Tiểu luận Quan hệ giữa xã hội và tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay

“Ước gì có nước sạch để uống”- một điều ước rất nhỏ thôi cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Có những con người, những gia đình đang phải sử dụng nguồn nước tiềm ẩn nhiều mầm bệnh nguy hiểm, đang phải sống ở những khu vực đầy khói bụi ô nhiễm chính con người đã làm cho môi trường sống của họ trở nên ô nhiễm, và cũng chính họ đang phải gánh chịu những hậu quả của nó. Vì sức khỏe của bản thân và của cộng đồng chúng ta hãy bảo vệ môi trường.

doc17 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1696 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan hệ giữa xã hội và tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời mở đầu………………………………………………………………….4 1. Mối quan hệ biện chứng giữa xã hội và tự nhiên………………………...5 1.1. Xã hội – Tự nhiên……………………………………………………....5 1.2. Quan hệ giữa tự nhiên và xã hội………………………………………..5 1.2.1. Vai trò của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội………………………….5 trong hệ thống tự nhiên – xã hội 1.2.2. Con người trong quan hệ Tự nhiên – Xã hội…………………………6 1.2.2.1. Vai trò của con người trong mối quan hệ tự nhên - xã hội…………6 1.2.2.2. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào……………7 trình độ phát triển của xã hội 1.3. Mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên phụ thuộc vào……………………8 trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn 2. Vấn đề môi trường………………………………………………………...9 2.1. Môi trường, tài nguyên và hệ sinh thái………………………………….9 2.1.1 Khái niệm môi trường………………………………………………….9 2.1.2 Tài nguyên thiên nhiên………………………………………………..10 2.1.3 Hệ sinh thái…………………………………………………………... 11 2.2. Những vấn đề bảo vệ môi trường……………………………………....11 2.2.1. Tác động của con người vào môi trường……………………..............12 2.2.2. Những biến đổi tiêu cực của môi trường do hoạt động……………....13 của con người 2.2.3.Những hậu quả do môi trường bị biến đổi và ô nhiễm gây ra…………15 2.2.4. Các biện pháp bảo vệ môi trường……………………………………..15 2.2.5. Mấy vấn đề về tài nguyên và môi trường trong tiến…………………..16 trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Kết luận……………………………………………………………………….17 Danh sách tài liệu tham khảo…………………………………………………19 LỜI MỞ ĐẦU Thế giới của chúng ta tồn tại và phát triển dựa trên vô số những mối quan hệ vô cơ và hữu cơ phức tạp. Trong đó, hai thành phần có thể nối là trọng yếu nhất để tạo nên sự tồn tại và phát triển ấy là : Tự nhiên và Xã hội. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội là mối quan hệ biện chứng cơ bản. Tìm hiểu sự tác động qua lại giữa tự nhiên và xã hội là tìm hiểu mối quan hệ quan trọng nhất, căn bản nhất trong tiến trình lịch sử thế giới. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng, các chính sách thương mại, tài nguyên và môi trường có vai trò hỗ trợ lẫn nhau, nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và thực sự nó đang nỗ lực giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Do đó, một quốc gia để đạt được mục tiêu trở thành một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, bền vững cần khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tự nhiên. Trong xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại, các nước đang phát triển rất quan tâm tới việc chống lại và loại bỏ khả năng tiếp cận thị trường của các sản phẩm nhập khẩu vào nước họ mà không tuân thủ các quy trình sản xuất, các sản phẩm không phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường. Môi trường là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của toàn thế giới. Trong mấy chục năm trở lại đây do sự phát triển kinh tế ồ ạt dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh làm cho môi trường bị biến đổi chưa từng thấy. Nhiều nguồn tài nguyên bị vắt kiệt, nhiều hệ sinh thái bị tàn phá mạnh, nhiều cân bằng trong tự nhiên bị rối loạn. Môi trường lâm vào khủng hoảng với quy mô toàn cầu, trở thành nguy cơ thực sự đối với cuộc sống hiện tại và sự tồn vong của xã hội trong tương lai. Lựa chọn đề tài này em muốn trình bày quan điểm của mình trong vấn đề bảo vệ môi trường. Là một sinh viên, là thế hệ trẻ, thế hệ làm chủ tương lai của đất nước thì việc tìm hiểu về môi trường và việc nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường lại càng thiết yếu, nhất là trong quá trình hội nhập của đất nước. Cho nên trong bài tiểu luận này em trình bày những điểm cơ bản về : Quan hệ giữa xã hội và tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay. Chương I : MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA XÃ HỘI VÀ TỰ NHIÊN I. Xã hội – Tự nhiên Tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất vô cùng, vô tận tồn tại khách quan. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống cùng với sự xuất hiện của con người. Tự nhiên là một trong những yếu tố cơ bản và cần thiết nhất cho sự sống, là điều kiện thường xuyên và tất yếu trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội. Tự nhiên cho con người nơi cư trú, cung cấp những thứ cần thiết nhất cho sự sống của con người. Nhưng con người bằng lao động tác động trở lại giới tự nhiên, khai thác và cải biến giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất, là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Hình thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ của các cá nhân, “là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”. Như vậy xã hội được hình thành thông qua những hoạt động có ý thức của con người, xã hội tự có những quy luật riêng của nó mà con người cũng phải tuân theo.Đồng thời với sự tiến hóa của tự nhiên, xã hội cũng có một quá trình phát triển lịch sử của mình, thể hiện bằng sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng trong cơ cấu xã hội. Ngay từ đầu con người đã dựa vào những ưu đãi mà thiên nhiên ban tặng để sinh sống, tồn tại, tiến hóa. Ban đầu con người chỉ biết sử dụng mà chưa biết cải tại phát triển những sản phẩm tự nhiên. Trải qua hàng nghìn năm con người đã dần chinh phục được tự nhiên, bằng trí tuệ của mình, họ đã không còn sống phụ thuộc vào tự nhiên, ngược lại bắt tự nhiên phục vụ cho các nhu cầu ngày càng cao của họ. II. Quan hệ giữa tự nhiên và xã hội 1. Vai trò của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội trong hệ thống tự nhiên – xã hội : Hệ thống tự nhiên - xã hội là một chỉnh thể trong đó những yếu tố tự nhiên và những yếu tố xã hội tác động qua lại lẫn nhau. Tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại và phát triển của xã hội, xã hội thì ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc biến đổi và phát triển của tự nhiên. Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vì xã hội được hình thành trong qua trình tiến hóa của thế giới vật chất. Là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người cũng như cung cấp đầy đủ những điều kiện cần thiết cho các hoạt động sản xuất xã hội. Ngày nay con người với khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại đã chế tạo ra những vật liệu không có sẵn trong tự nhiên, nhưng suy đến cùng thì những thành phần tạo nên chúng cũng xuất phát từ tự nhiên. Với tư cách là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội, tự nhiên có thể tác động thuận lợi hay gây khó khăn cho sản xuất xã hội, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của chính bản thân xã hội. Xã hội gắn bó với tự nhiên nhờ các dòng vật chất, năng lượng, thông tin và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là quá trình lao động sản xuất. Tự nhiên là nguồn cung cấp các tư liệu sinh hoạt và sản xuất cho xã hội, xã hội là bộ phận tiêu thụ, biến đổi tự nhiên mạnh mẽ. Xã hội có thể sử dụng tất cả các nguồn vật chất vốn có trong khí quyển, từ động vật, thực vật đến vi sinh vật… từ đất đá, cát sỏi đến các loại khoảng sản… từ những nguồn vật chất có hạn và tái tạo được đến các nguồn vật chất như ánh sáng, không khí, nước…vv… Và con người bằng lao động của mình cũng tham gia vào quá trình biến đổi, cải tạo tự nhiên. Lao động là yếu tố đầu tiên cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên bởi “lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, là một quá trình mà trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”. Tuy vai trò là khác nhau nhưng cả hai yếu tố tự nhiên và xã hội cùng nhau hợp thành một hệ thống thống nhất. Sự thống nhất của hệ thống này được xây dựng trên cơ sở cấu trúc liên hoàn chặt chẽ của sinh quyển và được đảm bảo bởi cơ chế hoạt động của chu trình sinh học, đó là chu trình trao đổi chất, năng lượng, thông tin giữa các hệ thống vật chất với môi trường tồn tại của con người trong tự nhiên. Chu trình này hoạt động tuân theo những quy luật và những nguyên tắc tổ chức chung mà cả hai yếu tố cùng phải tuân theo đồng thời thì mới đảm bảo cho một sự phát triển bền vững. Để giữ được môi trường tồn tại và phát triển của mình, con người phải nắm chắc các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, kiểm tra điều tiết hợp lý việc bảo quản, khai thác sử dụng và tái tạo các nguồn vật chất của tự nhiên để đảm bảo sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội. 2. Con người trong quan hệ Tự nhiên – Xã hội Vai trò của con người trong mối quan hệ Tự nhiên – Xã hội Con người có nguồn gốc tự nhiên, là sản phẩm cao nhất của quá trình tiến hóa thế giới vật chất. Con người vừa là hiện thân vừa là hạt nhân của sự thống nhất biện chứng giữa xã hội với tự nhiên. Con người sống trong môi trường tự nhiên như một động vật, để tồn tại và phát triển họ cũng có những nhu cầu thiết yếu như bất kì một động vật nào khác và đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt những quy luật sinh học. Chính tự nhiên là tiền đề cho sự phát triển và tồn tại của họ. C.Mác khẳng định “giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”, “con người sống bằng giới tự nhiên”. Song con người chỉ có thể trở thành con người đích thực khi được sống trong môi trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người với người. Tuy nhiên dù có lệ thuộc rất nhiều vào tự nhiên và xã hội nhưng chính con người mới là thành phần quyết định xu hướng phát triển tiếp theo của hai yếu tố đó, bởi vì có con người mới có xã hội và có mối quan hệ tự nhiên xã hội, phải có lao động của con người thì phương thức sản xuất của xã hội mới phát triển lên trình độ cao hơn, và từ đó làm biến đổi tự nhiên theo hình thức mới. Nếu con người tiến hành hoạt động sống và sản xuất đúng cách thì cả tự nhiên và xã hội đều sẽ biến đổi tốt, ngược lại nếu nhận thức và hành động của họ đều sai lầm thì hai yếu tố kia sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Ta có thể hiểu, ban đầu tự nhiên sinh ra con người, con người lại tạo ra xã hội. Xã hội được biến đổi sẽ làm cho nhu cầu con người tiếp tục tăng à xu hướng khai thác tự nhiên tăng à thực trạng tự nhiên tác động đến con người à con người có định hướng xã hội tiếp theo… Quá trình này cứ liên tục diễn ra. Nhưng cũng có lúc tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội, đó là khi có hạn hán, lũ lụt, động đất, sóng thần… Khi đó xã hội cần có con người khắc phục những sự cố thiên tai đó. Cũng có những hoạt động xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới tự nhiên như thủng tầng ozon, mưa axit… lúc đó con người cũng làm nhiệm vụ khắc phục, kiểm soát những hoạt động xã hội. Vậy là dù tự nhiên và xã hội có sự tác động qua lại lẫn nhau, nhưng con người vì sự tồn tại của bản thân con người mà luôn tham gia giải quyết kết quả của những sự tác động đó. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội Lịch sử xã hội là sự tiếp tục của lịch sử tự nhiên. Chỉ có quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau con người mới làm nên lịch sử của mình. Mối quan hệ đó biểu hiện thông qua lực lượng sản xuất, hay nói cách khác, lực lượng sản xuất là biểu hiện sự chinh phục tự nhiên của con người, chính quá trình quan hệ với tự nhiên con người đã cải biến giới tự nhiên. Lực lượng sản xuất luôn vận động và biến đổi, quyết định các bước chuyển vĩ đại về chất của xã hội loài người. Thông qua hoạt động của mình, con người làm cho lịch sử xã hội và tự nhiên gắn bó và quy định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định lẫn nhau ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội mà tiêu chí để đánh giá nó là phương thức sản xuất. Cũng chính phương thức sản xuất quy định tính chất của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên vì mỗi phương thức sản xuất khác nhau sẽ có những công cụ lao động khác nhau để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến hành sản xuất khác nhau. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đều được đặc trưng bởi một trình độ phát triển của công cụ nhất định. ( Ví dụ như nền văn minh nông nghiệp được đặc trưng bằng các công cụ sản xuất kim loại thủ công thô sơ, nền văn minh công nghiệp có các máy móc làm đặc trưng…). Khi công cụ lao động thay đổi, khi mục đích sản xuất thay đổi thì tính chất của mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên cũng thay đổi. Tuy nhiên, xã hội đối xử với tự nhiên ra sao là tùy thuộc vào bản chất chế độ xã hội, vào quan hệ sản xuất thống trị. Có những cách thức tác động vào tự nhiên khác nhau, ứng với mỗi chế độ xã hội khác nhau. Chẳng hạn như, dưới chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - chế độ lấy lợi nhuận làm mục đích - thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà chủ yếu là đối tượng để khai thác, chiếm đoạt nhằm đạt được mục đích của mình. Khủng hoảng sinh thái xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa sự sống của cả nhân loại là một điều tất yếu của việc quá lạm dụng tự nhiên, không tôn trọng tự nhiên. Bởi vậy, để tồn tại và phát triển , con người cần phải quay về chung sống với tự nhiên, thay đổi phương thức khai thác và sử dụng những tài nguyên thiên nhiên và quan trọng hơn cả phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - nguồn gốc sâu xa phá hoại thiên nhiên để tiến tới việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, nâng cao trình độ phát triển của xã hội. Xây dựng một môi trường tự nhiên trong sạch về nhiều mặt là việc làm không phải là của riêng một quốc gia, một dân tộc. 3. Mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn Bằng hoạt động thực tiễn con người và xã hội ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự biến đổi và sự phát triển của tự nhiên. Con người cần tuân thủ những quy luật xã hội trong hoạt động thực tiễn, trước hết là hoạt động sản xuất xã hội. Nếu con người tác động vào giới tự nhiên theo đúng quy luật của nó thì con người đã tạo ra “thiên nhiên thứ hai” hài hòa đối với sự phát triển của xã hội. Ngược lại, nếu con người bất chấp quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn trong tự nhiên thì sự nghèo nàn dần của giới tự nhiên và việc phá vỡ sự cân bằng hệ thống tự nhiên – xã hội là không tránh khỏi. Cuối cùng thì con người cũng sẽ phải gánh chịu hậu quả của những gì con người đã gây ra, đấy là lúc thiên nhiên nổi giận. “Sự việc nhắc nhở chúng ta từng giờ từng phút rằng chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị dân tộc khác, như một người sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta , với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả những sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác” – Ăngnghen. Bên cạnh việc nắm được quy luật tự nhiên, con người cần nắm được quy luật xã hội. Chỉ có nắm vững các quy luật của xã hội và triệt để vận dụng nó, con người mới xác định được đúng đắn mục đích của quá trình sản xuất và mới có ý thức tự giác lựa chọn những công cụ, phương tiện hợp lý để thực hiện mục đích đó, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của toàn xã hội trong mối quan hệ hài hòa tự nhiên - xã hội. Nhưng chỉ nhận thức thôi chưa đủ. Con người còn phải biết vận dụng những cái họ nhận thức được vào hoạt động thực tiễn : cần phải sống, lao động và sản xuất cho phù hợp với quy trình vận động chung của xã hội và tự nhiên. Ngoài ra, chúng ta cần phải xây dựng được một xã hội có đủ điều kiện giúp con người không ngừng nâng cao nhận thức cũng như sửa đổi những hành vi của mình cùng quy luật phát triển của hai yếu tố trên. Nhưng cần phải hướng tới một xã hội như thế nào ? Như ta đã biết mối quan hệ tự nhiên và xã hội trước hết phụ thuộc vào quan hệ sản xuất, vào chế độ xã hội, vào tính chất của những điều kiện chính trị kinh tế, xã hội mà trong đó con người đang sống. Muốn điều khiển được lực lượng tự nhiên cần phải điều khiển được lực lượng xã hội. Do đó để khắc phục tình trạng tự nhiên bị phá hủy chúng ta phải thay thế quan hệ sản xuất, thay đổi chế độ thống trị tư bản chủ nghĩa - hệ thống chính trị không chỉ bóc lột con người mà còn ngang nhiên vơ vét tài sản của tự nhiên. Cần phải hướng tới chủ nghĩa cộng sản - chủ nghĩa lý tưởng, chủ nghĩa sẽ giải quyết tốt mâu thuẫn giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên. Trong đó sự phát triển của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Tóm lại, con người cần không ngừng nâng cao nhận thức của mình về quy luật vận động của tự nhiên cũng như của xã hội, cần biết vận dụng chúng vào thực tiễn. Cần vươn tới một xã hội cao hơn về chất để từ đó góp phần đưa quỹ đạo vận động của toàn bộ tự nhiên và xã hội đi theo một hướng tiến lên. * * * Chương II : VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG I. Môi trường, tài nguyên và hệ sinh thái 1. Khái niệm về môi trường Môi trường sống Trước hết, hiểu theo nghĩa thông thường nhất thì khái niệm môi trường phải gắn liền với khái niệm sự sống, vì môi trường là điều kiện cho sự phát triển của sự sống. Như vậy, môi trường là toàn bộ các điều kiện tự nhiên tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của sinh vật. Với môi trường sống người ta phân biệt ra 4 loại chính : - Môi trường nước gồm : ao, hồ, sông, suối, biển và đại dương với các dạng nước ngọt, nước lợ và nước mặn. - Môi trường đất bao gồm các loại đất khác nhau trên đó có các quần xã sinh vật sinh sống. - Môi trường không khí gồm lớp không khí bao quanh Trái đất. - Môi trường sinh vật bao gồm các động vật, thực vật và con người, là nơi sống của các kí sinh, cộng sinh và bì sinh. Môi trường địa lí Trong môi trường, con người là một sinh vật đặc biệt, khác với các sinh vật khác ở chỗ : biết sáng tạo và sử dụng các công cụ lao động. Bởi vậy , con người tuy chịu ảnh hưởng của các quy luật tự nhiên, nhưng lại có khả năng tác động trở lại tự nhiên một cách mãnh mẽ, làm biến đổi môi trường tự nhiên. Do vậy môi trường có con người sinh sống mang dấu vết xã hội của nó. Các nhà địa lí gọi môi trường đó là môi trường địa lí. “Môi trường địa lí là một bộ phận tự nhiên của bề mặt trái đất bao quanh con người, bị thay đổi bởi xã hội loài người ở mức độ này hay mức độ khác, còn xã hội ở những thời điểm nhất định có quan hệ trực tiếp với bộ phận đó trong thời gian sinh sống và hoạt động sản xuất của mình” – Viện sĩ X. V Kalétxních phát biểu năm 1971. Khái niệm môi trường Hiện nay, quan niệm về môi trường được hiểu một cách đầy đủ hơn. Theo định nghĩa của UNESCO (1981) thì : “môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và hệ thống con người tạo ra (các hệ sinh thái, môi trường văn hóa…), trong đó con người sống và bằng lao động của mình, khai thác những tài nguyên tự nhiên và nhân tạo, nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.” Ngoài những khái niệm về môi trường nói trên, xuất phát từ những góc độ riêng, người ta còn nói đến các khái niệm môi trường với tính chất và đặc điểm khác nhau như môi trường đô thị, môi trường nông thôn, môi trường gia đình, môi trường học đường…v.v.. 2. Tài nguyên thiên nhiên Xã hội loài người tồn tại và phát triển được là dựa vào tự nhiên. Toàn bộ các nguồn vật chất, năng lượng và thông tin có trên Trái đất và trong không gian vũ trụ được con người sử dụng, đều gọi là nguồn tài nguyên thiên nhiên. Số lượng tài nguyên thay đổi theo quá trình phát triển của xã hội. Xã hội càng phát triển thì các nguồn vật chất năng lượng và thông tin được đưa vào sử dụng ngày càng nhiều Có thể chia tài nguyên thiên nhiên thanh hai nhóm. -Nguồn tài nguyên không bị cạn kiệt -Nguồn tài nguyên bị cạn kiệt Nguồn tài nguyên không bị cạn kiệt Bao gồm các nguồn năng lượng vũ trụ như ánh sáng mặt trời, sức hút của trái đất, thủy triều, gió… hoặc các nguồn tài nguyên vật chất không bị cạn kiệt về số lượng, nhưng bị biến đổi về số lượng và sự phân bố của chúng như tài nguyên khí hậu, tài nguyên nước… Nguồn tài nguyên bị cạn kiệt. Có thể chia ra : -Nguồn tài nguyên không thể phục hồi được gồm các khoáng sản. Số lượng của các loại này có hạn và sự hình thành của chúng liên quan với các quá trình địa chất dài hàng triệu năm. -Nguồn tài nguyên có thể phục hồi bao gồm các loại thực vật và động vật, đất và độ phì của đất. ( ví dụ : rừng cây bị chặt sẽ mọc lại, động vật bị đánh bắt sẽ sinh sản tiếp…). Tuy nhiên những loại này nếu con người sửdụng quá mức, vượt quá khả năng hồi phục của chúng thì chúng cũng sẽ cạn kiệt. Trong thực tế nhiều khu rừng đã bị khai thác quá nhiều và biến thành đồi trọc, nhiều loài động thực vật đã bị tuyệt chủng và đang có nguy cơ tuyệt chủng… Do vậy dù là tài nguyên có thể hồi phục hay không thể hồi phục thì chúng ta cũng cần phải bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý để nó không dần mất đi và trở nên xa lạ với chúng ta. 3. Hệ sinh thái Hệ sinh thái có thể hiểu nó bao gồm quần xã sinh vật ( động vật, thực vật, vi sinh vật ) và môi trường vô sinh (ánh sáng, nhiệt độ, chất vô cơ…). Tùy theo cấu trúc ding dưỡng tạo nên sự đa dạng về loài, cao hay thấp, tạo nên chu trình tuần hoàn vật chất. Hệ sinh thái có kích thước to nhỏ khác nhau và cùng tồn tại độc lập (nghĩa là không nhận năng lượng từ hệ sinh thái khác ) Trong các hệ sinh thái, các quần xã sinh vật và các yếu tố của môi trường thường xuyên tác động lẫn nhau qua sự trao đổi vật chất và năng lượng để tiến tới một sự cân bằng nhất định. Tuy các hệ sinh thái đều có khả năng tự điều chỉnh, tự lập lại cân bằng, song sự tự điều chỉnh đó cũng có giới hạn nhất định. Nếu vượt quá một giới hạn nào đó thì hệ sinh thái bị phá hủy. Như chúng ta đều biết, từ khi xuất hiện trên Trái đất, con người thường xuyên tác động vào môi trường, tìm cách biến đổi một số yếu tố của môi trường để phục vụ cho lợi ích của mình mà không quan tâm đến thiệt hại của các thành phần và yếu tố khác. Hơn nữa trong toàn bộ lịch sử của mình chưa bao giờ con người lại có trình độ khoa học kĩ thuật cao và những biện pháp khai thác thiên nhiên đạt tốc độ nhanh như bây giờ. Thực trạng đó đang là nguy cơ về một sự khủng hoảng sinh thái, một sự suy thoái môi trường trầm trọng đe dọa loài người. Bởi vậy sự cân bằng của các hệ sinh thái là rất cấp thiết. Bảo vệ cân bằng của các hệ sinh thái chính là bảo vệ môi trường. II. Những vấn đề bảo vệ môi trường Tác động của con người vào môi trường Môi trường tự nhiên là cơ sở cho sự sinh tồn và phát triển của loài người. Nó cung cấp cho con người toàn bộ vật chất, năng lượng để con người sinh sống và sản xuất. Tuy nhiên trong quá trình phát triển của xã hội con người đã dần dần làm thay đổi môi trường sống của mình. Mức độ can thiệp của con người vào tự nhiên có thể đánh giá qua các giai đoạn phát triển sau đây : Hái lượm. Đó là hoạt động kinh tế nguyên thủy nhất, chuyên khai thác thức ăn thực vật có sẵn trong tự nhiên (trái cây, rau củ …), thu lượm các nguồn thức ăn động vật (côn trùng, mật ong, trứng chim…). Con người phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên ( đây con gọi là thời kì đồ đá cũ). Trong giai đoạn này, công cụ lao động còn thô sơ, dân cư thưa thớt nên không ảnh hưởng gì đáng kể đến môi trường. Săn bắt và đánh cá. Hai hình thức hoạt động kinh tế này đòi hỏi những loại hình công cụ mới. Trước kia cùng với hái lượm con người đã biết săn bắt và đánh cá nhưng chỉ dừng lại ở những động vật nhỏ. Phải đến thời kì đồ đá mới với cung tên và phi lao con người mới trở thành những người thợ săn thực thụ. Cũng như thời kì trước, ở thời kì này những tác động của con người không ảnh hưởng nhiều đối với giới tự nhiên, sự cân bằng sinh thái vẫn được bảo toàn. Chăn thả. Thuần dưỡng và chăn nuôi gia súc cùng với trồng trọt là thành tựu lớn nhất của thời đại đồ đá mới. Ban đầu chỉ là chăn thả những loại thú nhỏ, dễ thuần (chó, mèo, gà…) sau này đến thời đại kim khí người ta mơi chăn thả những đàn gia súc lớn trên thảo nguyên. Việc thuẫn dưỡng và chăn nuôi gia súc phát triển, con người đã phần nào giúp thiên nhiên thực hiện việc chọn lọc tạo ra những loài mới có năng suất cao. Mặt khác con người bắt đầu thể hiện sự can thiệp của mình vào cân bằng sinh thái. Nông nghiệp. Là hoạt động kinh tế phát triển rộng khắp trong thời kì đồ đá. Theo tài liệu khảo cổ, trên đồng bằng các con sông lớn luôn đông đúc dân cư, nền nông nghiệp lúa nước phát triển mạnh mẽ. Sản xuất nông nghiệp phát triển đã tác động mạnh mẽ đến giới động, thực vật. Ở các khu vực dân cư tập trung đông, người ta chặt phá rừng để mở rộng diện tích canh tác. Do mất rừng, mất chỗ cư trú và sinh sản, nhiều loại động vật cũng dần bị tuyệt chủng, còn ở những nơi mất rừng do mất lớp che phủ nên đất bị cày xới và xói mòn mạnh. Tự nhiên đã bắt đầu manh nha sự phản đối với những việc làm của con người. Công nghiệp hóa. Thời kì công nghiệp hóa tuy bắt đầu rất muộn so với lịch sử phát triển của xã hội, song đã làm cho bộ mặt của giới tự nhiên bị biến đổi sâu sắc. Sự ra đời của một loạt những phát minh vĩ đại làm cho các ngành sản xuất công nghiệp phát triển nhanh hơn. Khối lượng các loại khoáng sản và nhiên liệu được khai thác và đưa vào sản xuất ngày càng lớn. Công nghiệp phát triển thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp. Nền nông nghiệp hiện tại tuy đem lại cho con người khối lượng lương thực thực phẩm to lớn, song việc sử dụng rộng rãi máy móc cơ giới, phân hóa học, thuốc trừ sâu…đã phá vỡ quá trình trao đổi vật chất và sự cân bằng sinh thái của tự nhiên. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, trong giai đoạn này các nước đế quốc thực dân đua nhau đi xâm chiếm đất đai, đẩy mạnh khai thác và vơ vét tài nguyên của các thuộc địa. Sự khai thác, vơ vét tài nguyên kiểu thực dân đã gây nên thiệt hại lớn lao cho thiên nhiên nhiều vùng ở châu Mỹ, châu phi và châu Á. Đô thị hóa. Đô thị hóa là hiện tượng nổi bật nhất của nền văn minh hiện đại. Sự phát triển các đô thị song song với sự gia tăng dân số và phát triển công nghiệp trên toàn thế giới. Tại các vùng đô thị thiên nhiên hầu như bị biến đổi hoàn toàn và thay vào đó là các công trình nhân tạo. Dân cư tập trung với mật độ cao, nên các nhu cầu về lương thực, thực phẩm, hàng hóa vật phẩm cho đời sống, giao thông đi lại, năng lượng và cả việc giải trí nghỉ ngơi đều rất cao. Mặt khác, thành phố lại là nơi tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất công nghiệp, nhiều khu chợ lớn, nhiều phương tiện giao thông vận tải, vì thế đây cũng là nơi tập trung các loại chất thải và tiếng ồn rất lớn, nguồn gốc gây ra ô nhiễm môi trường. * Như vậy, sự can thiệp của con người vào môi trường ngày càng tăng. Tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay phản ánh rất rõ nét những ảnh hưởng trái ngược của việc sử dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật. Những biến đổi tiêu cực của môi trường do hoạt động của con người a) Nguồn tài nguyên bị cạn kiệt và suy thoái * Nguồn tài nguyên khoáng sản bị cạn kiệt Các khoáng sản có vai trò rất to lớn đối với sự tiến bộ của xã hội. Các khoáng sản ngày nay là nguồn nguyên liệu và nhiên liệu không những của các ngành kinh tế mà còn là cơ sở vật chất cho các tiến bộ khoa học kĩ thuật. Bởi vậy số lượng các loại khoáng sản ngày càng được sử dụng nhiều với khối lượng ngày càng lớn. Trong một thế kỉ qua con người đã khai thác gần 130 tỷ tấn than, 35 tỷ tấn dầu mỏ và hơn 1 tỷ tấn khí đốt. Năm 2000 ước tính nhu cầu của thế giới về sắt là 2041 triệu tấn, đồng là 18 triệu tấn, nhôm là 227 triệu tấn. Khoáng sản là nguồn tài nguyên không hồi phục. Với nhu cầu sử dụng và mức độ khai thác như vậy, dù trữ lượng của chúng có nhiều đến đâu thì cuối cùng chúng cũng bị cạn kiệt. * Nguồn tài nguyên bị tàn phá và hủy diệt mạnh mẽ Trong môi trường tự nhiên rừng là biểu hiện của mật độ tập trung cao nhất và phong phú nhất của giới thực vật, đồng thời là thành phần có vai trò to lớn đối với đời sống của con người và là tài nguyên có giá trị cao về mặt kinh tế. Tuy nhiên tài nguyên này đang bị khai thác một cách bừa bãi làm cho khả năng phục hôi không kịp với nhu cầu.Việc khai thác ồ ạt đã làm giảm mật độ che phủ của rừng nhanh một cách chóng mặt. Hiện nay diện tích che phủ rừng ở Trung Quốc chưa đầy 10%, ở Xi-ri là 2%, Appanixtan là 1.7%, Irắc là 4%, Thổ Nhĩ Kì là 13%... (theo Deveze, 1973) Theo báo cáo của UNEP, năm 1989, tính chung trên toàn thế giới hàng năm mất đi khoảng 15 triệu ha rừng, 11.1 triệu ha rừng nhiệt đới bị chặt phá. Việc phá rừng gây ra nhiều hậu quả tai hại. Rừng mất đi kéo theo những thay đổi bất lợi về đất đai, khí hậu, thủy văn và giới động vật. Do mất rừng, nhiều vùng rộng lớn bị thoái hóa, bị xâm thực mạnh, trở nên cằn cỗi, trơ sỏi đá… Nạn phá rừng làm mất đi khả năng điều tiết và dự trữ độ ẩm, nước ngầm, điều kiện khí hậu trở nên thất thường. * Nguồn tài nguyên đất bị suy thoái nặng nề Đất là nguồn tài nguyên cơ bản của mỗi quốc gia, là sản phẩm tổng hợp của các điều kiện tự nhiên và lao động của con người trong quá trình phát triển của xã hội. Trong quá trình khai thác, do sử dụng không hợp lý, do rừng bị phá hoại mạnh nên đất bị xói mòn, suy thoái nghiêm trọng. Điều này dẫn tới sự khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người, có khi còn gây ra nạn đói triền miên ở một số nước. * Nguồn tài nguyên động vật bị giết hại tàn bạo Lý do đầu tiên là do hành động phá rừng của con người, làm thu hẹp phạm vi sinh sống của động vật, làm cho chúng bị tiêu diệt dần dần. Mặt khác, do việc săn bắn bừa bãi của con người vì mục đích này hay mục đích khác, làm cho số lượng động vật hoang dã ngày càng ít đi… Đã có hàng loạt các loài động vật quý hiếm bị tuyệt chủng. Các loài động vật còn tồn tại trên Trái đất ngày hôm nay, dù ít hay nhiều cũng đều cần được quan tâm và bảo vệ. b) Môi trường nước và không khí bị ô nhiễm mạnh Cùng với sự biến đổi có tính chất phá hủy, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, tác động của con người còn gây ô nhiễm môi trường. Đây cũng là một “vấn đề nóng” ở nhiều nước phát triển. Nguồn gốc gây ô nhiễm môi trường, chủ yếu là do các chất thải của sản xuất công nông nghiệp, của các phương tiện giao thông vận tải và của các chất thải sinh hoạt. * Ô nhiễm nguồn nước. Hàng năm, lượng nước trong côngnghiệp và trong sinh hoạt thải ra vào khoảng hơn 500km3. nó được thải ra sông hồ và biển. Lượng nước thải đó đều là nước nhiễm bẩn, chứa hóa chất độc hại, nhiều vi khuẩn gây bệnh. Ô nhiễm nguồn nước trở thành vấn đề hếy sức nan giải. Con người ngày càng phải đối mặt với nhiều loại bệnh do việc không có nước sạch. Lấy ví dụ như đoạn sông Hoàng Long chảy qua cầu Đông gần địa phận trường THCS Trường Yên bị người ta xả rác bừa bãi. Những ngày mưa, rác theo nước mưa chảy xuống sông. Những ngày nắng, mùi bốc lên rất khó chịu… Hay rất nổi tiếng là sông Tô Lịch, có ai đi qua đây dám hít thở một cách thoải mái. Và gần chúng ta nhất, sông Sét, con sông vắt ngang qua trường Đại học Kinh tế quốc dân, hàng ngày những người đi qua đây phải hứng chịu thứ mùi kinh khủng của dòng sông, cũng may các nhà chức trách đã quan tâm và đang lấp sông làm đường, nếu không vấn đề môi trường ở nơi đây là thực sự nan giải… Đấy là chưa kể đến hiện tượng tràn dầu trên biển làm chết hàng loạt sinh vật biển và làm ô nhiễm những vùng biển rộng. Chương trình thời sự của Đài truyền hình Việt Nam đã từng đưa tin vụ đổ dầu trên biển ở Vũng Tàu làm xôn xao dư luận, vừa thiệt hại về của vừa làm môi trường bị ô nhiễm. * Ô nhiễm khí quyển. Không khí là rất cần thiết cho sự sống của con người. Thế nhưng không khí của chúng ta đang bị ô nhiễm bởi khói bụi và khí thải. Phần lớn là do các nhà máy công nghiệp, do các phương tiện giao thông thải ra mỗi ngày. Sự phá hủy ấy mạnh mẽ đến nỗi làm thủng tầng ozon, thủng lớp áo giáp của Trái đất Việc sống chung với không khí ô nhiễm như thế này đang đe dọa sức khỏe của con người từng ngày từng giờ. Ở nước ta, theo số liệu của Tổng cục khí tượng thủy văn thì hầu hết diện tích nước ta môi trường nền vào loại sạch. Tuy nhiên tại một số khu công nghiệp nồng độ cac chất khí có hại cao quá mức quy định, lượng bụi lắng cũng vượt quá quy định cho phép. Thêm nữa những nơi có nồng độ các bụi và khí độc hại lại tập trung nhiều dân cư nên có nhiều ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của người dân. Những hậu quả do môi trường bị biến đổi và ô nhiễm gây ra a) Sự thay đổi khí hậu toàn cầu Hiệu ứng nhà kính - là sự nóng lên của Trái đất. Điều này xảy ra làm cho băng ở các vùng cực tan, mực nước biển vì thế dâng lên, nếu tình trạng này vẫn tiếp tục thì đến năm 2030 mực nước biển sẽ cao lên khoảng 30cm nữa, điều này đe dọa đến đời sống ở các miền duyên hải và các đảo thấp. Sự nóng lên của Trái đất à sự thay đổi hoàn lưu à thay đổi các hướng gió à thay đổi về phân bố lượng mưa và nhiệt độ à sự thay đổi của hàng loạt các quá trình tự nhiên khác trên Địa cầu. b) Mưa axit Mưa axit là mối nguy hại đối với nhiều ngành kinh tế và môi trường sống của con người. Mưa axit làm ảnh hưởng không chỉ tới nguồn nước mà còn làm cho các rừng cây bị rụng lá, cây chết dần còn tính chất của đất thì bị thay đổi. c) Sự suy giảm tầng ozon Tầng ozon bị thủng đồng nghĩa với việc con người sẽ phải tiếp xúc với tia cực tím, điều này dẫn đến những ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của con người. d) Sự suy thoái đất và phát triển hoang mạc dẫn đến sự thiếu đất trong hoạt động nông nghiệp, trong tình trạng tiếp diễn của hiện tượng này con người sẽ đứng trước nguy cơ của dịch bệnh, nghèo đói… Các biện pháp bảo vệ môi trường * Xây dựng qui hoạch sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Việc khai thác phải có kế hoạch, đảm bảo được nhu cầu trước mắt và cả tương lai. Sử dụng hợp lý còn là việc sử dụng theo một phương án tối ưu, dựa trên cơ cở các quy luật phát triển của môi trường để có thể khai thác các tài nguyên có lợi nhất và môi trường cũng tốt hơn lên. Cải tạo hồi phục các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt. Ví dụ trồng cây để cải tạo tài nguyên rừng. Ở Thụy Điển, khi chặt một cây gỗ phải trồng ba cây non thay thế. Ở Việt Nam cũng như một số quốc gia trên thế giới, chính phủ đang khuyến khích nhân dân trồng rừng để phủ xanh đồi trọc… * Nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào các ngành sản xuất để chống hiện tượng gây ô nhiễm môi trường. Đó là lí do vì sao ngày nay các phương tiện giao thông đều chú trọng tới việc bảo vệ môi trường, các loại xe chạy bằng điện, bằng năng lượng mặt trời ra đời. Cùng với chúng là các loại sẩn phẩm không gây ô nhiễm môi trường. * Mọi biện pháp bảo vệ môi trường phải được thể chế hóa bằng các quy định, các chính sách luật lệ do Nhà nước ban hành. Phải có sự thống nhất và hợp tác quốc tế về vấn đề bảo vệ môi trường trên cơ sở các luật, các công ước quốc tế. * Xây dựng các vùng cấm, các khu bảo tồn tự nhiên. Tại những nơi như thế chúng ta có thể bảo vệ tính đa dạng sinh học và các vốn gen di truyền quý hiếm Mấy vấn đề về tài nguyên và môi trường trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay * Một số thuận lợi. Trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, có nhiều vấn đề phức tạp được đặt ra đối với lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Ở nước ta trong thời gian qua, hoạt động hợp tác về tài nguyên và môi trường cơ bản đã duy trì được quan hệ với các đối tác sẵn có, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế đa phương, song phương. Các hoạt động hợp tác quốc tế về khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường có tác dụng góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hợp tác song phương với các đối tác về khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường tiếp tục được duy trì và phát triển, cụ thể là với Thuỵ Điển (địa chính và bảo vệ môi trường), Pháp (công nghệ viễn thám, khoáng sản), Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Mỹ (khí tượng - thuỷ văn), Nhật Bản (bảo vệ môi trường, địa chất)… Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực khai thác sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong xu thế toàn cầu hoá. Tham gia hội nhập, định hướng cho chính sách điều tiết của Việt Nam ngày càng hài hòa với các quy tắc và tiêu chuẩn được thừa nhận rộng rãi ở các nước khác. Tính minh bạch, có kỷ cương của việc hoạch định và thực thi chính sách của Việt Nam sẽ nâng cao. * Một số khó khăn. Hầu hết các chương trình, dự án ODA về khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trong thời gian qua đều do các bộ, ngành trung ương quản lý và thụ hưởng. Sự tham gia của các ngành, các cấp, các thành phố kinh tế, cộng đồng dân cư còn hạn chế. Hiện nay vẫn chưa hình thành kế hoạch tổng thể và dài hạn, cũng như lộ trình hợp lý về hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường cho nên việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trong thời gian qua thường mang tính thụ động và tự phát, hiệu quả chưa cao, chưa khai thác hết tiềm năng và thế mạnh của các nhà tài trợ, việc hợp tác và hội nhập thường xuất phát từ yêu cầu của bên đối tác, tính phù hợp với các chính sách ưu tiên của Chính phủ Việt Nam còn bị hạn chế. Kết cấu hạ tầng phát triển chậm, chưa tạo được hành lang pháp lý nhằm tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế về tài nguyên và môi trường. * Một số đề xuất nhằm tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường - hoàn thiện chính sách và pháp luật về tài nguyên và môi trường. - nghiên cứu xây dựng mới, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn liên quan đến hàng hoá và quá trình sản xuất. - xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình hợp tác quốc tế về tài nguyên và môi trường đến năm 2010. - tăng cường hợp tác song phương và nâng cao hiệu quả Nhóm Hỗ trợ quốc tế về Tài nguyên và Môi trường. Kết luận Con người chúng ta bằng cách này hay cách khác đang tác động lên môi trường, cho dù là tác động tiêu cực hay tích cực thì đều làm cho môi trường thay đổi. Trong tình trạng môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng như hiện nay mỗi người trong chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ môi trường, có ý thức để không tác động tiêu cực đến môi trường. Bạn có thể bảo vệ môi trường bằng nhiều cách chỉ cần bạn nghĩ rằng đó là điều tất yếu không phải là điều gì ép buộc. Sinh viên có những hoạt động tình nguyện trong việc bảo vệ môi trường, trồng rừng, mang nước sạch về cho đồng bào miền núi…, những hành động thiết thực thể hiện sự quan tâm của thế hệ trẻ tới môi trường. Ở châu Âu, khoảng 100000 học sinh đã tham gia vào chiến dịch đi bộ và đạp xe để bảo vệ môi trường. Cứ mỗi dặm đi bộ hoặc đạp xe các bạn lại cắt một “hình bàn chân” bằng giấy và gửi tới Liên minh bảo vệ khí hậu tại Đức. Và vừa rồi liên minh này đã gửi tới Liên Hợp Quốc một va li đựng 615315 “dấu chân xanh”, chứng tỏ các bạn ấy đã đi được 995000km - tức là hơn 2 lần khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng ! Một việc làm nhỏ thể hiện một tinh yêu lớn đối với thiên nhiên, với môi trường sống của con người. Không cần phải có những phong trào rầm rộ như thế, chúng ta chỉ cần đi thêm một quãng để bỏ rác vào đúng nơi quy định là chúng ta đã làm một phần việc của bảo vệ môi trường. Những vấn đề khó khăn hơn như nước thải, khí thải cần phải được chính quyền xem xét và khắc phục, bản thân mỗi người chúng ta cần có kiến thức về môi trường để không có bất cứ một hành động gì làm xấu nó. “Ước gì có nước sạch để uống”- một điều ước rất nhỏ thôi cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Có những con người, những gia đình đang phải sử dụng nguồn nước tiềm ẩn nhiều mầm bệnh nguy hiểm, đang phải sống ở những khu vực đầy khói bụi ô nhiễm… chính con người đã làm cho môi trường sống của họ trở nên ô nhiễm, và cũng chính họ đang phải gánh chịu những hậu quả của nó. Vì sức khỏe của bản thân và của cộng đồng chúng ta hãy bảo vệ môi trường. DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mác-Lênin _ Bộ giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2006. 2. Địa lí học và các vấn đề môi trường _ NXB Khoa học và kĩ thuật, 1979. 3. Thiên nhiên và con người _ Nguyễn Đức Ngữ, NXB Sự thật, Tổng cục khí tượng thủy văn, 1977. 4.. Bản tin H2T, trang 5- Teen THCS Trường Yên bức xúc vì ô nhiễm _ Hồng Bạch, Báo Hoa Học Trò số 675, ra ngày 6.11.2006 5. Teen thế giới 168 giờ qua _ Báo Hoa học trò số 679, ra ngày 4.12.2006 6. vi.wikipedia.org /wiki /sinhthai 7. www.thoisu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35882.doc
Tài liệu liên quan