Luận văn Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm

Đề tài: PHONG CÁCH THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM Luận vănCung cấp luận văn cách ngành dài 108 Chương I THƠ CHỐNG MỸ VÀ SỰ XUẤT HIỆN PHONG CÁCH THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM 1. Phong cách nghệ thuật thơ 11 1.1 Khái niệm phong cách 11 1.2 Phong cách thời đại và phong cách cá nhân 14 1.3 Nghiên cứu phong cách một nhà thơ 15 2. Nguyễn Khoa Điềm - Một phong cách thơ đặc sắc của thơ trẻ chống Mỹ . 17 2.1 Nền thơ chống Mỹ . 17 2.2 Nguyễn Khoa Điềm và những chặng đường sáng tạo. 19 2.2.1 Con người – Quê hương – Gia đình 19 2.2.2 Những chặng đường sáng tạo . 22 2.2.2.1 Sự ra đời của Đất ngoại ô và Mặt đường khát vọng trên chiến trường Bình Trị Thiên 22 2.2.2.2 Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Cõi lặng - Thơ viết trong cuộc sống hoà bình 24 Chương II TỪ CẢM HỨNG THỜI ĐẠI ĐẾN PHONG CÁCH CÁ NHÂN NGUYỄN KHOA ĐIỀM 1. Cảm xúc lớn về Nhân dân, Đất nước. . 27 1.1 Cảm xúc về Đất nước nhìn từ góc độ lịch sửluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lịch Sử - văn hóaluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Văn Hóa . 28 1.2 Cảm xúc về Đất nước từ góc độ trải nghiệm cá nhân. 38 2. Nguyễn Khoa Điềm - tiếng thơ đại diện tuổi trẻ miền Nam. 41 2.1 Âm hưởng chung của thơ tuổi trẻ miền Nam chống Mỹ. 41 2.2 Thơ Nguyễn Khoa Điềm – quá trình nhận đường của tuổi trẻ miền Nam 43 3. Cái tôi trải nghiệm của nhà thơ - chiến sĩ 48 3.1 Từ cái tôi trữ tình sử thi trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, đến cái tôi trải nghiệm của một thế hệ . 48 3.2 Cái tôi nhà thơ - chiến sĩ trong đời sống nội cảm. 50 3.2.1 Tình yêu trong chiến tranh . 50 3.2.2 Tình đồng đội . 54 4. Những suy ngẫm trong cuộc sống hoà bình 56 4.1 Trầm tư, âu lo đầy trách nhiệm nhưng không bi quan trước gian nan cuộc sống . 56 4.2 Những xúc cảm trữ tình trước vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc đời. . 64 Chương III PHONG CÁCH THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM QUA MỘT SỐ PHưƠNG TIỆN NGHỆ THUẬT 1. Giọng điệu của phong cách . 68 1.1 Giọng chính luận - triết lý . 69 1.1.1 Giọng chính luận . 69 1.1.2 Giọng triết lý. . 73 1.2 Giọng trữ tình 74 1.3 Giọng suy niệm - tự bạch, độc thoại . 77 1.3.1 Giọng thơ hoài niệm về quá khứ. 77 1.3.2 Giọng thơ suy tư - chiêm nghiệm về cuộc đời 79 2. Những hình tượng thơ biểu trưng 81 2.2 Hình tượng người Mẹ . 86 2.3 Hình tượng thơ đặc thù mang nét riêng của phong cách Nguyễn Khoa Điềm 88 3. Vận dụng nhuần nhuyễn chất liệu văn hoá dân tộcluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Dân Tộc Học. 90 3.1 Ảnh hưởng của thể loại sử thi đối với trường ca Mặt đường khát vọng . 90 3.2 Chất liệu văn hóa dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm 92 3.3 Ngôn ngữluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Ngôn Ngữ Học giàu màu sắc địa phương 94

pdf108 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2352 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êng. Đó là tiếng nói đại diện của tuổi trẻ miền Nam trong quá trình nhận đƣờng về với nhân dân, với dân tộc. Quá trình nhận thức ấy quả không đơn giản. Sống trong thành phố bị kẻ thù chiếm đóng, Cách mạng đối với họ thật xa lạ. Đối diện với từng ngày từng giờ là cảnh bắt lính của chính quyền tay sai, là những cám dỗ của cuộc sống tiêu cực, buông thả: Sông Hƣơng ơi sông Hƣơng Ngƣơi còn nguồn với bể Để đi và để đến Còn ta hai lăm tuổi Trôi cạn trên mặt đƣờng (Mặt đường khát vọng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Trƣờng ca Mặt đường khát vọng đã tái hiện lại quá trình nhận thức của tuổi trẻ miền Nam dƣới ách Mỹ - Ngụy: từ nỗi đau quê hƣơng nhận rõ chân tƣớng kẻ thù, sự thức tỉnh về trách nhiệm của tuổi trẻ trong công cuộc cứu nƣớc, tình cảm với nhân dân đất nƣớc để rồi cuối cùng xuống đƣờng, hoà vào dòng thác nhân dân đấu tranh vì độc lập tự do. Hành trình đến với lý tƣởng, với cách mạng, nhân dân của tuổi trẻ thành thị miền nam vô cùng gian nan, phức tạp. Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh họ, và nhà thơ hoà nhập với tuổi trẻ miền Nam để cất lên tiếng nói của chính họ. Nhà thơ cùng họ thấm thía xót xa về thân phận nô lệ: Phƣợng vẫnn rơi những cánh tƣơi hồng Đau nhƣ máu những tâm hồn son trẻ Sao con học để làm bầy nô lệ Súng Mỹ hôm nay thành giáo cụ học đƣờng Với sự đồng cảm sâu sắc, với vốn hiểu biết khá kĩ lƣỡng về cuộc sống của tuổi trẻ thành thị miền Nam - kết quả của một quá trình công tác gắn bó với thực tiễn phong trào học sinh, sinh viên, ở trƣờng ca Mặt đường khát vọng, tuổi trẻ thành thị miền Nam đã cất tiếng thông qua khúc hát của nhà thơ. Trong thành phố bị giặc chiếm đóng, tuổi trẻ phải hứng chịu bao bất trắc tai hoạ đang rình rập bủa vây. Để đẩy dân tộc Việt Nam vào thời kì đồ đá, cam chịu làm nô lệ, Mỹ - Nguỵ dùng mọi thủ đoạn tàn bạo để bắt lính, để lùa những chàng trai sức vóc căng tràn ra trận làm bia đỡ đạn. Không thể cầm súng bắn vào đồng bào, họ trốn tránh ra trận bằng con đƣờng tiêu cực: tự huỷ hoại thân mình. Nguyễn Khoa Điềm đã nhập thân vào lớp ngƣời này để thấm thía tận cùng nỗi tuyệt vọng, bất lực của tuổi trẻ trong hiện trạng đau thƣơng ấy: Hai lăm năm qua chưa một thời trai trẻ? Phải chứng kiến cảnh lam lũ của mẹ cha bị bóc lột đến sức tàn lực kiệt, cảnh em đi trường cho Mỹ vuốt má, tuổi trẻ uất ức căm hận nhƣng đành bất lực bởi ra đường bị bắt lính ngay. Không chỉ đau đớn về tinh thần, mà những chàng trai ấy phải huỷ hoại cơ thể mình để trốn lính, phải sống chui lủi ở những nơi tăm tối, phải đeo gương cho cận thị suốt đời, nhịn đói, thức đêm, ăn tỏi cho tim rung, hút thuốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 tƣợng mạnh bởi cảm xúc mạnh mẽ và sâu thẳm trong hình tƣợng và ngôn từ. Một lần nữa thơ Nguyễn Khoa Điềm đã phác hoạ cả một quá trình giác ngộ của tuổi trẻ yêu nƣớc miền Nam. Nhà thơ đứng ở một tƣ thế trữ tình nhân danh một lý tƣởng sống cao đẹp, nhân danh tình yêu đất nƣớc mà cất lời kêu gọi thức tỉnh tuổi trẻ, hãy sống có lý tƣởng, hãy sống vì đất nƣớc và dân tộc. 3. Cái tôi trải nghiệm nhà thơ - chiến sĩ. 3.1 Từ cái tôi trữ tình sử thi trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, đến cái tôi trải nghiệm của một thế hệ. Hòa cùng thế hệ thơ trẻ những năm chống Mỹ, thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn là một giọng điệu riêng. Vẫn nằm trong tinh thần sử thi, nhƣng thơ Nguyễn Khoa Điềm khác với nhiều nhà thơ cùng thời nhƣ Phạm Tiến Duật gắn với Trƣờng Sơn và những cô thanh niên xung phong, Ngô Văn Phú gắn với làng quê, thôn ổ…Ngƣời ta nhận ra chân dung Nguyễn Khoa Điềm qua làn sóng đấu tranh dữ dội của học sinh, sinh viên thành thị miền Nam. Cái tôi trữ tình sử thi một mặt ca ngợi Đất nƣớc hào hùng trong máu lửa chiến tranh, mặt khác "cái tôi" chuyển hoá sang dạng thức cái tôi thế hệ, để ngợi ca niềm tin, sức sống của khối tuổi trẻ, lòng nhiệt huyết, yêu lý tƣởng của họ trong đấu tranh trực diện với kẻ thù: Ôi những bƣớc tự do chuyển động phố phƣờng Đại lộ nghiêng đi làm thác đổ Đội ngũ tiến lên, tiến lên là đội ngũ Mặt đƣờng là mặt ngƣời, mặt đƣờng là thanh niên (Mặt đường khát vọng) Trong những năm chống Mỹ, cái tôi thế hệ từng hiện diện nhƣ một chủ thể trữ tình có ý nghĩa nhân danh. Các nhà thơ cùng thời cũng đã khắc hoạ chân dung thế hệ mang tầm vóc một tập hợp lịch sử đứng lên đấu tranh: Thế hệ chúng con đi nhƣ gió thổi / Áo quân phục xanh đồng sắc với chân trời (Trần Mạnh Hảo). Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình / (Nhƣng tuổi 20 làm sao không tiếc) / Nhƣng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ quốc (Thanh Thảo). Cảm thức về thế hệ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa đằm thắm vừa sâu sắc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 Mỗi lời thơ nhƣ một lời giục giã thiết tha, lời giãi bày chân thực, và là sự khẳng định lý tƣởng chắc chắn. Cảm thức về thế hệ trẻ đƣợc Nguyễn Khoa Điềm trình bày theo lô gíc của sự trải nghiệm cuộc sống: từ nhận thức về nhân dân đất nƣớc, về gƣơng mặt kẻ thù đến sự tự ý thức và cuối cùng đứng lên tiêu diệt quân thù. Sống vì nhân dân, vì Cách mạng đối với thế hệ trẻ là đi từ cái riêng đến cái chung rộng lớn, dẫn đến hành động tất yếu của họ: Hãy nâng máu ta lên thành ngọn cờ hồng Trên cao điểm gian truân mùa giữ nƣớc Ôi tuổi trẻ có gì cao quý nhất Bằng hôm nay ta hiến máu xƣơng mình Phong trào học sinh, sinh viên đô thị bị tạm chiếm miền nam đã đóng góp cho chiến thắng dân tộc không chỉ những ngày xuống đƣờng mà còn cả những đêm không ngủ. Đó là những đêm thức trắng để ngồi với đất đai xứ sở, để lắng nghe lịch sử bốn nghìn năm vọng lại: Bốn nghìn năm Việt Nam chƣa bao giờ đƣợc ngủ …Trần Hƣng Đạo đêm không ngủ ngày không ăn Nguyễn Trãi tóc bạc từng đêm Lo giữ nƣớc và lo dựng nƣớc (Đêm không ngủ) Tuổi trẻ đã bao đêm thức cùng đất nƣớc, đã lắng nghe tâm tình của dân tộc, của nhân dân và đốt bừng lên ngọn lửa - ngọn lửa của tâm hồn Việt Nam truyền qua bao thế hệ, để ngày mai hoá thân vào mặt trời cùng tuổi trẻ xuống đƣờng bắt đầu một trận đánh mới. Những đêm không ngủ của tuổi trẻ còn là những đêm nghe đồng bào tôi nói và nói cho đồng bào tôi nghe. Nói và nghe, hành động bình thƣờng tất yếu của con ngƣời nhƣng qua lập luận và triết lý của nhà thơ trở nên thiêng liêng biết mấy. Trong cuộc sống bị trị thì nói làm sao đƣợc khi dao kề cổ và nghe làm sao khi bị bủa vây bởi những tiếng gầm thét điên dại của bầy thú dữ cùng những chính sách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 cải lƣơng, mị dân lừa bịp của chúng. Nhƣng hôm nay những tủi nhục căm hờn không thể dồn nén đƣợc nữa. Lời nói đã trở thành hành động. Đƣợc nói và nghe những lời tâm huyết nhất ở mọi lúc, mọi nơi: trong đêm uất hận, trong buổi tuần hành, giữa tù ngục, xiềng xích và toà án giặc… Thật hạnh phúc và cảm động: Những âm thanh nhƣ lớp sóng đi vòng Nghe và nói, và nghe rạo rực Nhƣ nƣớc mắt nhìn vào nƣớc mắt Nhƣ tình yêu nồng cháy với tình yêu. Bằng việc làm giàu ý nghĩa này, những trí trức trẻ thành phố đã dựng lên những vũ đài chính trị, tập hợp và truyền bá lý tƣởng cách mạng đến với quần chúng lao khổ, đấu tranh với kẻ thù bằng sức mạnh trí thức, văn hoá, lẽ phải và chính nghĩa. Phải đổ máu và nƣớc mắt, phải trả giá bằng những lầm lạc ban đầu, phải trải nghiệm qua đấu tranh trực diện với kẻ thù, tuổi trẻ thành thị đã đến đƣợc với Mặt đường khát vọng, hòa với nhân dân cùng cả nƣớc lên đƣờng. Có thể nói, Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ gắn với chiến trƣờng nên sự chiếm lĩnh và thể hiện đời sống có sự suy tƣ trải nghiệm của những ngƣời trong cuộc. Cái tôi trữ tình trong thơ có điều kiện tự bộc lộ mình, đại diện cho thế hệ mình - thế hệ những ngƣời trẻ tuổi đang tôi luyện trong ngọn lửa chiến tranh, thực sự nếm trải những gian lao thử thách và tự nguyện đem xƣơng máu của mình bảo vệ quê hƣơng, đất nƣớc. Từ cái tôi trữ tình sử thi mang tinh thần thời đại đến cái tôi thế hệ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự biểu hiện khí phách hùng tráng không chỉ của cái tôi nhà thơ mà của cả thế hệ tuổi trẻ cùng lứa: Cái tôi thế hệ xuống đƣờng của tuổi trẻ sinh viên - đó là sự đóng góp độc đáo làm nên phong cách Nguyễn Khoa Điềm. 3.2 Cái tôi nhà thơ - chiến sĩ trong đời sống nội cảm. 3.2.1 Tình yêu trong chiến tranh. Là một nhà thơ, một ngƣời lính trong "lứa cầm súng suốt một thời trai trẻ" (Nguyễn Duy), "lứa tuổi hai mƣơi, ba mƣơi trùng điệp áo lính" (Thanh Thảo), Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 Nguyễn Khoa Điềm có một tâm hồn rất trẻ, xao động biết bao cảm xúc. Cùng với giọng điệu sử thi hào hùng thơ Nguyễn Khoa Điềm là những tâm tình trầm lắng, da diết trong đời sống nội cảm trữ tình riêng tƣ. Khơi nguồn từ những rung động của một tâm hồn trai trẻ, giàu tình cảm nên thơ Nguyễn Khoa Điềm không thể thiếu vắng một khoảng trời dành cho tình yêu đôi lứa. Nguyễn Khoa Điềm vừa cầm bút vừa cầm súng, vừa làm thơ vừa đánh giặc nên tình yêu trong thơ anh ấp ủ nảy mầm trong chiến tranh và hòa vào tình yêu lý tƣởng. Giữa chiến trƣờng khói lửa và trong gian nan khó nhọc, thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cất lên giai điệu Tình ca. Tình ca hé mở tâm hồn ngƣời lính trẻ đang yêu sôi nổi và tha thiết. Lời thơ đẹp và say nhƣ những lời tình tự Đừng yêu ai em nhé / Chỉ yêu mình anh thôi /…Đừng thương ai em nhé / Chỉ thương về anh thôi. Đó là những giọt mật của tình yêu đôi lứa. Nhƣng trong dòng chảy muôn thuở của tình yêu, thơ Nguyễn Khoa Điềm rẽ nhánh nhập vào một dòng khác lớn hơn, mạnh mẽ hơn: Từ tháng ngày chiến đấu Ta chọn tình yêu ta Em ơi em đồng chí Ngọn cờ và tình ca Cái tôi trữ tình ở vị thế ngƣời chiến sĩ trẻ nói về tình yêu, nói với ngƣời yêu làm cho thơ Nguyễn Khoa Điềm có một sắc thái riêng. Ở đây đôi lứa không chỉ "nhìn nhau" mà còn "nhìn về một hƣớng". Tình yêu là sự đồng điệu tâm hồn nên ngƣời yêu cũng là đồng chí cùng chung lý tƣởng, chung một chiến hào diệt Mỹ. Hơn thế nữa, nhà thơ còn thấm thía tình yêu và hạnh phúc của mình phải đổi bằng sự hy sinh của đồng đội và đồng bào. Tình yêu không thể tách rời những tình cảm lớn và trong khói lửa tình yêu của ngƣời lính càng cháy bỏng: Càng đi vào mặt trận / Càng sáng bừng thuỷ chung / Càng lao lên lửa bỏng / Càng yêu em tận lòng. Trong tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm bài ca tình yêu đã hòa hợp vào bài ca lý tƣởng. Chất lý tƣởng đã chuyển hoá buổi hò hẹn cuối cùng của đôi lứa thành "cuộc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 ngƣời bƣớc tiếp là một ngày hoà bình đƣợc đứng trên bục giảng: Sẽ có một ngày tiếng trống trường khoan nhặt / Người thầy giáo trở về cầm viên phấn trắng tinh. Ngƣời lính ngã xuống khi mơ ƣớc chƣa thành sự thật, nhƣng anh đã góp phần xƣơng máu cho ngày ấy đến gần và đồng đội gánh thêm trách nhiệm của ngƣời đã khuất. Tình cảm bạn bè đồng chí gắn bó thân thiết hơn bao giờ hết là thời chiến tranh, bởi đây là lúc con ngƣời biết hoà tình cảm riêng tƣ vào những cảm xúc lớn lao hơn. Lòng yêu nƣớc và căm thù giặc đã trở thành chất keo dính những tâm hồn. Thơ Nguyễn Khoa Điềm viết trong chiến tranh hình ảnh bạn bè đồng chí rất đỗi thiêng liêng cảm động. Đó cũng chính là sức mạnh của ngƣời lính chiến thắng sự bạo tàn của bom đạn kẻ thù hƣớng về ngày mai tƣơi sáng. Cái tôi trữ tình trong thơ chiến tranh của Nguyễn Khoa Điềm là sự hội tụ của cái tôi chiến sĩ, cái tôi văn hoá và cái tôi thi sĩ. Đây là những yếu tố nền tảng tạo nên sự đa dạng thức và biến hóa của cái tôi trữ tình trong thơ. Với tƣ thế cái tôi chiến sĩ, cái tôi trữ tình sử thi cất lên tiếng nói vang vọng của một chân lý vĩnh hằng qua hình tƣợng ngƣời lính; cái tôi trữ tình thế hệ lại mang một tiếng nói riêng của tuổi trẻ miền Nam trong hành trình tìm về dân tộc. Cái tôi văn hóa giúp thơ lấp lánh ánh sáng trí tuệ, tri thức. Đặc biệt cảm hứng văn hóa - lịch sử trƣớc mọi hiện tƣợng của cuộc sống đã tạo nên vẻ đẹp riêng của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ngƣời đọc còn lƣu mãi ấn tƣợng về một con người thi sĩ đã cảm nhận được những rung động lớn lao của thời đại và cả những rung động thầm kín, riêng tư của lòng người và cuộc đời. Ba yếu tố trên đã tạo nên tính thống nhất trong phong cách và hiện diện trong cả thơ viết sau chiến tranh của Nguyễn Khoa Điềm. 4. Những suy ngẫm trong cuộc sống hòa bình. 4.1 Trầm tư, âu lo đầy trách nhiệm nhưng không bi quan trước gian nan cuộc sống. Sau chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục sáng tác trong hoàn cảnh mới với những cảm xúc mới. Hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi, nhƣ bao nhà thơ bƣớc ra từ cuộc chiến, Nguyễn Khoa Điềm đi tìm một tiếng nói mới cho thơ. Tập Ngôi nhà có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 ngọn lửa ấm ra mắt độc giả năm 1986, tập hợp những bài thơ Nguyễn Khoa Điềm viết mƣời năm sau chiến tranh, cùng với Cõi lặng xuất bản 2007, là hai tập thơ không dày dặn nhƣng có sức nặng, thể nghiệm một hƣớng cảm xúc mới trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở Đất ngoại ô và Mặt đường khát vọng, tƣ duy cảm xúc thơ thiên về hƣớng ngoại. Bƣớc vào những tháng năm im tiếng súng, chủ thể trữ tình tìm về chiều sâu, lắng nghe những rung động sâu thẳm trong tâm hồn và chiêm nghiệm triết lý về cuộc đời với những điều bình dị thiêng liêng của những năm tháng hoà bình đầu tiên. Chiến tranh đã lùi vào quá khứ. Nhƣng với những ngƣời lính đi qua đạn bom, chứng kiến sự hy sinh mất mát của đồng đội, đồng bào, thấm thía cái giá phải đổi bằng máu và nƣớc mắt của hoà bình thì đó là những năm tháng không thể nào quên. Tâm hồn thi sĩ nhạy cảm và thuỷ chung của Nguyễn Khoa Điềm trong cuộc sống mới vẫn vang vọng âm thanh hình ảnh của chiến tranh. Đối diện với hòa bình, cảm xúc đầu tiên của nhà thơ là ngập tràn hạnh phúc. Năm 1975, nhà thơ viết bài Trên đường mở đầu cho một thời kỳ sáng tác mới. Bƣớc chân trên con đƣờng thành phố tuổi thơ nhộn nhạo bóng giặc ngày nào nay yên tĩnh êm ả, tâm hồn nhà thơ ngập tràn cảm xúc bồi hồi. Những ngôi nhà xƣa cũ hoang tàn đổ nát đang hiện dần bóng dáng của sự hồi sinh: Rồi bạn đi với tôi qua những bờ tường trắng Sau chiến tranh Những ngôi nhà như tinh thể kết bất ngờ trong hạnh phúc Định hình tất cả niềm vui và sự thật Nhƣng niềm vui không làm bƣớc chân nhà thơ vô tình. Cuộc sống thu vào tầm mắt nhà thơ từ vỉa hè rạn vỡ / người con gái áo trắng / hàng phượng mang nắng và một người mẹ gánh nặng trở về. Đó là những hình ảnh rất bình thƣờng của cuộc sống nhƣng đặt trong thời điểm chiến tranh vừa đi qua bỗng trở nên quý giá thiêng liêng biết chừng nào. Mỗi hình ảnh đều gợi nhữmg cảm xúc về quá khứ, hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 tại, tƣơng lai, đều gợi những nỗi niềm. Trong cảm nhận của nhà thơ, những gì bình dị nhất của ngày hôm nay đều là khát vọng cháy bỏng của ngày hôm qua: … Đây là những gì chúng ta đã sống và đã chết … Đây là những gì chúng ta đã đổ máu và hát ca …Đây là những gì chúng ta mong muốn và hy vọng Đó là tiếng lòng của cái tôi ân nghĩa thuỷ chung luôn trân trọng quá khứ. Thành phố đang trở mình vƣơn về tƣơng lai. Lòng ngƣời cũng chất chứa bao dự tƣởng, nhƣng tâm hồn nhà thơ vẫn như cánh rừng xa khuất / Lại xanh màu và mãi âm vang… Có thể nói rằng sau chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm đã xây dựng trong tâm tƣởng hai khoảng không gian quá khứ và hiện tại, chiến tranh và hòa bình và cái tôi trữ tình đi về hai nẻo không gian ấy. Đọc Ngôi nhà có ngọn lửa ấm nhiều ngƣời có cảm tƣởng tâm hồn nhà thơ thƣờng trú ngụ ở quá khứ nhiều hơn. Cái tôi nhà thơ nhớ bạn là nhớ về ngọn nguồn Hƣơng Giang, nhớ về chiến trƣờng nơi mình và đồng đội đã sống và chiến đấu. Đó là những kỉ niệm về cuộc sống thiếu thốn gian khổ nhƣng không dập tắt đƣợc ngọn lửa yêu đời ở những ngƣời lính năm xƣa. Và trong hiện tại, cuộc sống bộn bề những kỉ niệm trở thành máu thịt, thành hơi thở của mỗi con ngƣời: Ôi những gì thân yêu Thì thầm nhƣ máu mặn Giọt nƣớc nguồn trong sáng Chảy tràn trên mặt ta (Bạn ơi bạn có nhớ) Trong tiềm thức Nguyễn Khoa Điềm, cuộc sống kháng chiến gian khổ hôm qua nhƣ một sự bắt đầu, khởi nguồn cho cuộc sống hôm nay. Những gì thuộc về chiến tranh vẫn sống động trong thẳm sâu: Những bài hát không ai hát nữa Đã vỡ trên môi anh ngọn gió dịu dàng … Những con đƣờng không ai trở lại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 Đã xuyên qua những mạch máu âm thầm … Những con đƣờng không ai gặp nữa Đã đặt lên vai anh sức nặng cuối cùng. (Những bài hát, con đường và con người) Không chỉ ân tình thuỷ chung sau trƣớc, Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc mình và nhắc mọi ngƣời trách nhiệm với quá khứ đau thƣơng và hào hùng của chiến tranh. Sau chiến tranh là một cuộc sống khác. Rời khỏi đội ngũ, ngƣời lính trở thành những số phận cụ thể trƣớc bao điều khắc nghiệt của đời thƣờng. Nhƣng cuộc chiến đấu vì lý tƣởng độc lập tự do của dân tộc không vĩnh viễn lùi vào quá khứ. Với Nguyễn Khoa Điềm, những kỉ niệm chiến tranh là điểm tựa tinh thần cho cuộc sống hôm nay. Những năm tám mƣơi, xã hội có những thay đổi mạnh mẽ, con ngƣời hoang mang trƣớc sự phức tạp của đời sống với sự đảo lộn của những giá trị, chuẩn mực cũ. Trong sự khủng hoảng đó, Nguyễn Khoa Điềm vẫn giữ một khoảng yên tĩnh trong tâm hồn, đó là kí ức về ngày hôm qua: Em cây chò của anh, cánh rừng tuổi trẻ của anh Em mọc trên sƣờn núi ấy Những năm chiến tranh Đầy buồn vui can đảm… (Em, cây chò của anh) Nỗi hoài niệm về chiến tranh không đơn thuần là nhớ về qúa khứ mà còn chuyển hoá thành lòng biết ơn và trách nhiệm trƣớc cuộc đời: Và chúng tôi một thứ quả trên đời Bảy mƣơi tuổi mẹ chờ đƣợc hái Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn là một thứ quả non xanh (Mẹ và quả) Thơ Nguyễn Khoa Điềm viết trong chiến tranh rất giàu tri thức lịch sử, văn hoá, âm nhạc… Đến Ngôi nhà có ngọn lửa ấm vốn tri thức sách vở đƣợc khai thác ở diện hẹp hơn nhƣờng cho những từng trải và suy ngẫm lẽ đời. Khi hiểu mình, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 nƣớc trong vắt…Nguyễn Khoa Điềm đƣa vào thơ mình một chiều Hƣơng Giang mộc mạc chân quê nhƣng rất đỗi thi vị: Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ Bên dòng sông như chưa biết chiều tan Tôi với nó lặng im bè bạn Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang. Chiều Hương Giang, bài thơ gợi hứng từ thiên nhiên nhƣng cảnh chỉ là điểm xuyết còn gợi thì rất nhiều. Một buổi chiều nhƣ bao buổi chiều khác với tóc bao người bay rợi cả không gian, nhƣng trong phút giây lặng im đó, hồn quê đã thấm vào hồn ngƣời: Nhưng chiều nay vô tình trong nắng muộn / Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang. Một nhà phê bình đã nhận xét: "Với buổi chiều Hƣơng Giang, nét Huế trong hồn gặp đƣợc một nét Huế trong đời để thành một nét Huế trong thơ" [2, 425]. Miền quê một bài thôn ca trong trẻo sâu lắng cũng để lại dƣ vị ngọt ngào trong tâm tƣởng độc giả. Hình ảnh thôn quê đƣợc trải rộng trong không gian và thời gian. Trƣớc hết đó là một bức tranh với những đƣờng nét và hình ảnh bình dị của mảnh trăng non đầu tháng, lúa mềm như vai thân yêu, đàn trâu bụng tròn qua ngõ, giếng làng, bến sông… Đó còn là bản hoà tấu của tiếng ếch vùi trong cỏ ấm, tiếng hát thôn nữ, tiếng chim líu lo trong mùa xuân… Đàn em tóc dài mười tám Thương người ra lính hôm mai Để rồi bao nhiêu gió thổi Bên giếng làng, ngoài bến sông Có tiếng hát như con gái Cao cao như vầng trăng trong... Lắng trong những cảm xúc về quê hƣơng, thiên nhiên, Ở bài Miền quê, ngƣời đọc lặng thấm vào mình tất cả sự dịu dàng, êm ả của hồn quê: Mùa xuân là mùa xuân đấy Thả chim, cỏ nội, hương đồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 Đàn trâu bụng tròn qua ngõ Gõ sừng lên mảnh trăng cong... Vũ Quần Phƣơng nhận xét: "chất liệu có hơi cũ, nhƣng quả là có cái xao xác bên trong" [32,55]. Hội tụ những yếu tố thi, nhạc, hoạ, Miền quê có những khổ thơ đẹp nhƣ một bài cổ thi. Niềm vui trƣớc cuộc đời đổi mới sau những háo hức ban đầu, càng về sau thơ Nguyễn Khoa Điềm càng trở nên trầm lắng và đằm thắm hơn. Có thể ghi nhận một nét mới trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Từ một cái tôi trữ tình quyết liệt và trầm tƣ của chiến tranh, ta gặp ở đây những rung động muôn thuở của thi ca về quê hƣơng đất nƣớc. Không chỉ có Huế trầm tƣ cổ kính mới tạo nên những vần thơ đẹp về quê hƣơng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong một lần đến thăm Đà Lạt, thành phố cao nguyên, thành phố tình yêu, ta thấy chập chùng ẩn hiện Hoa quỳ vàng giữa ngàn thông xanh biếc của thành phố thành phố trăm năm: Hoa quỳ vàng Nghiêng nghiêng Cánh mỏng Hồn cao nguyên Nương náu Đến bao dung… Hoa quỳ vàng Hoa quỳ nở Như mưa... (Hoa quỳ vàng - Cõi lặng). Những rung cảm về thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa thật khiến lòng ngƣời dễ xúc động. Để khi xa rồi nhớ âm thầm những bông hoa mỏng manh phảng phất hồn cao nguyên, lƣu luyến tới muôn xƣa. Ở Ngôi nhà có ngọn lửa ấm và cả Cõi lặng ta nhận ra một Nguyễn Khoa Điềm dịu dàng và tha thiết trong những khúc thôn ca nhƣ đƣợc cất lên từ sông nƣớc, đất đai, cây lá…và nhà thơ đã có sự hoà nhập tuyệt đối của cái tôi thi sĩ với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 quê hƣơng, để cảm nhận và cất thành lời. Đằng sau những câu chữ mềm mại hay sù sì góc cạnh vẫn lấp lánh đôi mắt thi nhân nhìn cuộc đời tin yêu chân thật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 Chương III PHONG CÁCH THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM QUA MỘT SỐ PHƢƠNG TIỆN NGHỆ THUẬT "Toàn bộ thế giới trữ tình...đƣợc vật thể hoá trong hình thức và ngôn ngữ thơ"[1,31]. Nhƣ vậy phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm lựa chọn các phƣơng tiện nghệ thuật để thể hiện rõ nhất bản chất tâm hồn và tƣ duy nghệ thuật, để đạt tới một hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, chủ thể trữ tình luôn biến đổi để thích ứng với từng giai đoạn sáng tác. Nhƣng ở góc độ thi pháp, thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn biểu hiện sự nhất quán trong phong cách. Trong chƣơng này chúng tôi tập trung tìm các dấu hiệu phong cách nổi lên trên bề mặt tác phẩm có thể nhận biết nhƣ: giọng điệu, hình tƣợng, ngôn ngữ...Việc khảo sát, phân tích một số phƣơng tiện nghệ thuật tiêu biểu sẽ giúp thấy đƣợc sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, và một lần nữa cảm nhận đƣợc sự hài hoà trong thế giới thơ Nguyễn Khoa Điềm. 1. Giọng điệu của phong cách. Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. "Giọng điệu phản ánh lập trƣờng xã hội, thái độ tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho ngƣời đọc (...) Giọng điệu trong tác phẩm gắn với giọng " trời phú" của mỗi tác giả, nhƣng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tƣợng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thƣờng đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu" [18, 122]. Góp phần định hình và khẳng định phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là giọng điệu trữ tình - triết luận. Đây là giọng điệu cơ bản làm nên tiếng nói riêng biệt độc đáo thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhƣng ở từng bài thơ cụ thể có sự biểu hiện khác nhau. Một tâm hồn phong phú khởi nguồn cho một giọng thơ giàu âm sắc, nên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 -Có bao giờ nhƣ buổi sáng xuân nay Chúng ta bay nghìn độ lửa ta bay (Đất ngoại ô) -Một mùa xuân tiếng đại bác rầm rầm Bản hành khúc những binh đoàn giải phóng (Con gà đất, cây kèn và khẩu súng) Trong nền thơ chống Mỹ, chất chính luận đậm nét ở Chế Lan Viên và một số nhà thơ khác. Nguyễn Khoa Điềm nhƣ một tiếng ca của cả nền thơ chung và đôi khi ngƣời ta nhận ra giọng điệu, phong cách của một hai nhà thơ khác. Nhƣng Nguyễn Khoa Điềm vẫn có những nét riêng trong sự tƣơng đồng trên cấp độ toàn thể của thơ chống Mỹ. Điều đó xuất phát từ chính tâm hồn thi sĩ của một ngƣời trong cuộc, một ngƣời trên chiến hào, một ngƣời trong tâm điểm giông bão của phong trào học sinh, sinh viên miền Nam. Bởi thế trong thơ chống Mỹ, thơ Nguyễn Khoa Điềm kết hợp nhiều giọng điệu: sử thi và trữ tình, tráng ca và những phút sâu lắng của suy tƣ... Chính điều này làm thành một yếu tố độc đáo trong phong cách nhà thơ. 1.1.2 Giọng triết lý. Thơ là những rung động của trái tim kết lại thành vần điệu. Thơ rất cần cảm xúc, nhƣng biết nâng tầm trí tuệ cho mỗi câu thơ là một cách tạo ra chiều sâu cho tình cảm. Sự gắn bó mật thiết trí tuệ với tình cảm thông qua những suy tƣởng triết lý, khái quát đã đem đến cho thơ những khám phá mới mẻ về chân lý cuộc đời. Nhà văn Nguyễn Tuân đã định nghĩa chính xác “Thơ là mở ra một cái gì mà trƣớc câu thơ đó, trƣớc nhà thơ đó còn nhƣ bị phong kín”. Ngoài sự nồng nhiệt trong tình cảm, thơ Nguyễn Khoa Điềm còn luôn đằm sâu trong suy nghĩ. Nguyễn Khoa Điềm chú trọng quan sát hiện thực đời sống để nắm bắt đƣợc những chi tiết rất nhỏ nhƣng có sức khái quát cao. Từ những gì đơn sơ thân thuộc: lời ru của mẹ, chuyện kể của bà, luỹ tre xanh, cái kèo cái cột...Nguyễn Khoa Điềm đã dựng nên hình tƣợng Đất Nước; từ những đồng tiền của ngƣời dân ngoại ô mà khái quát nên cuộc đời của ngƣời dân mất nƣớc; từ hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 ảnh một chú bò hồn nhiên gặm cỏ trong chiều Hƣơng Giang dựng nên bức tranh quê hƣơng êm ả thanh bình... Là ngƣời có tƣ chất thông minh, lại có vốn sống phong phú, Nguyễn Khoa Điềm có khả năng nắm bắt rất đúng cái thần của sự việc. Ông có những phát hiện khái quát sâu sắc về dân tộc, thời đại, về cuộc sống về con ngƣời. Dƣờng nhƣ những triết lí nhân sinh đã trở thành một đặc trƣng trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm. Từ những quan sát , nhà thơ đã tƣ duy để tìm ra những quy luật khách quan của cuộc sống, quy luật nội tại của tình cảm và lý giải bằng những hình tƣợng thơ sinh động. Từ việc quan sát Mẹ và quả, Nguyễn Khoa Điềm có những phát hiện chính xác và lí thú: Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên Còn những bí và bầu thì lớn xuống. Phải qua suy tƣ và chiêm nghiệm nhà thơ đi đến nhận thức: Những quả cây không còn vô tri, vô giác mà trở nên có hồn trĩu nặng tình cảm ơn nghĩa, nên mang dáng giọt mồ hôi mặn / nhỏ vào lòng thầm lặng mẹ tôi. Liên tƣởng đến bản thân, Nguyễn Khoa Điềm xoáy vào niềm âu lo không đền đáp đƣợc lòng mong mỏi của mẹ: Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi / Mình vẫn là một thứ quả non xanh. Là một ngƣời thông minh lại có nhiều trải nghiệm, lăn lộn với đời sống nên giọng thơ chính luận - triết lí trong thơ Nguyễn Khoa Điềm ngày càng chiếm ƣu thế. Có thể khẳng định, nhà thơ đã tìm cho mình một chất giọng riêng, đặc biệt trong dòng chảy của thơ ca chống Mỹ. 1.2 Giọng trữ tình. Bản chất của thơ là giọng trữ tình bởi đó là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. Khi viết về những vấn đề trọng đại của dân tộc, thơ Nguyễn Khoa Điềm có giọng chính luận cao, vang, thuyết phục nhƣng khi viết về những nỗi niềm nhạy cảm của tâm hồn con ngƣời: tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, tình yêu đôi lứa, tình đồng đội..., giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trầm xuống thiết tha sâu lắng. Tình yêu quê hƣơng đất nƣớc là một chủ đề có tính sử thi nhƣng đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đƣợc "đời tƣ hoá". Chƣơng Đất Nước (Mặt đường khát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 vọng) Nguyễn Khoa Điềm thể hiện những điều tâm huyết nhất về đất nƣớc nhƣng trong hình thức lời tâm tình của một đôi trai gái. Khi lứa đôi bên nhau thƣờng tâm sự những điều riêng tƣ thầm kín nhƣng chàng trai – nhân vật trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm đã nói với ngƣời yêu về đất nƣớc với giọng thƣơng yêu tha thiết: -Đất là nơi anh đến trƣờng Nƣớc là nơi em tắm -Em ơi em / hãy nhìn xa / vào bốn nghìn năm đất nƣớc -Rồi mai này con ta đi xa... Giọng thơ trữ tình đằm thắm này đã làm trái tim ngƣời đọc xúc động và đồng cảm với cảm xúc của nhà thơ. Nguyễn Khoa Điềm có một tâm hồn đậm sâu chất Huế, nên giọng thơ cũng ân tình thuỷ chung. Những ngày tháng cảnh và ngƣời đi qua trong đời đều in bóng trong tâm hồn nhà thơ. Dù cuộc đời nhiều thay đổi và lòng ngƣời đổi thay nhƣng với Nguyễn Khoa Điềm Riêng năm tháng cuộc đời / Thì vẫn như xưa (Có một ngày). Thời gian chỉ có thể phủ màu sƣơng gió lên làn da, mái tóc nhƣng không thể nào xoá nhoà lý tƣởng của thời trai trẻ: Có thể nào khác được / Có thể nào em bật rễ giữa hồn anh (Em cây chò của anh). Ngƣời đọc không chỉ xao xuyến bởi nét Huế từ giọng điệu thơ ân tình nhỏ nhẹ mà còn bởi những từ ngữ mang sắc thái địa phƣơng xuất hiện rất nhiều trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Những từ o, mạ, chi, nớ, hoài, ráng... đã làm tăng tính trữ tình cho câu thơ, mà chỉ cần đọc lên ngƣời đọc đã liên tƣởng đến xứ Huế. Thơ Nguyễn Khoa Điềm bắt rễ rất sâu vào mảnh đất văn hoá dân gian nên lời ru cũng thành giọng điệu. Tiếng ru ấy vừa là hiện thân của sự nâng niu, trân trọng, vỗ về, vừa là cách nói gián tiếp, xa xôi với ngƣời khác, lại vừa nhƣ nói với chính mình: -Ngủ ngoan AKay ơi, ngủ ngoan AKay hỡi Mẹ thƣơng AKay, mẹ thƣơng bộ đội (Khúc hát ru những em bé lớn lên trên lưng mẹ) -Ngủ ngoan con của mẹ ơi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 thời đại. Ông đã qua sát, nhìn nhận từ hiện thực cuộc sống để từ đó đƣa ra những nhận định về con ngƣời và cuộc sống thời ấy. Giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm đặc sắc nhờ những suy tƣởng. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đằm sâu những suy ngẫm và liên tƣởng bất ngờ “Mạch cảm nghĩ trong thơ anh chủ yếu được tạo nên từ những liên tưởng luôn được triển khai khi thì bằng vốn sống thự tế, khi thì bằng vốn văn hóa...” [15] Trong cuộc sống quanh ta có biết bao điều xảy ra khiến chúng ta phải suy ngẫm nhƣ: sự vô nhân đạo phi nghĩa của chiến tranh, hòa bình với những bộn bề phức tạp của cuộc sống...Là ngƣời từng trải Nguyễn Khoa Điềm đã chứng kiến bao sự kiện, để rồi suy ngẫm về cuộc đời này: Chúng ta kẻ không may mắn Rồi cũng nhập vào dòng chảy của những điều tốt đẹp Dòng nƣớc sẽ rửa sạch sự đớn hèn Dẫu có khi đã nhƣờng lời cho bọn khoác lác Tôi bỗng hiểu. Cuộc đời thật khó Trong chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm thƣờng suy ngẫm về Đất nƣớc lý tƣởng, sự sống, cái chết.., nhƣng trong cuộc sống hòa bình đằng sau cái vẻ bình yên của cuộc sống thƣờng nhật có biết bao điều đáng phải suy ngẫm trong thơ ông. Ông đã đi qua tất cả, để bây giờ nhìn lại mình, chiêm nghiệm từ chính mình, thực sự ngồi ngắm khuôn mặt mình: -Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình với nỗi buồn trong sạch (Cõi lặng) -Chỉ cần trong một sát-na con biết lắng mình vào cuộc sống Một hạt cơm là cả cuộc đời (Tập thiền) Cuộc đời là thế, Nguyễn Khoa Điềm đi vào cõi lặng của mình để đƣợc nhìn ngắm mình, nhìn ngắm xung quanh và bỗng hiểu rằng: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 Nhiều khi đá dạy ta mềm mỏng Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành Nỗi buồn đánh thức hi vọng (Hi vọng – Cõi lặng) Không phải ai cũng cảm nhận đƣợc điều đó, cảm nhận đƣợc những điều tƣởng nhƣ là nghịch lí, nhƣng nó lại là căn nguyên của sự thật, làm ta bình tâm hơn trƣớc những thách thức của cuộc đời. Nhà thơ hơn ai hết nhạy cảm với mọi biến động của cuộc sống. Chiến tranh đã đi qua, hiện tại đầy rẫy sự xuống cấp đạo đức văn hoá... Ông đã nghiệm ra một điều quả là đau xót: Khi mồ hôi trở nên quá rẻ Kẻ ranh ma trở nên quá giàu (Cánh đồng buổi chiều – Cõi lặng) Cuối cùng ông nghiệm ra, thơ thơ vẫn là những gì lắng lại sau tất cả, dù vinh hoa phú quý hay những bức bối thƣờng nhật của cuộc đời. Cõi lặng vẫn vang lên câu thơ Trong những buổi chiều: Vì sao không thể mến yêu hơn? Vì sao không thể xanh tƣơi hơn? 2. Những hình tƣợng thơ biểu trƣng. Sự đa thanh và phức điệu của giọng thơ đòi hỏi hình tƣợng nghệ thuật phải giàu tính biểu tƣợng. Nguyễn Khoa Điềm có một trƣờng liên tƣởng phong phú, sâu rộng nên hình tƣợng thơ mang nhiều lớp ý nghĩa. Nguyễn Khoa Điềm sáng tạo hình tƣợng theo một cách riêng độc đáo. Từ hình tƣợng gốc, bằng những liên tƣởng về lịch sử, văn hoá và những chiêm nghiệm đời sống, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên sự đa dạng cho hình tƣợng. Nhờ đó hình tƣợng thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa cụ thể, thực tế, vừa là những biểu tƣợng mới có ý nghĩa khái quát, mang hơi thở của cuộc sống chiến trƣờng và cuộc sống đời thƣờng. Trong thế giới hình tƣợng phong phú của thơ Nguyễn Khoa Điềm, xin nêu ra một số hình tƣợng có ý nghĩa tiêu biểu mang phong cách riêng của Nguyễn Khoa Điềm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 (Mặt đường khát vọng) -Ở miền Nam bùn máu dƣới bàn chân (Tháng chạp ở Hồng trường) Ở Mặt đường khát vọng, tuổi trẻ nhận ra nỗi đau thời đại cũng từ màu đỏ của máu: -Phƣợng cứ rơi từng cánh tƣơi hồng Đau nhƣ máu những tâm hồn son trẻ -Máu thì đỏ mà phấn thầy thì trắng Để vạch trần tội ác kẻ thù, hình ảnh máu nói đƣợc đầy đủ nhất bản chất thú tính man rợ tàn bạo của kẻ thù: -Chúng phả vào không gian mùi mặn của máu những cuộc săn ngƣời -Một tờ giấy trong bảy nghìn tờ máu vấy -Nó giết ngƣời ƣ? Có thần Tự do chùi máu -Nay miệng thằng ác ôn tanh ngòm gan với máu -Để loài ngƣời vừa ăn vừa xem máu vãi -Nên nƣớc bọt ngầu máu ngƣời tanh lợm (Mặt đường khát vọng) Hình tƣợng máu còn biểu trƣng cho lòng nhiệt tình cách mạng, tinh thần xả thân vì nƣớc, coi sự hy sinh mất mát vì dân tộc là trách nhiệm của mỗi con ngƣời. Tuổi trẻ chống Mỹ chấp nhận cái chết thật thanh thản: Ta ném máu xƣơng ta làm vật cản Máu đổ rồi! máu học sinh, sinh viên Máu đỏ rực trên nền áo trắng Máu càng thắm tự do càng chói sáng Máu Việt Nam, máu yêu nƣớc tƣơi hồng! (Mặt đường khát vọng). Trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của mỗi dân tộc, biết bao thệ hệ cha ông đã đổ máu. Nguyễn Khoa Điềm đánh thức trong thơ từ nỗi lòng của Nguyễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 Trãi lo giữ nước và lo dựng nước / Hàng trăm năm qua lòng còn thương tiếng cuốc / Gọi nước đêm nào nhỏ máu từng trang, đến tấm gƣơng anh Trỗi và sự hy sinh của những liệt sĩ vô danh: -Những địa danh trôi từ thuở xa xƣa Trôi bằng máu và trôi bằng nƣớc mắt (Mặt đường khát vọng) -Các anh nằm lại đó Máu chƣa thôi đỏ ... Máu các anh ngấm thêm vào gốc lúa Vụ gặt này nặng thêm máu anh... Hình tƣợng máu trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn khẳng định sự sống bất diệt của dân tộc luôn đƣợc tiếp nối, từ thế hệ này truyền cho thế hệ khác: máu thấm sâu xuống mặt đường / Máu cháu con hoà với máu cha ông/ Nhưng hạt máu của cha vẫn sáng ngời trong ánh mắt / ...Hạt máu trong mình em vẫn nguyên màu của mẹ cha (Mƣời sáu năm lớn lên); Dưới bộ ngực thân yêu là trái tim của Đảng / Chia máu cho con trong những vắt cơm ăn (Mẹ ra trận có gì). Để phản ánh chiến tranh, hình tƣợng máu đã bao quát một phạm vi hiện thực rộng cùng một chiều sâu tƣ tƣởng. Máu cùng với hình tƣợng lửa đã bộc lộ nét độc đáo trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm. 2.2 Hình tượng người mẹ. Ngƣời mẹ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là một hình tƣợng nghệ thuật có chiều sâu liên tƣởng và tầm cao của tính biểu tƣợng. Nguyễn Khoa Điềm đã xây dựng hình tượng người mẹ từ hình ảnh người mẹ mang nặng đẻ đau của riêng nhà thơ và gắn kết với hình ảnh bao bà mẹ Việt Nam khác để nâng lên tầm vóc người Mẹ Tổ quốc. Kỷ niệm về tuổi thơ về quê hƣơng của Nguyễn Khoa Điềm bao giờ cũng gắn với mảnh đất ngoại ô nghèo khó và hình ảnh ngƣời mẹ tảo tần thay chồng nuôi con. Trong bài thơ Đất ngoại ô và Những đồng tiền ngoại ô, ngƣời mẹ và chiếc quán nghèo bám bờ đƣờng nhựa vất vả lam lũ nhƣ một nỗi đau day dứt trong tâm hồn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 nhà thơ. Yêu thƣơng mẹ đến cháy lòng, xót xa là động lực khởi đầu thúc giục ngƣời con lên đƣờng đánh giặc. Trong cảnh mất nƣớc, nghe mẹ hát những câu Nam ai buồn thê thiết nhà thơ thấy mình đau mấy lần. Trong cuộc tổng tiến công Mùa xuân 1968, đƣợc chứng kiến sức mạnh Cách mạng trỗi dậy ở Huế, nhà thơ xúc động đến nghẹn ngào và hƣớng sự biết ơn tới ngƣời mẹ sinh thành: Cảm ơn mẹ sinh con trên thành phố Ngàn ngày nắng và mƣa, mƣời lăm năm bỡ ngỡ Những nhận thức đầu tiên về dân tộc, đất nƣớc, nhân dân, thời đại của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với lời dặn dò của mẹ: chỉ đổi nước chứ không đƣợc bán nước. Hình ảnh ngƣời mẹ đã theo Nguyễn Khoa Điềm vào chiến trƣờng và giữa cái giáp ranh của sự sống chết, tâm hồn Nguyễn Khoa Khoa Điềm vẫn xanh non màu xanh của vƣờn mẹ, vẫn hƣớng về quê hƣơng nơi có mẹ hiền: Hướng dương thương nhớ vẫn nghiêng phía này. Từ những chất liệu đời tƣ Nguyễn Khoa Điềm còn dung chất liệu hiện thực cuộc sống để phát triển hình tƣợng ngƣời mẹ lên những tầm cao mới. Ngƣời mẹ trong chiến tranh trở nên phi thƣờng về sức chịu đựng. Kẻ thù chia cắt đất nƣớc là chia cắt tình cảm vợ - chồng, cha – con, mẹ phải gồng mình lên, bền gan kiên định nuôi con một mình trong nỗi nhớ chồng cồn cào cháy bỏng: Mƣời sáu năm qua đi mẹ lại tiễn con ra trận. Cách biệt về không gian thời gian nhƣng cha, mẹ và em đều gần gũi, gắn bó trên trận tuyến diệt thù: Em sẽ cùng cha đi dưới chiến hào / Mẹ xẻ, mẹ đào trong bom đạn (Mƣời sáu năm lớn lên) Nguyễn Khoa Điềm dựng lên trong thơ rất nhiều hình ảnh ngƣời mẹ. Đó là bà mẹ Vân Kiều hoà tình thƣơng con vào tình yêu bộ đội, yêu đất nƣớc đã hiến dâng những đứa con thân yêu cho Cách mạng. Đó là bà mẹ thành phố có ngƣời con tham gia tranh đấu, biểu tình bị Nguỵ bắt rồi phải trở thành ngƣời lính phía bên kia. Học hành thành dang dở, ngƣời con để lại cho mẹ những tờ giấy trắng - những niềm hy vọng trở về. Trang giấy ấy dƣới bàn tay mẹ đã "thành truyền đơn mặt trận / Gọi anh em binh lính quay về". Không chỉ lần lƣợt tiễn chồng con ra trận mà ngƣời mẹ cũng trở thành chiến sĩ. Bà mẹ Vân Kiều đã địu con đi để dành trận cuối, bà mẹ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 thành phố đã hoạt động trong lòng địch. Mẹ ra trận đối đầu với cái ác, cái xấu xa, nham hiểm mà ung dung thƣ thái, chủ động và bình tĩnh đến nhƣờng nào. Mẹ ra trận với vũ khí là đôi bàn tay chỉ mặt thằng gian vẫy ngƣời ngay, với mái tóc bời bợi sợi bạc để gọi dân làng xuống đƣờng, với trái tim cũng là mìn chông...Hình ảnh mẹ mộc mạc giản dị, nhỏ bé mà tiềm tàng sức mạnh làm cho quân thù phải khiếp sợ: Mẹ đi vào huyện, mẹ tiến vào thành Mẹ đi đòi nhà, mẹ giành lại đất Mẹ đi đấu tranh trên con đƣờng cay cực... Trong hình tƣợng ngƣời mẹ, có hình ảnh ngƣời mẹ hiền của chính nhà thơ trong những câu thơ thƣơng nhớ. Rộng hơn, là những bà mẹ nghèo lam lũ ngoại ô, những ngƣời mẹ miền Nam tay không thắng giặc, và cao hơn nữa trong xu hƣớng triết luận và tinh thần sử thi, ta gặp hình tƣợng bà mẹ Việt Nam, bà mẹ Tổ Quốc. 2.3 Hình tượng thơ đặc thù mang nét riêng của phong cách Nguyễn Khoa Điềm. Đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm ta thấy ngoài những hình tƣợng thơ tiêu biểu nhƣ đã đề cập ở trên, hình tƣợng trong thơ ông còn nhƣ đƣợc “bứng” từ cuộc sống đƣa vào. Hiện thực trong thơ ông đƣợc hiện lên qua những hình ảnh sống động, mang hơi thở của cuộc sống nhƣng lại thể hiện đƣợc nét riêng trong phong cách Nguyễn Khoa Điềm. Ở đó, những hình ảnh: con gà đất, cây kèn và khẩu súng, áo trắng, mặt đường... Là những hình ảnh chân thực tƣơi ròng chất sống, đƣợc nhìn qua lăng kính nhà thơ nâng lên thành những hình tƣợng thơ độc đáo chỉ thấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Từ hình ảnh con gà đất bảy màu đồ chơi của con trẻ đến hình ảnh cây kèn và khẩu súng, Nguyễn Khoa Điềm đã dựng lên hình tƣợng biểu trƣng cho ba chặng đƣờng trong cuộc đời của ngƣời thanh niên vùng tạm chiếm. Tuổi thơ tràn đầy hạnh phúc trong hơi thở mùa xuân và sắc màu của con gà đất. Nhƣng tuổi thơ ấy trôi qua nhanh chóng, bất ngờ nhƣ con gà đất chợt vỡ tan trong tay con trẻ. Giờ đây, anh phải làm nghề thổi kèn để kiếm sống, tiếng kèn nhƣ những tiếng nấc âm thanh cất lên tức tƣởi, tủi nhục, nhƣng không tuyệt vọng: Muốn ngất hơi /Anh bỗng mơ một con gà bảy sắc / Nở như hoa trên môi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 3.3 Ngôn ngữ giàu màu sắc địa phương. Mỗi nhà thơ, nhà văn sinh ra và lớn lên trong quá trình sáng tác của mình không thể không gắn bó với một vùng miền nhất định. Trong quá trình sáng tạo, nếu nhƣ tiếng phổ thông là phƣơng tiện chung nhất của tác phẩm thì tiếng địa phƣơng lại nhƣ là một dấu hiệu biểu hiện phong cách và cá tính của nhà thơ. Tiếng địa phƣơng có vai trò làm nổi bật cá tính, tâm lí con ngƣời ở mỗi vùng đất quê hƣơng cụ thể. Nó có vai trò biệt hoá những cái chung. Trong thực tiễn sáng tác thơ ca của ta, nhiều nhà thơ đã biết phát huy tích cực những mặt ƣu điểm của tiếng địa phƣơng và đã đạt đƣợc những thành công đáng ghi nhận. Qua tiếng địa phƣơng, ngƣời đọc sẽ đoán nhận đƣợc những nhân vật miêu tả trong tác phẩm thuộc vùng quê nào, cá tính của họ ra sao. Là ngƣời sinh ra lớn lên ở đất Huế, Nguyễn Khoa Điềm tự hào mang trong mình nét hồn hậu của vùng văn hóa Cố đô. Trong những tác phẩm của mình, tiếng Huế cũng đƣợc đƣa vào một cách duyên dáng ý nhị. Tiếng địa phƣơng đã làm cho tác phẩm của ông thêm gần gũi hơn, khiến trƣờng cảm xúc của ngƣời đọc đƣợc gia tăng. Những đại từ chỉ ngƣời mang đậm chất Huế đã đƣợc thể hiện trong thơ khiến cho con ngƣời đƣợc miêu tả mang tính sinh động cụ thể: -O phó bí thƣ mƣời bảy tuổi -Có khi nhớ mạ Sợ các chú cƣời (Chiếc nôi vàng). Những từ địa phƣơng “chi”, “nớ”, “rứa”, “hoài”, “ráng” đã làm tăng tính đằm thắm, trữ tình cho câu thơ mà chỉ đọc lên ngƣời ta đã liên tƣởng ngay đến xứ Huế: Ôi thành phố yêu thƣơng Ta xa ngƣời nhƣ thế nớ (Tiễn bạn cuối mùa đông) Anh sẽ nói trăm lần anh sẽ sống Và trẻ hoài nhƣ buổi ấy chia li Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 (Buổi hẹn hò lớn lao) Vuốt tóc con mẹ bảo “Ráng cho kịp anh em” (Thưa mẹ con đi) Ta yêu ngƣời nhƣ rứa Đƣa ngƣời về cho ta (Những bài thơ tình viết trong chiến tranh) Ngôn ngữ giàu màu sắc địa phƣơng không chỉ thể hiện ở tiếng địa phƣơng mà còn thể hiện ở những câu thơ sử dụng địa danh riêng. Từ lâu các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng tên riêng chỉ địa điểm (địa danh), nhất là những tên gọi ít quen thuộc có khả năng tạo ra một thứ ma thuật âm thanh tạo nên bản sắc riêng của tác phẩm. Vào những năm 50, Tố Hữu đã có những câu thơ tuyệt diệu: Mƣờng Thanh, Hồng Cúm, Him Lam Hoa mơ lại trắng vƣờn cam lại vàng Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, tên riêng của các địa danh xứ Huế đƣợc sử dụng phổ biến. Việc đƣa địa danh vào trong thơ thể hiện tấm lòng yêu quê hƣơng tha thiết của ông. Vẻ đẹp dịu dàng thơ mộng của sông Hƣơng đã xuất hiện bao lần trong thơ ông, nhƣng ngƣời đọc vẫn thấy thật mới mẻ khi sông Hƣơng êm đềm bỗng trở thành dòng sông anh hùng trong những tháng năm đấu tranh chống kẻ thù xâm lƣợc: Cả ngoại ô làm chiến luỹ sông Hương (Đất ngoại ô).Trăm năm rồi ta đến trước sông Hương / Vẫn soi thấy niềm đau và nỗi giận (Mặt đƣờng khát vọng). Có khi sông Hƣơng lại trở thành ngƣời bạn tâm tình của nhà thơ: Sông Hƣơng ơi sông Hƣơng Ngƣơi còn nguồn với bể Để đi và để đến Còn ta hai lăm tuổi Trôi cạn trên mặt đƣờng (Mặt đường khát vọng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 2. Ở thời kì chiến tranh, sống trực tiếp giữa lòng cuộc chiến đấu. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cảm động những xúc cảm và ý thức về dân tộc, thời đại trong tâm hồn những con ngƣời yêu nƣớc. Thời đại chống Mỹ đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm không phải bằng sự miêu tả trực tiếp mà khúc xạ qua nhận thức và trải nghiệm máu thịt của riêng nhà thơ nên đã đƣợc nâng lên tầm cao và chiều sâu riêng. Để khẳng định chân lí vĩnh hằng của dân tộc: lòng yêu nƣớc, căm thù giặc và ý chí chiến đấu bất khuất... Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng linh hoạt trong thơ sự sắc sảo của một trí tuệ ƣa khái quát triết lý, vốn kiến thức phong phú về lịch sử - văn hóa và sự trải nghiệm của bản thân. Bởi vậy, vừa hòa chung với tiếng thơ chống Mỹ của cả nƣớc, của thế hệ trẻ, thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn có một phong cách riêng. Đặc biệt, Nguyễn Khoa Điềm đƣa vào trong thơ một mảng hiện thực quan trọng của thời đại chống Mỹ: không khí sục sôi của phong trào học sinh, sinh viên các đô thị bị tạm chiếm miền Nam trên đƣờng tranh đấu. Tiếng thơ có một năng lực tập hợp nhanh chóng trên một lý tƣởng xã hội chung những hoàn cảnh, tâm trạng gần gũi quen thuộc. Nguyễn Khoa Điềm đã hoà quyện cái tôi nhà thơ vào đối tượng trữ tình để cất lên tiếng nói của tuổi trẻ miền Nam. Cùng một thế hệ, sinh ra và lớn lên trong thời đại không bình yên, nên tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm cất lên có sức lay động tâm hồn tuổi trẻ. Có thể nói, đề tài về tuổi trẻ miền Nam đấu tranh đã đƣợc thể hiện mạnh mẽ và đầy ấn tƣợng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, để khi nói về mảng đề tài này, ngƣời ta phải kể đến Nguyễn Khoa Điềm nhƣ một cây bút tiêu biểu. Bƣớc vào cuộc sống hoà bình, tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm trở nên thâm trầm và lặng lẽ tìm về những cảm xúc sâu thẳm trong tâm hồn. Thơ ông không sôi nổi nhƣ trƣớc mà lắng đọng, hàm súc hơn. Đằng sau những câu chữ ít ỏi, ngƣời đọc vẫn cảm nhận ra một cái tôi ân tình sau trước, trân trọng cuộc sồng ngày hôm nay vì biết ơn ngày hôm qua máu đổ. Thấm thía giá trị của hoà bình, nhà thơ tự đặt cho mình trách nhiệm với cuộc sống còn ngổn ngang trong xây dựng và đổi mới. Ở đây còn xuất hiện một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm luôn rộng mở, giao hòa cùng thiên nhiên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 đất trời quê hƣơng; một cái tôi dồn nén tâm trạng lo âu nhưng vẫn lạc quan tin tưởng vào cuộc sống dù im tiếng súng nhƣng chƣa bình yên; một cái tôi luôn chiêm nghiệm và khám phá thế giới nội tâm của mình. 3. Trên con đƣờng thơ của mình, thơ Nguyễn Khoa Điềm luôn có những biến đổi mới mẻ phù hợp với từng hoàn cảnh sáng tác. Trong chiến tranh, tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm cháy bỏng những cảm hứng lớn lao về Nhân dân - Đất nƣớc. Là một nhà thơ trẻ tự nguyện nhập cuộc và đƣợc thử thách trong chiến tranh, thơ Nguyễn Khoa Điềm cất lên tiếng nói của thế hệ mình về ý thức trách nhiệm trƣớc vận mệnh đất nƣớc. Trong hòa bình, thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn vang vọng âm hƣởng sử thi hoành tráng, hào hùng. Nhƣng cuộc sống sau chiến tranh còn nhiều bộn bề và bức xúc, chất sử thi nhạt dần nhường chỗ cho cái tôi thế sự. Nhà thơ đứng ở vị trí con ngƣời đời thƣờng để quan sát, chiêm nghiệm những vấn đề thế sự và biểu hiện thái độ tích cực xã hội của thơ: sự không bằng lòng với những điều phi lí, dự cảm âu lo trƣớc những biểu hiện không tốt đẹp đang nảy sinh... Ở từng thời kì sáng tác thơ Nguyễn Khoa Điềm có những biến đổi song song với nhiều biến động của thời đại nhƣng chúng ta vẫn nhận ra ở Nguyễn Khoa Điềm một phong cách ổn định đặc trƣng. Thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự hội tụ kết tinh của nhiều nguồn văn hoá. Đậm nét nhất là văn hóa dân tộc với những truyền thuyết cổ tích, ca dao, truyền thống lịch sử qua một lớp ngôn ngữ dân gian cổ xƣa và thuần khiết. Nguyễn Khoa Điềm là ngƣời xứ Huế, nên tâm hồn Huế cũng đã trở thành một nét phong cách riêng của nhà thơ. Chính cảm quan về lịch sử, văn hóa, âm nhạc đã làm thành nét duyên riêng không thể lẫn và gây ấn tƣợng đặc biệt với độc giả của thơ Nguyễn Khoa Điềm. 4.Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, các phƣơng tiện nghệ thuật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nét riêng trong phong cách. Tổ chức các phƣơng tiện nghệ thuật chính là hình thức của một nội dung, là phƣơng tiện thể hiện của một phong cách. Thơ Nguyễn Khoa Điềm có sự đa dạng trong giọng điệu, và hình tƣợng cũng phong phú giàu tính biểu trƣng. Bằng những giọng điệu và hình tƣợng phù Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 hợp, Nguyễn Khoa Điềm đã có những bài thơ đạt đến vẻ đẹp cổ điển, có sức sống lâu bền, tiêu biểu cho thành tựu một giai đoạn thơ Việt Nam. “Thơ là một cách chuyền lửa cho muôn đời sau” (Chế Lan Viên). Không sáng rực, chói lọi nhƣng ngọn lửa trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự ấm áp của những tình cảm đẹp về đất nƣớc và con ngƣời đã sƣởi ấm cho cả một thế hệ và có lẽ cả những thế hệ mai sau. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, ẩn sau bề mặt câu chữ là một gƣơng mặt thi sĩ, một chân dung tâm hồn giàu cảm xúc, nhạy cảm với những vang động lớn lao cuả thời đại và những rung động tinh tế của lòng ngƣời. Những rung động này đã tạo nên chất thơ sâu lắng nồng nàn, tạo nên sự đồng cảm giữa những tâm hồn, giữa tác giả và độc giả, nhƣ một nét phong cách định hình rất sớm và ngày càng rõ nét của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 THƢ MỤC THAM KHẢO 1. Hoài Anh. Nguyễn Khoa Điềm với chủ đề thơ sóng đôi Đất và khát vọng, Báo văn nghệ, số 4/2002 2. Vũ Tuấn Anh. Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định, NXB Khoa học xã hội, 2001. 3. Nguyễn Văn Cảnh. Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, 1987. 4. Hữu Đạt. Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000. 5. Hữu Đạt. Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 2001. 6. Hà Minh Đức. Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thi ca, NXB Văn học, 1977. 7. Hà Minh Đức. Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học xã hội, 1998. 8. Hà Minh Đức. Văn chương tài năng và phong cách, NXB Khoa học xã hội, 2001. 9. Hà Minh Đức. Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 2002. 10. Nguyễn Khoa Điềm. Đất ngoại ô, NXB Giải phóng, 1972. 11. Nguyễn Khoa Điềm. Mặt đường khát vọng, NXB Văn nghệ giải phóng, 1974. 12. Nguyễn Khoa Điềm. Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, NXB Tác phẩm mới, 1986. 13. Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng, NXB Văn học 2007. 14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1997. 15. Xuân Hoàng. Một miền thơ và thơ một miền, Tạp chí văn học, số 2/1983. 16. Khrapchenko M.B. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, NXB Tác phẩm mới, 1978. 17. Lê Đình Kỵ Nhận diện thơ sau cách mạng tháng 8, Báo Văn nghệ, số 3/1995.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoc9.pdf
Tài liệu liên quan