Niên luận Khái quát đánh giá sơ lược về tình hình sáng tác, sưu tầm câu đối, đại tự đặt tại nhà Thái học, di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Giới hạn của đề tài 3 Phần một 3 Giới thiệu chung 3 1. Văn miếu – quốc tử giám 3 2. Vua lý thánh tông 5 3. Vua lý nhân tông 6 4. Vua lê thánh tông 7 5. Tư nghiệp quốc tử giám chu văn an 8 Phần hai 11 Nội dung chính 11 1. đánh giá về đại tự 11 2.đánh giá về câu đối 20 3. Tìm hiểu những câu đối-đại tự được chọn 31 4. Tổng kết 39

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1830 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Khái quát đánh giá sơ lược về tình hình sáng tác, sưu tầm câu đối, đại tự đặt tại nhà Thái học, di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm Ất Mão-1075 Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Minh kinh bác học và Nho học tam trường, tháng hai năm Đinh Tỵ-1077 tổ chức:” thi lại viên bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật”, đến tháng tám năm Bính Dần-1086 lại mở khoa thi chọn người có tài văn học trong nước để sung vào Hàn lâm viện, Mạc Hiển Tích đã đỗ đầu trong khoa thi này. Đặc biệt năm Bính Thìn-1076 Lý Nhân Tông đã cho lập Quốc Tử Giám ở kế sau Văn Miếu với mục đích làm nơi dạy học cho các Hoàng tử, Công hầu, con em quan lại và sau cho phép cả con nhà thường dân tuấn tú vào học. Đúng như Phan Huy Chú đã đánh giá Lý Nhân Tông là vị vua : “học thức cao minh, hiểu sâu đạo lý” xứng đáng là bậc đế vương tài giỏi trong lịch sử nước nhà. 4. VUA LÊ THÁNH TÔNG Vua Lê Thánh Tông sinh năm 1442 mất năm 1497, ở ngôi được 38 năm (1460-1497), là con thứ tư của vua Lê Thái Tông, tên huý là Hạo, tự là Tư Thành, đạo hiệu Thiên nam động chủ. Ngài là vị vua anh tài quyết đoán, văn vũ kiêm toàn vào bậc nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Trong 38 năm tại vị, Lê Thánh Tông đã sửa sang được nhiều việc chính trị, phát triển giáo dục, mở mang bờ cõi khiến cho đất nước đựơc văn minh thêm ra, thanh thế lẫy lừng một phương. Năm 1460, sau khi lên nắm quyền, Lê Thánh Tông đã nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong triều, kiện toàn bộ máy nhà nước tập quyền từ trung ương tới tận địa phương. Ngài bỏ chế định chia nước ra làm 5 đạo có từ thời vua Thái Tổ (Lê Lợi), phân lại thành 12 đạo. Ban bố các chiếu khuyến nông, chiếu lập đồn điền, chiếu định quan chế... nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp, mở điền địa, khai khẩn đất hoang tăng thêm tiềm lực kinh tế cho đất nước. Một trong những thành tựu nổi bật nhất của ngài về phương diện chính trị là ngài đã ban hành ra bộ luật Hồng Đức, là bộ luật được đánh giá hoàn chỉnh nhất và có nhiều điểm tiến bộ nhất trong lịch sử luật pháp phong kiến Việt Nam mà mãi cho đến ngày nay nhiều điều khoản của nó vẫn còn được xã hội hiện đại ghi nhận. Về phương diện văn hoá, Lê Thánh Tông đã tạo lập cho thời đại mình một nền văn hoá với diện mạo vô cùng rực rỡ. Ngài đã đẩy mạnh phát triển giáo dục- thi cử đến đỉnh cao nhất, kẻ sĩ được trọng vọng, người người nhà nhà nô nức đua nhau học hành. Nho giáo đựơc đề cao, chiếm vị trí chủ đạo trong tam giáo Nho-Phật-Đạo, việc thi cử được tổ chức định kỳ 3 năm một, nội dung thi lấy học thuyết Nho học làm chính. Năm 1483, Lê Thánh Tông cho trùng tu lại Văn Miếu, mở rộng quy mô Quốc Tử Giám, nhận cả con nhà thường dân tuấn tú vào học, phân Giám sinh Quốc Tủ Giám ra làm tam xá ( thượng xá, trung xá, hạ xá). Đồng thời cho xây dựng kho bí thư chứa sách, đặc biệt còn lập ra hội Tao Đàn mà ngài là chủ soái, minh oan cho Ức Trai Nguyễn Trãi và ban lệnh thu thập trong dân gian những di cảo của người. Ngài còn là người khởi xướng nên lệ dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu lấy từ khoa thi 1442 để con cháu đời sau noi theo. Cho đến tận ngày nay, những dấu ấn văn hoá trong thời đại Lê Thánh Tông vẫn còn nguyên giá trị, những bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư, Hồng Đức Quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên nam dư hạ... mãi mãi được đời sau trân trọng kính ngưỡng. Lê Thánh Tông-một vị vua kiệt xuất, một thi sĩ hào hoa, một chiến tướng hùng đảm, thật đúng như sử thần Ngô Sỹ Liên đã ca ngợi: “Là vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi rộng lớn, văn vật tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược”. 5. TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM CHU VĂN AN Chu Văn An sinh năm (?) mất năm 1370, là người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội), hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thuỵ là Văn Trinh. Đỗ Thái học sinh vào đời Trần Minh Tông (?) nhưng không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Học trò theo học rất đông, trong đó có những người sau đỗ đạt cao như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát... Truyền thuyết dân gian kể ràng trong số học trò của ông có cả con trai của Thuỷ thần(!) vì mộ danh mà đến học, vào một năm hạn hán thấy thầy xót xa cho nỗi cực khổ của người dân, đã bất chấp phép Trời hô mưa xuống cứu nạn, sau bị Trời bắt tội vong thân, trước khi tiêu vào cõi hư đã rập đầu lạy dưới chân ông: “Con không ân hận gì cả, chỉ tiếc con được học với thầy (Chu Văn An) quá ít mà thôi ! ”. Năm Khai Thái (1324-1329) đời vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được vời ra làm Tư nghiệp-là chức đứng đầu trông coi việc dạy dỗ, học tập của sĩ tử ở Quốc học viện ( Quốc Tử Giám). Tại đây ông đã đào tạo hàng trăm nhân tài cho đất nước, góp phần làm nên nền thái bình thịnh trị đương thời. Đến đời Trần Dụ Tông, triều chính bại hoại, trên thì vua quan phè phỡn, dưới thì dân tình đói khổ. Là người cương trực, thẳng thắn, thương dân Chu Văn An đã dâng Thất trảm sớ xin chém bảy tên nịnh thần để lập lại kỷ cương đất nước. Nhưng tiếc thay Trần Dụ Tông ngu muội, không nghe theo lời can gián của bậc trung thần khiến cho ông phẫn chí mà cáo quan lui về ẩn nơi thảo dã. Thất trảm sớ đã bộc lộ rõ thái độ của kẻ sĩ trí thức trước thời cuộc, nó là biểu tượng sáng chói cho bản lĩnh Chu Văn An, đáng tiếc hiện nay nó đã không còn được ghi chép lại. Theo Phan Huy Chú Chu Văn An ngoài Thất trảm sớ còn có một tập thơ chữ Hán là Tiều ẩn thi tập, một tập thơ chữ Nôm là Tiều ẩn Quốc ngữ thi tập và bộ Tứ thư thuyết ước, nhưng ngày nay chỉ tìm thấy 12 bài thơ của ông trong Toàn Việt thi lục, còn lại thì thất lạc cả. Đó quả là điều rất đáng tiếc cho nền giáo dục nước ta. Với học vấn uyên thâm, đạo cao đức cả, tải kinh chuyển đạo giáo hoá cho bao lớp kẻ sĩ, Chu Văn An xứng đáng được muôn đời sau tôn sùng như một mẫu mực cho bậc gia sư hết lòng tận tuỵ vì sự nghiệp phát triển giáo dục của đất nước. Hiện nay, danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An đã được đưa vào tôn vinh thờ tự tại tầng một-nhà Hậu đường-khu Thái Học nằm trong quần thể khu di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội. PHẦN HAI NỘI DUNG CHÍNH Nhìn một cách toàn thể, cuộc vận động lần này đã thu hút được một lượng lớn người tham dự. Hơn thế nữa, không chỉ có những chuyên gia trong nghành Hán Nôm, những bậc cựu Nho tiền bối mà đặc biệt còn có sự đóng góp của rất nhiều bạn trẻ yêu thích Hán Nôm học. Với quy mô là một cuộc vận động có tính chất chọn lọc ( bắt buộc người tham gia phải có vốn kiến thức Hán Nôm nhất định) , trong thời điểm Hán Nôm còn rất khó khăn như hiện nay mà quy tụ được hàng trăm anh tài đề danh góp mặt, điều đó tự nó đã cho thấy sự thành công về mặt tổ chức là rất lớn. Đáng nói nhất là chất lượng ở đây rất cao, những câu đối, đại tự được sưu tầm và sáng tác rất công phu, hoàn chỉnh. Những thể đối, những con chữ được dùng rất chuẩn mực và tài hoa. Chứng tỏ văn hoá Hán Nôm ngày nay không hề bị mất đi mà trái lại vẫn đang còn phát triển mạnh mẽ. Đó là sự thực không thể phủ nhận, báo hiệu cho sự khởi sắc trở lại của một nền di sản vốn đã có hàng ngìn năm lịch sử gắn bó chặt chẽ với nền văn hoá dân tộc. 1. ĐÁNH GIÁ VỀ ĐẠI TỰ Tôi đã thực sự bị ấn tượng bởi những đại tự được sáng tác, sưu tầm ra trong cuộc vận động. Về dạng thể, đây đều là đại tự bốn chữ rất được phổ biến từ trước đến nay. So với đại tự một, hai hay ba chữ cái khó của đại tự bốn chữ là phải được tổ chức một cách rõ ràng, đầy đủ về âm, ý, thể cách đặc biệt là phải tạo được tính gắn kết, biểu trưng thần tình nhất của chủ thể sở hữu. Tính quy chuẩn của nó là rất cao, yêu cầu trình độ văn hoá Hán Nôm của người sáng tác phải đến độ chín nhất định và phải có sự năng văn trong cách biểu hiện, sắp xếp đơn tự để tạo ra được sự hoà kết trong tổng thể câu. Những tưởng với các rào cản như vậy thì hiện nay những người có thể sáng tác được đại tự loại đó không nhiều, thậm chí là rất hiếm nhưng những đại tự tham gia trong cuộc vận động đã chứng minh ngược lại. Thứ nhất, về tính mẫu mực trong cấu trúc, các đại tự đều chủ yếu kết cấu theo ba kiểu: kiểu kết cấu định ngữ, kiểu kết cấu chủ vị và kiểu kết cấu động-bổ. Kết cấu định ngữ là kiểu kết cấu B + A , trong đó A là thành phần chính ( thường là danh từ), B là thành phần phụ có vai trò bổ nghĩa, làm rõ ý cho A ( thường là tính từ, động từ hoặc danh từ). Các đại tự ở cuộc vận động theo kiểu kết cấu này rất nhiều: Đại Việt quốc học Có nghĩa là Quốc học Đại Việt. Trong đó Quốc học (nền học của đất nước) là thành phần chính, đóng vai trò trung tâm ngữ, còn Đại Việt ( một niên hiệu nước ta) là một danh từ, đóng vai trò định ngữ làm rõ cho ý của Quốc học ( Quốc học của ai ?). Càn khôn anh khí Có nghĩa là Khí tinh anh của trời đất. Thì Anh khí (khí tinh anh) là danh từ làm thành phần trung tâm, còn Càn khôn (trời đất) là định ngữ cho Anh khí. Thái bình thịnh chủ Nghĩa là Vị vua hưng thịnh thời thái bình. Trung tâm ngữ ở đây là Thịnh chủ (vị vua hưng thịnh), định ngữ là tính từ Thái bình. Đường Ngu vũ trụ Dịch là (Như) trời đất thời đại Đường Ngu. Vũ trụ là trung tâm ngữ, Đường Ngu là định ngữ bổ nghĩa cho Vũ trụ. Đường Ngu là hai triều vua lý tưởng thời Thượng cổ Trung Quốc Đường Nghiêu và Ngu Thuấn. Vũ trụ theo định nghĩa trong Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là :” bốn phương và trên dưới là vũ, xưa qua nay lại là trụ=không gian và thời gian=thế giới”. Thiên Nam sư biểu Nghĩa Bậc thầy mẫu mực của trời Nam . Đại tự này thì Sư biểu (bậc thầy mẫu mực) làm thành phần chính, Thiên Nam (trời Nam) làm thành phần phụ tức định ngữ... Kết cấu chủ vị là kiểu kết cấu C+V hoặc C-V+C-V, trong đó C là chủ ngữ, V là vị ngữ. Trong cuộc vận động, đại từ dạng này cũng thường hay gặp: Hà nhạc chung anh Nghĩa Non sông chung đúc nên bậc anh tài. Đây là theo hình thức C+V, Hà nhạc (non sông) làm chủ ngữ còn Chung anh làm vị ngữ. Bích Ung đỉnh lập Nghĩa là Nhà Bích Ung dựng sừng sững. Tương tự, Bích Ung là chủ ngữ, Đỉnh lập (dựng sừng sững) là vị ngữ. Văn hùng vũ lược Dịch nghĩa Văn hùng hồn, võ tài giỏi. Ở đây câu đại tự được xác lập theo hình thức C-V+C-V, trong đó vế trước Văn hùng (văn hùng hồn) thì danh từ Văn đóng vai trò chủ ngữ, tính từ Hùng đóng vai trò vị ngữ. Còn vế sau Vũ lược (võ tài giỏi) thì Vũ là thành phần chủ ngữ, Lược là thành phần vị ngữ. Từ hai vế đã tạo ra được một kết cấu hoàn chỉnh, chặt chẽ như vậy. Văn trạch vũ quang Có nghĩa là Văn để ân trạch đến muôn dân, võ làm rạng rỡ cho đất nước. Đại tự này cũng xác lập theo hình thức C-V+C-V, ở vế trước thì Văn là chủ, Trạch (để ân trạch) là vị. Vế tiếp thì Vũ là chủ ngữ, Quang (làm rạng rỡ) làm vị ngữ. Thái Sơn cao nghật Núi Thái Sơn cao vòi vọi. Tiếp theo hình thức C+V, chủ ngữ là Thái Sơn (tên một ngọn núi trong Ngũ nhạc ở tỉnh Sơn Đông Trung Quốc, thường được ví với người có học thuật cao siêu trong thiên hạ), vị ngữ là Cao nghật nghĩa là cao vòi vọi... Kết cấu động-bổ là kiểu kết cấu Đ+B hoặc Đ-B+Đ-B, trong đó Đ theo quy ước là động từ, B là bổ ngữ. Một số đại tự lần này cũng được thiết lập theo khuyng hướng ấy: Đại triển hồng đồ Dịch là Phát triển mạnh mẽ cơ đồ. Ở đây thì theo hình thức Đ+B, Đại triển (phát triển mạnh mẽ) là thành phần động từ, Hồng đồ (cơ nghiệp lớn lao) đóng vai trò là bổ ngữ cho Đại triển. Chấn bạt anh tài Nghĩa là Cất nhắc, tiến dùng bậc anh tài. Tương tự, ở đây vẫn theo hình thức Đ+B, với Chấn bạt (cất nhắc, tiến dùng) là động từ của câu, còn Anh tài (bậc tinh anh, tài giỏi) làm bổ ngữ. Ái dân cần chính Dịch nghĩa Thương yêu dân, chăm việc nước. Đại tự này được thiết lập theo hình thức Đ-B+Đ-B. Vế thứ nhất Ái dân (thương yêu dân) thì Ái là động từ, dân là bổ ngữ. Sang vế hai Cần chính (chăm chỉ việc nước) thì Cần làm động từ, bổ ngữ cho cần là Chính. Sùng Nho mẫn chính Có nghĩa là Sùng thượng đạo Nho, chăm lo việc chính sự. Đại tự này cũng được lập theo hình thức Đ-B+Đ-B. Trong vế đầu, Sùng là động từ, Nho là bổ ngữ. Trong vế sau, động từ là Mẫn và Chính là bổ ngữ. Về Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An có câu đại tự: Tạo tựu nhân tài Câu này có nghĩa Tác thành nhân tài. Được thiết lập theo hình thức Đ+B. Tạo tựu (tác thành) làm thành phần động từ chính, Nhân tài (người tài giỏi) làm thành phần phụ bổ ngữ. Mối hoà kết giữa các từ trong các câu này là rất mẫu mực... Từ một vài khảo nghiệm trên, có thể nói những đại tự trong cuộc vận động đã đi đúng theo quy tắc truyền thống, kết cấu chặt chẽ, cân xứng cấu trúc hài hoà, hợp lý. Bước đầu cho thấy trình độ của giới học thuật Hán Nôm hiện nay về cơ bàn là rất chắc chắn, vững vàng, có chiều sâu về phương cách sử dụng, tạo lập. Đây là điều rất đáng quý trọng, ghi nhận sự kế thừa và bảo tồn cho tri thức Hán Nôm trong thời đại hiện nay. Xét sang tiêu chí thứ hai, các đại tự cần phải tạo được sự biểu trưng trong âm ý, sao cho ngôn đã tận mà ý vẫn dư, câu hết mà âm chưa hết, tức đạt tới sự dư âm vượt ra ngoài hạn chế từ ngữ. Đây là yêu cầu rất khó đặt ra cho những người làm đại tự xưa nay, thiết nghĩ nếu không có khả năng thẩm thấu, cảm âm tinh tế thì khó mà vượt qua được rào cản này. Đáng mừng thay, những kẻ sĩ thời nay (tôi xin được kính cẩn gọi họ-những con người tài hoa đã tham gia trong cuộc vận động này như vậy) đều có thừa những tố chất đó. Viết về vua Lý Thánh Tông-người có công dựng nên Văn Miếu, khởi đầu cho nền giáo dục nước nhà thì các đại tự thường để lại những dư âm trầm hùng mà chan chứa lòng tự hào : Quốc học triệu cơ ( Mở nền Quốc học) Tư văn triệu khải ( Bắt đầu nền tư văn) Văn cơ triệu tạo ( Đặt nền móng cho nền văn hiến đất nước) ...... Hoặc tạo ra dư âm cảm khái, đầy kính nghưỡng : Càn khôn anh khí ( Khí tinh anh của trời đất) Thạc đức nan danh ( Đức lớn khó nói ) Thiện ư kế thừa ( Giỏi việc kế thừa) ... Viết về vua Lý Nhân Tông anh minh đảm lược, lập Quốc Tử Giám, khai Minh Kinh khoa thì âm vọng hứng khởi, ca vang: Thái bình thịnh chủ ( Vị vua hưng thịnh thời thái bình) Khuê Bích tư lãng ( Văn chương sáng tỏ từ đây) Trác nhĩ nguy công ( Công cao vòi vọi ) ...... Hay hào sảng, tươi tắn : Hưng học nhậm hiền ( Phát triển việc học, dùng bậc hiền tài) Kiến học di mưu ( Dựng nhà học-Quốc Tử Giám, mưu tính cho đời sau) Bích Ung đỉnh lập ( Bích Ung dựng sừng sững) ...... Ca ngợi Lê Thánh Tông, một ông vua Nho giáo nhất trong thời đại phong kiến Việt Nam với đầy đủ đức, nhân, trí, dũng thì hừng lên âm hưởng chói ngời, sáng rỡ : Hoán hồ hữu văn ( Có văn rực rỡ thay) Chấn cổ hữu quang ( Rạng rỡ vượt đời xưa ) Hàm hoằng quang đại ( Bao dung, rộng rãi, sáng láng, lớn lao ) ...... Có lúc lại trầm mặc, sâu xa : Văn giáo đản phu ( Nền văn giáo đã mở mang khắp chốn) Học tháo uyên nguyên ( Việc học đạt đến uyên nguyên) Thiện chính thiện giáo ( Nền chính sự yên, nền giáo dục đẹp ) ...... Ngợi ca về Chu Văn An, vị Tư nghiệp Quốc Tử Giám triều Trần đức cao vọng trọng, bác học danh thơm, tiết tháo trung liệt, dâng Thất trảm sớ, tác Tứ thư thuyết ước thì âm hưởng các đại tự trang nghiêm, kính cẩn : Trực tiết cao phong ( Cương trực, phong cách cao cả) Văn Trinh nghạnh trực ( Văn Trinh cứng thẳng) Nghiêm sư thuỳ phạm ( Nghiêm sư, mẫu mực lư để ) ...... Hoặc thán phục, tôn sùng: Truyền kinh chính học ( Chính học được thể hiện qua việc truyền thụ kinh điền) Thượng tường Sơn Đẩu ( Thái Sơn, Bắc Đẩu nơi nhà Thái học) Cực mục viễn sơn ( Non cao vút mắt ) Chu thiên sư biểu ( Bậc thầy mẫu mực ở Chu thiên-cõi Nam ) ...... Như vậy, với việc xét riêng hai tiêu chí đó, các đại tự tham gia trong cuộc vận động đã thể hiện được sự hoàn chỉnh trong cách thể cũng như âm vọng. Tuy nhiên vẫn còn có những hạn chế cần được khắc phục như : Đại tự có ý nghĩa quá chung chung, chưa bật được rõ mục đích cụ thể. Ví dụ: Minh tâm hằng đức Có nghĩa : Lòng trong sáng, giữ lâu được đức mình. Đây là đại tự nói về đức độ của vua Lý Thánh Tông, nhưng rõ ràng, ý này có thể áp dụng cho mọi bậc minh vương cũng như hiền sĩ, chưa thể làm thành nét đặc trưng cho một nhân vật nào đó. Hoặc như câu: Văn tứ thuỳ phong Nghĩa là: Văn tứ để lại dấu ấn trong văn hoá và phong tục đất nước. Thực sự thì hầu hết những triều đại phong kiến nào cũng đều để lại dấu ấn văn hoá của mình cả, nếu dùng ý đó cho triều đại Lý Thánh Tông, e chưa tạo được sự di ấn trong tâm khảm người tiếp nhận... Có những đại tự thì qúa mông lung, ý nghĩa mờ nhạt, như : Triệu văn môn cách Nghĩa là: Mở lối văn chương. Mở lối gì ? và mở lối như thế nào? Thật là khó giải thích. Hay : Văn hiển miếu tôn Dịch nghĩa: Văn hiến rực rỡ, miếu văn tôn nghiêm. Ý nghĩa quá mờ nhạt, chưa gợi lên được công lao dựng miếu khai văn của Lý Thánh Tông... Cá biệt có trường hợp còn phạm vào sử dụng những từ vốn dĩ chỉ được dùng tôn vinh những nhân vật đặc biệt : Vạn thế sư biểu Nghĩa: Người thầy tiêu biều của muôn đời. Đây là lời tôn vinh Khổng Tử-vị Thánh Nho- từ bao đời nay. Lấy ý này để ca ngợi Chu Văn An thì vô tình phạm đến Thánh Khổng, đây là điều mà kẻ sĩ xưa nay không bao giờ chấp nhận... Ngoài ra còn có một số đại tự mắc lỗi về ngữ pháp, tự dạng... Nhưng tất cả những hạn chế đó lẽ chăng chỉ là những sai sót có tính tạm thời, không làm ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc vận động. Điều đáng nói ở đây là dù trong thời đại kinh thế thị trường, luôn phải đối mặt với những lo toan trong cuộc sống, vẫn còn có rất nhiều những trí thức mạnh dạn dành thời gian để nghiên cứu, học tập kế thừa theo nền học của ông cha. Minh chứng từ những yếu tố trên cho thấy mạch chảy của cội nguồn văn hoá không bao giờ dứt, thời đại nào cũng thế nó vẫn luôn trường tồn, được những lớp sau tiếp nối và phát triển lên đến tầm cao hơn. 2.ĐÁNH GIÁ VỀ CÂU ĐỐI Câu đối là một chỉnh thể gồm hai vế câu đối với nhau. Kẻ sĩ xưa nay vẫn thường ngâm ngợi lên để bày tỏ lòng kính phục của mình trước các anh hùng dân tộc. Trong cuộc vận động này, các câu đối được làm ra đều với khuynh hướng đó. Xét từ góc độ di tích, đền miếu câu đối được chia làm hai loại : câu đối dẫn và câu đối liễn. Câu đối dẫn là loại câu đối có vai trò dẫn dắt về khung cảnh không gian, về đối tượng thờ tự, về sự thành kính, có thể xem đây là bước dạo đầu về mặt tinh thần, tâm tưởng khi hướng đến chủ thể đón nhận. Câu đối liễn là loại câu đối đi kèm dưới (hoành phi) đại tự để tạo thành một phức thể thông tin, giới thiệu ngắn gọn và súc tích nhất cho công lao, sự nghiệp của các bậc tinh anh, kiệt xuất. Đây là loại câu đối được yêu cầu sử dụng trong cuộc vận động. Xét từ góc độ ngôn ngữ và tổ chức văn bản, so với đại tự ( thường chỉ tổ chức theo độ dài một, hai, ba hay bốn chữ ) thì câu đối được tổ chức cao hơn và dài hơn, nó không chỉ là một mệnh đề mà là câu hoàn chỉnh. Hơn thế nữa, có khi trong một vế đối lại bao gồm nhiều ý nghĩa, mỗi ý lại được biểu đạt bằng những ngôn ngữ mang sắc thái riêng, tiêu biểu cho từng mệnh đề hàm ẩn trong đó. Sự tương thích, tương hỗ hoặc tạo ra mặt đối lập so sánh về ngữ nghĩa để từ đó tạo nên sự gợi mở trong tiềm thức tiếp nhận của câu đối là rất quan trọng, không phải dễ dàng có thể lãnh hội và đạt tới. Nhưng cũng như đại tự, những câu đối trong cuộc vận động này đều rất xuất sắc, vượt lên được những đòi hỏi có tính quy phạm đó. Về mặt vần điệu, tuyệt đại đa số các câu đối đã thể hiện được tính mẫu mực truyền thống – quy luật hiệp vận với chữ cuối cùng của vế thứ nhất là vần trắc, chữ cuối cùng của vế thứ hai là vần bằng : Khai Quốc học, giáo Thi Thư, dân phong văn hiến Chiếu khuyến nông, quan canh chức, quốc vận phú cường (Mở Quốc học, dạy Thi Tư, tục dân văn hiến Xuống chiếu khuyến nông, xem cày ruộng dệt vải, vận nước mạnh giàu) Nhân quân, quan chế định, canh nông phòng thuỷ vi đệ nhất Tông đạo, Hàn lâm cử, sĩ tử thí trường thị vô song (Vua nhân từ, chế độ quan chức đủ, lo nghề nông trị thuỷ là công lao đệ nhất Theo đạo tổ tông, cử người vào Hàn lâm viện, mở trường thi sĩ tử thật không hai) Chí đức đại công, dữ càn khôn đồng kì đại Nhân chính thiện giáo, tịnh nhật nguyệt phỗi kỳ minh (Đức lớn công cao , to lớn sánh trời đất Chính trị nhân đức, giáo hoá tốt đẹp, hợp sáng với mặt trời mặt trăng ) Chí tại thế, nhuận Tứ thư, cần lao giảng đạo Tâm ư dân, điều trần Thất trảm, cương trực lưu danh (Chí ở đời, chỉnh lí Tứ thư, gắng công giảng đạo Tâm ở dân, đIều trần Thất trảm, cương trực lưu danh ) Và còn rất nhiều câu đối khác cũng đáp ứng được điều kiện này... Về mặt tổ chức, các câu đối tham gia đều có sự hoàn chỉnh cao trong bố cục ngôn ngữ : Thái Tổ kiến Thăng Long thành, mãn địa danh nhai thắng cảnh Thánh Tông khai Quốc Tử Giám, nhập triều hiền sĩ văn nhân Dịch nghĩa: Thái Tổ dựng thành Thăng Long, khắp nơi đều là thắng cảnh danh nhai – Thánh Tông mở Quốc Tử Giám, vào triều thảy là hiền sĩ văn nhân. Câu đối này bố cục phân thành hai mệnh đề so sánh thời gian ( Thời của vua Lý Thái Tổ và thời của vua Lý Thánh Tông). Tính hoàn chỉnh của nó thể hiện qua sự hỗ tương về nghĩa giữa sự tiếp nối trong hành động Kiến (dựng) và Khai (mở), Mãn (đầy khắp) và Nhập (thu vào) tạo ra được mạch chảy thời gian luân chuyển trong cả hai vế của câu đối. Như Nguyệt cổn cổn lãng hoa, dao tưởng đương niên truyền tiệp báo Quảng Nguyên sâm sâm cổ thụ, tảo kim nhật hoạch phong thu Dịch nghĩa: Sông Như Nguyệt cuồn cuộn sóng trào, nhớ lại năm xưa truyền tin thắng trận – Châu Quảng Nguyên cổ thụ sum suê, sớm biết ngày nay thu hoạch lớn. Ở đây bố cục hình thành theo không gian ( Nơi sông Như Nguyệt và nơi châu Quảng Nguyên ). Đây là hai vế câu độc lập về ý nhưng lại có sự nối kết về nghĩa, từ nơi sông nước Như Nguyệt dao vọng niềm vui thắng trận cho đến đất Quảng Nguyên tươi màu hoa lá, tất cả đều đang báo hiệu cho một niềm tin tươi đẹp vào ngày mai hưng thịnh, vững bền của đất nước. Đó là tính hoàn chỉnh được tạo ra trong tổng thể của câu đối này. Đại chấn văn phong, nghiệp mậu trung hưng tiêu vĩ tích Quảng phu vũ đức, tư cao thượng thánh ngưỡng hồng hi Có nghĩa là: Đại chấn văn phong, nghiệp thịnh trung hưng, tỏ công lao vĩ đại – rộng mở vũ đức, tư chất cao siêu vào bậc thượng thánh, ngưỡng trông ơn to lớn. Rõ ràng ở câu này bố cục hình thành theo sự ngẫu đối, trên dưới chia thành từng cặp hô ứng nhau. Trên Văn thì dưới Vũ, trên Vĩ thì dưới Hồng, Đại chấn (phấn phát lớn) ứng với Quảng phu (mở rộng ra), Tư cao (tư chất cao siêu) ứng với Nghiệp mậu (công nghiệp tốt thịnh). Từ đó tạo ra được tính hoà phối trong từng câu chữ , thể hiện sự hoàn chỉnh trong cấu tứ cũng như trong tổ chức câu. Vi ngọc luật vi kim khoa hi thánh hi hiền tiêu cổ học Ư giang hồ ư lang miếu ưu dân ưu quốc vị thì nhàn Nghĩa là: Làm thước ngọc, khuôn vàng , nêu cổ học hầu mong cho sĩ tử noi theo bậc thánh hiền – dù ở chốn giang hồ hay nơi lang miếu triều đình, chưa lúc nào không lo nỗi dân nỗi nước.Ở câu đối này ta thấy được sự dẫn dắt về ý giữa hai vế đối, đó không phải là sự đối lập, so sánh mà là sự bổ trợ về mặt ý nghĩa. Vế thứ nhất là sự biểu đạt cho tâm đức cao khiết của Chu Văn An, còn vế thứ hai lại là biểu hiện chí định trung trinh của người về dân về nước. Kết nối lại ta được một chỉnh thể con người Chu Văn An hoàn chỉnh nhất, ý chỉnh thì câu liền, đó chính là sự tổ chức câu một cách hoàn hảo... Qua một số nhận diện trên tôi xin được khẳng định lại một lần nữa, những người sáng tác câu đối trong cuộc vận động đã có sự tinh tế về phương cách tổ chức, xử lý, không chỉ vận dụng một mà bằng nhiều lối phép khác nhau, từ đó đã tạo nên được tính đa dạng về hình thức và loại câu.Họ đã góp phần vào sự thành công chung của cuộc vận động, tạo đà cho những chuyển biến tích cực trong cách nhìn nhận, sáng tác câu đối-đại tự trong những cuộc thi có thể sẽ được tổ chức với quy mô rộng lớn hơn về sau. Đặc biệt có một đặc điểm rất đáng lưu tâm trong cuộc vận động lần này là các câu đối đã tích cực khai thác những lời hay ý đẹp rút ra từ các kinh sách thánh hiền hoặc những chú lược của những bậc danh sĩ xưa để làm tôn lên giá trị biểu đạt. Điều đó cho thấy kẻ sĩ ngày nay không những giỏi về sử dụng luật phạm cổ mà còn tự mình trang bị được một nền tảng kinh điển cổ học vững chắc và biết cách ứng dụng nó một cách đầy sáng tạo. Thánh đạo chiêu hồi, bính đoán Khuê quang, nguyên khí thịnh Đế đồ củng cố, đãng bình hoàng cực, ý văn huy Dịch là: Đạo thánh-(đạo Nho)- sáng ngời, rực rỡ ánh sao Khuê, nguyên khí thịnh – Cơ đồ vua bền vững, khuôn phép đế vương phẳng bằng lồng lộng, toả rạng ý văn. Đây là câu đối có sử dụng rất nhiều chữ khó, có xuất xứ rộng. Thánh đạo chiêu hồi là bốn chữ được rút ra từ một đôi câu đối đã có từ trước ở khu di tích Văn Miếu: Thần công trác quán cổ kim, thiên địa do vi tiểu – Thánh đạo chiêu hồi vũ trụ, nhật nguyệt bất khả du ( Công thần cao vọi đứng đầu xưa nay, trời đát còn là nhỏ - đạo thánh sáng ngời trong vũ trụ, mặt trời mặt trăng cũng không thể hơn ). Nguyên khí thịnh là chữ lấy trong bài văn bia tiến sĩ nổi tiếng Đại Bảo tam niên Nhâm Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (Bài kí đề danh tiến sĩ khoa thi Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo năm thứ ba-1442) do Thân Nhân Trung soạn. Trong bài kí có câu: ...Hiền tài quốc gia chi nguyên khí. Nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long, nguyên khí nỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô. Thị dĩ thánh đế minh vương mạc bất dĩ dục tài thủ sĩ, bồi thực nguyên khí vi tiên vụ dã - Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng, nguyên khí kém thì thế nước nhược mà suy. Cho nên các bậc thánh đế minh vương không ai không coi việc nuôi dưỡng hiền tài chọn dùng kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc hàng đầu. Như vậy dùng ba chữ Nguyên khí thịnh ở đây nhằm chỉ hiền tài đông đúc và thế nước vững mạnh. Đãng bình hoàng cực là chữ lấy trong Kinh Thi, thiên Hồng phạm. Chữ Hồng phạm có nghĩa là khuôn phép lớn của đế vương trị nước, gồm có cửu trù(chín trù), trong đó Hoàng cực là trù quan trọng nhất, “Hoàng kiến kì hữu cực” người làm vua phải dựng nên khuôn phép chí trung chí cực cho thiên hạ noi theo. Đãng bình là chữ dùng để miêu tả những phẩm chất của Hoàng cực: Vô thiên vô đảng, vương đạo đãng đãng; vô đảng vô thiên, vương đạo bình bình – Không sai lệch không bè đảng, khuôn phép ấy lồng lộng; không bè đảng không sai lệch, khuôn phép ấy phẳng bằng. Bốn chữ Đãng bình hoàng cực là để ca ngợi chế độ vững bền thịnh vượng, đạo vua xác lập rõ ràng. Ý văn là chữ có trong Kinh Dịch, quẻ Tiểu Súc, Tượng truyện: Phong hành thiên thượng, Tiểu súc, quân tử dĩ ý văn đức – Gió đi trên trời lả quẻ Tiểu súc, quan tử theo đó mà làm tốt đẹp cho ý văn đức. Hay trong bài chiếu ngự chế truy phong cho Chu Công tước Văn Hiến Vương của Tống Chân Tông có câu: Sáng lễ nhạc chi ý văn, phối nhật nguyệt chi cửu chiếu – sáng chế ra ý văn lễ nhạc, sánh với mặt trăng mặt trời toả chiếu dài lâu. Chỉ với một câu đối hai mươi hai chữ đó mà có đến mười lăm chữ là từ trích ở các sách vở xưa thì thật là đáng ngưỡng vọng. Đoan bản trừng nguyên, thanh tiết nghiêm chương uy lẫm lẫm Truyền kinh chính học, phương hình kiều nhạc vọng nham nham Nghĩa là: Chính gốc trong nguồn, tiết tháo thanh cao, tấu chương nghiêm khắc, khí tượng oai nghiêm đáng sợ – truyền dạy kinh điển, chính sự học, khuôn phép tốt, danh vọng như núi cao vòi vọi. Với câu đối này từ ngữ tuy không thật khó nhưng đều rất huyền diệu sâu sắc do lấy ý trong những thư tịch cổ. Đoan bản trừng nguyên, đây là ý lấy ra từ việc Đại việt sử ký toàn thư có chép chuyện Chu Văn An dâng sớ Thất trảm xin chém bảy tên nịnh thần bên cạnh nhà vua để ổn định kỷ cương phép nước. Hàm ý phải làm trong sạch từ gốc rễ, phải xử lí từ nơi căn bản. Thanh tiết là chữ mượn trong bài vịnh Chu Văn An ở Thoát Hiên vịnh sử thi tập của Đặng Minh Khiêm: Thanh tu khổ tiết cao thiên cổ – Tu dưỡng thanh khiết, bền giữ tiết tháo cao vọi nghìn xưa. Uy lẫm lẫm là chữ lấy ý trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, trong đó có đoạn nhận xét về Chu Văn An: “ ...Về tư cách làm thầy của tiên sinh-chỉ Chu Văn An-rất long trọng mà thái độ cứng cỏi, nghiêm trang. Ngay như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đã làm chức Hành khiển cũng phải giữ lễ học trò, khi tới thăm hỏi còn lạy dưới giường, được cùng thầy nói chuyện thì rất vui mừng. Nếu học trò có điều không phải , ông trách mắng liền, có khi thét quở không cho vào, nghiêm nghị đáng sợ (uy lẫm lẫm) là như thế...”. Truyền kinh chính học thì truyền kinh chỉ việc Chu Văn An soạn bộ Tứ Thư thuyết ước dạy học trò được Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại. Chính học là lấy ý từ bài thơ Hạ Tiều ẩn Chu tiên sinh bái Quốc Tử Giám Tư nghiệp của Trần Nguyên Đán: Học hải hồi lan tục tái thuần – Thượng tường Sơn Đẩu đắc tư nhân ( Bể học xoay lại sóng, phong tục lại trở về thuần hậu - Được người thầy như Thái sơn Bắc đẩu, nơi nhà học thế này đến dạy ). Ở đây chữ Học hải hồi lan (bể học xoay lại sóng) có ý nói chấn chỉnh cái đạo học đã suy đồi, tức là chính đạo học vậy. Kiều nhạc tức là núi cao, chỉ danh vọng lớn, vốn xuất phát từ Kinh Thi: Cao sơn ngưỡng chi – ngửa trông núi cao, ý nói ngưỡng mộ bậc có danh vọng, đạo đức lớn. Trong trường hợp này là để chỉ Chu Văn An. Vọng nham nham cũng là chữ dùng của Đặng Minh Khiêm ở Thoát hiên vịnh sử thi tập: Thất trảm chương thành tiện quải quan Chí Linh chung lão hữu dư nhàn Thanh tu khổ tiết cao thiên cổ Sĩ vọng nham nham ngưỡng Thái sơn ( Dịch nghĩa: Sớ thất trảm viết xong liền treo mũ từ quan Trọn tuổi già ở Chí Linh, nhàn hạ biết bao Tu dưỡng thanh khiết, giữ tiết tháo khắc khổ cao vọi nghìn xưa Kẻ sĩ ngửa trông núi Thái sơn cao chót vót. ) Với những vận dụng về ý nghĩa như thế câu đối đã thể hiện được sự ca ngợi Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An một cách sâu thâm, vi diệu. Văn tại tư hồ, nội cử ngoại dương, hải vũ thiếp nhiên, văn ích xiển Đạo tòng thử hỉ, học sùng chế định, cung tường ngật nhĩ, đạo di cao Dịch nghĩa: Văn ở đây chăng, bên trong thi hành văn trị, bên ngoàI biểu dương võ uy, bờ cõi lặng yên, văn thêm rộng mở - Đạo từ đây vậy, đạo học được tôn sùng, chế độ được định rõ, cung tường cao vòi vọi , đạo càng cao. Đây cũng là câu đối chứa đầy điển tích. Văn tại tư hồ là chữ được rút ra trong sách Luận ngũ, thiên Tử Hãn, chương năm: Văn Vương kí một, văn bất tại tư hồ? – Văn Vương nhà Chu đã mất, văn chẳng ở đây chăng? Và theo chú thích của Chu tử thì đạo hiển hiện gọi là “văn”, như là lễ nhạc hay chế độ. Có lẽ ở đây, chữ “văn” có dụng ý chỉ nền Nho học. Nội cử ngoại dương là chữ lấy trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên khi bàn về vua Lý Thánh Tông: ...Sùng đạo học, minh chế độ, văn sự xâm xâm hồ nội cử hĩ. Nam bình Chiêm, bắc phạt Tống, vũ uy hách hách hồ ngoại dương hĩ... – Tôn sùng đạo học, định rõ chế độ, văn sự thi hành mau chóng bên trong. Phía nam bình giặc Chiêm, phía bắc đánh quân Tống, uy vũ biểu dương hiển hách bên ngoài. Bốn chữ này ý nói lên công lao của nhà vua đối việc trong và ngoài nước thảy đều to lớn, hiển hách. Hải vũ thiếp nhiên cũng là những chữ lấy ý trong Đại Việt sử ký toàn thư : “ Hải nội mật ninh”, đều có nghĩa là bờ cõi lặng yên. Học sùng chế định là chữ dùng của Ngô Sĩ Liên : Sùng đạo học, minh chế độ – Tôn sùng đạo học, định rõ chế độ. Cung tường ngật nhĩ thì Cung tường là chữ trong sách Luận ngữ, thiên Tử Trương, chương hai mươi ba, đoạn Tử Cống ca tụng đức của Khổng Tử : Phu tử chi tường sổ nhận, bất đắc kì môn nhi nhập, bất kiến tông miếu chi mĩ, bách quan chi phú... – Ví như tường cung, tường của phu tử cao mấy nhận, nếu không được cửa mà vào thì không thấy được vẻ đẹp của tông miếu, vẻ thịnh của trăm quan. Chữ Cung tường về sau thường dùng để chỉ nhà Văn miếu, nơi thờ tự Khổng Tử, nhà Thái Học, trương hợp trong câu đối này là để chỉ Lý Thánh Tông cho xây Văn Miếu, bắt đầu tôn sùng đạo học Nho giáo. Đạo di cao cũng là chữ lấy trong Luận ngữ, thiên Tử Hãn, chương mười một, Nhan Uyên nói về Khổng Tử là : Ngưỡng chi di cao, toản chi di kiên – Càng trông lên càng cao, càng khoan vào càng cứng. Ở đây dùng với hàm ý chỉ văn giáo Nho học ngày càng được đề cao, phát triển. Khuyến dĩ cửu ca, huyền đức thăng văn, duy thiện chính Cầu ư lí học, thánh mô hoằng áo, thực hiền quân Nghĩa : Khuyên lấy lời ca, đức thầm danh cao, tiến hành nề chính trị tốt lành – Tìm ở lí học Nho giáo, kế sâu mưu rộng của bậc thánh, thực đáng là vua hiền. Trong câu đối này Khuyến dĩ cửu ca là chữ trong Kinh Thư, Đại Vũ Mô : Cửu công duy tự, cửu tự duy ca, giới chi dụng hưu, đồng chi dụng uy, khuyến dĩ cửu ca, tỉ vật hoại – Chín công đã tu hoà, dân gian yên vui ca hát, ai chăm chỉ thì ngợi khen, ai lười biếng thì quở trách, lại theo lời vịnh ca mà hợp với âm âm nhạc để khuyến khích thành công, không huỷ hoại mà được lâu dài. Huyền đức thăng văn vốn chữ ở Kinh Thư, Thuấn điển : Huyền đức thăng văn, nãi mệnh dĩ vị - Đức thầm tấu lên mà nghe thấy, bèn nhường ngôi cho. Tương tự như vậy, Duy thiện chính cũng có xuất phát từ Kinh Thư, Đại Vũ mô : Đức duy thiện chính, chính tại dưỡng dân – Có đức trạch nên cần có chính sự hay, chính sự hay cốt ở nuôi dân no ấm. Sử dụng từ ngữ của Kinh Thư đã khiến cho câu đối có được sự trang trọng, thanh nhã trong cách chuyển tải nội dung, ý nghĩa tự nhiên mà không hề mất đi tính quy phạm vốn có... Tuy vậy cũng còn có một số hạn chế nhất định trong việc sáng tác câu đối lần này. Một số câu đối quá chú trọng vào chơi chữ, câu cú khiến cho người xem khó hiểu như : Bảo chi, hựu chi, thân chi, trọng chi, hoàng ân chí hĩ Cao dã, hậu dã, du dã, cửu dã, nho đạo đại tai Tạm dịch là : Giữ gìn, vừa giúp, tỏ bày, trân trọng, Hoàng ân hết mức – Cao quý, trọng hậu, lâu bền, mãi mãi, Nho đạo lớn thay. Sự không liền mạch trong ý câu đã tạo ra sự rối nghĩa không cần thiết ! Hay như câu : Đế đức trùng hoa, thừa Vũ liệt, hiển Văn mô, thái bàn quốc tộ Hoàng du phi xiển, chấn Đường khoa, quang Tống bảng, Trâu Lỗ nho phong Nghĩa là : Đức vua sáng ngời, công nghiệp như Vũ Vương kế thừa, mưu kế như Văn Vương sáng tỏ, vận nước như Thái sơn, Bàn thạch - Đạo vua rộng mở, khoa cử chấn hưng vượt đời Đường, giáp bảng rạng hơn đời Tống, nho phong như nước Lỗ , nước Trâu. Câu qua dài và quá nhiều điển cố, hơn nữa sự so sánh với những nét thuộc về văn hoá Trung Hoa như vậy phần nào làm giảm đi tính dân tộc mà chúng ta đang cần hướng tới không chỉ trong cuộc vận động này mà còn trong cả thời đại hiện nay. Ngoài ra còn một số trường hợp gượng ép trong ý đối, ví dụ : Khoa giáp trùng hưng, Tiến sĩ dang bi truyền hậu bối Văn chương thế thịnh, Tao đàn kiệt tác tụng tiền nhân Dịch: Khoa giáp chấn hưng, bia Tiến sĩ còn truyền lại cho thế hệ sau – Văn chương đời thịnh, kiệt tác Tao đàn ngợi ca người trước. Rõ ràng giữa hai vế câu đã có sự sượng sùng, vế sau không tạo được sự thoát ý cần có như trong vế một. ...... Tuy vậy, so với toàn thể những mặt nổi trội khác thì đây chỉ là một thiểu số không đáng kể, không ảnh hưởng đến chất lượng sáng tác câu đối nói riêng và chất lượng của cuộc vận động nói chung. Trên đây là một số đánh giá sơ bộ về những câu đối tham gia trong cuộc vận động này, qua đó một lần nữa cho thấy trình độ sáng tác câu đối hiện nay đã có được những bước tiến đáng kể cả về chất và lượng. Đội ngũ những người biết và có thể sáng tác câu đối không hề thiếu, đồng thời nó cũng cho thấy sự cách biệt về trình độ sử dụng vốn tri thức Hán Nôm ngày nay so với trước kia là không lớn, có thể có sự thiếu hụt về số lượng người hiểu biết nhưng điều đó hoàn toàn có thể khắc phục được nếu có những chính sách khuyến khích, cơ chế đào tạo và tổ chức một cách hợp lý. 3. TÌM HIỂU NHỮNG CÂU ĐỐI-ĐẠI TỰ ĐƯỢC CHỌN 3.1. VỀ VUA LÝ THÁNH TÔNG Vượt qua nhiều câu đại tự, câu đối khác, ban tổ chức đã chọn được một đại tự và một câu đối xuất sắc nhất để đưa vào tôn vinh vua Lý Thánh Tông, đó là : Đại tự: Quốc học triệu cơ Dịch nghĩa: Mở nền quốc học Câu đối: Kiến miếu tôn hiền, biểu suất hiếu trung đại đạo Trí khoa thủ sĩ, thực bồi lương đống chân Nho Dịch nghĩa: Dựng văn miếu, tôn hiền, biểu dương đạo lớn hiếu trung Đặt khoa thi, chọn kẻ sĩ, vun trồng bồi dưỡng bậc chân Nho làm rường cột quốc gia Về đại tự, đây là một đại tự xác lập, cấu trúc theo kiểu kết cấu định ngữ, với Triệu cơ (mở nền) là trung tâm ngữ, Quốc học là định ngữ. Chữ Triệu cơ được lấy từ Kinh Thư, thiên Vũ thành: “Thái vương triệu cơ vương tích” ( Thái vương mở nền vương nghiệp). Nội dung thể hiện công lao của vua Lý Thánh Tông trong việc xây dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử, Chu Công, Tú phối và Thất thập nhị hiền, đưa Hoàng thái tử đến đây học và mở khoa thi Bác sĩ đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Những việc làm trên của Lý Thánh Tông đã đặt nền móng cho việc xác lập vai trò của học thuyết Nho giáo. Đặc biệt việc đưa người kế vị đến học ở Văn Miếu đã xác lập vai trò nhà trường của nó. Điều đó cho thấy sự hình thành trong mạch tư tưởng và tổ chức của Lý Thánh Tông đối với việc phái huy Nho giáo. Như vậy về ngữ nghĩa, đại tự này đã ánh được đầy đủ cả hai ý nghĩa: mở nền học thuật quốc gia với vai trò của Nho giáo, và nhà học quốc gia với việc Hoàng thái tử đến đây học tập. Tự nó đã cho thấy nét riêng biệt trong nền văn hoá Việt nam ( vừa là nơi tôn vinh các vị thánh Nho vùa là nơi đào tạo kẻ sĩ ). Về câu đối, đây cũng là một câu đối xác lập, ở vế một Kiến miếu tôn hiền là đề cập đến việc năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn miếu, tôn thờ Khổng tử cùng các bậc hiền Nho khác. Biểu suất tức là nêu mẫu mực để người noi theo. Hiếu trung đại đạo gồm “Hiếu” và “Trung” là hai nội dung trọng tâm của Nho giáo được triều Lý quan tâm đề cao. Trong các buổi lễ ăn thề đầu xuân, triều đình lấy “hiếu trung” làm lời thề thiêng liêng nhất, trong bài Minh chủ Đồng cổ sơn thần truyện có ghi: “Mỗi niên chí tứ nguyệt sơ tứ nhật, bách quan minh thệ. Viết : phàm vi thần bất trung giả, thần nãi cức chi...” nghĩa là: Mỗi năm đến ngày mồng bốn tháng tư, trăm quan cùng thề, rằng: phàm kẻ làm tôi mà bất trung thần liền tru dệt kẻ đó. Ở vế hai, Trí khoa thủ sĩ nói về khoa thi Bác sĩ dưới triều Lý Thánh Tông đã được Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại: “ Đế thiện ư kế thừa...trí Bác sĩ khoa, hậu lễ dưỡng liêm, văn tu vũ bị...”. Như vậy một lần nữa xin khẳng định lại ý kiến của PGS.TS Nguyễn Văn Thịnh là hoàn toàn xác đáng khi cho rằng chính khoa thi Bác sĩ dưới triều Lý Thánh Tông mới là khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử nước nhà, chứ không phải khoa thi Minh kinh bác học đời Lý Nhân Tông như giới nghiên cứu trước nay thường nhận định. Câu đối đã cho ta thấy được công lao to lớn của vua Lý Thánh Tông trong việc lập nên Văn miếu, mở ra khoa thi Bác sĩ, tạo bước phát triển mới cho nền quốc học Việt Nam. 3.2.VỀ VUA LÝ NHÂN TÔNG Ca ngợi về Lý Nhân Tông, ban tổ chức đã chọn ra đại tự và câu đối như sau: Đại tự : Hưng học nhậm hiền Dịch là: Phát triển việc học, dùng người hiền tài Câu đối : Dục anh tài nhi sử năng, Quốc Tử Giám cao huyền mô khải Dưỡng minh triết dĩ kế trị, Thăng Long kinh trường tụ tinh hoa Dịch nghĩa : Đào tạo anh tài và sử dụng hiền năng, Quốc Tử Giám treo cao khuôn mẫu Tu dưỡng minh triết để nối tiếp việc tri nước, kinh đô Thăng Long mãi mãi hội tụ tinh hoa. Về đại tự, đây là đại tự xác lập, cấu trúc theo kiểu kết cấu động-bổ, với Hưng và Nhậm là hai động từ chính, Học và Hiền là hai danh từ làm bổ ngữ. Trong đại tự này, từ “Học” có hai nghĩa: việc học và nhà học. Vua Lý Nhân Tông thành lập Quốc Tử Giám để tiếp tục chấn hưng sự học và mở mang nhà học. Đồng thời còn cho mở khoa thi Minh kinh bác học. Đó là công lao phát triển sự học và khoa cử để cầu hiền tài của nhà vua. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng khen Lý Nhân Tông : “Nạp gián cầu hiền” tức là tiếp thu lời can gián, cầu lấy kẻ hiền năng. Nhậm hiền là chữ lấy trong Kinh Thư, thiên Đại Vũ mô : “Nhậm hiền vật nhị” có nghĩa dùng người hiền chớ có hai lòng. Như vậy, đại tự này xét từ những việc làm đó của vua Lý Nhân Tông mà tôn vinh về hai mặt hưng học và nhậm hiền. Đó là những lời tôn vinh rất xứng đáng. Về câu đối: câu đối này đã nói lên được công lao cụ thể của Lý Nhân Tông trong việc xây dựng Quốc Tử Giám-trường đào tạo Nho học cấp cao của nước ta, và còn giới thiệu được nhiệm vụ của nó là bồi dưỡng nhân tài. Đặc biệt, chính bàn thân Lý Nhân Tông khi còn là Hoàng thái tử đã được vua cha-Lý Thánh Tông đưa đến đây học để tu dưỡng minh triết. Thế cho nên, Đại Việt sử ký toàn thư đã ca ngợi Lý Nhân Tông là “Minh triết nhân hiếu”. Về từ ngữ, câu đối sử dụng nhiều từ ngữ xuất xứ trong cổ thư và kinh điển, tạo nên nét cổ kính. Cuối mỗi vế câu có nói đến Quốc Tử Giám và Thăng Long kinh tạo nét riêng cho câu đối và sự gắn bó của Lý Nhân tông với khu di tích Văn miếu-Quốc Tử Giám hiện nay. Ba chữ Dục anh tài vốn xuất xứ từ sách Mạnh Tử: “Đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi” nghĩa là có được anh tài trong thiên hạ mà giáo dục họ, là câu mà khi đề cập về giáo dục xưa nay hay nhắc đến. Chữ Sử năng lấy trong Tả truyện, Văn Công lục niên có đoạn: “Sử năng, quốc chi lợi dã” – dùng người tài năng là cái lợi của đất nước. Câu đối thật ý nghĩa, thể hiện được tư tưởng của Lý Nhân Tông một cách trọn vẹn nhất. 3.3.VỀ VUA LÊ THÁNH TÔNG Đại tự : Văn giáo đản phu Dịch nghĩa: Nền văn giáo mở mang rộng khắp Câu đối: Khoa giáp trùng hưng, lai tuấn môn khai long thánh trị Nhân tài bối xuất, đề danh bi lập chấn tư văn Nghĩa là : Khoa giáp chấn hưng, cửa đón anh tài mở rộng, thịnh nền thánh trị Nhân tài liên tiếp xuất hiện, bia đề tiến sĩ được dựng, chấn khởi nền tư văn. Về đại tự được sưu tầm từ văn bia Thánh Tông Chiêu lăng bi minh của Thân Nhân Trung, trong đó có câu : Văn giáo đản phu (Văn giáo mở mang rộng khắp) Đây là đại tự có kết cấu theo kiểu cấu trúc chủ vị, trong đó Văn giáo đóng vai trò là chủ ngữ, Đản phu là cụm động từ làm vị ngữ. Chữ Văn giáo là chữ dùng ở Kinh Thư, thiên Vũ Cống : “Tam bách lý quỹ văn giáo, nhị bách lý phấn vũ vệ” – trong ba trăm dặm gần, truyền bá văn chương, giáo hoá; trong hai trăm dặm gần, tiến hành chỉnh đốn võ nghệ. “Văn giáo” ở đây có nghĩa là văn trị, giáo hoá, trong đó “văn” bao gồm văn chương, lễ nhạc, pháp độ, đó đều là những tư tưởng của Nho gia. Đản phu cũng là chữ dùng ở Kinh Thư, thiên Đại Vũ mô: “Đế nãi đản phu văn đức” - Đế bèn mở rộng văn đức. Văn bia Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký của Đào Cử, đoạn ca ngợi vua Lê Thánh Tông cũng có câu: “dương dương hồ văn giáo chi đản phu” nghĩa là mênh mông thay văn giáo mở mang rộng khắp. Đó quả thực là những lời hay nhất dành để ca ngợi cho sự nghiệp văn trị rực rỡ của triều đại Lê Thánh Tông. Về câu đối, đây là câu đối có sử dụng nhiều từ phạm cổ. Lai tuấn môn khai là chữ lấy ý trong Kinh Thư, thiên Thuấn điển: “Tích tứ môn” nghĩa là mở rộng bốn cửa. Sau này trong Thư tập truyện, Sái Thẩm-người đời Tống chú : “Khai tứ phương chi môn dĩ lai thiên hạ chi hiền tuấn” tức là mở cửa bốn phương để chiêu vời tiếp đón những người hiền tuấn trong thiên hạ. Về sau điển này thường dùng để chỉ nhà vua rộng cầu người hiền tài. Ở trong vế đối này là để chỉ việc Lê Thánh Tông chấn hưng khoa cử, định chế khoa thi Tiến sĩ, rộng cầu kẻ hiền tài. Thánh trị là nền trị của bậc thánh nhân hoặc nền trị theo đường lối của thánh nhân. Đây ý chỉ nền chính trị theo Nho giáo của Lê Thánh Tông. Nhân tài bối xuất là chữ lấy ở bài văn bia Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh bi kí của Đào Cử : “Nhân tài bối xuất, tể tể bân bân” nghĩa là nhân tài liên tiếp xuất hiện, đông đúc dập dìu. Bài văn bia Hồng Thuận tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ đề danh kí do Lê Tung soạn cũng có câu : “Chân Nho bối xuất” . Đề danh bi lập là ý nói về việc năm Hồng Đức thứ mười lăm (1484) Lê Thánh Tông bắt đầu cho lập bia đề danh Tiến sĩ. Tư văn là chữ lấy trong sách Luận ngữ, thiên Tử Hãn, chương thứ năm viết: “Văn Vương kí một, văn tại bất tư hồ? Thiên chi tương táng tư văn dã, hậu tử giả bất đắc dự ư tư văn dã. Thiên chi vị táng tư văn dã, Khuông nhân kì như dư hà?” – Khổng Tử bị vây khốn ở đất Khuông, nói : Văn Vương đã mất, nền “văn” không ở đây sao? Trời muốn làm mất nền văn ấy, thì ta là kẻ chết sau đã được dự vào nền văn ấy. Nếu trời chưa chưa muốn làm mất nền văn ấy thì người nước Khuông làm gì được ta. “Tư văn” tức là chỉ lễ nhạc điển chế do Văn Vương, Chu Công định ra mà Khổng Tử muốn khôi phục lại trong thời Xuân Thu-Chiến Quốc. Chữ Tư văn dùng trong câu đối này với ý chỉ Nho giáo. 3.4. VỀ TƯ NGHIỆP QUỐC TỬ GIÁM CHU VĂN AN Nhiều câu đối, đại tự ca ngợi về Chu Văn An rất sâu sắc, ý nghĩa nhưng đây là đại tự và câu đối xuất sắc nhất được chọn ra : Đại tự : Truyền kinh chính học Dịch là : Chính học thể hiện qua việc truyền thụ kinh điển Câu đối : Bác ư sử, cùng ư kinh, thánh đạo uyên nguyên khai hậu học Hành dĩ lễ, tàng dĩ nghĩa, hiền nhân phong tiết thiệu tiên nho Dịch nghĩa: Hiểu rộng về sử, thấu triệt về kinh, đem uyên nguyên đạo thánh mở mang cho hậu học Ra làm quan theo lễ, lui về ẩn theo nghĩa, có phong độ tiết tháo người hiền nối tiếp các bậc tiên nho Về đại tự, đây là đại tự được sưu tầm từ câu đối ở quê hương Chu Văn An, trong đó có vế viết : Truyền kinh chính học, thị Nam quốc Khảo Đình tiên sinh Nghĩa là : Chính học thể hiện qua truyền thụ kinh điển, ông chính là Khảo Đình tiên sinh của nước Nam. ở đây Khảo Đình tiên sinh chính là Chu Hi – một bậc đại Nho thời Tống, người đã soạn ra Tứ Thư tập chú, được ví là bậc tập đại thành thứ hai sau Thánh Khổng. Chu Văn An là bậc sư Nho của nước ta, được sử sách ca ngợi là Nho tông của nước Việt. Tương truyền ông có soạn Tứ Thư thuyết ước được xem là tác phẩm kinh học sớm nhất của Việt Nam, đáng tiếc đến nay đã bị thất lạc mất. Như vậy chữ Truyền kinh là chỉ việc Chu Văn An soạn ra Tứ Thư thuyết ước để truyền dạy học trò. Còn Chính học tức là Nho học, đây là từ dùng để so sánh Nho học với những loại tà học khác ( Đạo học, Pháp học...). Câu đai tự đã tóm lược được một cách thần tình công nghiệp cao cả của Chu Văn An. Về câu đối, ý Bác ư sử, cùng ư kinh là lấy ý từ bài Hạ Tiều ẩn Chu tiên sinh bái Quốc Tử Giám Tư nghiệp của Trần Nguyên Đán : Cùng kinh bác sử công phu đại Kính lão sùng Nho chính hoá tân ( Thấu triệt kinh, rộng về sử, công phu lớn Kính lão tôn Nho, chính trị giáo hoá mới mẻ ) Hành dĩ lễ, tàng dĩ nghĩa là ý có xuất xứ từ bàI văn khắc trên cột đèn ở đền thờ Chu Văn An tại xã Thanh Liệt, Hà Nội do Bùi Huy Bích đề ra, trong đó có câu: “Tiến dĩ lễ, thoái dĩ nghĩa” tức là ra làm quan theo lễ, về ở ẩn theo nghĩa. Hành, tàng; xuất, xử; tiến, thoái là hai con đường của Nho sĩ xưa. Khi nước trị thì “hành”, tức ra làm quan giúp đời, còn khi nước loạn thì “tàng”, tức lui về ẩn dật chốn thôn dã để giữ lấy cái thanh sạch của bản thân. Đối với Chu Văn An thì dù “hành” hay “tàng” đều theo lễ nghĩa, đều giữ được phẩm giá trong sạch của mình. Câu đối này đã nói lên được một cách tổng hợp về con người Chu Văn An. Là bậc sư Nho danh tiếng, được nhà vua tin dùng giao chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám trông nom việc dạy dỗ đào tạo ra những nhân tài giúp ích cho đất nước. Đồng thời nó cũng xác định lên tài năng của người thầy mẫu mực Chu Văn An về mặt tri thức cũng như mặt đạo đức ứng xử. Ở Chu Văn An luôn thể hiện được phong thái, khí tiết của bậc hiền nhân quân tử, bậc Nho sư thuỳ phạm đáng để cho muôn đời sau tôn sùng kính ngưỡng, đó là sự thành công trong tư tưởng của câu đối. 4. TỔNG KẾT Qua toàn bộ những nhận định và đánh giá trên đã cho ta thấy được những mặt thành công cũng như hạn chế trong tình hình sáng tác, sưu tầm câu đối trong cuộc vận động này mà rộng hơn nữa là trong thời điểm hiện nay. Trước hết, về thành công, cuộc vận động đã để lại ấn tượng tốt đẹp cho tất cả những ai quan tâm đến sự phát triển của nền văn hoá Hán Nôm nước nhà trong thời đại mới. Minh chứng từ trong cuộc vận động đã cho thấy học thuật Hán Nôm của nước ta đã có sự khởi sắc đáng kể trong vài thập niên trở lại đây, không những chỉ có những lớp người thuộc thế hệ xưa mà đã có một bộ phận không nhỏ tầng lớp trí thức trẻ hiện nay đang ra sức kế thừa và tiếp nhận nền di sản văn hoá quý báu đó của dân tộc. Một lần nữa tự nó đã chứng minh rằng dòng chảy của cội nguồn văn hoá ấy là không bao giờ cạn, nó sẽ mãi mãi hoà vào bể lớn của văn hoá dân tộc với những nét độc đáo và đặc sắc riêng. Cuộc vận động lần này sẽ là bước khởi đầu khơi tiếp cho dòng chảy đó qua bao năm bị chững lại. Những đại tự, những câu đối được sáng tác và sưu tầm ra trong cuộc vận động đã đạt tới trình độ cao về chất lượng cũng như số lượng, mang tới cho chúng ta niềm tin về trình độ của giới trí thức Hán Nôm hiện nay, họ không chỉ giỏi về chuyên môn, mà hơn hết trong họ luôn bộc lộ lòng nhiệt thành, sự say mê sáng tạo và niềm tự hào dân tộc, tự hào về những công nghiệp hiển hách của cha ông. Đó là những mầm ươm quý mà chúng ta cần phải giữ gìn và gây dựng. Một thành công cũng không kém phần quan trọng mà cuộc vận động đã tạo ra được là sự thành công về mặt tổ chức. Có lẽ đã lâu lắm rồi chúng ta mới tổ chức được một cuộc phát động mang tính chất toàn quốc như vậy, nó cho thấy đã có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong việc khôi phục lại nền di sản văn hoá Hán Nôm của dân tộc vốn bị quên lãng trong suốt một thời gian dài vừa qua. Từ đó thể hiện sự nhận thức đúng đắn về vai trò to lớn của di sản Hán Nôm trong công cuộc xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà, tiên tiến, giàu bản sắc dân tộc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức xây dựng. Về hạn chế, cuộc vận động này vẫn còn có quy mô, tầm vóc chưa thực sự xứng tầm với nền văn hoá Hán Nôm vốn đã có hàng ngàn năm lịch sử của đất nước. Một số câu đối, đại tự còn mang tính hình thức, hoa mĩ, phù phiếm, chưa đi đúng vào trọng tâm tư tưởng đề ra. Nó phản ánh một thực tế buồn là sự hời hợt của xã hội hiện nay nói chung đối với nền di sản Hán Nôm là rất đáng lên tiếng. Điều đó nếu không được khắc phục sớm sẽ cản trở không nhỏ trong việc truyền bá văn hoá Hán Nôm một cách sâu rộng sau này. Tuy nhiên, hy vọng với những thành công mà cuộc vận động đã đạt được, những hạn chế này sẽ nhanh chóng được điều chỉnh trong tương lai không xa, chúng ta hãy vững tin về điều đó. Sau cùng tôi tin tưởng rằng, với trình độ những người làm công tác Hán Nôm như hiện nay, nền học thuật Hán Nôm cũng như nền di sản văn hoá Hán Nôm của chúng ta sẽ đạt được những bước tiến mới, đủ sức phát triển cùng đi lên với thời đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tập hợp kết quả sáng tác, sưu tầm câu đối đại tự tôn vinh các vị hoàng đế Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Tư nghiệp quốc tử giám Chu Văn An đặt tại nàh Thái Học, di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám, đại học khoa học quốc gia Hà Nội, đại học khoa học xã hộ và nhân văn, 2003 Đại việt sử kí toàn thư, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1991 Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Thăng Long-Hà Nội, trung tâm HĐVHKH Văn Miếu Quốc Tử Giám, 2004. Giáo trình Hán Nôm dành cho du lịch, Phạm Văn Khoái, NXB đại học quốc gia Hà Nội, 2004. Mục Lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVHDOCS 11.doc