Luận văn Quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam

1. Lý do chọn đề tài Với bờ biển dài 3.260 km chưa kể các đảo và vùng đặc quyền kinh tế hơn 1triệu km2, Việt Nam rất quan tâm đến việc bảo tồn và quản lý các nguồn lợi thủy sản. Bởi lẽ, đây là một trong những ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Ngày 25.07.1994, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 63 của Công ước Luật biển; với tư cách là thành viên của Công ước, Việt Nam luôn luôn tôn trọng các điều khoản của Công ước và thực thi những cam kết quốc tế của mình. Trong những năm vừa qua, ngành thủy sản nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt. Nếu như năm 1981, sản lượng thủy sản cả nước chỉ có 600 nghìn tấn thì hiện nay đạt hơn 4,3 triệu tấn. Kim ngạch xuất khẩu năm 1981 là 15,2 triệu USD, nay tăng lên 4,25 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành một trong mười nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới. Ngành thủy sản tạo việc làm cho hơn bốn triệu lao động, chưa kể những lao động gián tiếp như công nghiệp chế biến, dịch vụ xuất khẩu, hệ thống thương mại, đóng tàu, . Điều đó chứng tỏ ngành thủy sản đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam. Theo ông Cao Đức Phát, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn“Trong những năm gần đây, nghề khai thác cá ngừ đại dương phát triển khá nhanh,cả về quy mô công nghiệp đánh bắt hải sản và quy mô nhỏ của hộ ngư dân, đặc biệtlà ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Nhận thức được hiệu quả của nghề câucá ngừ đại dương, thời gian qua, ngành thủy sản xem đây là đối tượng, mục tiêu đểphát triển nghề khai thác cá xa bờ” [10]. Chỉ tính riêng trong 5 tháng đầu năm 2010,kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang hầu hết các thị trường truyền thốngnhư Mỹ, Nhật Bản, Canada, đều tăng trưởng mạnh; đặc biệt, có thị trường Mỹ vàCanada tăng hơn 500% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính từ đầu năm đến nay, kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của cả nước đạt gần 100 triệu USD, tăng hơn 100% cảvề khối lượng lẫn giá trị so với cùng kỳ năm 2009 với giá xuất khẩu trung bình đạt 3,83 USD/kg [23]. Tuy nhiên, nghề câu cá ngừ đại dương nói riêng và nghề khai thác các ngừ nói chung bắt đầu phát triển trong khoảng 15 năm trở lại đây. So với các quốc gia khác trong khu vực như Inđônêxia và Nhật Bản chúng ta có xuất phát điểm thấp và chậm hơn nhiều. Vì vậy, trong quá trình khai thác, chế biến và xuất khẩu các doanh nghiệp và ngư dân không thể không tránh khỏi thách thức. Sức ép cạnh tranh trong xuất khẩu ngày càng cao, rào cản kỹ thuật từ các nước liên tục có những thay đổi, trong khi chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm của nước ta chưa đồng bộ; việc khai thác trái phép của một bộ phận ngư dân nước ngoài đã trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống của ngư dân và ảnh hưởng đến các mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước trong khu vực. Vấn đề nuôi trồng, đánh bắt xa bờ vẫn còn quy mô nhỏ, lạc hậu. Ứng dụng khoa học, kỹ thuật hạn chế, các mô hình công nghiệp còn ít. Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hiện tuợng nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền đang đe dọa nghiêm trọng đến nghề nuôi thủy sản. Bên cạnh đó, việc tạo thương hiệu cho thủy sản Việt Nam đến nay vẫn chưa làm được. Tình trạng rớt giá liên tục tái diễn mà phần thiệt luôn về phía ngư dân [2]. Điều đó nói lên một thực tế là có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương hiện nay. Do đó, quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong giai đoạn canh tranh khốc liệt hiện nay. Chính vì vậy, quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh xuất khẩu thủy sản cả về phương diện lý thuyết lẫn thực tế. Xuất phát từ lý do đó, tác giả đã chọn đề tài “Quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.

pdf77 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1804 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thúc đẩy cho đội tàu đánh bắt là không có. Khi các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ tươi nguyên con sang Mỹ, thông thường thời gian bảo quản để đảm bảo cá không bị xuống cấp, giảm chất lượng là 30 giờ, tuy nhiên trong một số trường hợp máy bay phải quá cảnh ở các nước vì gặp các sự cố như thời tiết, hỏng hóc,... làm cho cá giảm chất lượng. Bên cạnh đó, việc giữ hàng quá lâu ở các sân bay nước đi và nước đến gây thiệt hại nghiêm trọng cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ. Năm 2010, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Vinh Sâm ở Phú Yên có một lô cá xuất khẩu sang Chicago của Mỹ, nhưng sang bên đó 54 gặp bảo tuyết máy bay không thể hạ cánh ở Chicaogo mà hạ cánh ở một bang khác của Mỹ, cá của công ty bị giữ thêm 2 ngày nữa nên chất lượng bị rớt từ loại A sang loại C làm thiệt hại cho công ty khoảng 30.000 USD. Công ty tiến hành khởi kiện Việt Nam Airline nhưng bị từ chối bồi thường vì lý do bất khả kháng, kể từ đó hàng của Công ty bị Việt Nam Airline từ chối vận chuyển. 2.3.2. Một số nguyên nhân gây ra rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam hiện nay 2.3.2.1. Nguyên nhân gây rủi ro trong lĩnh vực khai thác Thứ nhất: Rủi ro do ngư dân thiếu kinh nghiệm đánh bắt cá ngừ đại dương, hầu hết đều đánh bắt chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên hiệu quả không cao; lao động trong nghề vừa thiếu, vừa không được đào tạo huấn luyện về kỹ thuật, trang bị còn rất thô sơ. Thứ hai: Rủi ro do máy móc, thiết bị lỗi thời, lạc hậu, gần như đều được sử dụng lại máy cũ, không ít phương tiện có thân vỏ tàu quá cũ, được tu bổ làm nước lại nhiều lần không thể chống chọi với điều kiện sóng to, gió lớn nhất là trong mùa mưa bão, ít có khả năng đánh bắt xa bờ. Thứ ba: Rủi ro do biến đổi khí hậu đã tác động rất lớn vào sự sinh tồn của loài cá ngừ, ảnh hưởng đến sản lượng khai thác hằng năm của ngư dân. Thứ tư: Rủi ro do ngư trường đánh bắt còn hạn chế, ngư dân đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, trong đó chủ yếu là tập trung xung quanh vùng biển gần quần đảo Trường Sa gắn liền với các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và ngoài khơi Bà Rịa Vũng Tàu. Thứ năm: Rủi ro do thiếu vốn, ngư dân phụ thuộc vào Nậu, dẫn đến tình trạng ép cấp, ép giá, thiệt thòi cho ngư dân. 2.3.2.2. Nguyên nhân gây rủi ro trong chế biến và bảo quản Thứ nhất: Rủi ro do trình độ công nghệ, kỹ thuật thấp, bảo quản cá còn sơ sài, vệ sinh an toàn thực phẩm kém. Thứ hai: Rủi ro do đội ngũ kiểm định thiếu kinh nghiệm chủ yếu dựa vào cảm tính, chưa có tiêu chuẩn cụ thể để phân loại cá ngừ. 55 Thứ ba: Rủi ro do thị trường tiêu thụ xa, vận chuyển khó khăn, mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến chất lượng cá. Thứ tư: Rủi ro do chưa có cơ sở bảo quản chất lượng cá đủ tiêu chuẩn. 2.3.2.3. Nguyên nhân gây rủi ro trong xuất khẩu Thứ nhất: Rủi ro do sự biến đổi giá, khi các doanh nghiệp đã ký hợp đồng với khách hàng, sau đó tiến hành thu gom và giao hàng, thời điểm này giá tăng sẽ làm cho các doanh nghiệp bị thiệt hại, nhiều doanh nghiệp bi phá sản vì rủi ro này. Thứ hai: Rủi ro tỷ giá hối đoái là sự không chắc chắn về một khoản thu nhập hay chi trả do biến động tỷ giá gây ra, có thể làm tổn thất đến giá trị dự kiến của hợp đồng. Trong hợp đồng xuất khẩu, rủi ro tỷ giá xảy ra khi giá trị ngoại tệ mà doanh nghiệp xuất khẩu nhận được trong tương lai giảm. Thứ ba: Rủi ro do sản phẩm kém chất lượng, nhiều doanh nghiệp đã xuất hàng nhưng bị khách hàng từ chối, trả lại do chất lượng kém. Doanh nghiệp phải chịu toàn bộ chi phí nhận về và bị phạt vì vi phạm hợp đồng. Thứ tư: Rủi ro do thuế xuất khẩu cao, làm cho giá cả hàng hóa của Việt Nam cao hơn hàng hóa của các nước khác tại thị trường xuất khẩu, khả năng cạnh tranh thấp. Thứ năm: Chưa có bộ phận quản trị làm tốt công tác quản trị rủi ro. Tóm tắt chương 2 Trọng tâm của chương 2 là việc phân tích tình hình xuất khẩu cá ngừ đại dương trên thế giới, cũng như ở Việt Nam; đi sâu vào phân tích thực trạng những rủi ro như rủi ro do thiếu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, rủi ro do thiếu vốn, rủi ro do biến đổi khí hậu, rủi ro ngư trường còn hạn chế, rủi ro do biến động giá, rủi ro trong quá trình vận chuyển, rủi ro trong thanh toán, rủi ro chính trị, pháp lý bằng các số liệu và các ví dụ thực tế mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gặp phải. Ở đây tác giả cũng phân tích những nguyên nhân gây ra rủi ro trong quá trình khai thác, chế biến, bảo quản và xuất khẩu. Để có cơ sở cho việc đề ra những giải pháp trong chương 3. 56 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH XUẤT KHẨU CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG Ở VIỆT NAM 3.1. Mục tiêu đề ra giải pháp 3.1.1. Mục tiêu trước mắt Theo hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, năm 2010 là năm thành công đối với lĩnh vực khai thác, chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương, bởi xuất khẩu cá ngừ đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Tính đến hết ngày 31.11.2010 Việt Nam đã xuất khẩu gần 76.000 tấn cá ngừ, trị giá trên 265,7 triệu USD, tăng 49,5% về khối lượng và 62%về giá trị so với cùng kỳ năm 2009, phấn đấu đến năm 2011, xuất khẩu cá ngừ đạt khoảng 300 triệu USD. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần: - Giảm thiểu những rủi ro có khả năng xảy ra trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam. - Nâng cao chất lượng cá ngừ đại dương để tăng khả năng cạnh tranh trong xu hướng hội nhập quốc tế. - Phòng ngừa những rủi ro xảy ra gây hậu quả xấu trong quá trình xuất khẩu. 3.1.2. Mục tiêu lâu dài Góp phần xây dựng ngành thủy sản nói chung và cá ngừ đại dương nói riêng thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có sức cạnh tranh, có kim ngạch xuất khẩu lớn, góp phần bảo vệ an ninh vùng biển của Tổ quốc; tạo điều kiện thuận lợi cho tăng thu nhập của các hộ đánh bắt và các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam. 3.2. Căn cứ đề ra giải pháp 3.2.1. Căn cứ định hướng phát triển nền kinh tế Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đưa đến cho Việt Nam nhiều cơ hội, song thách thức cũng không ít. Trong khi đó quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam mới mẻ nên còn nhiều bất cập. Do đó, để tránh những thiệt hại xảy ra, 57 đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế các ngư dân và doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự nâng cao hiệu quả khai thác, chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương thông qua công tác quản trị rủi ro. 3.2.2. Căn cứ tình hình khai thác, chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam Hiện nay trữ lượng khai thác cá ngừ đại dương Việt Nam là rất lớn, tuy nhiên sản lượng khai thác vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của đất nước. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ trên thế giới rất cao như Mỹ, EU, Nhật Bản,v.v... nhưng trình độ khai thác, chế biến và bảo quản của chúng ta còn nhiều hạn chế. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải khai thác, chế biến, bảo quản và xuất khẩu như thế nào để ngư dân và các doanh nghiệp có lãi, không bị thua thiệt với các doanh nghiệp nước ngoài. Để làm được điều này, các ngư dân và doanh nghiệp cần nhìn lại thực trạng và những nguyên nhân gây rủi ro trong lĩnh vực này, từ đó tìm ra những giải pháp khắc phục nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao. 3.3. Một số giải pháp quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam Xuất phát từ thực trạng rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam, chúng ta đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu những rủi ro, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động nghề cá ngừ đại dương, góp phần phát triển kinh tế của đất nước. 3.3.1. Nhóm giải pháp kiểm soát rủi ro Một là, sự cần thiết phải xây dựng bộ phận chuyên trách về quản trị rủi ro Nền kinh tế Việt Nam trải qua một thời gian dài trong chiến tranh, đi lên từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cho nên gặp rất nhiều rủi ro trong cơ chế thị trường hiện nay. Vì thế, không thể kiểm soát được toàn bộ rủi ro, tổn thất nếu không có bộ phận chuyên trách về quản trị rủi ro, sở dĩ xây dựng bộ phận chuyên trách về quản trị rủi ro là xuất phát từ những lý do sau: Mỗi một bộ phận trong một cơ cấu tổ chức được hình thành trên cơ sở chức năng được phân công để hoàn thành một mãng công việc, một lĩnh vực kinh doanh, chức năng quản trị rủi ro ở doanh nghiệp kinh doanh ngoại thương một khi được 58 hình thành thì cần có bộ phận chuyên trách. Sự hình thành bộ phận chuyên trách là nhằm quản trị có hiệu quả, đối phó với những nguy cơ rủi ro ngày càng tăng trong kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương. Rủi ro là những sự kiện bất lợi không thể tách rời của mọi hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương, vì vậy nó là đối tượng quan tâm, điều chỉnh của mọi tổ chức nếu muốn hạn chế rủi ro, tổn thất. Sự tồn tại của rủi ro là hết sức đa dạng, phức tạp, bất ngờ đối với cá nhân và tổ chức. Tự bản thân mọi người không đủ khả năng chống đỡ, né tránh mọi rủi ro, nhất là những rủi ro chung của tổ chức nếu thiếu một đầu mối thống nhất thực hiện chức năng quản trị rủi ro. Như vậy, sự ra đời của bộ phận quản trị rủi ro là do sự tồn tại khách quan của rủi ro và vì lợi ích của doanh nghiệp, tùy theo mức độ đa dạng của rủi ro, do lợi ích của tổ chức và do sự tồn tại bền vững của doanh nghiệp quyết định. Có nghĩa là không phải mọi doanh nghiệp đều áp dụng một tổ chức quản trị rủi ro như nhau mà phải căn cứ vào: + Đặc điểm, tính chất hoạt động của các doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp thường có những điều kiện hình thành, nguồn lực, quan hệ và khả năng quản lý khác nhau, điều này ảnh hưởng đến nguồn rủi ro tiềm ẩn của doanh nghiệp, nếu nguy cơ rủi ro cao, buộc doanh nghiệp phải quan tâm những chi phí và phòng chống để hạn chế rủi ro (Đương nhiên mọi doanh nghiệp phải lựa chọn sao cho hợp lý với sự đa dạng của nguy cơ rủi ro đối với doanh nghiệp mình). + Quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến qui mô rủi ro, tổn thất, số lượng các thương vụ cũng như kim ngạch buôn bán của các doanh nghiệp cũng làm cho lượng rủi ro tổn thất của doanh nghiệp tăng lên. Như vậy bộ máy quản trị rủi ro cũng thay đổi cho phù hợp. + Chi phí về tổ chức bộ máy quản trị rủi ro và lợi ích của các biện pháp rủi ro mang lại. Vấn đề quan trọng giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn mô hình quản trị rủi ro là những chi phí bỏ ra và những lợi ích kỳ vọng cho việc thực hành quản trị rủi ro mang lại. Nếu như chi phí cho bộ máy quản trị rủi ro nhỏ hơn hay bằng lợi ích 59 mang lại thì doanh nghiệp chọn mô hình đó còn ngược lại thì tổ chức lại bằng cách giảm bớt nhân sự, ít quan tâm đến những rủi ro mang lại tổn thất thấp. Việc xây dựng bộ máy quản trị rủi ro là rất cần thiết cho các doanh nghiệp kinh doanh cá ngừ đại dương hiện nay, tuy nhiên việc lựa chọn mô hình như thế nào là tùy vào tính chất, đặc điểm và qui mô của từng doanh nghiệp mà lựa chọn mô hình cho phù hợp. Hai là, chế biến, tiêu thụ, tăng cường công tác kiểm soát và quản lý chất lượng Để tăng khả năng đánh bắt và nâng cao chất lượng sản phẩm, ngư dân cần rút ngắn thời gian bảo quản từ khi đánh bắt đến khi cá vào bờ, hợp tác thành tổ đội và luân phiên vận chuyển cá vào bờ, cải tiến dụng cụ, hầm bảo quản và lắp đặt thiết bị lạnh, cải tiến trong khâu giết, xử lý, sơ chế, bảo quản sau thu hoạch đảm bảo theo yêu cầu, chất lượng nước đá phải đảm bảo về độ lạnh. Ngoài ra, ngư dân cũng cần đầu tư tàu lớn có trang thiết bị hiện đại, có hầm bảo quản để tăng khả năng giữ lạnh cho cá trong thời gian tàu hoạt động trên biển. Các tàu cần trang bị bảo hộ lao động cho các thuyền viên. Các cơ quan chức năng cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ nguồn nước đá hợp vệ sinh theo đúng yêu cầu chất lượng. Các ngư đội đánh bắt cá ngừ đại dương cần hình thành để tăng khả năng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, thông tin ngư trường, thị trường và giúp đỡ nhau khi gặp sự cố, bất trắc trên biển. Tổ chức tàu lớn mua gom cá ngừ và cung ứng các nhu yếu phẩm ngay trên biển cho các tàu câu cá ngừ nhằm giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh tế mỗi chuyến biển, đồng thời cần đầu tư hệ thống kho lạnh giữ hàng và chợ bán đấu giá cá ngừ đại dương ngay tại bến cá, cảng cá. Để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm cá ngừ đại dương, cần mở rộng thị trường xuất khẩu cá ngừ sang nhiều nước thông qua việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nước ngoài, tìm kiếm thị trường, quảng bá giới thiệu sản phẩm và phát triển thương hiệu cá ngừ đại dương Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh việc giữ vững thị phần trên các thị trường lớn như: EU, Nhật, Hoa Kỳ, Nga,… chúng ta không ngừng mở rộng thị trường để tăng thị phần trên các thị trường tiềm năng khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Trung Đông, Canada, Úc, các nước Đông Âu, Trung Mỹ và Nam 60 Mỹ,… Các doanh nghiệp mua gom cá ngừ có cam kết tiêu chuẩn chất lượng và niêm yết công khai giá mua với ngư dân. Các cơ quan chức năng có thẩm quyền tăng cường giám sát việc thực hiện tiêu chuẩn đã cam kết và niêm yết công khai, cần có quy định xử lý vi phạm về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm trong khai thác, thu gom và chế biến cá ngừ đại dương. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một tiêu chuẩn cụ thể trong việc đánh giá chất lượng cá ngừ đại dương, mà đánh giá chủ yếu dựa vào cảm quan cho nên gây rất nhiều mâu thuẫn giữa ngư dân và người thu mua dẫn đến tình trạng ngư dân bị ép giá, ép cấp. Vì vậy, Tổng cục Thủy sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ quan chức năng có liên quan như Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng cần sớm ban hành những quy định cụ thể về tiêu chuẩn chất lượng và biện pháp kiểm tra, giám định sản phẩm đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng thủy sản nói chung và cá ngừ đại dương nói riêng dựa trên tiêu chuẩn HACCP,... Bà Trịnh Thị Ngọc Sâm, Giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Vinh Sâm ở Tuy Hòa, Phú Yên đã đề xuất: “Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nên có tiêu chuẩn quy định cụ thể về chất lượng cá ngừ đại dương. Các cơ quan chức năng cần hỗ trợ Hiệp hội cá ngừ Phú Yên hướng dẫn cho ngư dân cách bảo quản sau thu hoạch để nâng cao giá trị của cá ngừ đại dương. Để tháo gỡ những khúc mắc đang tồn tại, các đơn vị hoạt động khai thác, chế biến, các tổ chức liên quan cùng ngư dân cần có sự hợp tác, hỗ trợ nhau về kinh tế, kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh” [4]. Đồng thời cần hoàn thiện năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về kiểm tra và chứng nhận về vệ sinh thủy sản (hiện nay là Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản Việt Nam). Ba là, đăng ký thương hiệu sản phẩm Thời gian gần đây, xuất khẩu cá ngừ đại dương đang là một trong những mặt hàng mũi nhọn, đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Mặc dù, còn gặp nhiều khó khăn, nhưng với những kết quả đạt được trong năm 2010, cùng với tín hiệu tốt từ thị trường xuất khẩu, xuất khẩu cá ngừ Việt Nam trong năm 2011 sẽ tiếp tục tăng trưởng, đạt giá trị khoảng 300 triệu USD. 61 Với sự tăng trưởng ấn tượng và lớn mạnh không ngừng của ngành khai thác và xuất khẩu cá ngừ, ngày 27/11/2010, Hiệp hội Cá ngừ Việt Nam đã được thành lập. Đây là cầu nối quan trọng giữa ngư dân với doanh nghiệp, tạo điều kiện thúc đẩy sự lớn mạnh của thương hiệu cá ngừ Việt Nam trên thị trường thế giới. Hiệp hội Cá ngừ Việt Nam đề ra mục tiêu sản lượng khai thác cá ngừ đại dương năm 2011 là 15.000 tấn, tiêu thụ 120.000 tấn (gồm cả cá ngừ nhập khẩu để chế biến) và năm 2015 là 30.000 tấn, tiêu thụ 200.000 tấn. Đồng thời phát triển nhanh đội tàu khai thác cá ngừ công nghiệp hiện đại, đạt tiêu chuẩn. Để đạt được những mục tiêu này và đáp ứng tốt đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường, phía doanh nghiệp cần phải có sự chuẩn bị chu đáo, chú ý đầu tư xây dựng hệ thống kho bãi hiện đại, xây dựng thương hiệu. Công tác tiếp thị, quảng bá thương hiệu trên môi trường Internet cần phải được tăng cường, tập trung sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao... nhằm đáp ứng mọi quy định ngày càng cao của các thị trường. Ngoài ra tăng cường công tác tìm kiếm các thị trường tiềm năng, không nên phụ thuộc vào một thị trường để tránh những rủi ro có thể xảy ra. Tổng cục Thủy sản cần có quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải đăng ký thương hiệu hàng hoá trước khi xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU và Mỹ. Đa dạng hoá sản phẩm, nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu cho phù hợp với yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Bắt đầu từ 01/01/2010, quy định về chống đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không kiểm soát (Quy định IUU) của EC sẽ có hiệu lực. Theo đó, đối với mỗi lô hàng thủy sản có nguồn gốc từ khai thác trong tự nhiên khi xuất khẩu sang EU đều phải có bản cam kết của nhà máy chế biến về nguồn gốc sản phẩm, hoặc giấy chứng nhận khai thác hoặc bản sao giấy chứng nhận khai thác. Cần phải tổ chức tuyên truyền và hướng dẫn cho ngư dân thực hiện quy định này. 3.3.2. Nhóm giải pháp tài trợ rủi ro Một là, thỏa thuận với các đại diện của khách hàng tại Việt Nam nhằm hạn chế những rủi ro trong cách thức thanh toán hiện nay 62 Theo như phân tích ở chương hai thì thực trạng cách thức thanh toán hiện nay của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương chứa đựng quá nhiều rủi ro. Trong thời điểm hiện tại một khi tiếng nói của từng nhà xuất khẩu chưa đủ mạnh để khắc phục những rủi ro trong vấn đề thanh toán thì chúng ta cần có những cách thức tế nhị và mềm dẻo hơn, chẳng hạn chúng ta mời các nhà xuất khẩu lại để tìm ra giải pháp hoặc là bắt buộc nhà nhập khẩu phải thanh toán theo đúng bản chất của phương thức thanh toán CAD hoặc là phải thỏa thuận được với các trưởng văn phòng đại diện ở Việt nam và ràng buộc với họ bằng một văn bản có tính chất pháp lý là chỉ khi nào công ty của họ chuyển tiền đủ vào tài khoản cho các doanh nghiệp xuất khẩu thì lúc đó chứng từ gốc mới được chuyển tới cho nhà nhập khẩu, có như vậy mới hạn chế được rủi ro. Hơn thế nữa các doanh nghiệp cần phải tính toán thật kỹ một khi hàng đã giao thì nên chốt giá trước để tránh tình trạng khi hàng đã lên tàu mà giá chưa chốt và buộc các doanh nghiệp phải làm hóa đơn tạm tính. Vấn đề làm thanh toán tạm tính chứa đựng rất nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vì hàng đã giao lên tàu và mọi chứng từ cũng đã giao, nếu có xảy ra tranh chấp các doanh nghiệp thường bị thua thiệt. Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương lâm vào cảnh phá sản vì không thể thu hồi được tiền sau khi giao hàng chưa chốt giá. Hai là, hỗ trợ vốn cho ngư dân Ngư dân đang đối mặt rất nhiều khó khăn, trong đó khó khăn chính là thiếu vốn, nhưng hiện nay ngân hàng không thể cho ngư dân vay vốn vì không có tài sản thế chấp, còn nếu có thì cũng gặp khó khăn trong vấn đề thủ tục giấy tờ. Vì thế, ngư dân bị “cột chặt” với đầu Nậu, họ không thể tự tìm kiếm thị trường, mối quan hệ mua bán ở trong thế bị ràng buộc từ đó đã nảy sinh tình trạng ép cấp, ép giá. Để tránh tình trạng này, nhà nước cần hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân vay vốn, cải tạo các thuyền nghề, doanh nghiệp cùng tham gia liên doanh, liên kết, giúp đỡ lẫn nhau trong kỹ thuật đánh bắt, bảo quản, ổn định thuyền viên và tiêu thụ sản phẩm cá ngừ đại dương, nâng cao hiệu quả mỗi chuyến biển. Ba là, đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và công tác xúc tiến thương mại 63 Tổ chức hệ thống thông tin phản ánh kịp thời sự thay đổi thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ nhu cầu tiêu dùng của từng nước để có sự am hiểu tường tận về thị trường thông qua việc nghiên cứu bằng các tư liệu và trên thực địa, mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài, tham gia các hội chợ triển lãm. Mặt khác, các doanh nghiệp cần tích cực quảng cáo về hàng thủy sản xuất khẩu của mình trên các website. Nhà nước cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước và các tổ chức liên kết của các doanh nghiệp như: hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, hội nghề nghiệp,... để giải quyết các tranh chấp thương mại và đàm phán để khắc phục các hàng rào phi thuế quan đã cản trở các hoạt động thương mại nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp nghiên cứu khảo sát thị trường tìm kiếm bạn hàng, tham gia hội chợ triển lãm thương mại trong và ngoài nước, quảng cáo. Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cá ngừ đại dương mở rộng thị trường; tổ chức và tham gia các hội chợ quốc tế nhằm quảng bá thương hiệu cá ngừ đại dương ra thị trường nước ngoài. Bốn là, tổ chức dịch vụ hậu cần trên biển để phát triển ngành thủy sản Cá ngừ đại dương là loài di cư theo mùa vụ, muốn có hiệu quả thì các tàu phải cơ động theo luồng cá do vậy không phải lúc nào cũng chạy về căn cứ hậu cần dịch vụ Đảo Đá Tây hay Song Tử Tây cho nên phải có mô hình thích hợp hơn đó là mô hình “tàu mẹ - tàu con” phục vụ cho đánh bắt xa bờ đang thực hiện trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa được nhiều ngư dân đánh giá cao. Hiện nay, 2 ngư đội chuyên khai thác hải sản xa bờ của tỉnh được tổ chức theo phương thức “tàu mẹ - tàu con”. Tàu mẹ vừa trực tiếp đánh bắt hải sản, vừa đảm trách chức năng cung ứng thực phẩm, nước uống, nhiên liệu và thu mua hải sản từ các tàu con tại khu dịch vụ hậu cần nghề cá hoặc ngay trên các vùng biển đang đánh bắt. Nhờ đảm bảo các nhu cầu cần thiết trong suốt quá trình hoạt động ở khơi xa, các ngư đội này có thể hoạt động liên tục từ 8 - 10 tháng trong năm. Việc thu mua sản phẩm dựa theo nguyên tắc thỏa thuận theo đúng giá thị trường trong đất liền tại thời điểm đó. Giá nhiên liệu và thực phẩm do tàu mẹ bán cho các ngư dân cũng được tính theo đúng mức giá trong đất 64 liền [18]. Như vậy sẽ giảm được chi phí đi về, tổ chức mua trên biển gần các ngư trường để xuất khẩu thẳng ra nước ngoài, nâng cao chất lượng sản phẩm… Tiếp tục mở rộng và nâng cấp các chợ cá, bến cá, cảng cá đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để phục vụ công tác giao nhận cá ngừ trên bờ, tiến tới tổ chức bán đấu giá để nâng giá trị sản phẩm cho ngư dân, tránh tình trạng bị ép giá. Nếu được, nên xây dựng một trung tâm giám định chất lượng và bán đấu giá cá cho ngư dân cũng như tạo điều kiện cho ngư dân nắm bắt thông tin thị trường để kịp thời đưa cá vào đúng thời điểm giá cao. Tranh thủ các nguồn lực trong và ngoài Hiệp hội, mở rộng hợp tác quốc tế nhằm thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, gắn sản xuất với tiêu thụ, thực hiện xúc tiến thương mại. Ngoài hội phí, bằng các hoạt động sản xuất kinh doanh, Hiệp hội chủ động tạo nguồn kinh phí, tăng cường cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ cán bộ, từng bước chuyên nghiệp hóa cán bộ của các cấp hội. Cá ngừ đại dương được khai thác chủ yếu tập trung tại ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Vì vậy, để tránh tình trạng giảm chất lượng cá trước khi đưa đến thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, cần xây dựng sân bay quốc tế tại khu vực này nhằm hạn chế những rủi ro, nâng cao giá trị xuất khẩu. Năm là, doanh nghiệp nên tham gia Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Nếu tham gia bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Được bảo vệ tài chính trong trường hợp nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán; tăng khả năng đi vay từ các tổ chức tín dụng do có thể coi bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là khoản bảo đảm tiền vay, từ đó có thể tăng lượng hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. Ngoài ra, doanh nghiệp cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thường là thành viên của các Hiệp hội bảo hiểm tín dụng quốc tế, có mạng lưới cung cấp dịch vụ thông tin trên toàn cầu, có chức năng tư vấn rủi ro, cung cấp thông tin về quốc gia nhập khẩu và các đối tác nhập khẩu cho các thương nhân xuất khẩu. Nhờ đó, thương nhân xuất khẩu sẽ tiết kiệm chi phí tìm hiểu và đánh giá thông tin về đối tác nhập khẩu, tăng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế và cải thiện chất lượng của hoạt động xuất khẩu. Nói cách khác, nếu không tham gia bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, thương nhân xuất khẩu có thể mất vốn kinh doanh hoặc không có khả năng trả nợ ngân hàng trong trường hợp nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán, từ đó làm giảm khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc xuất khẩu do thiếu vốn. Ngoài ra, thương 65 nhân xuất khẩu có thể gặp rủi ro về mất cơ hội kinh doanh hay giảm lợi thế kinh doanh do không được tư vấn thông tin về đối tác, thị trường nhập khẩu. Tuy nhiên, việc triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ vẫn được “hậu thuẫn” bởi rất nhiều thuận lợi, chẳng hạn, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đối với cả bên mua bảo hiểm và bên bán bảo hiểm. Cụ thể, đối với bên mua bảo hiểm có thể có các chính sách: Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại đơn giản hóa các thủ tục cho vay, chấp nhận hợp đồng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu như khoản đảm bảo tiền vay, cấp tín dụng tương đương với giá trị được bảo hiểm theo hợp đồng này; định hướng các ngân hàng thương mại hợp tác với các doanh nghiệp trong việc hướng dẫn, tạo điều kiện cho các thương nhân vay vốn xuất khẩu mua bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, đồng thời, khi xảy ra tổn thất, trong phạm vi số tiền bảo hiểm, doanh nghiệp sẽ chuyển trực tiếp khoản chi bồi thường cho ngân hàng, giúp ngân hàng nhanh chóng thu hồi khoản vay; Nhà nước định hướng để các thương nhân xuất khẩu tích cực tham gia bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. 3.3.3. Nhóm giải pháp hỗ trợ khác Một là, quá trình hình thành bộ phận chuyên trách quản trị rủi ro của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương Tùy theo đặc thù và qui mô kinh doanh của từng doanh nghiệp mà bộ phận quản trị rủi ro sẽ khác nhau. Nếu là doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nhiều mặc hàng, trong đó có cá ngừ đại dương thì bộ phận quản trị rủi ro của cá ngừ đại dương sẽ nằm chung trong bộ phận quản trị rủi ro của doanh nghiệp; còn nếu doanh nghiệp chuyên xuất khẩu cá ngừ đại dương nói chung thì quá trình hình thành bộ phận quản trị rủi ro được thực hiện theo qui trình sau: Thứ nhất: Vấn đề nhận dạng rủi ro Theo như xuyên suốt bài viết này, tác giả đã dựa trên mô hình về những rủi ro có thể tác động thường xuyên đến các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ đại dương thông qua thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp bao gồm: + Rủi ro từ phía những nhà cung cấp gây ra cho các nhà kinh doanh xuất khẩu như việc không giao hàng khi đã ứng tiền trước hoặc việc giao hàng không kịp thời; giao hàng không đúng phẩm chất, chất lượng… Tất cả những điều trên sẽ làm cho nhà xuất khẩu mất uy tín với khách hàng do không có hàng để giao, không giao 66 hàng kịp thời và bị phạt vi phạm hợp đồng hay bị từ chối nhận hàng mặt dù hàng đã đưa đến nước nhập khẩu. + Rủi ro từ phía thị trường do sự tác động của cung cầu hay của các nhà đầu cơ làm cho giá biến động mạnh gây ra rủi ro về giá khi không có những thông tin nhận định chính xác về tình hình thị trường. + Rủi ro từ phía người mua như tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài không hiệu quả dẫn đến mất khả năng thanh toán; từ chối nhận hàng; đưa ra những khiếu nại không hợp lý về chất lượng, số lượng hay những vấn đề trong yêu cầu giao hàng để ép giá. + Rủi ro từ chính nội tại của doanh nghiệp như trình độ quản trị của Ban giám đốc, những yếu kém về nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ,… của cán bộ doanh nghiệp. Những vấn đề này có thể khắc phục được từ khâu tổ chức của doanh nghiệp và không đưa vào bộ phận quản trị rủi ro. Nhận dạng rủi ro tỷ giá đối với hoạt động xuất khẩu Trong hoạt động xuất khẩu, vì lý do cạnh tranh và nhiều lý do khác khiến doanh nghiệp thường xuyên bán hàng trả chậm trong một khoảng thời gian nhất định. Ở thời điểm ký kết hợp đồng, tỷ giá ngoại tệ so với VNĐ đã biết nhưng đến thời điểm thanh toán tỷ giá như thế nào thì doanh nghiệp chưa biết. Đơn giản là vì điều này chưa xảy ra. Chính sự chưa biết rõ tỷ giá này tiềm ẩn rủi ro tỷ giá. Ví dụ dưới đây minh họa cách nhận dạng rủi ro tỷ giá khi doanh nghiệp ký kết một hợp đồng xuất khẩu. Giả sử ngày 04/08 công ty Sagonimex ký kết hợp đồng xuất khẩu trị giá 200.000 USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán sáu tháng sau kể từ ngày ký hợp đồng. Ở thời điểm ký kết hợp đồng, tỷ giá USD/VND = 21.850 trong khi tỷ giá ở thời điểm thanh toán chưa biết vì chưa đến hạn khiến cho hợp đồng xuất khẩu của Sagonimex chứa đựng rủi ro tỷ giá. Nếu đến hạn thanh toán, USD tiếp tục lên giá so với VNĐ thì bên cạnh lợi nhuận do hoạt động xuất khẩu đem lại, công ty kiếm thêm được khoản lợi nhuận tăng thêm do USD lên giá. Ngược lại, nếu đến hạn thanh toán, USD xuống giá so 67 với VNĐ thì doanh thu kỳ vọng bằng VNĐ của hợp đồng xuất khẩu trên giảm. Sự sụt giảm này làm cho lợi nhuận kỳ vọng từ hợp đồng xuất khẩu giảm, nghiêm trọng hơn có thể khiến cho hợp đồng trở nên lỗ nếu như sự sụt giá USD quá mạnh. Chẳng hạn, vào ngày thanh toán nếu USD/VNĐ = 21.500 thì cứ mỗi USD xuất khẩu công ty tổn thất 350 VNĐ do USD xuống giá. Toàn bộ hợp đồng trị giá 200.000 USD, công ty bị thiệt hại 350 x 200.000 = 70.000.000 VNĐ. Sự thiệt hại này không lớn lắm trong phạm vi một hợp đồng, nhưng nếu tính chung trong toàn bộ hoạt động xuất khẩu, công ty có đến hàng trăm hợp đồng như vậy, thiệt hại sẽ rất là lớn. Hơn nữa, sự sụt giảm giá trị ngoại tệ có thể mạnh hơn. Thứ hai: Tổ chức bộ máy quản trị rủi ro Nếu không lường trước những rủi ro có thể xảy ra khi xuất khẩu cá ngừ tươi sống nguyên con vào các thị trường Mỹ, Nhật,… các doanh nghiệp có thể thiệt hại nghiêm trọng. Có những doanh nghiệp phải mất trắng những lô hàng trị giá vài chục ngàn đến hàng trăm ngàn USD. Vì vậy, việc hình thành bộ máy quản trị hiệu quả các rủi ro là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp kinh doanh cá ngừ đại dương hiện nay. Theo như quá trình nhận dạng rủi ro ở trên thì mô hình bộ máy quản trị rủi ro như sau: Nhiệm vụ và trách nhiệm của từng chuyên viên: Phòng Tài chính Kế toán Ban Giám đốc Phòng Kinh doanh Bộ phận Quản trị Rủi ro Chuyên viên quản trị rủi ro mua bán hàng trong nước Chuyên viên quản trị rủi ro mua bán hàng ngoài nước Chuyên viên quản trị rủi ro về thông tin thị trường, giá cả 68 Chuyên viên quản trị rủi ro cho việc mua hàng trong nước phải có trách nhiệm thu thập các thông tin như số điện thoại, địa chỉ, mức cung ứng sản lượng từng vụ, mức độ chung thủy, uy tín, chất lượng, nguồn hàng,… của tất cả các nhà cung ứng trong nước; các thông tin này phải được thu thập ngay từ đầu vụ cá chính sau đó được cập nhật thường xuyên để tránh những thay đổi có tính chất đột biến. Chuyên viên quản trị rủi ro về thông tin giá cả thị trường cá ngừ đại dương thế giới phải khai thác được tình hình cung cầu, sản lượng của các quốc gia khai thác cá ngừ đại dương, tình hình thời tiết, cũng như thật sự hiểu biết về hoạt động của thị trường Nhật Bản, Mỹ,... Tùy theo đặc thù của từng doanh nghiệp mà chuyên viên này có thể kiêm luôn chức năng là trưởng bộ phận quản trị rủi ro doanh nghiệp; thông tin chuyên viên tổng hợp được sẽ báo cáo lên phòng tài chính, kinh doanh cũng như Ban giám đốc để có những quyết định hợp lý. Chuyên viên về nhận định tình hình của khách hàng nước ngoài phải khai thác những thông tin như tình hình mua hàng, số lượng, chất lượng, tình hình nhận hàng, thời gian thanh toán, cũng như phải nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng nước ngoài thông qua các kênh là ngân hàng quốc tế và những đại diện ở Việt Nam. Các thông tin này phải cập nhật và tổng hợp thường xuyên nhằm cung cấp cho trưởng bộ phận quản trị rủi ro. Thứ ba: Lựa chọn nhân sự quản trị rủi ro Nhân sự làm công tác quản trị rủi ro đòi hỏi phải có trình độ khá toàn diện, cả những hoạt động kỹ thuật, qui phạm an toàn, hoạt động tài chính, nghiệp vụ kinh doanh. Đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, chịu áp lực công việc và đức tính cẩn trọng, chu đáo là phẩm chất cơ bản của người quản trị. Nhân viên làm công tác ở những mãng và lĩnh vực trên phải được tuyển dụng một cách khách quan và nghiên cứu kỹ phẩm chất của từng người và kể cả việc bố trí để đào tạo thêm ở nước ngoài. Hai là, đào tạo nguồn nhân lực Tăng cường hơn nữa công tác tập huấn kỹ thuật xử lý và bảo quản cá ngừ đại dương sau đánh bắt, công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch, công tác kiểm soát chất lượng sản phẩm phù hợp với từng nhóm đối tượng tham gia và quá trình 69 khai thác, chế biến và tiêu thụ cá ngừ đại dương nói riêng và thủy sản nói chung. Ngoài đối tượng quan trọng là ngư dân và các đại lý thu mua, các cán bộ quản lý chất lượng của các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản cũng phải được tập huấn. Hiện nay trình độ nghiệp vụ và phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn thấp, có khoảng cách xa so với trình độ thế giới. Vì vậy, cần đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao năng lực của các cán bộ quản lý, cán bộ kỷ thuật, cán bộ thị trường nhằm đáp ứng được các đòi hỏi của việc kinh doanh quốc tế về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, sự am hiểu pháp luật trong nước và quốc tế. Ông Biện Minh Tâm - Phó Giám đốc Sở Thủy sản Phú Yên nay là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: "Ngư dân câu cá ngừ còn rất đơn độc trên biển, trong khi trình độ hiểu biết về luật hàng hải theo thông lệ quốc tế rất hạn chế, khó có thể tự giải quyết tranh chấp với tàu nước ngoài. Do vậy, chúng tôi đang cố gắng nâng cao trình độ hiểu biết về luật pháp quốc tế, sử dụng thành thạo các thiết bị hàng hải thông qua các lớp huấn luyện thuyền trưởng và tổ chức cho các tàu, thuyền thành từng đội để tương trợ, giúp đỡ nhau, nhất là lúc gặp sự cố. Đó là cách họ tự cứu mình trước khi có sự can thiệp của cơ quan chức năng" [17]. Để đạt được điều đó cần phải Sắp xếp và tổ chức lại, củng cố, nâng cấp, mở rộng, hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực thủy sản phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất. Ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở nghiên cứu, đào tạo gắn kết với các doanh nghiệp, trang trại và cơ sở sản xuất để đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất. Tập trung đào tạo cán bộ có chuyên môn cao, cán bộ khoa học và cán bộ quản lý; xã hội hóa trong việc đào tạo lao động nghề cá, hướng tới đào tạo có địa chỉ theo nhu cầu thị trường. Có chính sách ưu tiên đối với đào tạo nguồn nhân lực hoạt động nghề cá trên biển; đặc biệt các cán bộ khoa học về nguồn lợi, khai thác, cơ khí, đăng kiểm tàu cá. Gắn kết giữa phát triển nguồn nhân lực với bố trí dân cư và xây dựng làng cá ven biển. Tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền giáo dục cho ngư dân chấp hành luật 70 hàng hải và luật biển quốc tế, phân biệt rõ ràng các đường lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng chống lấn một số nước, hướng dẫn sử dụng hải đồ và phương pháp tác nghiệp hải đồ, các chức năng cần thiết của máy định vị vệ tinh, máy thông tin liên lạc,v.v.. khi đi khai thác xa bờ. Ba là, phát triển vùng nuôi cá ngừ đại dương Nhà nước cần đầu tư phát triển vùng nuôi cá ngừ đại dương, xuất phát từ hai lý do sau: Cá ngừ đại dương bao gồm cá ngừ mắt to, cá ngừ vây vàng, cá ngừ vây xanh,… là các loài cá có giá trị kinh tế cao, là đối tượng khai thác chính của một số nghề khai thác như câu vàng, lưới vây,... Tuy nhiên, do sự tăng nhanh của số lượng tàu khai thác, việc đánh bắt tràn lan không có kế hoạch bảo vệ và tạo nguồn nên lượng cá ngừ đại dương đang có nguy cơ cạn kiệt. Nhiều ngư dân cho biết, hiện nay, lượng cá ngừ đại dương câu được rất ít “Chi phí cao nhưng kết quả thu về sau mỗi chuyến ra khơi câu cá ngừ đại dương cũng như đánh bắt xa bờ lại thấp nên chủ tàu thua lỗ, bạn câu, ngư dân đánh cá bỏ nghề”. Cá ngừ đại dương là loài cá di cư, vì vậy ngư dân chỉ đánh bắt theo mùa, những mùa còn lại ngư dân không có thu nhập, đời sống khó khăn, tàu nằm bờ, chủ tàu khốn đốn do tàu dễ bị hỏng hóc và chịu nhiều phí tổn khác… Cũng từ sự lao đao của các chủ tàu kéo theo nhiều chủ vựa cá phải “ngồi chơi, xơi nước” trong thời gian dài đã ảnh hưởng lớn đến kinh tế của đất nước. Vì vậy, để khắc phục những khó khăn trên, một mặt nhà nước cần phải có chính sách quy định tiêu chuẩn và hạn ngạch đánh bắt hằng năm, tránh sự khai thác bừa bãi của ngư dân. Mặt khác, cần có chiến lược phát triển vùng nuôi cá ngừ đại dương, quy hoạch cụ thể các vùng nuôi và khai thác. Phối hợp phát triển cơ sở hạ tầng nuôi trồng và khai thác đặc biệt là phải phát triển thủy lợi thích hợp cho nuôi trồng đồng thời giữ gìn môi trường sinh thái nhằm mục đích ổn định, duy trì sản lượng khai thác hằng năm, tạo điều kiện cho ngư dân đánh bắt quanh năm, cải thiện đời sống, tăng sản lượng xuất khẩu, thúc đẩy kinh tế phát triển. Bốn là, đầu tư trang thiết bị công nghệ hiện đại 71 Nghề câu cá ngừ đại dương Việt Nam phát triển một cách tự phát, máy móc thiết bị còn thô sơ, lạc hậu, vì vậy ngư dân khai thác kém hiệu quả. Do đó, để tăng hiệu quả trong khai thác, ngư dân và các doanh nghiệp cần đầu tư thiết bị máy móc công nghệ tiên tiến, hiện đại, đồng bộ, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm tăng năng suất lao động. Sử dụng công nghệ thông tin và GIS trong dự báo nguồn lợi và quản lý hoạt động khai thác trên biển, tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật câu cá ngừ ở quy mô công nghiệp vào các tàu khai thác truyền thống. Do thời gian của một chuyến đi câu thường kéo dài từ 20 – 30 ngày, nên đá để muối cá cần phải đủ và được bảo quản tốt, tốt nhất là các hầm đá trên tàu cần phải được bọc cách nhiệt bằng xốp dày và phủ 1 lớp vỏ composit để tạo độ bền, kín và không làm trầy xước cá trong khi muối. Ngoài ra, trên mỗi tàu nên có một thùng cách nhiệt có kích thước 1,6 x 0,8 x 0,8m dùng để hạ nhanh nhiệt độ thân cá trước khi muối. 3.4. Một số kiến nghị Bên cạnh những nổ lực của các doanh nghiệp để giảm thiểu những rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương cũng cần có sự hổ trợ của hiệp hội, chính phủ và các cơ quan chức năng cùng phối hợp thực hiện nhằm giảm thiểu những rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh. 3.4.1. Kiến nghị đối với hiệp hội cá ngừ đại dương Việt Nam Theo như chức năng của hiệp hội thì hiệp hội cá ngừ đại dương Việt Nam là tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và thể nhân sản xuất, chế biến, kinh doanh dịch vụ, cung ứng xuất khẩu, nghiên cứu khoa học công nghệ và đào tạo thuộc ngành thủy sản được thành lập trên cơ sở tự nguyện nhằm phối hợp có hiệu quả các hoạt động khai thác kinh doanh trên thị trường trong và ngoài nước; thống nhất nhận thức và hành động, tránh việc tranh mua, tranh bán gây tổn hại đến lợi ích chung, bảo vệ lẫn nhau tránh hành vi độc quyền, xâm phạm lợi ích doanh nghiệp; giúp đỡ nhau trong các vấn đề vốn, đào tạo, môi giới, tư vấn, kỷ năng quản lý và áp dụng công nghệ mới… Hiệp hội là cầu nối giữa các doanh nghiệp các hội viên và nhà nước, phản ánh tâm tư 72 nguyện vọng của hội viên cùng tham gia với cơ quan nhà nước trong việc đưa ra các chủ trương chính sách, các văn bản pháp quy mà hội viên là đối tượng thi hành. Hội viên hiệp hội cùng giúp nhau quán triệt đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Với những chức năng như vậy nhưng trong quá trình thực hiện của hiệp hội chưa đủ mạnh để xứng đáng là một tổ chưc đại diện ngư dân khai thác và doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ đại dương hiện nay. - Hiện nay việc tranh mua, tranh bán của các hội viên xảy ra hàng ngày, không có sự đoàn kết, nhất trí cao đối với các nậu, vựa, vấn đề thiếu hụt thông tin, cũng như sự chèn ép của các doanh nghiệp nước ngoài trong vấn đề chất lượng, thanh toán và nhận hàng,… Tuy nhiên hiệp hội chưa là một tổ chức đủ mạnh để đứng ra hổ trợ hội viên trong việc giải quyết các vấn đề trên. Chính vì vậy, trong thời gian tới đề nghị hiệp hội hằng tháng, hằng qúy nên lấy ý kiến, tâm tư nguyện vọng của các hội viên sau đó đứng ra tổ chức hội nghị mời các nhà nhập khẩu để kiến nghị họ thực hiện những điều mà hội viên đề nghị, giảm bớt những thiệt thòi trong quan hệ ngoại thương của các doanh nghiệp xuất khẩu. Hiệp hội nên tiến hành thảo luận ra một hợp đồng cá ngừ đại dương dựa trên những nguyên tắc thương mại quốc tế và luật pháp Việt Nam, cũng như những tiêu chuẩn về chất lượng nhằm làm cho các công ty xuất khẩu có nhiều thuận lợi hơn khi mà hợp đồng cá ngừ đại dương hiện nay chỉ có lợi cho nhà nhập khẩu. - Dựa trên những kinh nghiệm của những quốc gia khai thác cá ngừ đại dương khác, Hiệp hội nên lập những đề án hướng cho những nhà sản xuất cá ngừ đại dương việc phát triển sản xuất theo kiểu hiệp hội, hợp tác xã,… để được dễ dàng trong vấn đề phổ biến những thông tin, kiến thức về sản xuất, thị trường, cũng như dễ dàng cho vấn đề vay vốn, chế biến và xuất khẩu sau này. 3.4.2. Kiến nghị đối với Nhà nước - Nhà nước nên hổ trợ các nhà sản xuất và xuất khẩu bằng cách đầu tư vào hệ thống giao thông công cộng; những tuyến đường quốc lộ chính, sân bay quốc tế để vận chuyển cá ngừ đại dương đi tiêu thụ. Bởi vì, vào vụ mùa vấn đề vận chuyển cá ngừ đại dương rất khó khăn lắm lúc làm phát sinh thêm chi phí xuất khẩu. 73 - Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cũng như ngư dân sớm đưa mô hình các chợ đấu giá công khai cá ngừ đại dương vào hoạt động vì một khi chợ đấu giá đi vào hoạt động nó sẽ minh bạch trong vấn đề mua bán, thu gom cá ngừ đại dương hạn chế được những thiệt thòi của ngư dân tránh trình trạng tranh mua, tranh bán của các tổ chức xuất khẩu cũng như các nậu, vựa. - Hiện nay, cả nước có một số ít doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu cá ngừ đại dương tươi nguyên con vì nó chứa đựng nhiều rủi ro, tuy nhiên có một số doanh nghiệp thành công do có năng lực tài chính và có kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường cá ngừ đại dương thế giới. Tuy nhiên thời gian qua Nhà nước chưa quản lý lĩnh vực này nên nhiều doanh nghiệp chưa đủ năng lực, chưa đủ kinh nghiệm và sự hiểu biết nhất định về các thị trường. Kết quả là rất nhiều doanh nghiệp, nậu, vựa và cả người dân thua lỗ nặng và thậm chí bị phá sản. Chính vì vậy, Nhà nước nên đưa ra những điều kiện cụ thể để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ năng lực tham gia nhằm giảm thiểu những rủi ro trong kinh doanh, đồng thời hạn chế những người tham gia khi không đủ tài lực và kiến thức cần thiết tham gia vào thị trường có những rủi ro nhất định này. - Vấn đề thông tin: Có thể nói vấn đề thông tin của cá ngừ đại dương chúng ta hiện nay là rất yếu. Hiện tại thông tin về giá cả của chúng ta chỉ phụ thuộc vào giá của các công ty thu mua đưa ra chứ chưa có một cơ sở gì để kiểm chứng. Tuy nhiên, những thông tin trên chưa quan trọng bằng việc khả năng dự báo thị trường, ngoài những thông tin trên chúng ta phải tiếp cận những thông tin về dự báo thời tiết tại những quốc gia có khai thác và chế biến cá ngừ đại dương trên thế giới như: mưa, bão, lũ lụt,... từ đó đưa ra những dự báo chính xác về thị trường cá ngừ đại dương. Thực tế cho thấy tại những vùng khai thác cá ngừ đại dương trọng yếu chỉ cần có những nhận định bất lợi hay thuận lợi về tình hình thời tiết thì lập tức trong ngày hôm đó sẽ tác động mạnh đến giá cả của thị trường cá ngừ đại dương. Do vậy, để phân tích và xử lý những thông tin này một cách chính xác thì không dễ chút nào mà cần có một tổ chức mang tầm cỡ quốc gia, tập hợp những chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực để phân tích và dự báo thị trường, cung cấp những thông tin 74 mới nhất cho những ngư dân và các doanh nghiệp nhằm có những định hướng tốt cho việc khai thác và xuất khẩu cá ngừ đại dương. - Hiện nay, giá cả các yếu tố đầu vào ngày càng tăng làm cho ngư dân đã khó càng thêm khó hơn, chính vì thế để ngư dân bám biển khai thác tiềm năng kinh tế nhằm phát triển và bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, bù lỗ chi phí nhằm giúp ngư dân yên tâm khai thác tài nguyên. Vận động ngư dân tham giam bảo hiểm tài sản nhằm giảm thiếu rủi ro khi nó xảy ra. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn cho nên Nhà nước cần phải có các chính sách ưu đãi: Ưu đãi về thuế: Xem xét miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn tiền thu sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền thuê mặt nước. Ưu đãi về vay vốn Ngân hàng: + Lãi suất cho vay: Ưu đãi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động với chi phí sử dụng vốn thấp, mức vốn cho vay: Được vay phần vốn còn thiếu của dự án đầu tư, sản xuất sau khi cơ sở sản xuất, kinh doanh đã sử dụng nguồn vốn tự có và các nguồn vốn hợp pháp khác. + Thời hạn vay vốn: Phù hợp với chu kỳ sản xuất cá ngừ xuất khẩu (từ giai đoạn chuẩn bị nuôi cho đến khi thu hoạch, chế biến để xuất khẩu). - Chính sách tỷ giá phù hợp Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm, hàng hóa nói chung và cá ngừ đại dương nói riêng có thể cạnh tranh với các đối thủ ở những quốc gia khác trên thế giới như: Thái lan, Inđônêxia, Mêhicô,... Nhà nước cần phải có chính sách tỷ giá phù hợp. Vì khi chính sách tỷ giá không phù hợp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp, cụ thể giá của đồng nội tệ quá cao làm cho giá cả hàng hóa của Việt Nam trở nên đắt đỏ hơn so với những quốc gia khác, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ bị mất khách hàng do giá bán cao hoặc đồng nội tệ bị giảm giá làm cho ngoại tệ thu được từ nguồn hàng xuất khẩu không đủ bù đắp cho các chi phí phát sinh phải trả tại thị trường trong nước như: điện, nước, tiền lương, vật liệu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu,… Nhà nước nên tạo điều kiện để các doanh nghiệp có thể sử dụng được công cụ phòng ngừa rủi ro như option, forward,… được ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn 75 nhằm giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu có thể yên tâm sản xuất và xuất khẩu hàng hóa vì không lo sẽ bị lỗ do sự thay đổi của tỷ giá. Nhà nước nên xem xét các thỏa ước khi gia nhập các khối liên minh nhằm tạo rào cản để bảo hộ các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ trong nước cũng như tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp có thể cạnh tranh cùng với các đối thủ khi xuất khẩu cá ngừ đại dương. Tóm tắt chương 3 Chương 3 là phần quan trọng nhất của đề tài nghiên cứu này, từ những mục tiêu cần đạt tới, dựa trên những định hướng phát triển của nền kinh tế, của cá ngừ đại dương, thực trạng rủi ro và các nguyên nhân rủi ro của các doanh nghiệp trong thời gian qua, tác giả đề xuất những giải pháp theo hướng ứng dụng những kinh nghiệm hoạt động của những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thủy sản. Bên cạnh đó tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị đối với hiệp hội cá ngừ đại dương trong việc hoàn thiện rủi ro cho doanh nghiệp xuất khẩu; Đối với Nhà nước trong việc định hướng cho ngư dân trong vấn đề khai thác, bảo quản cũng như đầu tư tốt cơ sở hạ tầng nhằm giảm chi phí vận chuyển; đưa ra hành lang pháp lý cho vấn đề kinh doanh thị trường và cung cấp thông tin dự báo. 76 KẾT LUẬN Tìm hiểu “quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam” chúng ta thấy: Trong cơ cấu các mặt hàng thủy sản, cá ngừ đại dương luôn giữ vai trò đặc biệt vì giá trị dinh dưỡng của nó. Trong số các sản phẩm thủy sản, cá ngừ luôn giữ vị trí quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản toàn thế giới. Chính vì vậy, việc khai thác, chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương đã trở thành mục tiêu kinh tế của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tuy cá ngừ đại dương xuất hiện vào khoảng những năm 90 của thế kỷ XX ở Việt Nam nhưng đây là một trong những mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực, chỉ đứng thứ ba sau tôm và cá tra, hàng năm thu về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn góp phần tạo nên sự khởi sắc cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây. Chỉ tính riêng trong năm 2010, nhờ hoạt động khai thác, chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương đã mang lại 287 triệu USD cho đất nước, đã giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hàng chục vạn lao động, đời sống người dân được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, việc khai thác, chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa tổ chức có hệ thống, theo quy mô công nghiệp đã đưa đến nhiều rủi ro trong lĩnh vực này, nguyên nhân gây nên rủi ro là do ngư dân thiếu kinh nghiệm đánh bắt cá ngừ đại dương; do máy móc, thiết bị lỗi thời, lạc hậu, gần như đều sử dụng lại máy cũ; do biến đổi khí hậu đã tác động rất lớn vào sự sinh tồn của loài cá này, ảnh hưởng đến sản lượng khai thác hằng năm của ngư dân; do ngư trường đánh bắt còn hạn chế, chủ yếu là tập trung xung quanh vùng biển gần quần đảo Trường Sa; do thiếu vốn, ngư dân phụ thuộc vào Nậu, dẫn đến tình trạng ép cấp, ép giá, thiệt thòi cho ngư dân; do trình độ công nghệ, kỹ thuật thấp, bảo quản cá còn sơ sài, vệ sinh an toàn thực phẩm kém; do đội ngũ kiểm định thiếu kinh nghiệm; thị trường tiêu thụ xa; chưa có cơ sở bảo quản chất lượng đủ tiêu chuẩn; do sự biến đổi giá; do sản phẩm kém chất lượng; do thuế xuất khẩu cao; chưa có bộ phận quản trị làm tốt công tác quản trị rủi ro. 77 Do đó, nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương là vấn đề cấp bách nhất hiện nay đối với các ngư dân, doanh nghiệp tham gia khai thác, chế biến và xuất khẩu cá ngừ đại dương. Để góp phần vào thực hiện công việc trên, chúng ta cần phải phát triển vùng nuôi cá ngừ đại dương, đầu tư trang thiết bị công nghệ hiện đại và hỗ trợ vốn cho ngư dân; chế biến, tiêu thụ sản phẩm, tăng cường công tác kiểm soát và quản lý chất lượng, đăng ký thương hiệu sản phẩm, đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và công tác xúc tiến thương mại; làm tốt công tác đào tạo để phát triển nguồn nhân lực; tổ chức dịch vụ hậu cần trên biển; thành lập bộ phận quản trị hiệu quả rủi ro trong từng khâu khai thác, chế biến và xuất khẩu. Việc thực hiện giải pháp khắc phục những rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam hiện nay là một quá trình, nó đòi hỏi phải có sự thống nhất và quyết tâm cao từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội cá ngừ Việt Nam, doanh nghiệp và ngư dân trên cả nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquan_tri_rui_ro_trong_qua_trinh_xuat_khau_ca_ngu_dai_duong_o_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan