kỹ thuật như ở phòng quản lý, kiểm tra máy móc… 4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội trong 3 năm qua. 2003/2002 % 106,7 108,5 102,2 134,4 109,3 114,6 105,6 104,7 111,1 109,2 128,3 409 369,3 396,6 2.750 2.250 142,2 100 18 100 211,6 5,96 2002/2001 % 144,9 164,7 112,7 117,6 106,7 118,5 137,4 108,6 105,8 118,8 103,2 1.903 1.698 204 1.200 1.700 152,7 486 30 50 363 1.63 2003 6.544,364 4.692,207 1.852,157 10.750 29.000 1.119,3 1.886 398 1000 2.505,247 27,01 2002 6.135,352 4.322,843 1.812,509 8.000 27.000 977,1 1.186 380 900 2.293,639 21,05 2001 4.231,895 2.624,140 1.607,755 6.800 25.300 824,4 1.300 350 850 1.930,433 19,42 ĐVT Tr.đồng - - - - - - Người 1000đ Tr.đồng Tr.đồng Chỉ tiêu Tổng vốn kinh doanh Vốn lưu động Vốn cố định Giá trị tổng sản lượng Doanh thu Nộp ngân sách nhà nước Lợi nhuận sau thuế Tổng số cán bộ công nhân viên Lương bình quân đầu người Tổng quỹ lương Năng suất lao động TT 1 + + 2 3 4 5 6 7 8 9 Qua bảng trên ta thấy doanh thu của năm sau tăng hơn so với năm trước, năm 2002 tăng 6,7% so với năm 2001. Năm 2003 tăng 9,3% so với năm 2002. Hiệu quả sử dụng vốn của công ty chưa cao. Năm 2002 vốn kinh doanh của công ty tăng 44,9% so với năm năm 2001 nhưng doanh thu cũng chỉ tăng 6,7% và lợi nhuận đạt 1.786 triệu đồng tăng 37,4 triệu đồng so với năm 2001. Và năm 2003 số vốn kinh doanh của công ty tăng 6,7% so với năm 2002, lợi nhuận đạt 1.886 triệu đồng tăng 5,6% so với năm 2002. Nộp ngân sách nhà nước tăng đều qua các năm. năm 2002 tăng 18,5% so với năm 2001. Năm 2003 tăng 14,6% so với năm 2002. Tổng số cán bộ công nhân viên tăng hơn năm trước, năm 2002 tăng 30 công nhân so với năm 2001. Năm 2003 tăng 18 công nhân so với năm 2002. Điều đó chứng tỏ công ty đã tạo được công ăn việc làm cho người lao động. Lương bình quân đầu người tăng đều qua các năm nhưng chưa cao. Năng suất lao động của công ty năm sau cao hơn so với năm trước, điều đó cho thấy công ty đã và đang sử dụng lao động một cách hợp lý và có hiệu quả. Cụ thể năm 2001 một cán bộ công nhân viên tạo ra 19,42 triệu đồng/năm. Năm 2002 đã tăng thêm 3,2% so với năm 2001 là 21,05 triệu đồng/năm. Và năm 2003 là 27,01 triệu đồng/năm tăng thêm 28,3%. III. Thực trạng khả năng cạnh tranh về sản phẩm của công ty 1. Đặc điểm sản phẩm của công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội. Trong tiến trình hội nhâp kinh tế như hiện nay, sự cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại là một điều không thể tránh khỏi bởi chấp nhận nền kinh tế thị trường nghĩa là chấp nhận cạnh tranh. Với chính sách mở cửa tự do thương mại hàng ngoài tràn vào Việt Nam ào ạt với giá thành thấp, thương hiệu lâu năm trên thị trường đã làm giảm đáng kể sức cạnh tranh của các sản phẩm của công ty cũng như các sản phẩm trong nước. Nhưng công ty cũng vẫn sản xuất nhưng bán với giá thành thấp hơn và hiện nay công ty vẫn làm ăn tốt có chỗ đứng trên thị trường. Nhưng ngoài ra công ty còn phát triển một số nghành như xây dựng dân dụng, bán gạch ngói, than, mắc điện cho vùng nông thôn và miền núi…với các khách hàng truyền thống lâu năm như công ty than Quảng Ninh, công ty kinh doanh nhà số 3…công ty luôn chiếm được thị phần cao nhưng một lực lượng cạnh tranh không nhỏ đối với sản phẩm của công ty là các hàng Trung Quốc nhập lậu đã khiến cho công ty gặp rất nhiều khó khăn. Ngành thủ công mỹ nghệ của công ty có quy mô còn nhỏ thiếu đồng bộ, tay nghề công nhân còn kém vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiện nay ngành đang có sự thay đổi về cơ cấu mặt hàng, tăng thị hiếu người tiêu dùng và thay đổi giá giữa các công ty trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó ngành may mặc của công ty cũng có quy mô còn nhỏ, thiếu kinh nghiệm quản lý, lao động thường xuyên biến động thiếu hụt, tay nghề còn kém, trong khi đó công ty cũng không thoát khỏi tình trạng chung của nghành may là trị giá gia công còn thấp, hàng nhập lậu và chốn thuế nhiều, nhưng trong những năm gần đây với vịêc thực hiện “hiệp định thương mại Việt Mỹ” đã mở ra những cơ hội mới cho ngành may của Việt Nam nói chung và của công ty sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên nói riêng. Công ty đang tiếp cận thị trường Mỹ và có kế hoạch vào thị trường này. Với những cố gắng và nỗ lực của công ty thì công ty còn có nhiều khả năng cạnh tranh được về sản phẩm trên thị trường. Ngoài ra ngành sản xuất gạch cũng thu được lợi nhuận vì ở trong nước có rất ít doanh nghiệp sản xuất gạch ma chỉ có tư nhân mở nhỏ lẻ. 2. Thực trạng cạnh tranh về sản phẩm của công ty 2.1. Cạnh tranh về giá bán sản phẩm Muốn chiến thắng trong cạnh tranh doanh nghiệp phải tạo ra lợi thế cạnh tranh thường là giá cả, sự khác biệt hoá và tốc độ cung ứng. Nếu sản xuất được những sản phẩm với chi phí thấp, thì doanh nghiệp sẽ có khả năng thu được lợi nhuận cao hơn những đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp đã sử dụng triệt để các vật liệu phụ bằng sản phẩm nội địa, giảm thiểu chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp…để có thể hạ giá thành sao cho có giá bán sản phẩm của công ty thật cạnh tranh trên thị trường. 2.2. Cạnh tranh về chất lượng sản phẩm Để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, thời gian qua công ty đã luôn đặt công tác chất lượng lên hàng đầu. Nhận định hướng đi đúng đắn đó toàn bộ cán bộ công nhân viên đã tích cực học tập, triển khai và hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001. 2.3. Cạnh tranh về đa dạng hoá sản phẩm Mục tiêu của công ty là đa dạng hoá sản phẩm là đạt được lợi thế cạnh tranh bằng việc tạo ra sản phẩm có thể thoả mãn các loại yêu cầu của khách hàngkhác nhau của doanh nghiệp. Để tạo ra lợi thế cạnh tranh của mình thời gian qua công ty không ngừng nỗ lực, cố gắng tìm tòi để tạo ra nhiều mẫu mã, kiểu dáng, đặc tính chất lượng của sản phẩm… Nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều nhóm khách hàng khác nhau. 2.4. Cạnh tranh về dịch vụ bán hàng của công ty Công ty chu yếu hình thức bán hàng trực tiếp, còn bán hàng qua đại lý chiếm tỷ trọng nhỏ. Bán hàng qua kênh phân phối trực tiếp còn có những ưu điểm nhất định như giảm chi phí quản lý tổ chức mạng lưới kênh phân phối, có nhiều điều kiện tiếp xúc với khách hàng, thu thập được nhiều thông tin nhưng với cách này công ty khó có thể bao quát được hết thị trường, có thể bỏ xót nhiều khách hàng nhỏ lẻ như các cơ sở sản xuất tư nhân, hộ gia đình… tuy số lượng tiêu thụ cho khách hàng này không lớn nhưng tính trên toàn bộ thị trường thì lại không nhỏ. * Các hình thức xúc tiến bán hàng. Quản cáo: Công ty thường sử dụng hình thức quản cáo qua báo chí là chủ yếu vì chi phí thấp, không mất nhiều thời gian. Công ty còn thỉnh thoảng triển lãm hàng công nghiệp Việt Nam Khuyến mãi: Công ty sử dụng hình thức khuyến mãi tác động đến khách hàng nhằm tăng doanh số bán hàng, số lượng bán ra được nhiều hơn. Ngoài ra công ty còn giảm giá cho khách hàng mua với số lươngj lớn và những khách hàng thanh toán ngay bằng tiền mặt. Dịch vụ sau bán hàng: Công ty đặt chất lượng sản phẩm lên hàng đầu vì vậy công ty cam kết chịu trách nhiệm đến cùng về sản phẩm của mình đang trong thời gian bảo hành. Khách hàng có thể trả lại hàng hoá khi không đáp ứng được yêu cầu. Công ty còn có phương tiện vận chuyển đến tận nơi khách hàng yêu cầu. ChươngII: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở việt nam hiện nay I.Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 1.Thực trạng các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Trong những năm tới, công ty sẽ nỗ lực hết mình, tận dụng hết nguồn lực trong công ty để sản phẩm và uy tín của công ty ngày càng được nâng cao. Vì vậy việc mở rộng làm ăn với các bạn hàng nước ngoài, các bạn hàng trong nước thì việc cổ phần hoá sẽ giúp cho công ty có nhiều mối làm ăn hơn, có nhiều vốn để mở rộng đầu tư hơn. việc hạ giá thành và nâng cao chất lươngj sản phẩm sẽ được đảm bảo hơn. Ngoài ra việc quản lý được chặt chẽ và có hiệu quả, công nhân viên làm đúng được năng lực của mình. Vậy việc công ty cổ phần hoá là đúng đắn trong quá trình hội nhập này, đúng như chủ chương của nhà nước. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước không còn được bao cấp mọi mặt như trước nữa, mặt khác lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết liệt,nên đã làm cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước thay đổi khá rõ nét. Từ 12000 doanh nghiệp giảm xuống còn khoảng 5600 doanh nghiệp, nhờ đổi mới về mặt tổ chức quản lý, về kĩ thuật công nghệ của các doanh nghiệp còn lại, tổng giá trị sản phẩm không những không giảm mà còn tăng lên đáng kể Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm qua là khả quan, đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, nhất là những ngành đòi hỏi đầu tư lớn, kĩ thuật công nghệ cao, các nghành sản xuất, cung ứng các hàng hoá dịch vụ công cộng. Đồng thời doanh nghiệp nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ yếu cho ngân sách Nhà nước. Có thể thấy rằng: Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước hình thành từ thời quản lý tập trung bao cấp, khi chuyển sang cơ chế thị trường lại thiếu sự kiểm soát việc thành lập nên phát triển tràn lan. Mặt khác trong điều kiện kinh tế tư nhân còn non yếu, chỉ mới hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể tập trung toàn lực cho yêu cầu phát triển ở những nghành, lĩnh vực then chốt. Những đặc điểm trên luôn chi phối phương hướng, bước đi và biện pháp quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Nhưng nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước vẫn rất khó khăn, hiệu quả kinh doanh còn thấp, nhiều doanh nghiệp vẫn làm ăn thua lỗ triền miên, sự đóng góp cho ngân sách của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với phần đầu tư của nhà nước cho nó, cũng như tình trạng thất thoát vốn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng, việc quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước còn quá yếu kém, đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng buông lỏng quản lý tài chính làm nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu, tình trạng phân hoá, chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng. Tóm lại, các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đang đóng góp vai trò to lớn trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều bất cập. Quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản doanh nghiệp nhà nước 2. Các bước để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên Hà Nội Trình tự và nội dung các bước tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp theo tiến độ sau: Bước1: Thành lập ban vận động cổ phần hoá doanh nghiệp. Ban vận động cổ phần hoá doa uỷ ban nhân dân các tỉnh quyết định thành lập và cử giám đốc doanh nghiệp làm trưởng ban. Bao gồm: các chuyên gia kĩ thuật, cán bộ quản lý, các chuyên gia quản lý các nghành quản lý nhà nước(nghành chủ quản, tài chính, ngân hàng). Ban vận động có nhiệm vụ chuẩn bị phương án cổ phần hoá và nội dung các bước tiến hành cổ phần hoá xây dựng luận chứng sơ bộ về cổ phần hoá : quy mô, loại hình sản xuất kinh doanh... Bước 2: Phân tích và tổ chức doanh nghiệp. Bước này nhằm làm rõ thực trạng về các mặt những vấn đề đặt ra cần xử lý trước khi tiến hành cổ phần hoá Bước 3: Xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị của doanh nghiệp là giá cả của doanh nghiệp khi bán cho chủ sở hữu khác, vì vậy nó cũng chịu sự chi phối của thị trường, quan điểm cung cầu tại thời điểm cổ phần hoá và những điều kiện kèm theo do bên bán hoặc bên mua đặt ra việc xác định giá trị doanh nghiệp tiến hành theo các bước sau: Xác định giá trị doanh nghiệp theo số liệu thống kiểm kê thời điểm 1/1/1996 và điều chỉnh theo hệ số tại thời điểm 1/1/1997 - Đánh giá lại giá trị tài sản và vốn trong diện cổ phần hoá - Phân tích phương án kinh doanh và lợi nhuận trong 10 năm tới. - Xác định sơ bộ giá trị doanh nghiệp theo phương án lợi nhuận nêu trên. - Đối chiếu kết quả này với: Trị giá vốn theo sổ sách, trị giá vốn theo đánh giá, so với vốn đầu tư một doanh nghiệp mới, có công suất tương đương ở trong nước hoặc ở nước ngoài (có tỷ lệ hao mòn tương đương với doanh nghiệp cổ phần hoá) - Dự kiến trị giá doanh nghiệp và báo cáo lên hội đồng thẩm định xem xét trước khi cấp có thẩm quyền quyết định - Xác định tổng số cổ phần và mệnh giá cổ phiếu, mệnh giá cổ phiếu bằng tổng trị giá của doanh nghiệp chia cho tổng số cổ phần. Nói chung mệnh giá cổ phiếu nên đặt ở mức thấp để có thể huy động được một nguồn vốn nhàn rỗi, vừa tạo điều kiện dễ dàng khi chuyển nhượng cổ phiếu. Bước 4: Dự tính số cổ phiếu đem bán và vận động người mua. Tổng số cổ phiếu được chia thành các cổ phần. Cổ phiếu do nhà nước nắm giữ, số cổ phiếu hưởng lợi cho tập thể công nhân viên doanh nghiệp cổ phần hoá(nếu có) số cổ phiếu bán trả chậm cho công nhân viên, số cổ phiếu bình thường. Bước 5: Xác định giá bán thực tế cổ phiếu và tiền bán hàng. Bước 6: Họp đại hội cổ đông để làm thành lập công ty, thông qua điều lệ và đăng ký lại doanh nghiệp. Toàn bộ nội dung các bước trên đây được thể hiện trong đề án cổ phần hoá doanh nghiẹp và được chủ tịch uỷ ban doanh nghiệp tỉnh thông qua trước khi tiến hành cổ phần hoá. 3. Tiến trình cổ phần hoá- Những kết quả đạt được. Kể từ khi có quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng nay là Thủ tướng chính phủ về việc thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần cho tới nay là tròn 10 năm và chủ trương cổ phần hoá đã thu được những kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là từ năm 1998 trở lại đây. Trong ba năm(1990-1993) Chính phủ đã đưa ra ba văn bản về cổ phần hoá nhưng đến cuối năm 1993 mới có hai doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đó là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển và công ty cổ phần cơ điện lạnh. Năm 1994 là một doanh nghiệp. Năm 1995 là 3 doanh nghiệp.Năm 1996 là 5 doanh nghiệp Cho mãi đến hết năm 1997, tức là sau 7 năm mới chuyển được 18 doanh nghiệp. Dưới tác động của Nghị định 28/CP (ban hành ngày 7/5/1996) và Nghị định 25/CP (sửa đổi bổ sung Nghị định 28/CP), ban hành ngày 26/3/1997 đã có 100 doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 1998. Việc ban hành Nghị định 44/CP ngày 19/6/1998 thay thế cho Nghị định 28/CP và hệ thống các văn bản hướng dẫn đã kiến tạo khuôn khổ pháp luật đầy đủ nhất cho việc cổ phần hoá, khắc phục được những khuyết điểm nảy sinh trong Nghị định 28/CP đặc biệt là các vấn đề về ưu đãi cho người lao động, xác định giá trị doanh nghiệp, thẩm quyền định giá, thẩm quyền ra quyết định cổ phần hoá . Về cơ bản nó mang những nội dung tích cực phù hợp với thực tiễn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Vì vậy năm 1999 công tác cổ phần hoá có những bước khởi sắc nhất định cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp. Năm 2000 cổ phần hoá được 212 doanh nghiệp và năm 2001 là 149 doanh nghiệp cho đến nay có khoảng 774 doanh nghiệp nhà nước trong cả nước được cổ phần hoá. Trong số các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá có tới 60 doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh thua lỗ. Số còn lại khi có lãi khi lỗ, tính chung thì có lãi ở mức thấp. Nhưng sau khi cổ phần hoá đã đạt được. Kết quả bước đầu như sau: - Huy động được khoảng 3.000 tỉ đồng vốn ngoài xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh - Doanh thu tăng 1,4 lần - Lợi nhuận tăng 2 lần - Nộp ngân sách tăng 1,2 lần - Thu nhập người lao động so với khi còn là doanh nghiệp nhà nước tăng 22% - Số lao động tăng 5,1 lần - Vốn của người lao động trong công ty tăng từ 1,5 đến 2 lần so với mức mua cổ phiếu - Giá trị cổ phiếu tăng từ 3 đến 4 lần - Vốn điều lệ tăng từ nguồn lợi nhuận của doanh nghiệp và phát hành thêm cổ phiếu. Phần vốn góp nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định lại một cách rõ ràng, minh bạch hơn, được đánh giá đúng hơn, nên vốn nhà nước đã tăng lên so với sổ sách kế toán, đồng thời cũng tăng lên sau cổ phần hoá - Thời gian cổ phần hoá từ 7 tháng đến 9 tháng, trung bình là 27 tháng. Những số liệu trên đây cho thấy rằng các doanh nghiệp sau khi đã cổ phần hoá đã tỏ ra hoạt động có hiệu quả, thu nhập của cổ đông, người lao động đều tăng khá. Các doanh nghiệp đã cổ phần hoá có vốn Nhà nước dưới 10 tỉ đồng chiếm 94,3% và đạt trên 10 tỉ đồng chỉ chiếm 5,7%. Trong các doanh nghiệp cổ phần hoá , Nhà nước có cổ phần ở 59% số công ty cổ phần . Nhà nước nắm trên 30% tổng số vốn điều lệ ở trên 25% số công ty cổ phần , nắm trên 50% vốn điều lệ ở 8% công ty cổ phần . công ty cổ phần trong đó Nhà nước giữ vốn tới 80% là công ty cổ phần in và bao bì Hải Phòng. Trong tổng số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá thì có tới 50,6% thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng; 34,7% thuộc lĩnh vực thương mại dịch vụ; 9,9% thuộc lĩnh vực giao thông và 4,7% thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản.. Nếu so với công cuộc cổ phần hoá ở Trung quốc thì ta thấy rõ chỉ sau 6 năm triển khai cổ phần hoá (tháng 2 năm 1993 Chính phủ Trung quốc ra sắc lệnh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và đầu năm 1994 triển khia ở một số doanh nghiệp nhà nước) đến đầu năm 2000 Trung Quốc đã cổ phần hoá được 1,6 vạn doanh nghiệp chiếm khoảng 5% tổng số doanh nghiệp. Kế hoạch đặt ra đến năm 2003 Trung Quốc phấn đấu sẽ cổ phần hoá xong 2/3 tổng số doanh nghiệp thuộc đối tượng phải cổ phần hoá, thì chúng ta thấy tiến trình cổ phần hoá của nước bạn đạt được là hết sức khả quan đáng để cho chúng ta những bài học kinh nghiệm để học tập. Mà mục tiêu của chúng ta đề ra trong giai đoạn mới(2002-2005) sẽ cơ bản hoàn thành sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước vì vậy chúng ta cần đẩy nhanh hơn nữa tốc độ cổ phần hoá trong những năm tới. II . Một số quan điểm cần quán triệt khi thực hiện cổ phần hoá 1. Quan điểm coi cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để đổi mới doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay. Nhiều quan điểm cho rằng: Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước có thể có nhiều giải pháp. Đứng trên góc độ sở hữu có thể chia các giải pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước thành hai loại. Loại thứ nhất: Các giải pháp thuộc quan điểm hoàn toàn không động chạm đến vấn đề sở hữu, các giải pháp này nhằm tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không làm thay đổi cơ cấu sở hữu vốn của nó, sở hữu của nhà nước ở doanh nghiệp vẫn giữ 100%. Loại thứ hai: Các giải pháp thuộc quan điểm tác động trực tiếp đối với vấn đề sở hữu , các giải pháp thuộc quan điểm này có xuất phát điểm là thay đổi cơ cấu sở hữu vốn của doanh nghiệp theo hướng giảm sở hữu của nhà nước, tăng sở hữu của các thành phần kinh tế khác. Quan điểm này có các giải pháp: Tư nhân hoá và cổ phần hoá. Tư nhân hoá là quá trình chuyển dịch trong quan hệ công tác giữa nhà nước và thị trường theo hướng ưu tiên thị trường. Phạm vi của các quá trình này bao gồm cả việc chuyển tài sản công sang sở hữu tư nhân lẫn sự thay đổi hệ thống pháp luật, chính sách, luật lệ, thể chế nhằm khuyến khích, mở rộng và phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Cổ phần hoá là quá trình chuyển toàn bộ hay một phần tài sản thuộc sở hữu nhà nước(trong phạm vi doanh nghiệp) thành sở hữu của nhiều chủ thể khác nhau, trong quá trình đó nhà nước chỉ bổ sung, sửa đổi các điều luật và chính sách có liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc cổ phần hoá. Không có những thay đổi lớn về chủ trương, đường lối và chính sách kinh tế, rõ ràng cổ phần hoá không đồng nhất với tư nhân hoá. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay bởi vì: Thứ nhất: Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tự nó đã bao hàm các giải pháp thuộc loại một. Không có một nước nào khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà lại không đặt ra vấn đề đi liền với nó là điều chỉnh lại khu vực kinh tế Nhà nước. Thứ hai: Nước ta là một nước xã hội chủ nghĩa, theo học thuyết kinh tế Mác-Lê nin với thể chế chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì vậy, ở nước nền kinh tế thị trường chưa phát triển, kinh tế tư nhân còn non kém, kinh nghiệm trình độ quản lý của các doanh nhân còn thấp thì việc thực hiện giải pháp tư nhân hoá sẽ gây thất thoát, lãng phí lớn. Thứ ba: Một trong những mục tiêu chính của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, điều đó không có nghĩa là từ nay các doanh nghiệp thoát ly khỏi sự kiểm tra giám sát của Nhà nước. Việc nhà nước nắm giữ cổ phần đủ để chi phối hoạt động của các công ty cổ phần là điều kiện để nhà nước thực hiện quyền kiểm tra giám sát đó. Đặt vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước là giải pháp cơ bản để đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhằm khẳng định một lần nữa vai trò và sự cần thiết khách quan của giải pháp cổ phần hoá. Tránh các tư tưởng hoài nghi về tính đúng đắn của chủ trương cổ phần hoá để đổi mới doanh nghiệp nhà nước. 2. Quan điểm coi trọng tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá Quá trình cổ phần hoá phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu, cách tổ chức, bước đi và các biện pháp cụ thể do những điều kiện hoàn cảnh chính trị, kinh tế- xã hội của mỗi nước quy định. ở những nước có nền kinh tế phát triển có sự hoạt động mạnh mẽ của thị trường chứng khoán thì việc tiến hành cổ phần hoá gặp thuận lợi hơn nhiều so với nước chậm phát triển. Đối với những nước có nền kinh tế thị trường chưa phát triển thì ngoài việc sử dụng những phương pháp đặc thù, các nước này còn phải đồng thời thực hiện quá trình chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế hoạt động trên cơ sở quan hệ thị trường. Mặt khác quan niệm về vai trò và các lĩnh vực cần khu vực kinh tế nhà nước cần nắm giữ cũng như tỷ lệ cổ phần của nhà nước ở các công ty cổ phần sau này ở mỗi nước đều có sự khác nhau. Cho nên đẫn đến vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp ở mỗi nước cũng khác nhau về mục tiêu, giải pháp, cách thức tiến hành, mối tương quan về sở hữu vốn của nhà nước và tư nhân ở mỗi bước đi và giai đoạn thực hiện cổ phần hoá. ở Việt nam ta cũng vậy, khi tiến hành cổ phần hoá cũng không thể không chú ý đến tính đặc thù về điều kiện, mục tiêu, phương pháp và bước đi. Đặt vấn đề coi trọng tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá nhằm chống lại mọi quan điểm cho rằng”chỉ cần vận dụng kinh nghiệm của các nước có hoàn cảnh tương đồng như nước ta không cần phải tìm tòi bước đi riêng làm gì cho phức tạp”. Hoặc quan điểm cho rằng”có thể cổ phần hoá ở tất cả các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế theo một cách thức và bước đi chung” III. Một số khuyến nghị nhằm đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá ở nước ta. Nhìn lại công tác đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước và tình hình thực thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chúng ta có thể đánh giá rằng bức tranh cổ phần hoá đã bắt đầu xuất hiện nhiều điểm sáng. Công ty cổ phần đã được chính phủ chú trọng và quan tâm chỉ đạo, đã thu được những kết quả đáng khích lệ tuy chưa phải là toàn diện cả về mặt cơ chế chính sách lẫn công tác tổ chức bộ máy chỉ đạo. Tốc độ thực hiện còn chậm, số lượng doanh nghiệp nhà nước đăng ký và chuyển sang công ty cổ phần còn ít. Kết quả cổ phần hoá trong năm 2001 vừa qua đạt kết quả thấp chỉ cổ phần hoá được 149 doanh nghiệp (theo dự kiến là từ 250 đến 300 doanh nghiệp) Mặc dù phía trước còn rất nhiều khó khăn đang chờ đợi. Theo dự kiến của ban quản lý đổi mới doanh nghiệp trung ương, số lượng doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hoá và chuyển đổi hình thức sở hữu đến năm 2005 là trên 2500 doanh nghiệp. Nếu so với số doanh nghiệp đã được cổ phần hoá từ trước tới nay thì đây là một mục tiêu khá táo bạo, để thực hiện được đòi hỏi phải có những giải pháp hợp lý. Vì vậy chúng ta cần triển khai đồng bộ một số công việc sau: 1. Về công tác xây dựng chính sách cổ phần hoá Nghị định 44/CP về cổ phần hoá thay thế Nghị định 28/CP mặc dù đã khắc phục được một số điểm bất cập trong nghị định này nhưng cho đến Nghị định 44/CP cũng đã bộc lộ những mặt yếu kém. Vì vậy cần có một Nghị định mới nhằm thay thế Nghị định 44/CP, để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ cần sớm ban hành quy chế bán cổ phần hoá cho người nước ngoài. Đây là biện pháp phức tạp để huy động vốn, công nghệ và học hỏi những phương pháp quản lý tiên tiến của nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, tăng thêm nguồn lực để phát triển đất nước. Đây là vấn đề mới, cần cân nhắc thận trọng, vừa đảm bảo quyền lợi của nhà nước trong doanh nghiệp cũng như quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài, tránh tình trạng ban hành rồi lại tiến hành sửa đổi nhiều lần, gây mất lòng tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Cần khẩn trương thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá theo hướng sẽ tư vấn kỹ thuật, trợ giúp tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Chức năng của quỹ sẽ tập trung vào giải quyết những hậu quả nảy sinh từ quá trình sắp sếp lại doanh nghiệp nhà nước như giải quyết việc làm và trợ cấp tài chính cho lao động dôi dư, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết những tồn đọng về tài chính trước khi cổ phần hoá. Chuẩn bị những hướng dẫn cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia của các doanh nghiệp cổ phần hoá vào thị trường chứng khoán. Cho phép các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán 2. Về công tác tổ chức thực hiện Tiếp tục kiện toàn và củng cố bộ máy chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá, bảo đảm tất cả các bộ, địa phương và tổng công ty đều có bộ máy chỉ đạo công tác cổ phần hoá. Tăng cường công tác giám sát, đôn đốc và phối hợp công tác giữa ban chỉ đạo trung ương với ban đổi mới doanh nghiệp cơ sở. Nâng cao chất lượng cán bộ chỉ đạo, đảm bảo cán bộ cơ sở có thể giải quyết nhanh những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện cổ phần hoá ở từng doanh nghiệp. Tiến hành tổng kết và rút kinh nghiệm về thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 2001 làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện các biện pháp nhằm hoàn thành kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 2002. Trên cơ sở quy hoạch chương trình tổng thể quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, các cấp lãnh đạo các bộ, nghành địa phương, tổng công ty cần có kế hoạch triển khai nhanh chóng các bước trong phương án cổ phần hoá các doanh nghiệp đã được chính phủ phê duyệt, tập trung chỉ đạo công tác cổ phần hoá tại một số bộ, địa phương như: Bộ công nghiệp, Bộ thuỷ sản...,Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ chức đẩy mạnh công tác tuyên truyền chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để nâng cao sự hiểu biết của quần chúng nhân dân về lợi ích của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 3. Về công tác có một chính sách hỗ trợ hợp lý về vốn. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong vài năm trở lại đây có những chuyển biến rõ rệt nhờ chính sách khuyến khích, hỗ trợ của nhà nước, đặc biệt từ khi có nghị định số 44/CP ngày 29/06/1998 của chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Tuy nhiên trong quá trình này cũng nảy sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết không những trước và trong khi cổ phần hoá cả khi công ty đã đi vào hoạt động. Một trong những vấn đề đó là những khó khăn của các công ty cổ phần khi tìm kiếm nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, việc thay đổi hình thức sở hữu đã và đang kéo theo sự thay đổi mà có thể gọi là chính sách đối sử. Trước khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu nhà nước nên khi vay vốn doanh nghiệp được ngân hàng tập trung đầu tư hơn, nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Đi kèm theo chính sách này là các quy định ưu đãi về tài chính và tài sản như không phải cầm cố thế chấp tài sản khi vay vốn, nếu hoạt động kinh doanh đang thua lỗ nhưng dự án kinh doanh khả thi, giúp khắc phục tình trạng tài chính hiện tại và ngân hàng có khả năng thu nợ thì vẫn được xem xét cho vay. Sau khi cổ phần hoá, doanh nghiệp trở thành công ty cổ phần thì các chính sách này không được áp dụng nữa. Khi vay vốn, điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp cần có tài sản để thế chấp cầm cố, phải có kết quả kinh doanh tốt và dự án kinh doanh khả thi. Khó khăn ở đây là đa số các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, trì trệ, cần phải thay đổi phương thức sở hữu để tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Tài sản của doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá không lớn, máy móc nhà xưởng thiết bị thường cũ kỹ lạc hậu. Do vậy, khi thẩm định tài sản thế chấp cầm cố, các ngân hàng thường đánh giá tài sản này rất thấp và có nhiều rủi ro. Rõ ràng là đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá, các cơ quan có thẩm quyền cần lưu tâm hơn nữa đến vấn đề này. Việc cổ phần hoá có hiệu quả không chỉ giải quyết tốt việc chuyển đổi sở hữu, không chỉ là việc củng cố lại phương thức quản lý và kinh doanh trên lý thuyết, mà cần phải có một chính sách hỗ trợ hợp lý về vốn. 4. Về công tác khác nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố giao cho Bộ, Sở văn hoá thông tin chủ trì phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc cổ phần hoá . Ngoài ra tổ chức các lớp tập huấn về chính sách của Đảng và Nhà nước đến các đối tượng: giám đốc, kế toán trưởng, chủ tịch công đoàn các doanh nghiệp Cần có sự tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất. Hiện tại vẫn còn sự can thiệp sâu, trực tiếp của cơ quan nhà nước trên các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đây là thói quen được hình thành từ thời bao cấp. Việc can thiệp này thường gắn với lợi ích kinh tế nên chính nó là lực cản của quá trình cổ phần hoá. Để các doanh nghiệp tự chủ trong việc kinh doanh, tận dụng thời cơ, thời điểm kinh doanh thích hợp nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho cả công ty, cơ quan cấp trên tức cơ quan quản lý Nhà nước chỉ thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, chỉ can thiệp khi có trục trặc cần thiết. Vấn đề ở đây là phải thay đổi vai trò của Nhà nước từ cơ quan quản lý sang cổ đông khi cổ phần hoá phải thuyết phục khách hàng trên thị trường về tính xác đáng của các dự án được đưa ra thảo luận tại hội đồng quản trị Tạo lập một chế độ tài chính bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Không nên duy trì đặc ân riêng cho bộ phận kinh doanh nào như ưu đãi về sử dụng đất, về thuế xuất; nhập khẩu, về quyền vay trả lãi cho các tổ chức tín dụng, quyền miễn giảm các loại thuế, các khoản tài trợ, bù lỗ làm giảm khả năng của doanh nghiệp. Phải thay vì việc khuyến khích lên danh sách các doanh nghiệp sẽ tiến hành cổ phần hoá như trước đây thì nay các Bộ, ngành, địa phương, chỉ xác định những doanh nghiệp duy trì sở hữu nhà nước. Như vậy, tất cả các doanh nghiệp khác đều phải tự động lên kế hoạch cổ phần hoá hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu. Không nên giới hạn tỷ lệ cổ phần bán cho cá nhân hay pháp nhân, trong hay ngoài nước, có thể bán cho mọi đối tượng miễn là phải đảm bao cơ cấu cổ đông theo luật doanh nghiệp vì: nó giúp làm tự do hoá thị trường, kích cầu cổ phiếu (vì nhiều người mua hơn sẽ đẩy giá cổ phần lên cao hơn, Nhà nước sẽ thu lợi nhiều hơn) Thống nhất quy định mọi doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá đều phải được định giá qua một công ty kiểm toán độc lập không do doanh nghiệp chọn nhằm loại bỏ tính chủ quan và ảnh hưởng của những người lãnh đạo doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Nên quy định một tỷ lệ cổ phiếu dành riêng cho người lãnh đạo doanh nghiệp (có thể tăng hoặc bán rẻ). Chúng ta biết rằng giá cổ phiếu phụ thuộc nhiều vào phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì do ban cổ phần hoá doanh nghiệp lập ra. Với tỷ lệ cổ phần được xem như là phần thưởng sẽ tạo động lực thúc đẩy họ hăng say làm việc Chính phủ nên cho phép các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán vì thị trường này sẽ kiểm định lại những đánh giá của các công ty kiểm toán về giá trị doanh nghiệp, vả lại việc phát hành trên thị trường này có những ưu điểm nổi bật hơn tất cả các thị trường khác. Kết luận Trong điều kiện chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đã đặt ra những khó khăn thử thách cho doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước việc thích ứng được với cơ chế thị trường là một vấn đề hết sức nan giải. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp nhà nước đều được nhà nước bao cấp từ đầu vào cho đến đầu ra, nên cơ chế quản lý không có tính năng động và sáng tạo, việc sử dụng đầu vào không cần phải tính toán đến hiệu quả sản xuất gây nên lãng phí ngân sách nhà nước mà sản phẩm đầu ra lại đạt chất lượng thấp. Để thích ứng với cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh lành mạnh trong thị trường. Do đó, yêu cầu phải đổi mới phương thức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp này là một yêu cầu cấp thiết. Sau khi nghiên cứu tình hình doanh nghiệp sản xuất xuất nhập khẩu đầu tư Thanh Niên em thấy đây là một phương thức đổi mới phương thức quản lý vốn, tạo ra hiệu quả cao cho đồng vốn đưa vào sản xuất, tạo sự chủ động sáng tạo cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù có những thành tựu kể trên nhưng trên thực tế quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau như việc xác định giá trị doanh nghiệp, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá ...Để điều chỉnh các vấn đề này đòi hỏi Nhà nước phải sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật mục đích dần hoàn thiện một khung pháp lý đầy đủ để điều chỉnh hoạt động chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Để giải quyết một số tồn tại trước mắt tạo tiền đề thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá trong tương lai em có đưa ra một số giải pháp như đã trình bày trong bài luận văn này. Em hy vọng các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nói chung và của công ty sản xuất xuất nhập khẩu nói riêng, giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn. tài liệu tham khảo Giáo trình: chiến lược kinh doanh- thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân- trường đại học quản lý và kinh doanh Hà Nội. Luật cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Nhà xuất bản Lao động- xã hội Chiến lược phát triển kinh doanh của PGS.TS, Nguyễn Thành Độ TS, Nguyễn Ngọc Huyền Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội Chủ trương của Đảng và nhà nước Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật Quản lý chất lượng sản phẩm PGS.TS, Đặng Đức Dũng Nhà xuất bản thống kê 6. Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần PTS. Đoàn văn Hạnh 7. Hoạt động của kinh tế thị trường và vai trò của nhà nước- nhà xuất bản Hà Nội- 1993 8. Phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta hiện nay. GS,PTS Vũ Đình Bách- Ngô Đình Giao. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội- 1997

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0117.doc
Tài liệu liên quan