Tỷ lệ bí tiểu sau sanh và một số yếu tố liên quan trên sản phụ tại bệnh viện Hùng Vương

HẠN CHẾ Nghiên cứu được thiết kế theo loại hình nghiên cứu quan sát nên kết quả thu được có giới hạn trên phương diện bằng chứng y khoa. Sai lệch hồi tưởng: sản phụ sinh xong rất mệt mỏi vì vậy chúng tôi chỉ phỏng vấn khi sản phụ đồng ý và sẵn sàng trả lời và các thông tin sau khi được phỏng vấn xong sẽ được đối chiếu lại với hồ sơ khám thai và và hồ sơ bệnh án. Yếu tố thời gian chuyển dạ chúng tôi không phân ra làm các giai đoạn chuyển dạ riêng do thiết kế nghiên cứu, chúng tôi không thể biết hết chính xác thời gian chuyển dạ từng giai đoạn. Hiện nay có phương pháp chuẩn đoán bí tiểu sau sinh mới là đo thể tích nước tiểu tồn lưu bằng máy Bladder Scaner, trong thời gian thực hiện nghiên cứu chưa được dùng. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu cắt ngang 1122 sản phụ sinh đường âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương trong thời gian từ 19/11/2012 đến 25/4/2013 chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Tỷ lệ bí tiểu sau sinh đường âm đạo là 12,3%, KTC 95% [10,2‐14,3]. Trong đó: bí tiểu hoàn toàn 6,42%, KTC 95% [5‐8] và bí tiểu không hoàn toàn 5,88%, KTC 95% [4,5‐7,4]. 2. Một số yếu tố liên quan ghi nhận: Được giúp sinh bằng giác hút (PR=5,6; KTC 95% [3,13‐ 10,04]). Được giúp sinh bằng kềm (PR=10,31; KTC 95% [4,11‐28,86]). Sinh con có trọng lượng ≥ 3800g (PR=2,25; KTC 95% [1,09‐5,84]). Sinh con rạ (PR=0,55 ; KTC 95% [0,36‐0,86]). Không giảm đau sản khoa (PR=0,165 KTC 95% [0,1‐0,25]). Không đặt thông niệu đạo‐BQ (PR=2,56; KTC 95% [1,55‐4,22]). Không tổn thương TSM (PR=0,18; KTC 95% [0,08‐0,4]).

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 49 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ bí tiểu sau sanh và một số yếu tố liên quan trên sản phụ tại bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 183 TỶ LỆ BÍ TIỂU SAU SANH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN  TRÊN SẢN PHỤ TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG   Đặng Thị Bình*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**  TÓM TẮT  Tổng quan và mục  tiêu: Bí tiểu sau sinh (BTSS)  là một trong những biến chứng thường gặp, nhất  là  những trường hợp sinh có hỗ trợ, sinh khó. Tỷ lệ bí tiểu sau sinh dao động khá cao. Ở nước ngoài, có nhiều công  trình nghiên cứu với quy mô lớn đã cho thấy tỷ lệ BTSS thay đổi trong khoảng 0,45%‐17,9%.  Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 1122 thai phụ đơn thai, sanh ngã âm đạo tại bệnh viện Hùng  vương từ 11/2012 đến 04/2013.  Kết quả: Tỷ lệ bí tiểu sau sinh đường âm đạo là 12,3% KTC 95% (10,2‐14,3). Trong đó: bí tiểu hoàn toàn  6,42% KTC 95% (5‐8) và bí tiểu không hoàn toàn 5,88% KTC 95% (4,5‐7,4). Một số yếu tố liên quan ghi nhận:  Được giúp sinh bằng giác hút (PR=5,6; KTC 95%  (3,13‐10,04)), được giúp sinh bằng kềm  (PR=10,31; KTC  95% (4,11‐28,86)), sinh con có trọng lượng ≥ 3800g (PR=2,25; KTC 95% (1,09‐5,84), sinh con rạ (PR=0,55 ;  KTC 95% (0,36‐0,86)), không giảm đau sản khoa (PR=0,165 KTC 95% (0,1‐0,25)), không đặt thông niệu đạo‐ BQ (PR=2,56; KTC 95% (1,55‐4,22)), không tổn thương TSM (PR=0,18; KTC 95% (0,08‐0,4)).  Kết luận: bí tiểu sau sinh thường gặp, do nhiều yếu tố tác động và có thể dự phòng hiệu quả  ABSTRACT  PREVALENCE OF POSTPARTUM URINARY RETENTION AFTER VAGINAL DELIVERY  AND SOME RELATED FACTORS IN HUNG VUONG HOSPITAL  Dang Thi Binh, Huynh Nguyen Khanh Trang   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 183 ‐188  Background  and  objectives:  Postpartum  urinary  retention  is  one  of  the  common  complications,  especially  in  the  case  of  assisted  or  difficult  deliveries. The  rate  of  postpartum  urinary  retention  is  high  ranges. In abroad, there are many research shown that large‐scale changes in the rate of postpartum urinary  retention from 0.45% to 17.9%.  Methods: cross‐sectional study on 1122 women with singleton pregnancy, vaginal delivery at Hung Vuong  Hospital from 11/ 2012 to 04 / 2013.  Results: The rate of urinary retention after vaginal delivery is 12.3% 95% CI (10.2 ‐14.3). In which: 6.42%  complete urinary  retention 95% CI  (5‐8)  and urinary  retention  incomplete 5.88%  (95% CI  (4.5  to 7.4)). A  number  of  factors  related  note:  vacumm  aspiration  (PR=5.6,  95%  CI  (3.13  to  10.04)),  forceps  deliveries  (PR=10.31, 95% CI (4.11 to 28.86)), birth weight ≥ 3800g (PR=2.25, 95% CI (1.09 to 5.84), non‐nulliparous  women (PR=0.55, 95% CI (0.36 to 0.86)), no epidural anesthesia (PR=0.165 95% CI (0.1‐.25)), no insertion of  Foley catheter (PR=2.56, 95% CI (1.55 to 4.22)), no perineal trauma (PR=0.18, 95% CI (0.08 to 0.4)).  Conclusions: Postpartum urinary  retention  is  frequent. There  are many  factors  relating  to  postpartum  urinary retention but almost all of them can preven effectively.  Keywords: Postpartum urinary retention, vaginal delivery.  * Phòng khám Đa khoa Hồng Lạc    ** Bộ môn Phụ Sản ĐHYD Tp HCM   Tác giả liên lạc: Huỳnh Nguyễn Khánh Trang ĐT: 0903882015 Email: pgs.huynhnguyenkhanhtrang@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 184 ĐẶT VẤN ĐỀ  Bí  tiểu sau sinh  (BTSS)  là một  trong những  biến  chứng  thường gặp, nhất  là những  trường  hợp sinh có hỗ trợ, sinh khó. Bí tiểu sau sinh tuy  không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại  làm cho sản phụ khó chịu về vận động, cảm giác  cũng  như  tinh  thần(12,18). Quá  trình mang  thai,  chuyển dạ và sổ thai đã làm ảnh hưởng đến các  cơ quan  trong  tiểu khung và  đáy chậu(3,3)..Bàng  quang và niệu  đạo bị  chèn  ép,  đụng dập, phù  nề, tổn thương(1).  Tỷ lệ bí tiểu sau sinh dao động khá cao. Ở  nước  ngoài,  có  nhiều  công  trình  nghiên  cứu  với quy mô lớn đã cho thấy tỷ lệ BTSS thay đổi  trong  khoảng  0,45%‐17,9%(5). Một  nghiên  cứu  hồi cứu với 11332 trường hợp tại Hoa Kỳ theo  tác  giả  Carley  năm  2002  với  cho  tỷ  lệ  là  0,45%(6). Tại Thụy Điển năm 1994  theo  tác giả  Andolf  và  cộng  sự  với một  nghiên  cứu  tiến  cứu ca bệnh đối chứng 539  trường hợp, khảo  sát TTTL  sau  sinh 3 ngày, với TTTL > 150ml,  cho  tỷ  lệ  1,5%(2). Nghiên  cứu  khác  tại  Trung  Quốc, Ching‐Chung và cộng sự với tiêu chuẩn  không  tự đi  tiểu  sau  sinh 6 giờ và  thông  tiểu  trên 150ml thì cho tỷ lệ 4%(8). Theo nghiên cứu  của  tác giả Kekre  tại Vellore, Ấn Độ ghi nhận  10.9% có bí tiểu sau sinh(15).  Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu, tuy  không nhiều nhưng  cho  thấy bí  tiểu  sau  sinh  khá phổ biến. Tại Bệnh Viện Trung Ương Huế  năm  2006  tác  giả Hồ Xuân  Lãng  nghiên  cứu  1080 trường hợp sinh đường âm đạo cho thấy  tỷ lệ BTSS là 4,9% (12). Một nghiên cứu khác với  384 trường hợp tại Bệnh viện Từ Dũ năm 2002  tác giả Nguyễn Thị Quý Khoa ghi nhận  tỷ  lệ  BTSS  là  13,5%(18).  Các  nghiên  cứu  trong  và  ngoài nước cho  thấy  tỷ  lệ BTSS khá phổ biến  và thay đổi tùy thuộc vào thiết kế nghiên cứu  và tiêu chuẩn chẩn đoán.  Các  công  trình  nghiên  cứu  đã  đề  cập  đến  một  số yếu  tố  sản khoa  có  liên  quan  đến  tình  trạng bí tiểu sau sinh như: sinh con lần đầu, sinh  bằng dụng cụ kềm hay giác hút, chuyển dạ kéo  dài, thai to, chu vi vòng đầu con lớn, mức độ tổn  thương  tầng sinh môn, đặc biệt  là gây  tê ngoài  màng cứng trong giảm đau sản khoa(13,15).  Điều  trị bí  tiểu sau sinh có  thể sử dụng các  biện pháp  điều  trị không xâm  lấn như:  tư vấn  tâm lý, tạo không gian riêng tư khi đi tiểu, tắm  nước  ấm,  chườm  ấm  hoặc  lạnh, mát  xa  bụng.  Cũng có thể dùng các biện pháp xâm nhập như:  đặt thông niệu đạo‐bàng quang, châm cứu, điện  châm, dùng thuốc. Bệnh nhân  thường khỏi sau  một vài ngày. Nhưng  cũng  có  trường hợp kéo  dài 2 đến 4 tuần(7,12).  Tại Khoa Sinh Bệnh viện Hùng Vương hàng  năm có số sinh khoảng 22.000‐23.000 trường hợp  sinh  đường  âm  đạo.  Vấn  đề  bí  tiểu  sau  sinh  được  ghi  nhận  khá  phổ  biến  ở  khoa  hậu  sản  nhưng chưa có nghiên cứu về tình trạng này. Do  đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với  Mục tiêu nghiên cứu  1. Xác định tỷ lệ bí tiểu sau sinh trên sản phụ  sinh đường âm đạo tại Bệnh Viện Hùng Vương.  2. Khảo sát một số yếu  tố  liên quan  đến bí  tiểu  sau  sinh  đường  âm  đạo:  số  lần  sinh,  cách  sinh,  thời gian  chuyển dạ, giảm  đau  sản khoa,  sinh  chỉ  huy,  đặt  thông  niệu  đạo‐bàng  quang,  tổn thương tầng sinh môn, trọng lượng con, chu  vi vòng đầu con.  ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  Thiết kế nghiên cứu cắt ngang.  Đối tượng nghiên cứu  Sản  phụ  đã  sinh  đường  âm  đạo  tại  khoa  hậu  sản  Bệnh  Viện  Hùng  Vương  trong  thời  gian tháng 11/2012 đến tháng 4/2013.  Cỡ mẫu  n=Z²1‐α/2(1‐P)P/d 2 với độ tin cậy 95% nên Z1‐ α/2=1,96. Chọn P=13,5%  theo Nguyễn Thị Quý  Khoa(17). Độ chính xác là: 2% tức d=0,02.  Với  α=0,05  (độ  tin  cậy  95%)  thì  Z1‐α/2=1,96,  chọn d=0,02, tính ra được cỡ mẫu là 1121,5.  Nghiên cứu chúng tôi thu nhận 1122 đối tượng.  Tiêu chuẩn chọn  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 185 Sản  phụ  sinh  đường  âm  đạo,  ngôi  đầu.  Thai đủ tháng có tuổi thai 38‐42 tuần theo siêu  âm 3 tháng đầu. Con sống. Sản phụ phải  tỉnh  táo,  trả  lời được phỏng vấn. Đồng ý  tham gia  nghiên cứu.  Tiêu chuẩn loại  Các  trường hợp có  tiền căn mổ  lấy  thai, đa  thai.  Sản phụ mắc  các  bệnh  lý  gây  rối  loạn  đi  tiểu: chấn thương cột sống, sỏi bàng quang, sỏi  niệu  đạo,  sa  bàng  quang.  Sản  phụ  phải  lưu  thông niệu đạo‐bàng quang  theo chỉ định bệnh  lý: sản giật, tiền sản giật nặng, các trường hợp có  choáng,  bệnh  tim mạch,  băng  huyết  sau  sinh.  Sản  phụ  phải  lưu  thông  niệu  đạo‐bàng  quang  theo  chỉ  định  bệnh  lý:  sản  giật,  tiền  sản  giật  nặng, các trường hợp có choáng, bệnh tim mạch,  băng huyết sau sinh.  Chọn mẫu  Chọn mẫu theo phương pháp tuần tự thuận  lợi,  sản  phụ  được  chọn  theo  tiêu  chuẩn  chọn  mẫu  đã  nêu  cho  đến  khi  đủ  số  lượng  1122  trường hợp.  Để  giảm  tối  đa  sai  lệch  khi  nghi  nhận  thông tin, tác giả tự phỏng vấn, theo dõi từng  trường hợp.  Các sản phụ sau khi sinh xong, ổn định được  cho về phòng hậu sản, đủ tiêu chuẩn chọn mẫu  sẽ được mời  tham gia nghiên cứu, nếu đồng ý  tham  gia  nghiên  cứu  thì  các  sản  phụ  sẽ  được  thăm khám, phỏng vấn và theo dõi để xác định  có đi tiểu được hay không.  Nếu sản phụ đi tiểu bình thường sẽ được tư  vấn, khuyến khích vận động, đi tiểu mỗi 3‐4 giờ  kể cả khi không có cảm giác buồn  tiểu, cho  trẻ  bú mẹ  sớm, giải  đáp những  thắc mắc nếu  sản  phụ hỏi. Các sản phụ được phỏng vấn  theo bộ  câu hỏi. Con các sản phụ được đo chu vi vòng  đầu.  Kết  hợp  với  hồ  sơ  bệnh  án  hoàn  thành  phiếu nghiên cứu.  Nếu các sản phụ không đi tiểu được sẽ được  ghi nhận,  theo dõi  tình  trạng bí  tiểu  trong  thời  gian nằm viện: biện pháp điều trị không xâm lấn  được  áp  dụng  đầu  tiên: Hướng  dẫn  sản  phụ  uống nhiều nước, chườm ấm hoặc lạnh vùng hạ  vị. Khuyến khích sản phụ vận động. Ngồi dậy,  đứng  lên,  đi  lại. Cho  thuốc  giảm  đau nếu  sản  phụ có  than phiền đau  tầng sinh môn. Khuyến  khích sản phụ nên ra nhà vệ sinh để tạo yếu tố  riêng  tư,  thoải mái khi đi  tiểu, không nên ngồi  bô trong phòng bệnh.  Nếu  sản  phụ  đã  cố  gắng  bằng  các  biện  pháp  trên mà  vẫn  không  đi  tiểu  được  thì  tư  vấn  giải  thích  điều  trị  bằng  đặt  thông  niệu  đạo‐bàng quang.  Kết quả xử lý với phần mềm thống kê Stata  12.0  KẾT QUẢ  Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu (N=1122)  Yếu tố Tần số % Sinh thường 1015 90,5 Sinh hút 79 7,0 Sinh kềm 28 2,5 Con so 565 50,4 Con rạ 557 49,6 Nơi ở Tp Hồ Chí Minh 495 44,1 Tinh 627 55,9 Nghề Công nhân viên 279 18,6 Nội trợ 410 36,5 Buôn bán 173 15,4 Trí thức 209 18,6 Khác 51 4,6 Trình độ văn hóa Mù chữ 1 0,1 Cấp 1 72 6,4 Cấp 2 254 22,6 Cấp 3 574 51,2 Đại học, sau đại học 221 19,7 Thời gian chuyển dạ < 15 giờ 1007 89,8 ≥ 15 giờ 115 10,2 Bảng 2. Tỷ lệ bí tiểu sau sinh trong nghiên cứu   Loại hình Số ca % KTC 95% BTSS chung 138 12,3 10,4-14,3 BTSS hoàn toàn 72 6,42 5-8 BTSS không hoàn toàn 66 5,88 4,5-7,4 BTSS: Bí tiểu sau sinh  Bảng 3. Bảng tóm tắt của phân tích đơn biến  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 186 Biến số PR KTC 95% P Sinh con rạ 0,49 0,3-0,7 <0,001 Sinh hút 6,55 3,97-10,8 <0,001 Sinh kềm 13,5 6,21-29,5 <0,001 TGCD Trên 15 giờ 1,7 1,01-2,8 0,04 Không sinh chỉ huy 0,54 0,35-0,8 0,007 Không GĐ SK 0,14 0,09-0,2 <0,001 Không đặt thông NĐ-BQ 1,28 0,86-1,9 0,22 Không tổn thương TSM 0,2 0,11-0,4 <0,001 Con ≥ 3800g 4,82 2,4-8,2 <0,001 CVVĐ con > 35cm 3,03 1,6-5,7 0,001 TGCD: thời gian chuyển dạ; GĐSK: giảm đau sản khoa;  TSM tầng sinh môn; CVVĐ: chu vi vòng đầu  Bảng 4. Phân tích hồi quy đa biến  Biến số PR* KTC 95% P Con rạ 0,55 0,36-0,86 0,007 Sinh hút 5,6 3,13-10,04 <0,001 Sinh kềm 10,31 4,11-24,86 <0,001 TGCD ≥ 15 giờ 0,99 0,53-1,85 0,94 Không sinh chỉ huy 0,79 0,46-1,33 0,378 Không GĐSK 0,165 0,10-0,25 <0,001 Không đặt thông NĐ–BQ 2,56 1,55-4,22 <0,001 Không tổn thương TSM 0,18 0,08-0,4 <0,001 Con ≥ 3800g 2,25 1,09-5,84 0,024 CVVĐ> 35 cm 2,39 0,99-5,79 0,052 (*): Logistic regression với PR hiệu chỉnh  BÀN LUẬN  Theo  y  văn,  tỷ  lệ NKNLQOTT  là  9‐23%(14).  Như Bí tiểu sau sinh là một tình trạng khá phổ  biến với tỷ lệ khác nhau thay đổi từ 0,05%‐17,9%  đối với  sinh  đường âm  đạo và 3,3%‐24,1%  sau  mổ  lấy  thai(13).  Phụ  thuộc  vào  các  tiêu  chuẩn  được  sử dụng và phản ánh  sự khác biệt  trong  thực tế sản khoa. Các nghiên cứu về BTSS trong  nước và trên thế giới chưa có nhiều. Mỗi tác giả  chọn một cách nghiên cứu riêng, thiết kế nghiên  cứu,  tiêu chuẩn chẩn đoán riêng cho  thấy  tỷ  lệ  BTSS khác nhau theo từng tác giả.  Chuyển dạ  là một quá trình có sự thúc đẩy  của nhiều yếu tố như cơn co tử cung, sức khỏe  của sản phụ, ngôi thế của thai. Chuyển dạ càng  kéo dài có thể làm tổn thương các thớ cơ BQ, tổn  thương  các  hạch  thần  kinh  nằm  trong  thành  bàng  quang  và  các  dây  thần  kinh  quanh  BQ.  Thời gian  chuyển dạ  càng kéo dài  thì nguy  cơ  càng cao. Cùng với cảm giác sợ đi tiểu vì sợ đau  sẽ gây BTSS(8,12). Bouhuors AC và cộng sự nghiên  cứu  ảnh hưởng  của  chuyển dạ và những  thay  đổi  sinh  lý  trong  thời gian mang  thai  lên  chức  năng của bàng quang  trong  thời kỳ hậu sản và  góp phần làm tăng tỷ lệ BTSS(4).  Thai kỳ và  chuyển dạ  là những yếu  tố  có  liên quan đến những thay đổi ở cơ quan vùng  chậu(3). Sinh đường âm đạo  làm  tăng đáng kể  nguy  cơ  chấn  thương  cơ  vùng  đáy  chậu  dù  không thấy rõ bằng mắt, đặc biệt là những lần  sinh  đầu  tiên,  đối với những  lần  sinh  sau  sự  căng  dãn  đã  được  trải  qua  do  đó  sự  tổn  thương  cơ  vùng  chậu  ít  hơn.  Những  biến  chứng hay gặp  sau  sinh  đường âm  đạo  cũng  được nhiều  tác  giả  ghi nhận,  rối  loạn  đi  tiểu  sau sinh xảy  ra,  trong  đó BTSS  là biến chứng  thường  gặp(7).  Nhiều  nghiên  cứu  cũng  ghi  nhận  rằng  sản  phụ  sinh  con  so  có  nguy  cơ  BTSS  nhiều  hơn  sản  phụ  sinh  con  rạ(4,14,12,12).  Sản  phụ  sinh  con  so  có  TSM  rắn  chắc  hơn,  khung  chậu  chưa  được  thử  thách,  TSM  rắn  chắc hơn,  thời gian  chuyển dạ  có  thể kéo dài  hơn sản phụ sinh con rạ làm cho cuộc chuyển  dạ khó khăn hơn.  Rách TSM hay cắt may TSM làm tổn thương  một phần  thần kinh vùng đáy chậu nơi đường  cắt, rách đi ngang qua. Đặc biệt hiện nay vấn đề  cắt TSM được áp dụng rộng rãi khi sinh, nhất là  khi  có  chỉ  định  giúp  sinh.  TSM  có  thể  bị  tổn  thương nặng thêm khi sổ thai hay khi giúp sinh  không đúng kỹ  thuật. Tổn  thương  từ đơn giản  đến  phức  tạp,  thường  thì  sẽ  tự  phục  hồi  sau  sinh.  Tổn  thương  TSM  gây  phù  nề  vùng  đáy  chậu, chèn ép niệu đạo. Mức độ BTSS càng gia  tăng khi tổn thương càng trầm trọng, đặc biệt có  kèm theo huyết tụ thành âm đạo hay TSM(12).  Cuộc  chuyển  dạ  sinh  con  to  thường  khó  khăn,  thời  gian  chuyển  dạ  kéo  dài  hơn.  Khả  năng  sinh giúp  cũng  cao hơn. Nếu bỏ qua  các  yếu  tố kéo  theo đó việc sinh con  to sẽ  làm cho  BQ‐niệu đạo bị chèn ép khi thai đi xuống trong  quá  trình  sinh,  gây  tổn  thương  hệ  thống  thần  kinh quanh BQ‐niệu đạo, phù nề BQ, cổ BQ và  niệu đạo dẫn đến BTSS(14,18).  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 187 Trên lâm sàng chỉ định đặt thông niệu đạo‐ bàng  quang  trước  khi  sinh  thủ  thuật  là  điều  thường làm. Ngoài ra, nó còn được thực hiện ở  những  trường  hợp  bàng  quang  căng  đầy  làm  cản  trở  sự xuống  của ngôi  thai. Làm  trống BQ  trước  khi  sinh  còn  giúp  giảm  nguy  cơ  tổn  thương  cơ BQ,  làm giảm  các  rối  loạn  tiết niệu  sau sinh. Nghiên cứu của chúng tôi nhóm có bí  tiểu có 34,06% được giúp sinh bằng dụng cụ cao  hơn  so  với Nguyễn  Thị Quý Khoa  (19,2%)  và  của Hồ Xuân Lãng  (13,2%). Cả hai  tác giả đều  kết  luận giúp  sinh  là yếu  tố nguy  cơ  làm  tăng  BTSS. Eason và  cộng  sự  tiến hành nghiên  cứu  thuần tập 949 trường hợp sinh đường âm đạo(10).  Dolan và  cộng  sự  tiến hành nghiên  cứu  thuần  tập  492  trường  hợp  sinh  đường  âm  đạo(9).  Tô  Mai  Xuân Hồng  nghiên  cứu mô  tả  cắt  ngang  5526 sản phụ sinh đường âm đạo có 200 trường  hợp  được giúp  sinh bằng  forsep(19). Các  tác giả  đều kết luận giúp sinh bằng kềm và giác hút là  yếu  tố  nguy  cơ  BTSS.  Mulder  FE,  Kekre,  Bouhours AC cũng có kết luận tương tự(4,15).  Giảm  đau  bằng  gây  tê  ngoài  màng  cứng  hàng  loạt  các  tác dụng phụ  liên quan  đến  lâm  sàng đã được báo cáo. Bốn tác dụng phụ cổ điển  là ngứa, buồn nôn và nôn, bí tiểu, suy hô hấp(17).  Ở  đây  chúng  tôi  chỉ  đề  cập  đến  tác dụng  của  thuốc giảm đau lên chức năng của bàng quang,  làm giảm chức năng của BQ bằng cách gây ra ức  chế  phụ  thuộc  khả  năng  co  bóp  và  giảm  cảm  giác của BQ. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ  lệ có giảm  đau  trong  chuyển dạ  là 34,5%. Qua  phân  tích hồi quy đa biến có sự  liên quan giữa  giảm đau sản khoa và BTSS với OR*=0,165.  HẠN CHẾ  Nghiên  cứu  được  thiết  kế  theo  loại  hình  nghiên  cứu quan  sát nên kết  quả  thu  được  có  giới hạn  trên phương diện bằng chứng y khoa.  Sai  lệch hồi  tưởng:  sản phụ  sinh  xong  rất mệt  mỏi vì vậy chúng tôi chỉ phỏng vấn khi sản phụ  đồng ý và sẵn sàng  trả  lời và các  thông  tin sau  khi được phỏng vấn xong sẽ được đối chiếu lại  với hồ sơ khám thai và và hồ sơ bệnh án. Yếu tố  thời  gian  chuyển  dạ  chúng  tôi  không  phân  ra  làm  các giai  đoạn  chuyển dạ  riêng do  thiết kế  nghiên cứu, chúng  tôi không  thể biết hết chính  xác  thời  gian  chuyển  dạ  từng  giai  đoạn. Hiện  nay có phương pháp chuẩn đoán bí tiểu sau sinh  mới  là đo  thể  tích nước  tiểu  tồn  lưu bằng máy  Bladder Scaner, trong thời gian thực hiện nghiên  cứu chưa được dùng.  KẾT LUẬN  Qua nghiên cứu cắt ngang 1122 sản phụ sinh  đường âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương trong  thời gian  từ 19/11/2012 đến 25/4/2013 chúng  tôi  rút ra một số kết luận sau:  1.  Tỷ  lệ  bí  tiểu  sau  sinh  đường  âm  đạo  là  12,3%,  KTC  95%  [10,2‐14,3].  Trong  đó:  bí  tiểu  hoàn toàn 6,42%, KTC 95% [5‐8] và bí tiểu không  hoàn toàn 5,88%, KTC 95% [4,5‐7,4].  2. Một  số yếu  tố  liên quan ghi nhận: Được  giúp sinh bằng giác hút (PR=5,6; KTC 95% [3,13‐ 10,04]).  Được  giúp  sinh  bằng  kềm  (PR=10,31;  KTC 95% [4,11‐28,86]). Sinh con có trọng lượng ≥  3800g  (PR=2,25; KTC 95%  [1,09‐5,84]). Sinh  con  rạ (PR=0,55  ; KTC 95% [0,36‐0,86]). Không giảm  đau  sản  khoa  (PR=0,165  KTC  95%  [0,1‐0,25]).  Không  đặt  thông  niệu  đạo‐BQ  (PR=2,56;  KTC  95%  [1,55‐4,22]).  Không  tổn  thương  TSM  (PR=0,18; KTC 95% [0,08‐0,4]).  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Amostegui Azcue  J, Ferri Morales A, Lillo De  la Quintana C,  Serra Llosa ML  (2004). Urinary  incontinence and other pelvic  floor  damages:  ethilogy  and  prevention  strategies.  Rev Med  Univ Navarra, 48(4), pp. 18‐31.  2. Andolf E, Iosif CS, Jorgensen C, Rydhstrom H (1994). Insidious  urinary  retention  after  vaginal  delivery:  prevalence  and  symptoms  at  follow‐up  in  a  population‐based  study.  Gynecologic and obstetric investigation, 38(1), pp. 51‐53.  3. Beucher G  (2008). Maternal morbidity  after operative vaginal  delivery.  Journal de gynecologie, obstetrique et biologie de  la  reproduction, 37 Suppl 8, pp. 244‐259.  4. Bouhours  AC,  Bigot  P,  Orsat  M,  Hoarau  N,  Descamps  P,  Fournie A, et al  (2011). Postpartum urinary  retention. Progrès  en urologie: journal de lʹAssociation francaise dʹurologie et de la  Societe francaise dʹurologie 21(1), pp. 11‐17.  5. Brodrick  A  (2012).  Postpartum  urinary  symptoms.  The  practising midwife, 15(6), 18, pp. 20‐11.  6. Carley ME, Carley JM, Vasdev G, Lesnick TG, Webb MJ, Ramin  KD, et al (2002). Factors that are associated with clinically overt  postpartum urinary retention after vaginal delivery. American  journal of obstetrics and gynecology, 187(2), pp. 430‐433.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 188 7. Chiarelli P, Murphy B, Cockburn  J  (2004). Promoting urinary  continence  in  postpartum  women:  12‐month  follow‐up  data  from  a  randomised  controlled  trial.  International  urogynecology  journal and pelvic  floor dysfunction, 15(2), pp.  99‐105.  8. Ching‐Chung L, Shuenn‐Dhy C, Ling‐Hong T, Ching‐Chang H,  Chao‐Lun  C,  Po‐Jen  C  (2002).  Postpartum  urinary  retention:  assessment  of  contributing  factors  and  long‐term  clinical  impact. The Australian & New Zealand  journal of obstetrics &  gynaecology, 42(4), pp. 365‐368.  9. Dolan  LM, Walsh D, Hamilton  S, Marshall K,  Thompson K,  Ashe R G (2004). A study of quality of life in primigravidae with  urinary  incontinence.  International urogynecology  journal and  pelvic floor dysfunction, 15(3),pp. 160‐164.  10. Eason E, Labrecque M, Marcoux S, Mondor M (2004). Effects of  carrying  a  pregnancy  and  of method  of  delivery  on  urinary  incontinence:  a  prospective  cohort  study.  BMC  Pregnancy  Childbirth, 4(1), pp. 4.  11. Guiheneuf A, Weyl B  (2008). Postpartum‐urinary  retention. A  report  of  two  cases  and  a  review  of  literature.  Journal  de  gynecologie, obstetrique  et  biologie de  la  reproduction,  37(6),  pp. 614‐617.  12. Hồ Xuân Lãng (2006). Nghiên cứu bí tiểu sau sanh và một số  yếu tố liên quan ở sản phụ sanh đường âm đạo tại Bệnh viện  Trung ương Huế. Luận văn Thạc sĩ Y học. Trường Đại Học Y  Khoa Huế. tr. 27, 60‐70.  13. Humburg J (2008). Postartum urinary retention‐without clinical  impact?.  Therapeutische  Umschau.  Revue  therapeutique,  65(11), pp. 681‐685.  14. Humburg  J,  Troeger  C,  Holzgreve W,  Hoesli  I  (2011).  Risk  factors in prolonged postpartum urinary retention: an analysis  of six cases. Archives of gynecology and obstetrics, 283(2), pp.  179‐183.  15. Kekre  AN,  Vijayanand  S,  Dasgupta  R,  Kekre  N  (2011).  Postpartum  urinary  retention  after  vaginal  delivery.  International  journal of gynaecology and obstetrics: the official  organ  of  the  International  Federation  of  Gynaecology  and  Obstetrics, 112(2), pp. 112‐115.  16. Ngô Gia Hy (1988). Tai biến và biến chứng niệu trong sản phụ  khoa. Niệu học. Nhà xuất bản Y học, Tp Hà Nội, tập 1, tr. 240.  17. Nguyễn Thị Hồng Vân  (2012). Giảm  đau, gây  tê ngoài màng  cứng và tủy sống cho chuyển dạ và sanh ngã âm đạo. Gây mê  sản khoa lý thuyết và lâm sàng. Nhà xuất bản Y học, Tp Hồ Chí  Minh, tr. 439‐433.  18. Nguyễn Thị Quý Khoa (2002). Bí tiểu sau sanh và một số yếu tố  liên quan trên sản phụ tại Bệnh viện Từ Dũ. Luận vănThạc sĩ Y  học. Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. tr. 25,70‐82.  19. Tô Mai Xuân Hồng (2006). Tình hình sanh forceps tại Bệnh viện  Hùng Vương. Luận văn Thạc sĩ Y học. Đại học Y Dược Tp Hồ  Chí Minh. Tr 83  Ngày nhận bài báo      : 30/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo  : 02/12/2013  Ngày bài báo được đăng    : 05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_le_bi_tieu_sau_sanh_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_tren_san_p.pdf
Tài liệu liên quan