Tiểu luận Ảnh hưởng chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO tới nền kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU Xuất nhập khẩu (XNK) có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước. Chính sách thuế XNK không ngừng biến đổi, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển đất nước. Với mục đích hiểu rõ hơn về ảnh hưởng chính sách thuế XNK của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO tới nền kinh tế, chúng em đã quyết định làm tiểu luận về đề tài này. Mục tiêu của bài tiểu luận mà chúng em hướng tới đó là: ã So sánh chính sách thuế XNK của nhà nước trước và sau khi gia nhập WTO để thấy được điểm đổi mới trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. ã Từ những chính sách thuế mới thì cơ hội, khó khăn cho Việt Nam là gì. ã Tìm hiểu một một ví dụ về thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng ô tô để thấy rõ sự biến đổi của nó trước, sau khi gia nhập WTO, ảnh hưởng của chính sách đó. Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp, thống kê, phân tích. Phạm vi nghiên cứu : 10 năm trở lại đây Vì thời gian có hạn và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên bài viết của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Qua đây, chúng em mong thầy chỉ bảo để bài viết của chúng em được hoàn thiện hơn. MỤC LỤC ã LỜI MỞ ĐẦU: 3 ã MỤC LỤC: 4 ã THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP: .5 I/ Thực trạng thuế XNK ở Việt Nam trước khi gia nhập WTO: . .6 ã Tổng quan: . 6 ã Những chính sách của Nhà nước:. 6 ã Những mặt tích cực: . .7 ã Những mặt hạn chế: . 8 ã Sơ hở trong chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế của Nhà nước: 8 ã Khâu quản lý khai báo và thu thuế còn chưa hiệu quả: 10 ã Mức thuế suất còn khá cao : . 11 ã Một số cải cách về thuế XNK trên tiến trình gia nhập WTO:. .12 II/ Những đổi mới thuế XNK sau khi Việt Nam gia nhập WTO: . .20 ã Đổi mới trong các chính sách của Nhà nước: . .20 ã Khung thuế xuất nhập khẩu 2008: . 23 ã Thành công của những đổi mới: . .28 ã Những mặt còn hạn chế trong các chính sách đổi mới: . .30 ã Ví dụ về thuế nhập khẩu ô tô có ảnh hưởng đối với tiêu dùng: 34 III/ Thuế XNK ở Việt Nam trong tương lai sẽ như thế nào? 44 ã KẾT LUẬN: . 48

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4031 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO tới nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã được bãi bỏ hoàn toàn nhằm khuyến khích hơn nữa các thành phần doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK. Về cơ chế xuất khẩu Cải cách cơ chế xuất khẩu của nước ta cũng có những thành tích nổi bật như cải cách hệ thống quản lý nhập khẩu. Hệ thống lập kế hoạch xuất khẩu trực tiếp mang tính cứng nhắc dần được thay thế bằng những hoạt động phi tập trung hoá và theo cơ chế thị trường. Xu hướng thờ ơ và không coi trọng xuất khẩu của hệ thống thương mại trước cải cách dần dần đã được huỷ bỏ vì chính phủ phi tập trung hoá hoạt động ngoại thương và đưa vào thực hiện các chính sách tỷ giá hối đoái không đối xử phân biệt với hàng xuất khẩu. Mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu: Thay đổi quan trọng nhất là mở rộng quyền kinh doanh thương mại cho hoạt động xuất khẩu. Như trên đã đề cập, quyền kinh doanh XNK đã được nới lỏng, và ngay cả những mặt hàng thiết yếu Nhà nước cũng không có chủ trương độc quyền hoàn toàn về kinh doanh XNK. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu, nếu doanh nghiệp dùng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu thì được giảm thuế lợi tức. Các doanh nghiệp sản xuất hàng cần thay thế nhập khẩu được xét giảm thuế doanh thu, thuế lợi tức trong thời gian sản xuất ban đầu; các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được nhập khẩu miễn thuế thiết bị vật tư phục vụ sản xuất. Kể từ năm 1998, những ưu đãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu được mở rộng hơn. Theo Nghị định 57/1998/NĐ-CP Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép xuất khẩu những mặt hàng không nêu trong giấy phép đầu tư của mình. Còn các doanh nghiệp trong nước thì được quyền xuất khẩu sản phẩm trực tiếp mà không cần có giấy phép XNK. Tháo dỡ hạn ngạch xuất khẩu: Việt Nam đã dỡ bỏ hạn ngạch đối với hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, trừ một số mặt hàng thiết yếu đặc biệt là gạo. Trong Bản ghi nhớ về chế độ ngoại thương nộp cho WTO, gạo là nông sản duy nhất bị áp dụng hạn ngạch xuất khẩu vì lý do an ninh lương thực quốc gia. Cùng với đó, cải cách thuế xuất khẩu cũng được thực hiện. Ví dụ, thuế xuất khẩu đối với gạo đã giảm từ 2%/năm (1997) xuống còn 0%/năm (1998). Tuy nhiên, là một nước đang phát triển nghèo, Việt Nam không phải đưa ra các cam kết cắt giảm trợ cấp nông phẩm xuất khẩu trong vòng 6 năm khi gia nhập WTO. Cải cách ngoại hối: Cải cách giá cả và phân bổ ngoại hối là một yếu tố khác rất quan trọng liên quan đến tăng trưởng xuất khẩu trong những năm qua. Trong giai đoạn trước cải cách, nhà nước đã cố định tỷ giá theo hướng định giá cao đồng nội tệ để trợ cấp nhập khẩu các hàng hoá ưu tiên có hàm lượng vốn cao mà trong nước chưa thể sản xuất được. Vào cuối thập kỷ 1980, nhà nước đã thay đổi dần các yếu tố này của hệ thống ngoại hối, cơ chế hai tỷ giá đã được xoá bỏ để thay thế bằng cơ chế một tỷ giá chủ đạo là tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các quy định về kết hối ngoại tệ cũng được nới lỏng, các quy định về quản lý dự trữ ngoại hối đã có sự thay đổi, và các nghiệp vụ thị trường mở đang được xem xét áp dụng. Chính sách tỷ giá trong thời gian qua đã có những điều chỉnh, phân theo ba giai đoạn sau: Thời kỳ thứ nhất: 1988-1991: tỷ giá được nới lỏng để đưa dần các yếu tố thị trường vào cơ chế xác định tỷ giá. Thời kỳ thứ hai: 1992-1997 (trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính tiền tệ), tỷ giá được ấn định và điều chỉnh gần như cố định để kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường tài chính tiền tệ và thu hút đầu tư nước ngoài. Thời kỳ thứ ba: từ sau khủng hoảng đến nay, chính phủ đã có những điều chỉnh có tính chủ động hơn để khắc phục khủng hoảng và tránh đồng Việt Nam bị định giá quá cao. Chính sách tỷ giá như trên đã có tác động tích cực đến ngoại thương, đặc biệt đối với lĩnh vực xuất khẩu. Đồng tiền đã được định giá ngày càng sát với giá trị thực của nó. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái như hiện nay vẫn cần phải có sự điều chỉnh hơn nữa, tiến tới tự do hoá tỷ giá trong giai đoạn sớm nhất. Hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu cho nông nghiệp: Hiệp định nông nghiệp của WTO yêu cầu các nước phải giảm các hình thức trợ cấp bóp méo thương mại. Hiệp định nông nghiệp của WTO đã chia trợ cấp thành 4 nhóm: trợ cấp hộp xanh lơ, trợ cấp hộp xanh lá cây, trợ cấp hộp vàng và trợ cấp hộp đỏ. Trợ cấp thuộc diện hộp xanh lơ và xanh lá cây là các biện pháp trợ cấp được phép mà không phải chịu sự điều chỉnh. Trợ cấp hộp vàng ảnh hưởng đến thương mại, phải ràng buộc và cam kết điều chỉnh. Trợ cấp hộp đỏ bị cấm và phải loại bỏ khi đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Ở Việt Nam, trợ cấp hộp vàng trước kia được sử dụng để hỗ trợ nông phẩm thông qua Quỹ bình ổn giá. Gần đây, Quỹ này được đổi tên là Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Tổng trợ cấp tính gộp hàng năm của Việt Nam trong thời kỳ 1996-1998 là khoảng 1.644,84 tỷ VND. Gạo, đường, thịt lợn, bông, gia súc, gia cầm, dứa là những đối tượng được hưởng những khoản trợ cấp này. Tuy nhiên, lượng tiền hỗ trợ này của Việt Nam được WTO coi là thấp, chưa cần phải cắt giảm trong giai đoạn hiện nay. Bảng 1: Mức thưởng theo kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng năm 2002 Mặt hàng Mức thưởng (đ/USD) Mặt hàng Mức thưởng (đ/USD) Gạo các loại 180 Cà phê nhân 220 Thịt lợn sữa 280 Cà phê hoà tan, cà phê bột 100 Thịt lợn miếng 900 Rau quả hộp 400 Thịt gia súc, gia cầm 100 Rau quả tươi, sấy khô và sơ chế 100 Chè 220 Lạc nhân 100 Hạt tiêu 100 Hạt điều 100 Thủ công mỹ nghệ 100 Hàng mây tre lá 100 Đồ nhựa 100 Hàng cơ khí 100 Việt Nam vẫn đứng trước những khó khăn lớn về thuế XNK cần giải quyết. Trong chính sách phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu, Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn. Tốc độ tăng trưởng XNK trong giai đoạn 1991-2000 là 18,4%, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của GDP 2,6 lần. Xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng cao, tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến tăng nhanh (từ 8% năm 1991 lên 31,4% năm 2002). Tăng trưởng xuất khẩu chủ yếu được dựa vào việc khai thác các nguồn lực tương đối dễ dàng, cần ít vốn đầu tư, hoặc cần đến vốn đầu tư của bên ngoài (FDI), và gắn liền với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn như gạo, cà phê, thuỷ sản, dệt may, dầu thô, điện tử... Tuy nhiên, trong thực tế, mô hình thương mại của Việt Nam trong thời gian qua có xu hướng nghiêng về thay thế nhập khẩu. Nhà nước đã khuyến khích đầu tư phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu và đa số các dự án FDI được phê duyệt là giành để sản xuất các sản phẩm phục vụ thị trường nội địa. Năm 1997, số ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu được nhà nước tập trung đầu tư là 11 ngành, trong khi số ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu là 3 ngành. 9 tháng đầu năm 2002, con số này tương ứng là 18 ngành và 2 ngành. Năm 2002, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam đạt 5,1%/năm trong khi tăng trưởng nhập khẩu đạt 10,8%/năm. Trong xu thế giá cả thế giới ngày càng giảm sút, xuất khẩu hàng hoá của Việt nam có nguy cơ càng sản xuất nhiều càng thua lỗ nặng. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước còn chiếm tỷ lệ khá lớn cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến mô hình thương mại của Việt nam trong thời gian qua. Xu hướng bảo hộ mậu dịch đi ngược với định hướng chiến lược trong thời gian qua có nguy cơ đẩy Việt Nam đi vào thua thiệt khi tiến hành tự do hoá thương mại theo quy định của WTO. Bảng 2: Mối quan hệ giữa xuất nhập khẩu với tăng trưởng kinh tế (%) 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Xuất khẩu 33,2 26,6 1,9 23,3 25,5 3,8 5,1 Nhập khẩu 36,6 4,0 -0,8 2,1 33,2 3,4 10,8 GDP 9,34 8,15 5,76 4,77 6,79 6,8 7,0 Nguồn: Niên giám thống kê 2002 Ngoài ra, mức thuế quan và các hàng rào phi thuế quan của Việt Nam còn cao. Điều này có tác dụng bảo hộ các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp non trẻ trong nước, tuy nhiên đã làm cho biểu thuế của Việt Nam phức tạp, chồng chéo, khó quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trốn thuế, lậu thuế. Ngoài ra, việc áp dụng tính giá tính thuế tối thiểu như hiện nay của Việt Nam chưa phù hợp với những quy định của WTO. Hiện tại, chúng ta vẫn sử dụng các công cụ phi thuế quan như cấm, tạm ngưng, hạn ngạch, chỉ tiêu, giấy phép không tự động, phụ thu ... và những công cụ này sẽ phải cắt giảm và tiến tới xoá bỏ khi gia nhập WTO. II/ Những đổi mới thuế XNK sau khi Việt Nam gia nhập WTO Đổi mới trong các chính sách của Nhà nước: Thực hiện các chính sách về thương mại hàng hóa: thương mại không phân biệt đối xử, tự do hóa thương mại, cạnh tranh công bằng, chính sách minh bạch và một số ngoại lệ. Về thương mại không phân biệt đối xử, thực hiện đối xử tối huệ quốc (MFN) tức là đối xử bình đẳng giữa hàng hóa xuất khẩu từ các nước thành viên WTO liên quan đến thuế xuất, nhập khẩu, thuế nội địa, qui định liên quan đến XNK và bán hàng trong nước. (Ngoại lệ: Khu vực mậu dịch tự do, GSP).Chính sách đối xử quốc gia (NT): đối xử bình đẳng giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu tương tự về chính sách thuế nội địa, các qui định liên quan đến bán hàng trong nước. Về tự do hóa thương mại, cấm áp dụng hạn chế định lượng XNK (VD: cấm nhập khẩu, hạn ngạch, cấp phép nhập khẩu tùy ý. Sau khi gia nhập WTO, không được tăng thuế nhập khẩu lên cao hơn mức đã ràng buộc ở Biểu cam kết thuế. Về thương mại công bằng, cấm áp dụng trợ cấp dựa vào thành tích xuất khẩu hoặc sử dụng hàng nội địa thay cho hàng nhập khẩu; áp dụng thuế đối kháng khi hàng nhập khẩu được trợ cấp gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước của nước nhập khẩu; áp dụng thuế chống bán phá giá khi hàng nhập khẩu được bán phá giá gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Ngoài ra còn có các biện pháp tự vệ và những quy định về doanh nghiệp thương mại Nhà nước. Thực hiện những cam kết đa phương và những cam kết về việc mở cửa thị trường: cam kết cắt giảm thuế quan, cam kết về hạn ngạch thuế quan, cam kết mở của thị trường dịch vụ,… Trước hết là cam kết về quyền kinh doanh XNK, quy định: Doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu như doanh nghiệp và cá nhân VN kể từ khi gia nhập (trừ một số trường hợp cụ thể); được đăng ký quyền XNK tại VN mà không cần có hiện diện; có quyền nhập khẩu (không bao gồm quyền phân phối) tức là được nhập khẩu hàng hóa và bán cho doanh nghiệp, cá nhân có quyền phân phối ở Việt Nam. Về thuế nội địa, Việt Nam cam kết: trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập WTO: áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc phần trăm thuế TTĐB thống nhất với rượu trên 20 độ cồn, một mức thuế phần trăm thuế TTĐB với bia. Về hạn chế số lượng hàng nhập khẩu, cam kết: không áp dụng hạn ngạch nhập khẩu; xóa bỏ lệnh cấm nhập khẩu đối với xe máy phân khối lớn (31/5/2007), ô tô cũ sản xuất 5 năm trở lại nhưng đánh thuế nhập khẩu cao, thuốc lá điếu, xì gà, các sản phẩm chứa phần mềm mã hóa lưu thông rộng rãi trên thị trường; chỉ kiểm duyệt nội dung văn hóa phẩm ở lô hàng nhập khẩu đầu tiên. Về việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, áp dụng Hiệp định về xác định trị giá tính thuế của WTO (CVA) kể từ khi gia nhập: lấy giá trị để tính thuế nhập khẩu theo giá trị giao dịch thực tế; bỏ bảng giá tối thiểu,… Chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, bãi bỏ trợ cấp nông nghiệp (về trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa). Đối với các đặc khu kinh tế: tuân thủ các nguyên tắc của WTO và cam kết về trợ cấp bị cấm, thuế nội địa, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại trong các đặc khu này: các doanh nghiệp sẽ không cần phải đáp ứng các điều kiện về xuất khẩu hay tỷ lệ nội địa hóa khi đầu tư vào các khu này; hàng hóa khi nhập vào và xuất ra khỏi các khu này sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định (về thuế, về thủ tục hải quan v.v.) theo đúng các quy định của WTO và cam kết của Việt Nam. Những cam kết về thuế quan: những điều chỉnh về biểu thuế nhập khẩu MFN, cắt giảm thuế quan theo ngành (cắt giảm thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm của một ngành); áp dụng hạn ngạch thuế quan với nông sản (dưới mức hạn ngạch: thuế suất thấp, trên mức hạn ngạch: thuế suất cao), bảo đảm việc áp dụng, phân bổ và quản lý hạn ngạch thuế quan một cách minh bạch, không phân biệt đối xử và tuân thủ theo đúng các quy định của WTO. Khung thuế xuất nhập khẩu 2008: Theo Bộ Tài chính, hiện nay các nước ASEAN đã xây dựng và thống nhất áp dụng Danh mục AHTN 2007 làm cơ sở để xây dựng Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. VN cũng đã áp dụng Danh mục Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi mới từ ngày 1/1/2008. Theo đó, Biểu khung thuế xuất khẩu mới được xây dựng nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu hạn chế xuất khẩu những sản phẩm thô, khuyến khích sử dụng nguyên liệu để tái chế và về cơ bản vẫn giữ nguyên khung thuế suất với hầu hết các nhóm hàng chịu thuế. Khung thuế suất trần của một số nhóm hàng được điều chỉnh tăng lên là dầu mỏ (từ 0-8% lên 0-20%); than đá (từ 0-5% lên 0-20%); quặng kim loại (từ 0-3%; 0-5% và 5-20% lên thành 0-20%) nhằm định hướng hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô và tập trung cho sản xuất trong nước là chính. Các mặt hàng được giảm thuế suất trần và sàn là nhóm hàng phế liệu sắt thép (từ 30-40% xuống 10-30%); phế liệu kim loại màu (từ 40-50% xuống còn 10-40%) để phù hợp với cam kết gia nhập WTO. Trên cơ sở Biểu khung thuế nhập khẩu gồm 1.221 nhóm mặt hàng hiện hành, Bộ Tài chính đã ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi với 10.680 dòng thuế chi tiết và theo cam kết WTO, VN ràng buộc với toàn bộ biểu thuế này. Hầu hết các mặt hàng thuộc nhóm có thuế suất cam kết thấp hơn mức trần, chỉ một số mặt hàng có mức cam kết thấp hơn mức thuế sàn của khung thuế suất. Do đó, Biểu khung thuế nhập khẩu ưu đãi mới sẽ giảm mức thuế suất trần khung của 1.149 nhóm hàng (chiếm 94%) để phù hợp với cam kết WTO và những nhóm hàng mà mức khung thuế suất hiện hành đang cao hơn nhiều so với thực tế áp dụng. Giảm mức thuế suất sàn khung của 202 nhóm hàng (chiếm khoảng 16,5% trong Biểu khung) để thực hiện cam kết gia nhập WTO và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu trong điều kiện thực hiện các cam kết quốc tế, đồng thời góp phần giảm thuế đầu vào đối với những nhóm nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Mức sàn khung của 1.019 nhóm hàng khác vẫn được giữ nguyên. Cũng theo Bộ Tài chính, biểu khung thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng để đảm bảo phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần phải sửa đổi. Trước hết, vì theo cam kết gia nhập WTO, hầu hết các mức thuế của những mặt hàng trong Biểu thuế NK ưu đãi đều thấp hơn mức trần của khung và nhiều mặt hàng có mức thuế suất cam kết thấp hơn mức sàn của khung. Do đó, để phù hợp với cam kết, chúng ta phải hạ các mức thuế suất trần và sàn. Thứ hai, từ năm 2008, VN phải thực hiện Danh mục Biểu thuế chung ASEAN mới (AHTN 2007) đã được các nước xây dựng trên Hệ thống mô tả và mã hàng hóa HS2007 của Tổ chức Hải quan thế giới, trong đó mô tả của nhiều nhóm mặt hàng đã được thay đổi so với Danh mục biểu thuế mà chúng ta đang áp dụng. Ngoài ra, Biểu khung thuế xuất khẩu, nhập khẩu ưu đãi mới cũng được xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước có chọn lọc, có điều kiện và thời hạn; ổn định khung thuế suất đối với những nhóm mặt hàng đang được thực hiện có hiệu quả và phù hợp với cam kết quốc tế. Tháng 5/2008, Bộ Tài chính cân nhắc phương án giảm thuế nhập khẩu từ mức 15% xuống 5 hoặc 0% đối với mặt hàng xăng dầu phục vụ lĩnh vực hàng không, nhằm tháo gỡ khó khăn cho các nhà vận chuyển trong bối cảnh giá thế giới không ngừng tăng cao. Theo Bộ Tài chính, giá nhiên liệu thế giới liên tục tăng cao trong thời gian qua khiến các hãng vận tải hàng không như Vietnam Airlines, Pacific Airlines... bị lỗ trên các chuyến nội địa. Trong khi đó thuế nhập khẩu đối với mặt hàng xăng dầu phục vụ hàng không vẫn giữ nguyên thuế suất nhập khẩu 15% trong nhiều năm qua. Một quan chức Bộ Tài chính cho hay trong lúc Chính phủ yêu cầu các đơn vị này tiếp tục giữ giá vé, đồng thời khống chế mức giá trần cho các trục bay nội địa là 1,7 triệu đồng, giảm thuế nhiên liệu đầu vào là việc làm tốt nhất có thể nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Các mức thuế đang được xem xét và ban hành trong thời gian sớm nhất. Tháng 6/2008, Bộ Công Thương có văn bản gửi Bộ Tài chính đề nghị tăng thuế nhập khẩu đối với xe máy phân khối lớn, mỹ phẩm, điện thoại di động và rượu. Riêng mặt hàng ôtô con được đề nghị nâng thuế tiêu thụ đặc biệt từ 50% lên 60-70%. Đối với mặt hàng mỹ phẩm, Bộ Công Thương cho biết, hiện nay kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này không lớn, khoảng 27 triệu USD trong qúy I, tăng trên 17% so với cùng kỳ năm 2007. Tuy nhiên, đây là nhóm hàng đã có sản xuất trong nước, không phải là hàng tiêu dùng thiết yếu, không khuyến khích nhập khẩu. Vì vậy, Bộ Công Thương đề nghị điều chỉnh thuế đối với mỹ phẩm bình thường sẽ tăng từ 15-30% lên 20-40%; chế phẩm dùng cho tóc tăng từ 15-32% lên 30-35%; chế phẩm dùng cho răng, miệng có tăng từ 30% lên 40%. Đối với điện thoại di động, theo Bộ Công Thương, quý I, kim ngạch nhập khẩu điện thoại di động khoảng 273 triệu USD, trong đó trên 50% nhập khẩu từ Trung Quốc (thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt là 0%), khoảng 17% nhập khẩu từ các nước ASEAN và Hàn Quốc (thuế suất ưu đãi đặc biệt 5%), trên 31% còn lại được nhập khẩu từ các nước khác với mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành 5%. Với tốc độ nhập khẩu hiện nay, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này cả năm 2008 có thể lên đến 1,2-1,3 triệu USD. Việc hạn chế nhập khẩu mặt hàng này gặp khó khăn do đã cam kết dành ưu đãi thuế quá mạnh (0% và 5%) cho một số thị trường hết sức cạnh tranh là Trung Quốc và Hàn Quốc. Để hạn chế nhập khẩu từ các thị trường còn lại với thị phần khoảng 30%, Bộ Công Thương đề nghị Bộ Tài chính tăng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi từ mức 5% hiện hành lên 8% là mức trần cam kết theo lộ trình trong WTO. Ngày 4/8/2008, phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã gửi công văn mời các doanh nghiệp và hiệp hội tham gia góp ý cho dự thảo sửa đổi khung thuế xuất khẩu. Dự thảo này do Bộ Tài Chính đưa ra. Theo đó, tăng mức trần thuế xuất khẩu hàng loạt mặt hàng như gạo, dầu thô, sắt thép... để khi cần thiết thì Bộ Tài Chính có thể áp dụng mức thuế trần mới. Đồng thời, nhiều mặt hàng hiện không chịu thuế xuất khẩu sẽ được đưa vào biểu thuế này để đánh thuế như phân bón, một số khoáng sản, vàng bạc... Mức sàn thuế xuất khẩu hầu như không thay đổi. Ngày 6/10/2008, Bộ Tài chính đã quyết định giảm thuế xuất khẩu thép xuống 5%, áp dụng cho các tờ khai hải quan kể từ ngày 7/10/2008. Theo Quyết định  số 84/2008/QĐ-BTC về việc sửa đổi mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng sắt thép không hợp kim của biểu thuế xuất khẩu do Bộ Tài chính ban hành ngày 6/10, thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng sắt, thép thuộc phân nhóm 7204.50.00.00 và thuộc các nhóm 7206 và 7207 từ 10% (quy định tại Quyết định số 64/2008/QĐ-BTC ngày 1/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính) được điều chỉnh xuống còn 5%. Thành công của những đổi mới Đầu tiên phải nói đến chính là vị thế thành viên WTO sẽ giúp chúng ta tăng cường trao đổi thương mại, tăng lượng FDI (đầu tư nước ngoài) chảy vào Việt Nam. Nếu nhập khẩu tăng sẽ dẫn đến việc làm giảm, còn xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn và Việt Nam cần có chính sách tăng cường xuất khẩu, tận dụng những cơ hội mà WTO mang lại. Ngoài ra, xét trên một khía cạnh nào đó, thì nhập khẩu cũng đóng vai trò như một động lực không kém phần quan trọng tạo thêm nhiều việc làm mới. Nhập khẩu là kênh nhập đầu vào cho nhiều ngành kinh tế mũi nhọn của chúng ta. Trên thực tế, ngành dệt may và da giày, hai ngành thu hút rất nhiều lao động hiện phải nhập 70% đến 80% nguyên liệu, nếu không có số nguyên liệu này, họ không thể hoạt động, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu và tất yếu công nhân sẽ bị đẩy ra đường. Bên cạnh đó ta còn nhập khẩu nhiều loại máy móc vật tư, tạo tiền đề cho nhiều ngành doanh nghiệp sản xuất phụ tùng thay thế hàng nhập khẩu. Nếu nhập khẩu hiệu quả sẽ góp phần nuôi dưỡng nền kinh tế. Thứ hai, gia nhập WTO chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới (có kim ngạch tới 548 tỷ USD/ năm). Nông sản, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu mức hàng rào thuế quan thấp nhất, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ. Người nông dân nước ta cũng sẽ được lợi từ việc chuyển đổi các bí quyết công nghệ nhằm năng cao hiệu quả sản xuất. Công nghệ mới của các tập đoàn đa quốc gia sẽ được du nhập vào nước ta. Mức tăng trưởng xuất khẩu của nông nghiệp Việt Nam đã đạt mức 4,3% hàng năm, dự kiến kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản sẽ đạt tới 9-19 tỷ USD vào năm 2010. Gia nhập WTO nông dân sẽ được tiếp cận thị trường nhiều hơn do nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thế giới. Nông dân sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế xuất khẩu, khi nào mặt hàng nào có thuế bằng 0% để định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về chất lượng và giá cả. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đem lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến nông sản, từ đó mà nâng cao được năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Dưới sức ép của luồng hàng nhập khẩu mạnh mẽ, các doanh nghiệp chế biến hàng nông lâm thủy sản buộc phải phấn đấu vươn lên để nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất. Thứ ba, việc gia nhập WTO giúp ta được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng. Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ tư, thị trường xuất khẩu sẽ ngày càng được ổn định do có nhiều thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường. Chúng ta có thể dự báo được thị trường cho hàng xuất khẩu dài hạn trong tương lai và tạo ra mối quan hệ thương mại chắc chắn hơn, góp phần tạo thuận lợi cho việc hoạch định các chính sách về đầu tư và phát triển sản xuất công - nông nghiệp, giảm thiểu những rủi ro trong thương mại quốc tế. Những mặt còn hạn chế trong các chính sách đổi mới Thứ nhất, việc giảm thuế suất nhiều mặt hàng gây ảnh hưởng lớn tới nguồn thu của chính phủ từ thuế. Kể từ khi làm đơn gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu chuyển đổi chính sách thuế quan trong thương mại hàng hoá, trong đó có hàng hoá công nghiệp để đáp ứng các yêu cầu của WTO. Là thành viên chính thức WTO, Việt Nam sẽ phải tiến hành giảm thuế quan và ràng buộc tất cả các dòng thuế (mức trung bình của các nước đang phát triển là 12,3%). Đồng thời phải dỡ bỏ các hàng rào phi thuế (hạn ngạch, giấy phép, các thủ tục hải quan, trợ cấp, đầu mối, tiêu chuẩn kỹ thuật...) trong một thời hạn nhất định, tuỳ thuộc vào từng mặt hàng cụ thể theo cam kết. Ước tính sơ bộ, tác động trực tiếp từ việc cắt giảm thuế suất và phí theo các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sẽ làm tổng thu thuế nhập khẩu vào ngân sách giảm đến 10%. Ngân sách nhà nước hiện nay phụ thuộc vào ba khoản thu chủ yếu: xuất nhập khẩu (chiếm 25% ngân sách); thu từ xuất khẩu dầu thô (cũng khoảng 25%); còn lại là thu nội địa. Nhưng khoản thu thứ ba này cũng đang giảm dần do chính sách thuế liên tục được thay đổi để thực hiện các cam kết với WTO.Tính toán của ngành tài chính cho thấy ảnh hưởng giảm thu ngân sách từ thuế nhập khẩu sẽ vào khoảng 308,9 triệu Đôla Mỹ trong khoảng năm năm sau khi gia nhập WTO. Con số này tương đương 4.800 tỉ đồng, tức Việt Nam sẽ bị giảm thu khoảng 1.000 tỉ đồng mỗi năm (tương đương 6-10% số thu thuế nhập khẩu hàng năm). Ngoài ra, mối lo ngại trên còn được “nhân đôi” khi việc cắt giảm thuế và tham gia các khu vực mậu dịch tự do sẽ ảnh hưởng đến ngân khố Việt Nam nặng hơn so với các nước có điều kiện tương đương Việt Nam (25% so với 13% ở nước khác).  Bên cạnh đó, số thu từ kinh tế quốc doanh cũng sẽ bị ảnh hưởng lớn. Tại hội nghị ngành tài chính mới diễn ra gần đây, Bộ Tài chính cho biết thu ngân sách sáu tháng đầu năm chỉ đạt 48,8% kế hoạch so với 53,3% năm 2005 và 54,6% năm 2004. Tính đến ngày 30-6-2006, nợ thuế và nợ phạt thuế nội địa đã lên đến khoảng 3.600 tỉ đồng, trong đó có tới 1.420 tỉ không có khả năng thu được. Nợ thuế XNK khoảng 2.700 tỉ đồng, trong đó 800 tỉ không có khả năng thu hồi. Trong khi đó, theo kế hoạch Bộ Tài chính trình Chính phủ, dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2007 phải phấn đấu đạt trên 22% so với GDP. Thứ hai, việc cắt giảm mức thuế quan sẽ làm cho lượng hàng hoá nhập khẩu tràn vào Việt Nam. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không chuẩn bị trước tinh thần này, không nâng cao được sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm thì doanh nghiệp Việt Nam ngay cả trong ngành có lợi thế trước đây cũng có thể thất bại ngay trên chính sân nhà. Khi ta gia nhập WTO với việc thay đổi mức thuế suất, ngành dệt may cũng phải đương đầu với sức cạnh tranh mạnh mẽ từ nước ngoài. Hiện thuế nhập khẩu vải là 40%, sản phẩm may mặc là 50%. Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, mức thuế đối với sản phẩm may mặc sẽ giảm xuống còn 15%. Các doanh nghiệp trong nước không tránh khỏi mệt mỏi đối phó với hàng nhập khẩu từ nhiều nước khác, nhất là hàng giá rẻ của Trung Quốc. Thiết bị lạc hậu dẫn đến chất lượng vải trong nước không ổn định, khiến các doanh nghiệp may trong nước không dám đặt hàng và bắt buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên phụ liệu. Hậu quả khả năng cạnh tranh giảm sút so với các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan. Giá gia công hàng Trung Quốc rẻ hơn của Việt Nam từ 10-15% do nguồn nguyên phụ liệu trong nước rẻ. Thuận lợi về chi phí thấp nay lại cộng thêm sự thông thoáng của thuế quan khiến cho hàng nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam. Thị trường nông nghiệp của các nước phát triển vẫn được bảo hộ cao sự duy trì các biện pháp trợ cấp được ngụy trang khéo (các biện pháp trợ cấp được phép sử dụng); thị trường dệt may vẫn chịu sự chi phối của các hạn ngạch và thời gian xoá bỏ các hạn ngạch là rất dài. Các nước WTO sẽ áp dụng những quy định chặt chẽ hơn về trợ cấp xuất khẩu và tín dụng xuất khẩu với hàng nông sản. Điều này sẽ gây khó khăn không nhỏ cho Việt Nam, bởi ta đang trợ cấp xuất khẩu 4 mặt hàng gạo, cà phê, thịt lợn, rau quả đóng hộp, và đang mở rộng sang những mặt hàng khác. Trên lĩnh vực công nghiệp nặng, do thuế xuất khẩu còn ở mức cao nên việc xuất khẩu ra nước ngoài bị chững lại. Do tiêu thụ thép chậm, tồn kho sản phẩm lớn, các công ty cán thép tạm ngừng mua phôi, các công ty sản xuất phôi thép không bán được ở trong nước nhưng cũng không thể xuất khẩu để thu hồi vốn vì thuế suất thuế xuất khẩu tới 20%. Một số công ty đã ngừng sản xuất từ đầu tháng 9/2008 như Việt Ý, Natsteel, Vạn Lợi hoặc sản xuất cầm chừng như Việt Hàn, Việt Nhật, Hòa Phát, Thép Việt ... Việc điều chỉnh thuế tăng cao và quá nhanh nhưng khi hạ thì rất dè dặt sẽ đưa doanh nghiệp sản xuất phôi thép đến chỗ bế tắc, buộc phải dừng sản xuất vì không thể giải quyết được khó khăn tài chính. Thứ ba, những thay đổi trong thuế XNK còn đẩy mạnh xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản,…dẫn đến chảy máu tài nguyên quốc gia. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tuân theo Thỏa thuận chung về trợ cấp và các biện pháp chống phá giá (GASCM) liên quan đến xóa bỏ chế độ hai giá (giá nội địa và giá quốc tế) mang tính phân biệt. Khi đó nếu Việt Nam có trợ giá hoặc tăng thuế xuất khẩu những mặt hàng có nguồn gốc từ tài nguyên không phục hồi nhằm mục đích bảo vệ tài nguyên quốc gia thì cũng dễ dẫn đến vi phạm thỏa thuận này. Đến lúc đó, thuế suất xuất khẩu sẽ giảm và tạo điều kiện thuận lợi để những tài nguyên quý giá của quốc gia chảy ra nước ngoài. Hơn nữa, cơ chế thuế quan thông thoáng làm nảy sinh ý nghĩ rằng cơ hội buôn bán không minh bạch gia tăng. Đây chính là thuận lợi cho buôn lậu khoáng sản, gỗ và nhiều tài nguyên quý giá khác. Nạn buôn lậu đang nổi lên tình trạng khai thác và xuất lậu quặng than đi Trung Quốc ở một số tỉnh phía bắc như Cao Bằng, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc..., trong đó đặc biệt là tình hình xuất lậu than đi Trung Quốc đang diễn ra phổ biến trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh... Tương tự, mỗi ngày hàng chục tấn quặng mangan được khai thác ở Cao Bằng và chuyển lậu qua biên giới . Bên cạnh những người khai thác trái phép tại Lũng Phắc, huyện Trùng Khánh còn có cả những công ty được cấp phép cũng "tuồn" quặng sang biên giới. Hiện tượng này đã ra tăng từ đầu năm 2007. Như vậy, hiện tượng chảy máu tài nguyên đang gia tăng đòi hỏi phải có những điều chỉnh thích hợp của nhà nước nhất là về khung thuế suất để vẫn đảm bảo an ninh tài nguyên sau khi gia nhập WTO. Thực tế ảnh hưởng của những chính sách thuế mới sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã tác động rất lớn tới đời sống của người dân cũng như toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Sau đây chúng ta sẽ xét một ví dụ điển hình ảnh hưởng của sự thay đổi thuế xuất nhập khẩu ô tô. Ví dụ về thuế nhập khẩu ô tô có ảnh hưởng đối với tiêu dùng. Mới đây, Bộ Tài chính đã ra quyết định số 13/2008/QĐ-BTC về việc sửa đổi mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng xe ô tô chở người trong Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Theo cam kết hội nhập, Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng, trong đó có ô-tô. Vậy tại sao mới đây Bộ Tài chính lại quyết định tăng thuế nhập khẩu đối với ô tô nguyên chiếc? Thứ trưởng Trương Chí Trung: ‘‘Trước hết phải khẳng định, cắt giảm thuế là một trong những cam kết bắt buộc với tất cả các quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế, và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, cam kết này lại được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước. Ðiều này có nghĩa, mục tiêu là cố định và đích đến là có thời hạn, nhưng cách thức để đạt được mục tiêu là do mỗi quốc gia tự quyết định, tùy theo hoàn cảnh thực tế của nước mình. Mức cam kết gia nhập WTO là mức cam kết trần. Trong phạm vi đó, Nhà nước có thể điều hành mức thuế suất phù hợp tình hình thực tế, miễn là không vượt quá mức cam kết trần.’’ Với Việt Nam, chủ trương hội nhập để phát triển kinh tế và nâng cao tính hiệu quả, cạnh tranh của các ngành kinh tế trong nước là quan điểm nhất quán trong điều hành của Nhà nước. Bởi vậy, đối với ngành công nghiệp ô-tô, sau một thời gian dài được bảo hộ ở mức cao thông qua thuế nhập khẩu cũng như ưu đãi giảm thuế tiêu thụ đặc biệt (TTÐB), Nhà nước đã thực hiện xóa bỏ biện pháp hạn chế nhập khẩu; không ưu đãi giảm thuế cho xe sản xuất trong nước; cho nhập khẩu tự do đối với các loại xe; áp dụng mức thuế TTÐB thống nhất cho cả xe nhập khẩu và xe sản xuất trong nước. Chủ trương này còn thể hiện ở việc Bộ Tài chính đã giảm thuế ba lần liên tiếp trong năm 2007 đối với xe ô-tô chở người và giảm thuế tuyệt đối đối với ô tô đã qua sử dụng. Ô tô là mặt hàng Nhà nước hạn chế tiêu dùng, vì vậy mặt hàng này thuộc diện chịu thuế TTÐB. So với các mặt hàng chịu thuế TTÐB khác như rượu, bia, thuốc lá đang chịu mức thuế từ 59% đến 140%, thì mức thuế nhập khẩu 70% áp dụng cho mặt hàng ô-tô là hợp lý. Mục tiêu chính của việc giảm thuế từ 70% xuống 60% vào thời điểm tháng 11-2007 là để giải quyết vấn đề cung cầu do nhu cầu ô tô tăng đột biến, trong khi sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được một phần. Ðến thời điểm hiện nay, tình hình cung cầu đã được cải thiện, khả năng đáp ứng của ngành ô-tô trong nước đã lớn hơn, nhu cầu của người dân không còn "sốt"như thời điểm cuối năm 2007, đầu năm 2008. Do vậy, cần phải quy về mức thuế hợp lý như đã phân tích. Mặt khác, liều thuốc tăng cung cho thị trường ô tô dường như đã quá nhạy khi từ tháng 11-2007 đến nay, trung bình mỗi tháng Việt Nam nhập khẩu hơn 3.000 xe ô tô dưới 12 chỗ ngồi, cao hơn gấp ba lần so với thời điểm trước đó. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới đang có những diễn tiến bất lợi đối với Việt Nam, theo đó giá nguyên liệu, năng lượng, lương thực... liên tục tăng cao, thì việc nhập khẩu ồ ạt ô tô cũng góp phần làm tăng những khó khăn mà Việt Nam đang phải đối mặt, đó là vấn đề nhập siêu. Chỉ riêng hai tháng đầu năm 2008, nhập siêu đã lên tới hơn 4 tỷ USD, trong đó kim ngạch ô tô dưới 12 chỗ ngồi nhập khẩu là 94 triệu USD, cao gấp 10 lần so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, ùn tắc giao thông đã trở nên ngày càng trầm trọng do lượng xe tham gia giao thông tăng nhanh chóng. Ðiều đáng chú ý là lượng xe nhập khẩu về chủ yếu được lưu hành ở hai trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất cả nước là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, làm cho vấn đề giao thông ở hai thành phố này trở nên trầm trọng, gây thiệt hại nhiều mặt đối với sự phát triển đất nước. Trước tình hình đó, việc tăng thuế nhập khẩu ô tô là biện pháp ứng phó cấp bách, không những làm giảm nhập siêu, hạn chế ùn tắc giao thông, mà còn góp phần bảo đảm cân đối vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế, nhiều người đã cho rằng: Tăng thuế nhập khẩu ô tô không chống được ùn tắc: điều này là hiển nhiên. Xe hơi chỉ dành cho một phần rất nhỏ của dân số, với phần rất nhỏ này thì việc thay đổi một vài ngàn USD cho mỗi chiếc xe hơi không làm họ chùn bước (và nếu có thì cũng chỉ một phần nhỏ trong số đó). Sự thật thì sự thay đổi giá này chỉ khiến họ phải cân nhắc chút ít là liệu nên mua xe nhập khẩu hay xe sản xuất trong nước. Kết quả là như nhau, người ta vẫn mua xe, vấn đề là từ đâu mà thôi. Chưa kể mỗi lần tăng/giảm thuế đều dẫn tới những hiệu ứng mua sắm bổ sung như sau: nếu thuế giảm thì giá xe giảm, đương nhiên là người ta sẽ tăng mua. Nhưng khi thuế tăng (mà không có lộ trình cụ thể) người ta cũng tăng mua với tâm lý mua ngay hôm nay vì không biết ngày mai thuế có tăng nữa không (điều này chúng ta đã nhận thấy rất rõ trong 2 đợt điều chỉnh từ 60-70-83% vừa rồi) Tăng thuế nhập khẩu ô tô không làm nền công nghiệp ô tô phát triển: Xe hơi giá vốn đã quá cao so với phần lớn thu nhập người dân, tức là "miếng bánh thị phần" rất nhỏ cho ngành công nghiệp này. Việc đẩy lên cao hơn nữa chỉ làm thị phần này nhỏ thêm. Với sản lượng thực tế xe hơi như hiện nay thì không thể áp dụng được lợi thế kinh tế do quy mô, tức là không thể sản xuất ô tô với sản lượng cao do cầu thực tế rất thấp, đồng thời cũng triệt tiêu các nỗ lực đầu tư cải thiện năng suất chất lượng. Thị phần nhỏ, sản lượng thấp, cầu thực tế thấp mà chính sách tăng thuế nhập khẩu làm cho các yếu tố này còn xuống thấp hơn nữa thì không có cách gì để xây dựng ngành công nghiệp ô tô cả. Điều duy nhất những nhà sản xuất ô tô làm được là thu siêu lợi nhuận trên 1 đơn vị xe mà thôi (tuy nhiên điều này cũng không phải mong muốn của nhà sản xuất, họ mong muốn thị trường lớn, sản xuất sản lượng cao vì như thế tổng lợi nhuận sẽ cao hơn nhiều) Tăng thuế nhập khẩu ô tô để chống nhập siêu: Đúng là tăng thuế nhập khẩu ô tô thì sẽ hạn chế được việc nhập khẩu ô tô, nhưng nó không chống được nhập siêu. Theo logic, số tiền đáng lẽ dùng để mua ô tô nhập khẩu người ta sẽ chuyển sang mua ô tô lắp ráp trong nước với giá rẻ hơn. Tuy nhiên, ô tô chúng ta đang “sản xuất” thực chất cũng chỉ là tổng hợp của các linh kiện nhập khẩu được lắp ráp lại (do tỷ lệ nội địa hóa của chúng ta quá thấp với nguồn gốc từ việc ngành công nghiệp ô tô kém phát triển). Như thế, bằng cách này hay cách khác, dòng ngoại tệ của chúng ta vẫn hướng ra ngoài, và nhập siêu thì vẫn hoàn… nhập siêu. Người tiêu dùng bớt quan tâm tới các mẫu hàng mới Theo các doanh nghiệp, các showroom ô tô nhập khẩu đang lâm vào tình cảnh “buồn thiu” thậm chí nhiều nơi cả ngày không có một khách hàng nào qua lại thăm hỏi. Thực tế này xuất phát từ 4 quyết định tăng thuế nhập khẩu liên tiếp vừa qua của chính phủ khiến khách hàng tỏ ra dè dặt trước tình hình giá xe ngày càng lên cao. Tâm lí chờ đợi lạm phát hạ nhiệt là câu trả lời của đại đa số khách hàng trong thời điểm này. Ngoài ra, một lí do nữa khiến khách hàng không mặn mà lắm với các showroom vào thời điểm này bởi ngoài chuyện các loại thuế áp vào ô tô nhập khẩu ra, thì sang tháng 6 tới giá một số mặt hàng thiết yếu, trong đó có xăng dầu chắc chắn thay đổi sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí vận chuyển của các doanh nghiệp nhập khẩu mà chính khách hàng sẽ phải bỏ tiền ra trả. Mặt khác, nếu lựa chọn các sản phẩm của các doanh nghiệp lắp ráp ô tô trong nước thì tới thời điểm này mới chỉ có Toyota, Ford và Vidamco chính thức công bố mức giá mới, đón lõng luôn cả những biến chuyển của thị trường tháng 6 tới đây, còn lại gần chục nhà lắp ráp đều chưa có động thái gì. Điều đó đã khiến khách hàng tạm dừng ý định mua xe, chờ đợi thêm một thời gian ngắn nữa cho thị trường bình ổn giá cả rồi mới quyết định đến phương án mua xe gì. Còn các nhà sản xuất nói gì? Bày tỏ quan điểm về những chính sách tác động trực tiếp lên thị trường ôtô Việt Nam (cụ thể là chính sách thuế) thời gian gần đây, Tổng giám đốc Ford Việt Nam, ông Micheal Pease nói: “Một điều mà có thể nhiều người chưa biết là thời gian và hệ thống cung cấp để sản xuất một chiếc ôtô khá dài. Và nghĩa là các chính sách được ban hành ngày hôm nay thì chỉ thực sự có tác động hoàn toàn sau vài tháng nữa. Ví dụ như động thái tăng thuế nhập khẩu lên 83% vào tháng 6 vừa rồi sẽ thực sự gây tác động toàn bộ lên hệ thống cung cấp, sản xuất và kinh doanh của thị trường ôtô  khoảng sau 1 - 2 tháng nữa. Chính vì vậy mà tôi tin rằng nửa cuối của năm mức tăng trưởng của ngành ôtô sẽ giảm một cách đáng kể. Rõ ràng là nếu cứ tiếp tục tăng thuế, thì cầu ôtô trên thị trường sẽ tiếp tục giảm. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các công ty cung cấp phụ tùng, linh kiện, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp phụ tùng cho chúng tôi. Nếu thuế cứ tiếp tục tăng, hậu quả sẽ dẫn đến việc các hãng sản xuất như chúng tôi hoặc phải cắt giảm sản xuất, hoặc phải cắt giảm nhân sự. Vì vậy, nếu Chính phủ đang nghiên cứu để tiếp tục tăng thuế, doanh nghiệp hy vọng Chính phủ sẽ tham khảo ý kiến của các hãng sản xuất trong ngành ôtô, cùng nhau nghiên cứu tình trạng hiện tại, những nguy cơ và phân tích các ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra nếu thuế tăng.” Trở lại với quyết định tăng thuế đối với mặt hàng ô tô mới nguyên chiếc dùng chở người, được biết, đây là lần thứ tư, Bộ Tài chính điều chỉnh thuế nhập khẩu ô tô trong vòng hơn một năm trở lại đây. Chỉ có điều khác với ba lần điều chỉnh năm 2007 (mỗi lần điều chỉnh giảm 10%, từ 90% xuống còn 60% vào cuối năm 2007), lần này Bộ Tài chính lại tăng thuế nhập khẩu lên 10% so với mức thuế hiện tại. Với 3 lần điều chỉnh trước, Nhà nước đã kéo lại được sự chênh lệch trên cán cân thị phần giữa các doanh nghiệp nhập khẩu và các cơ sở lắp ráp xe hơi trong nước, góp phần kiềm chế sự độc chiếm về giá của doanh nghiệp nội địa, đem lại những kết quả tích cực cho thị trường xe hơi tại Việt Nam. Thế nhưng, với việc sửa đổi thuế suất theo kiểu tụt lùi này đã bộc lộ sự yếu kém trong khâu dự báo của cơ quan hoạch định chính sách – tồn tại đã gây rất nhiều khó khăn cho việc điều tiết tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát của đất nước thời gian qua. Đối với các doanh nghiệp lắp ráp ô tô trong nước, mặc dù được bảo hộ nhiều nhưng suốt một thời gian dài, ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước không những không giảm mà còn tăng giá, buộc lòng người tiêu dùng phải quay sang mua xe nhập khẩu vừa có chất lượng cao, lại có mức giá hấp dẫn. Đành rằng, việc bảo hộ sản xuất nội địa là chủ trương đúng, nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, tuy nhiên, sự thiếu cân đối khi ban hành các chính sách thuế một mặt mang lại cơ hội làm ăn lớn cho các doanh nghiệp lắp ráp nhưng cũng gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Chị Nguyễn Mỹ Ngọc - một chủ doanh nghiệp mới được cấp giấy phép kinh doanh xe hơi nhập khẩu cho biết: “Quyết định sửa đổi thuế lần này của Bộ Tài chính được đưa ra quá đột ngột, thiếu sự minh bạch. Nếu chúng tôi biết trước lộ trình điều tiết thuế của Nhà nước, chắc chắn doanh nghiệp sẽ có kế hoạch kinh doanh vào thời điểm hợp lý, tránh tình trạng chi phí đầu tư đã bỏ ra lớn trong khi sức mua xe nhập khẩu thấp, giảm khả năng thu hồi vốn ngắn hạn.” Cũng theo chị Ngọc: “Nếu để giảm ách tắc giao thông thì Nhà nước phải điều chỉnh thuế đồng loạt cho cả xe nhập và xe lắp ráp trong nước, để giảm lượng xe đăng ký mới, có như vậy mới đảm bảo minh bạch và công bằng, tạo một thị trường lành mạnh nhằm hạ giá bán, tăng sức mua. Với mức thuế suất mới này, chắc chắn người tiêu dùng sẽ ngày càng khó có cơ hội mua xe ô tô giá rẻ”. Rõ ràng, nếu như các văn bản về chính sác thuế được tham vấn ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp và nhân dân trước khi ban hành thì hiệu quả của nó sẽ tăng lên nhiều lần, đồng thời đáp ứng quyền lợi của các thành phần kinh tế, phù hợp với tiêu chí minh bạch trong việc ban hành chính sách của mỗi quốc gia trong thời kỳ hội nhập. Đoạn kết cho các doanh nghiệp nhỏ? Công bằng mà nói thì Quyết định số 10 của Bộ Công Thương chưa phải là cú đấm quyết định sống còn cho các doanh nghiệp nhập khẩu ô tô nhưng cũng đủ khiến họ choáng váng. “Trước đây thuế chỉ phải nộp sau 30 ngày kể từ ngày nhận hàng đã giúp chúng tôi giảm được nhiều gánh nặng về tài chính và có thể quay vòng được vốn” - giám đốc một công ty nhập khẩu ôtô tại Hà Nội tiết lộ. Quyết định này chắc chắn sẽ khiến các công ty quy mô nhỏ điêu đứng khi mà số vốn của họ đã dốc hết vào những chuyến hàng trên đường cập cửa khẩu, nhu cầu khẩn thiết của họ hiện nay là làm sao huy động đủ tiền để hoàn thành thủ tục nhập xe. Với quyết định mới của Bộ Công Thương cùng thuế suất nhập khẩu ô tô nguyên chiếc đã tăng thành đến 83% với những quyết định kể từ đầu năm, đã khiến cho một số doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhập khẩu quy mô nhỏ đã lao đao về bài toán kinh tế. Trước kia, vào thời điểm thuế suất ở mức 60 - 70%, doanh nghiệp nhập khẩu còn có thể ung dung cạnh tranh với các liên doanh lắp ráp nhưng giờ đây, lợi nhuận cùa họ bị ảnh hưởng rất lớn khi luôn phải đưa ra những bài toán kinh tế đối phó với những thay đổi do các nhà quản lí đưa ra. Tuy nhiên, việc Bộ Công Thương ra quyết định mới này cũng có những cái nhìn khá tích cực với nhận định thị trường xe hơi sẽ lập lại trật tự, công bằng hơn khi các nhà nhập khẩu cùng thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, không còn cảnh chạy ngược chạy xuôi với các văn bản thuế để quyết định thời điểm mở tờ khai. Dự báo của doanh nghiệp về thị trường ôtô tại Việt Nam thời gian tới? “Trước hết tôi xin nói tổng quan về ngành công nghiệp ôtô ở Việt Nam, trong đó có Ford Việt Nam. Nửa cuối năm 2007 chúng ta đã chứng kiến một sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường. Sang nửa đầu 2008, sự tăng trưởng này còn nóng hơn nữa. Tất nhiên, mức tăng trưởng này là không bền vững vì nó cao hơn nhiều mức tăng trưởng kinh tế thực tế. Khi Việt Nam gặp phải tình trạng lạm phát cao, Nhà nước bắt buộc phải áp dụng các biện pháp thắt chặt tín dụng, tăng lãi suất và giảm tính thanh khoản, thì việc mua xe hơi trở nên khó khăn hơn nhiều. Vì vậy chúng tôi dự kiến một sự sụt giảm lớn trong ngành trong nửa cuối 2008. Tôi ước tính mức tăng trưởng trong toàn ngành ôtô nửa cuối 2008 chỉ bằng 50% của nửa đầu năm 2008. Riêng với Ford Việt Nam, chúng tôi cũng có một sự tăng trưởng đáng kể trong nửa đầu năm vừa qua. Khách hàng đặt hàng nhiều hơn lượng chúng tôi có thể sản xuất để đáp ứng, vì vậy chúng tôi vẫn còn một lượng lớn các đơn đặt hàng trước mà chúng tôi sẽ phải cung cấp từ giờ đến cuối năm. Chúng tôi khá tự tin mức tăng trưởng của Ford đến cuối năm sẽ vẫn khá tốt nhờ vào lượng đơn đặt hàng trước và sự tín nhiệm của các khách hàng khác nữa. Cho nên, tôi có thể dự đoán sự giảm sút trong lượng bán hàng của Ford không đến 50% như toàn ngành, tuy nhiên, vẫn sẽ có sự giảm sút do khó khăn chung của nền kinh tế. Tôi cũng dự đoán năm 2009 sẽ là năm khó khăn cho ngành ôtô. Ngành công nghiệp ôtô sẽ tiếp tục sụt giảm trong nửa đầu năm và ngành sẽ chỉ phục hồi dần và lấy lại mức tăng trưởng vào khoảng cuối năm 2009.” (ý kiến một giám đốc của Ford) III/ Thuế XNK ở Việt Nam trong tương lai sẽ như thế nào? Theo số liệu mới cập nhật của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong 2 tháng đầu năm 2008 đạt 1,96 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm ngoái. Vì vậy, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ vẫn tăng trưởng mạnh. Đặc biệt là hai nhóm hàng chủ lực: may mặc và đồ nội thất. Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 chắc chắn sẽ không nhận được nhiều cú huých mạnh mẽ từ việc gia tăng đầu tư như những năm trước. Nhưng nếu xuất khẩu vẫn được duy trì ngay cả khi kinh tế toàn cầu đi xuống, thì tăng trưởng GDP cũng sẽ không bị suy giảm nhiều. Bởi vậy, để khuyến khích xuất khẩu, có thể trong thời gian tới Nhà nước sẽ có những điều chỉnh để làm giảm thuế suất xuất khẩu đối với những mặt hàng xuất khẩu sang các nước , nhất là Hoa Kỳ. Do có nhiều ý kiến phản hồi từ việc đánh thuế nhập khẩu ô tô quá cao và không hợp lý nên rất có thể thời gian sắp tới, thuế nhập khẩu ô tô sẽ được điều chỉnh cho phù hợp hơn. Theo những cam kết đã ký khi gia nhập WTO, một số dòng thuế nhập khẩu ở Việt Nam sẽ nhanh chóng được cắt giảm đến mức đã ký trong cam kết gia nhập. Theo dự thảo của Bộ Tài chính thì giá tài nguyên khoáng sản trên thế giới có xu hướng tăng mạnh trong năm 2007 và 2008. Chênh lệch giữa giá thế giới và giá trong nước khiến doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu thu lợi nhuận cao. Thời gian qua, lượng xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản, vật tư, nguyên liệu ngày càng tăng dễ dẫn đến nguy cơ bị cạn kiệt. Cụ thể là theo thông tin mới nhất, Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam (TKV) cho biết nếu căn cứ vào quy hoạch của các ngành điện, xi măng, giấy, đạm, luyện kim, hóa chất... thì đến năm 2012 Việt Nam bắt đầu thiếu than và phải nhập khẩu từ nước ngoài. Trước tình hình đó, Bộ tài chính cũng đã tăng thuế xuất khẩu một số mặt hàng lên mức cao nhất của khung thuế suất và có thể còn cao hơn trong thời gian tới để hạn chế “chảy máu” tài nguyên đất nước. Thời gian qua, Nhà nước thực hiện chủ trương bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu, nhờ vậy giá sắt thép thấp hơn giá thế giới. Tuy nhiên, nhà sản xuất lại xuất khẩu phôi thép ra bên ngoài, dễ dẫn đến tình trạng thiếu nguồn cung phục vụ sản xuất, xây dựng trong nước. Để hạn chế tình trạng này, dự thảo nâng khung thuế lên mức 1 – 40% để Bộ tài chính có thể áp dụng mức 40% trong trường hợp cần thiết. Mặt hàng phân bón hiện không phải chịu thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng có tình trạng xuất phân bón ra nước ngoài để hưởng chênh lệch giá, do đó Bộ tài chính dự thảo đánh thuế xuất khẩu trong khung 0 –30%. Theo dự thảo này, mặt hàng lúa gạo (thuộc nhóm 1006, khung thuế xuất khẩu hiện hành là 0 - 3%). Đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam. Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh lương thực trong nước và điều tiết hoạt động xuất khẩu những lúc được giá, dự thảo này đề nghị giãn khung thuế xuất khẩu gạo thành phẩm 0 – 40%. Theo dự thảo, quặng sắt sẽ có khung mới là 5-40%. Tương tự, than xuất khẩu sẽ có mức trần thuế xuất khẩu là 45% thay vì 20% như hiện nay, thâm chí mức sàn hiện nay của than xuất khẩu là 1% cũng được nâng thành 5%. Ngoài ra, dự thảo này cũng nâng khung thuế xuất khẩu dầu thô thành 5 – 50%, thay cho mức hiện nay là 2 – 20%. Một số mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu cũng được tăng mức trần nhưng tăng nhẹ, như dừa và hạt điều hiện là 0-4%, tăng thành 0 – 10%, chè từ 0 – 3% lên 0 – 5%, ngô từ 0-3% lên 0 –10%. Bộ Tài chính cho rằng các mặt hàng này có thế mạnh xuất khẩu, tuy nhiên để điều hành linh hoạt trong trường hợp khan hiếm nguyên liệu trong nước do mất mùa, thiên tai, bão lụt... Ngoài ra, cát và đá có khung thuế suất hiện hàng là 0 – 20% cũng được tăng thành 5-30% nhằm bảo đảm nhu cầu xây dựng cơ bản trong nước, hạn chế ô nhiễm môi trường. Vào cuối năm nay, cả nước sẽ có 6 nhà máy xi măng đi vào hoạt động với công suất lên tới 6,6 triệu tấn. Đó là, xi măng Công Thanh, Thăng Long, Tây Ninh, Chinfon Hải Phòng, Hoàng Long và Tuyên Quang. Sang năm 2009, sẽ tiếp tục có thêm 17 nhà máy sản xuất xi măng mới sẽ đi vào hoạt động, với công suất dự kiến lên tới 19,4 triệu tấn/năm.  Theo tính toán của Bộ Xây dựng, tổng công suất các nhà máy xi măng trên cả nước từ năm 2009 sẽ đạt khoảng 56,2 triệu tấn. So với nhu cầu xi măng hiện nay của Việt Nam khoảng 40 triệu tấn/năm, từ năm tới, thị trường Việt Nam sẽ thừa hàng chục triệu tấn/năm và lúc đó Việt Nam sẽ phải tìm đường để xuất khẩu xi măng. Như vậy, để đảm bảo cho nguồn thu ngân sách Nhà nước, có thể thuế xuất khẩu xi măng trong thời gian tới sẽ tăng mạnh. KẾT LUẬN Thuế xuất nhập khẩu không chỉ đơn thuần được sử dụng như một công cụ để làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước mà còn được sử dụng như một công cụ để bảo hộ sản xuất trong nước. Vai trò của thuế xuất nhập khẩu càng được khẳng định khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Cơ hội đến với nước ta nhiều, nhưng thách thức, nguy hiểm cũng ngày càng lớn. Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã có những đổi mới tích cực về chính sách thuế , đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu sao cho phù hợp nhất với tình hình kinh tế đất nước, và phù hợp với các điều luật của WTO. Việc làm này đã tạo cho nền kinh tế Việt Nam có những nét chuyển biến lớn rõ rệt. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cải cách chính sách về thuế XNK, Việt Nam cũng đã mắc phải một số sai lầm, bế tắc. Điều này đòi hỏi Nhà nước cần có những giải pháp kịp thời khắc phục mặt hạn chế. Đồng thời tiếp tục tiến hành sửa đổi luật thuế, điều chỉnh bài toán xuất nhập khẩu hợp lí, tăng tính cạnh tranh cho thị trường Việt Nam, nghiêm khắc trừng phạt những hành vi vi phạm vừa để phát triển nền kinh tế, vừa ngăn chặn chảy máu tài nguyên quốc gia. Thuế xuất nhập khẩu là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế Việt Nam trong thời kì hội nhập. Việc đề ra chính sách đúng đắn hợp lí của Nhà nước, phải đi đôi với việc nghiêm chỉnh đóng thuế xuất nhập khẩu của cá nhân và doanh nghiệp mới có thể tạo nên một con đường sáng sủa, rõ ràng, tạo điều kiện để nước ta có thể đương đầu với những cơ hội thách thức lớn mà WTO mang lại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL7900I M7902 2727846U.doc
Tài liệu liên quan