17 khảo sát kiến thức chăm sóc trẻ bị sốt của các bà mẹ và nhận xét tác dụng hạ nhiệt của phương pháp chườm bằng nước ấm cho trẻ khi sốt cao ại bệnh viện Việt Nam Cu Ba

Đánh giá hiệu quả của phương pháp chườm ấm khi trẻ sốt cao, chúng tôi dựa trên sự giảm nhiệt độ trung bình của hai nhóm (nhóm 1 được uống thuốc hạ sốt và chườm ấm, nhóm 2 chỉ được uống thuốc hạ sốt đơn thuần) và theo dõi trong 30 phút đầu. Sau 15 phút, chúng tôi nhận thấy, nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 1 là 1,1 ± 0,3 độ C, trung bình trẻ nhóm 2 chỉ giảm được 0,4 ± 0,3 độ C (p < 0,01). Như vậy, trung bình nhóm 1 giảm hơn nhóm 2 là 0,7oC. Sau 30 phút, nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 1 là 2,3 ± 0,5 độ C, còn nhóm 2 là 1,8 ± 0,6 độ C. Nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 1 hơn nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 2 sau 30 phút là 0,5oC. Những số liệu trên đã chứng tỏ chườm ấm kết hợp với uống thuốc hạ sốt rõ ràng giảm nhiệt được nhiều hơn và nhanh hơn so với việc chỉ uống thuốc hạ sốt đơn thuần. Điều này rất có ý nghĩa khi trẻ sốt cao vì việc hạ sốt kịp thời để tránh những nguy co co giật cho trẻ là vô cùng cần thiết, đặc biệt đối với những trẻ có tiền sử co giật do sốt.

pdf14 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 483 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 17 khảo sát kiến thức chăm sóc trẻ bị sốt của các bà mẹ và nhận xét tác dụng hạ nhiệt của phương pháp chườm bằng nước ấm cho trẻ khi sốt cao ại bệnh viện Việt Nam Cu Ba, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 112 17 KHẢO SÁT KIẾN THỨC CHĂM SÓC TRẺ BỊ SỐT CỦA CÁC BÀ MẸ VÀ NHẬN XÉT TÁC DỤNG HẠ NHIỆT CỦA PHƯƠNG PHÁP CHƯỜM BẰNG NƯỚC ẤM CHO TRẺ KHI SỐT CAO TẠI BỆNH VIỆN VIỆT NAM CU BA Trần Thị Lan Phương* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá tác dụng của phương pháp chườm ấm khi trẻ sốt cao trong thời gian đến khám và nằm viện, đồng thời khảo sát kiến thức nhận biết và cách xử trí chăm sóc của các bà mẹ đối với trẻ khi sốt cao. Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có can thiệp. Đối tượng của nghiên cứu là tất cả các trẻ nhi bị sốt đến khám và điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Việt Nam Cu Ba. Kết quả: Kết quả cho thấy có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê khi ta chọn những trẻ sốt cao trên 390C nhưng chưa dùng thuốc hạ sốt trước đó 6 giờ và chia hai nhóm ngẫu nhiên để nghiên cứu: Nhóm một chỉ dùng thuốc hạ nhiệt Paracetamol. Nhóm hai: kết hợp dùng thuốc Paracetamol với chườm cơ thể bằng nước ấm. Theo dõi nhiệt độ của hai nhóm này sau 15 phút thấy nhóm một giảm 1,1 ± 0,3 độ; nhóm 2 là 0,4 ± 0,3 độ. So sánh sự giảm nhiệt độ của hai nhóm sau 30 phút thấy nhiệt độ giảm trung bình của nhóm một là 2,3 ± 0,5, nhóm hai là 1,8 ± 0,6. Kết luận: Chườm ấm kết hơp với uống thuốc hạ sốt có tác dụng giảm nhiệt tốt hơn so với chỉ dùng uống thuốc hạ sốt đơn thuần. Từ khóa: Chườm ấm cho trẻ- sốt cao. ABSTRACT KNOWLEDGE SURVEY OF CARING FOR CHILDREN WITH FEVER OF MOTHERS AND ANTIPYRETIC EFFECT OBSERVATION OF HOT THERAPEUTIC COMPRESS APPLIANCE METHOD FOR CHILDREN WITH HIGH FEVER AT PEDIATRICS VIET NAM - CU BA HOSPITAL Tran Thi Lan Phuongl* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 112 - 125 Objectives: Evaluating effect of Hot therapeutic compress appliance method when children being high fever during examination and treatment in the hospital, at the same time, knowledge survey of mother’s recognition and behaviour to children with high fever. Methods: Interfered research design of horizontal description. Subject of the research is all children with fever that examine and treat at Pediatrics of Vietnam - Cuba Hospital. Results: Shown that there are significant changes to statistics when selecting children with fever above 390C but have not used febrifuge before that 6h at least and separating two random group for research: group 1 only uses febrifuge of Paracetamol. Group 2 combines using Paracetamol with Hot therapeutic compress appliance. Monitoring temperature of these two groups after 15 minutes, group 1 reduces 1.1 ± 0.3 degrees; group 2 is 0.4 ± 0.3 degrees. Comparising temperature decrease of two groups after 30 minutes, result shown that average decrease temperature of group 1 is 2.3 ± 0.5, group 2 is 1.8 ± 0.6. Conclusions: Hot therapeutic compress appliance combined with take febrifuge has antipyretic effect better than only taking simple febrifuge. * Trường Đại Học Thăng Long Hà Nội Tác giả liên lạc:ĐD Trần Thị Lan Phương, ĐT:0982951089, Email:lanphuong_11@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 113 Key words: Hot therapeutic compress appliance for children with high fever. ĐẶT VẤN ĐỀ Sốt là triệu chứng thường gặp ở trẻ em. Đây là một phản ứng có lợi bảo vệ cơ thể trước sự xâm nhập của các yếu tố lạ như vi rút, vi khuẩn, các tác nhân vật lý cũng như các yếu tố khác. Tuy nhiên, bên cạnh ý nghĩa bảo vệ cơ thể, sốt (đặc biệt là khi trẻ sốt cao) có thể có những tác động bất lợi, gây rối loạn hoạt động của các cơ quan như tim mạch, hô hấp, thần kinh, rối loạn chuyển hoá, gây mất nước và các chất điện giải Đặc biệt, sốt cao có thể gây co giật, nguy hiểm đến tính mạng trẻ và có thể có những di chứng thần kinh sau này. Việc nhận biết trẻ sốt, xử trí và chăm sóc trẻ sốt đúng cách sẽ làm giảm những tác động có hại của sốt đối với trẻ. Đây là vấn đề tưởng như đơn giản nhưng trên thực tế, có nhiều bà mẹ chưa biết đánh giá con mình bị sốt, chưa biết cách xử trí và chăm sóc khi trẻ sốt và cũng chưa biết hết được tác hại của sốt đối với trẻ để biết cách phòng ngừa. Với những trẻ có tiền sử co giật do sốt hoặc trẻ sốt cao có nguy cơ co giật, việc hạ nhiệt kịp thời là rất quan trọng. Hiện nay, Paracetamol là loại thuốc hạ sốt thường được sử dụng cho trẻ vì tính an toàn và thuốc này hấp thu nhanh qua đường tiêu hoá. Tuy nhiên, thuốc đạt được nồng độ đỉnh trong huyết thanh cũng phải sau 30 – 60 phút. Bên cạnh việc hạ sốt bằng Paracetamol, cần kết hợp với phương pháp vật lý chườm ấm để hạ nhiệt kịp thời, hạn chế nguy cơ giật cho trẻ. Mục tiêu nghiên cứu Khảo sát kiến thức nhận biết, xử trí và chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ có con bị sốt đến khám và điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Việt Nam – Cu Ba. Nhận xét tác dụng của phương pháp chườm ấm để hạ nhiết khi trẻ sốt cao. TỔNG QUAN Đại cương Sốt là tình trạng tăng nhiệt độ của cơ thể do đáp ứng đặc hiệu về mặt sinh học, qua trung gian và được kiểm soát bởi hệ thần kinh trung ương. Trẻ được xem là có sốt khi nhiệt độ đo ở hậu môn là từ 38oC trở lên hoặc nhiệt độ đo ở hõm nách từ 37,5oC trở lên(2). Trẻ sốt cao khi nhiệt độ đo ở hõm nách trên 39oC. Cần phân biệt sốt với các nguyên nhân khác gây tăng thân nhiệt như nhiễm nóng. Sốt là triệu chứng của nhiều bệnh lý liên quan đến nhiễm khuẩn hoặc không nhiễm khuẩn. Xác định trẻ sốt Để xác định trẻ sốt, cách chính xác nhất là đo thân nhiệt cho trẻ bằng nhiệt kế. Các vị trí đo thân nhiệt Các vị trí có thể đo thân nhiệt cho trẻ là miệng, hõm nách, hậu môn và màng nhĩ. Đo thân nhiệt ở miệng Trẻ được xác định là sốt khi nhiệt độ đo ở miệng ≥ 37,8oC. Vị trí đo này có thể cho kết quả chính xác nhưng dễ gây nguy hiểm cho trẻ vì có thể trẻ cắn đầu nhiệt kế gây vỡ dẫn đến tình trạng ngộ độc thuỷ ngân. Do đó, đo thân nhiệt ở miệng chỉ nên áp dụng cho trẻ trên 5 tuổi và cần sử dụng loại nhiệt kế có đầu cảm nhận nhiệt bằng chất liệu mềm. Việc vệ sinh đầu nhiệt kế trước và sau khi đo là rất cần thiết để tránh lây nhiễm giữa các bệnh nhi. Đo thân nhiệt ở hậu môn Nhiệt độ hậu môn phản ánh nhiệt độ trung tâm của cơ thể. Trẻ được coi là sốt khi nhiệt độ hậu môn ≥ 38oC. Khi đo thân nhiệt ở hậu môn, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 114 cần chú ý bôi vaselin vào đầu nhiệt kế, nhẹ nhàng và thận trọng đưa từ từ đầu nhiệt kế vào hậu môn bé. Động tác này nếu làm mạnh hoặc vội vàng có thể làm tổn thương niêm mạc hậu môn hoặc có thể làm thủng trục tràng. Nhiệt kế dùng để đo đường hậu môn cần được đánh dấu riêng, tránh dùng lẫn để đo đường miệng. Sau khi đo cần vệ sinh sạch sẽ nhiệt kế. Đo thân nhiệt ở nách Vị trí này thường được các bà mẹ sử dụng nhiều vì thuận tiện và dễ đo. Nhiệt độ hõm nách là nhiệt độ ngoại vi của cơ thể, do đó, trẻ được coi là sốt khi nhiệt độ ở hõm nách > 37,5oC. Khi đo cần lưu ý đặt đầu nhiệt kế vào giữa hõm nách. Đo thân nhiệt ở tai (màng nhĩ) Nhiệt độ màng nhĩ là nhiệt độ trung tâm cơ thể, giống như nhiệt độ đo ở hậu môn. Hiện nay trên thị trường có loại nhiệt kế đo ở tai cho kết quả nhanh và ít gây khó chịu cho trẻ. Tuy nhiên, số đo có thể dao động nếu cha mẹ đặt nhiệt kế không đúng vị trí hoặc trẻ < 3 tháng có lỗ tai quá nhỏ. * Thân nhiệt của trẻ có thể đo ở nhiều vị trí khác nhau nhưng điều quan trọng là phải biết đo đúng cách và khi theo dõi thân nhiệt cho trẻ cần nhất quán về dụng cụ đo và nơi lấy nhiệt. Cách đo thân nhiệt các bà mẹ hay làm khi trẻ sốt Khi trẻ sốt, nhiều bà mẹ đo thân nhiệt cho con bằng nhiệt kế nhưng cũng không ít các bà mẹ cảm nhận nhiệt độ của con mình bằng cách sờ tay lên trán hoặc người con. Cách đo này không chính xác do chủ quan của từng người. Hơn nữa, với cách đo này, các mẹ không thể biết con mình sốt bao nhiêu độ để xử trí kịp thời. Cơ chế bệnh sinh của sốt Cơ chế gây sốt Những chất gây sốt ngoại sinh (các vi sinh vật và độc tố của chúng) kích thích những tế bào của vật chủ phóng thích ra những chất gây sốt nội sinh. Chất gây sốt nội sinh gây sốt bởi sự khởi đầu những thay đổi chuyển hóa của trung tâm điều nhiệt nằm ở vùng hạ đồi. Sự tổng hợp Prostaglandine- E2 có vai trò quan trọng sự nâng lên của điểm ngưỡng nhiệt. Khi điểm ngưỡng nhiệt của vùng hạ đồi được nâng lên, sẽ hoạt hóa bộ phận tác động điều hòa thân nhiệt: Quá trình tạo nhiệt (tăng trương lực cơ, ớn lạnh) và bảo tồn nhiệt (co mạch) sẽ chiếm ưu thế hơn quá trình thải nhiệt (dãn mạch, đổ mồ hôi) cho đến khi nhiệt độ của máu tưới vùng hạ đồi đạt tới điểm ngưỡng nhiệt mới. Các giai đoạn của quá trình sốt Giai đoạn tăng thân nhiệt (sốt lên) Trong giai đoạn này, sản nhiệt tăng và thải nhiệt giảm làm mất cân bằng nhiệt (sinh nhiệt/thải nhiệt > 1). Cơ thể phản ứng giống như bị nhiễm lạnh. Biểu hiện của phản ứng tăng thân nhiệt là sởn gai ốc, tăng chuyển hóa và tăng chức năng hô hấp, tuần hoàn, mức hấp thu oxy có thể tăng gấp 3 hay 4 lần bình thường. Đồng thời có phản ứng giảm thải nhiệt, gồm co mạch da (da nhợt, giảm tiết mồ hôi), do đó, bệnh nhân thường tìm tư thế phù hợp và đòi đắp chăn. Trường hợp chất gây sốt có tác dụng mạnh, bệnh nhân có thể thấy rùng mình, ớn lạnh, rét run, khiến thân nhiệt tăng rất nhanh. Giai đoạn này, việc sử dụng các thuốc hạ nhiệt hầu như không có tác dụng, chườm lạnh cũng ít hiệu quả, chỉ làm mất thêm năng lượng của cơ thể. Giai đoạn thân nhiệt ổn định ở mức cao (sốt đứng) Giai đoạn này sản nhiệt không tăng hơn nhưng thải nhiệt bắt đầu tăng lên (mạch da dãn rộng) đạt mức cân bằng với tạo nhiệt (sinh nhiệt/tạo nhiệt = 1) và đều ở mức cao. Tuy nhiên chưa có mồ hôi. Tùy theo số lượng và hoạt tính của chất gây sốt, trạng thái và tuổi của người bệnh mà thân nhiệt chỉ tăng ít: sốt nhẹ (38oC), hoặc tăng nhiều: sốt vừa (38oC – 39oC), sốt cao và rất cao (39oC- 41oC). Thân nhiệt trong giai đọan “sốt đứng” có thể ổn định (gọi là sốt liên tục) hoặc thay đổi (sốt dao động), thậm chí tạm về bình thường (sốt cách quãng: Cơn sốt cách Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 115 nhau một hay vài ngày). Tất cả phụ thuộc vào loại vi khuẩn với chất gây sốt đặc trưng của mỗi loại. Biểu hiện của giai đoạn này: Da từ tái trở nên đỏ, nóng nhưng khô (không mồ hôi); thân nhiệt ngoại vi tăng do mạch ngoại biên bắt đầu giãn (giúp thải nhiệt); hô hấp, tuần hoàn và sự hấp thu oxy đều giảm so với giai đoạn đầu nhưng vẫn ở mức cao gấp 1,5 hay 2 lần so với bình thường, thân nhiệt vẫn duy trì ở mức cao. Lúc này có thể làm tăng thải nhiệt như dùng thuốc hạ sốt để hạn chế, nếu thân nhiệt đe dọa lên quá cao. Giai đoạn thân nhiệt trở về bình thường (sốt lui). Sự sản nhiệt ở giai đoạn này bị ức chế dần để trở về bình thường và thải nhiệt tăng rõ (sinh nhiệt/thải nhiệt < 1). Nhờ vậy thân nhiệt trở về bình thường. Biểu hiện: Giai đoạn này cơ thể phản ứng giống như nhiễm nóng giai đoạn đầu. Có thể thấy sự hấp thu oxy và mức chuyển hóa trở về mức tối thiểu, có giãn mạch ngoại vi, vã mồ hôi, tăng bài tiết nước tiểu (do đó có thể gặp biến chứng như tụt huyết áp nếu gặp điều kiện thuận lợi như đứng dậy đột ngột, vận cơ đột ngột; hoặc có thể giảm thân nhiệt nhanh và nhiễm lạnh nếu gặp điều kiện thuận lợi, như gió lùa, tiếp xúc lạnh, tắm lạnh)(3). Ý nghĩa sinh học của sốt Sốt là một đáp ứng có lợi cho cơ thể bởi vì các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: Khi sốt, khả năng tiêu diệt vi khuẩn tăng. Hoạt động đề kháng của cơ thể tăng: Tăng hoạt động của hệ miễn dịch, tăng hiện tượng thực bào, tăng hoạt động diệt khuẩn của bạch cầu đa nhân trung tính, tăng tổng hợp interferon, tăng tổng hợp kháng thể. Tuy nhiên ở nhiệt độ cao (từ 40oC trở lên), tác dụng này có thể không có và đôi khi hiệu quả ngược lại. Giảm lượng sắt trong huyết thanh (do tăng hấp thu sắt vào hệ võng nội mô và giảm hấp thu sắt từ ruột vào máu) đồng thời tăng lượng protein gắn sắt, feritin. Vì vậy, nồng độ sắt tự do trong máu giảm, làm giảm sự sinh sản của vi khuẩn vì vi khuẩn tăng nhu cầu về sắt khi ở nhiệt độ cao(2). Các bất lợi của sốt Các rối loạn chuyển hoá trong sốt Chuyển hóa năng lượng Trong sốt có tăng chuyển hóa và qua đó tăng tạo năng lượng để chi dùng cho các nhu cầu tăng sản nhiệt (không qua ATP) và tăng chức năng một số cơ quan (qua ATP). Tuy nhiên mức tăng này không lớn. Tăng thân nhiệt lên 1 độ mới làm tăng chuyển hóa lên 3-5%. Cơ chế chủ yếu tiết kiệm năng lượng trong sốt là giảm thải nhiệt. Nhờ vậy cơ thể chỉ cần sản nhiệt gấp 2-3 lần trong vòng 10-20 phút là đủ tăng thân nhiệt lên 39oC hay 40oC, sau đó mức tăng chuyển hoá chủ yếu để tăng chức năng cơ quan hơn là để duy trì thân nhiệt cao. Chuyển hóa Glucid Glucid là năng lượng chủ yếu sử dụng ở giai đoạn đầu của sốt (thương số hô hấp = 1,0). Có thể thấy Glucose huyết tăng lên (đôi khi đến mức có Glucose niệu), dự trữ Glycogen ở gan giảm đi và có thể cạn kiệt nếu sốt cao 40oC và cơn sốt kéo dài trên 4 giờ. Lúc này cơ thể tự tạo Glucid từ Protid (ở gan) để có thể khai thác năng lượng từ Lipid. Trường hợp sốt cao và kéo dài có thể làm tăng acid lactic trong máu, nói lên sự chuyển hóa yếm khí của Glucid. Chuyển hóa Lipid Lipid luôn luôn bị huy động trong sốt, chủ yếu từ giai đoạn hai, nhất là khi nguồn Glucid bắt đầu cạn. Có thể thấy nồng độ acid béo và triglycerid tăng trong máu. Chỉ khi sốt cao kéo dài, mới có rối loạn chuyển hoá Lipid, đó là tăng nồng độ cetonic – chủ yếu do thiếu Glucid – góp phần quan trọng gây nhiễm acid trong một số cơn sốt. Chuyển hóa Protid Tăng tạo kháng thể, bổ thể, bạch hầu, enzym làm cho sự huy động dự trữ Protid tăng lên trong sốt là điều không tránh khỏi. Có thể thấy Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 116 nồng độ urê tăng thêm 20-30% trong nước tiểu ở một cơn sốt thông thường. Ngoài ra, trong một số trường hợp sốt Protid còn bị huy động vì độc tố, và nhất là để trang trải nhu cầu năng lượng (khi nguồn Glucid cạn kiệt). Đó là các cơ chế quan trọng gây suy mòn trong một số trường hợp sốt. Chuyển hóa muối nước và thăng bằng acid – base Chuyển hóa muối nước: Ở giai đoạn đầu thường ngắn chưa thấy rõ sự thay đổi, có thể tăng mức lọc cầu thận do tăng lưu lượng tuần hoàn nhưng từ giai đoạn 2, hormon ADH của hậu yên và adosteron của thượng thận tăng tiết, gây giữ nước và giữ natri (qua thận và tuyến mồ hôi), nhưng có tăng bài tiết K và P. Có thể thấy da khô, lượng nước tiểu giảm rõ nhưng đậm đặc, tỷ trọng cao. Tình trạng ưu trương trong cơ thể (do tích các sản phẩm chuyển hoá) và do mất nước qua hơi thở làm bệnh nhân khát (đòi uống). Ở giai đoạn 3 (sốt lui) ống thận và tuyến mồ hôi được giải phóng khỏi tác dụng của ADH và aldosteron nên có tăng bài tiết nước tiểu, vã mồ hôi, thân nhiệt trở về bình thường. Thay đổi chức năng các cơ quan trong sốt Thay đổi chức năng thần kinh Sốt sẽ không gặp các triệu trứng thần kinh như: nhức đầu, chóng mặt, lú lẫn chỉ thấy cảm giác buồn ngủ- nói lên sự ức chế của vỏ não. Tuy nhiên, cùng một thân nhiệt (39oC), người sốt có các triệu chứng thần kinh nhẹ hơn và dễ chịu đựng hơn so với khi nhiễm nóng; người trưởng thành dễ chịu đựng hơn so với trẻ nhỏ tuổi (ví dụ, người lớn không co giật khi sốt 40oC hay 41oC, nhưng trẻ 2 tuổi có thể co giật ngay từ 39,5oC hoặc thấp hơn). Thay đổi chức năng tuần hoàn Hệ tim mạch hoàn toàn đáp ứng yêu cầu trong sốt. Sốt 40oC hay 41oC chỉ làm tăng thêm 24 hay 30 nhịp tim.Trung bình tăng 1 độ trong sốt là nhịp tim tăng thêm 8-10 nhịp/phút. Huyếp áp không tăng. Tuy nhiên, ở giai đoạn ba, khi cơ thể đào thải nhiều nước có thể biến chứng làm tụt huyết áp nếu đứng dậy đột ngột. Khi trẻ sốt cao, các mạch ngoại vi thường co lại làm tay chân trẻ lạnh và nổi vân tím trên da. Thay đổi chức năng hô hấp Hệ hô hấp hoàn toàn đảm nhiệm chức năng tăng thông khí. Tuy nhiên ngoài tác dụng giúp thải một số nhiệt, tăng thông khí ở nhiệt độ cao cũng góp phần làm mất một lượng nước đáng kể (khô miệng và mũi họng, khát). Rối loạn chức năng tiêu hoá Hệ tiêu hóa giảm chức năng toàn bộ nặng hay nhẹ tùy mức tăng thân nhiệt trong sốt. Các dấu hiệu của rối loạn tiêu hóa thường đến sớm như: + Giảm tiết mọi dịch (nước bọt, dịch dạ dày, tụy, mật, ruột) gây đắng miệng, lưỡi trắng, chán ăn, khó tiêu. + Giảm co bóp và giảm nhu động khiến lâu tiêu, đầy bụng, táo bón. + Giảm hấp thu. Hầu hết, khi hết sốt, chức năng tiêu hóa mau chóng hồi phục, tăng cảm giác ngon miệng. Thay đổi tiết niệu Do tăng tuần hoàn qua thận và co mạch ngoại vi nên giai đoạn đầu của sốt có tạm tăng bài tiết nước tiểu. Ở giai đoạn hai có giảm rõ rệt lượng nước tiểu và mồ hôi do tác dụng ADH. ở giai đoạn ba hết tác dụng của ADH nên có tiết nhiều nước tiểu và mồ hôi. Thay đổi chức năng nội tiết Nhiều tuyến nội tiết có vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của sốt, giúp thực hiện ý nghĩa đề kháng và bảo vệ của sốt trước các tác nhân có hại cho cơ thể như: Thyroxin, adrenalin, noradrenalin làm tăng chuyển hóa. Aldosteron và ADH làm tăng giữ nước và muối(3). Xử trí sốt Thuốc Paracetamol Khi trẻ sốt > 38,5oC (nhiệt độ hõm nách), cần cho trẻ uống thuốc hạ sốt. Paracetamol là thuốc giảm đau hạ sốt, được dùng phổ biến nhiều nhất vì được cho là an toàn. Thuốc được hấp thu nhanh chóng qua Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 117 đường tiêu hoá. Thuốc tác động lên vùng dưới đồi gây hạ nhiệt do giãn mạch và tăng lưu lượng máu ngoại biên. Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt trong vòng từ 30- 60 phút sau khi uống với liều điều trị. Liều điều trị của Paracetamol là 10 – 15 mg/kg/lần, khoảng các giữa các lần dùng là 4 – 6 giờ. Với liều điều trị thông thường, paracetamol hầu như không có tác dụng phụ. Tuy nhiên, khi dùng liều cao (> 10 g), sau thời gian tiềm tàng 24 giờ sẽ xuất hiện hoại tử tế bào gan và có thể dẫn tới tử vong sau 5 – 6 ngày. Hạ sốt bằng phương pháp vật lý Khi nhiệt độ cơ thể tăng cao, bên cạnh việc sử dụng thuốc hạ sốt, có thể kết hợp với các biện pháp làm tăng thải nhiệt qua da. Chườm ấm Đây là phương pháp hiệu quả và hiện nay đang được khuyến khích sử dụng vì có nhiều ưu điểm. Nguyên lý của phương pháp này là làm tăng thải nhiệt qua da. Nước ấm làm giãn các mạch máu dưới da giúp tăng quá trình thải nhiệt. Khi chườm nước ấm, một lớp nước mỏng được tạo trên bề mặt da, chính sự bay hơi của lớp nước này sẽ làm tăng thải nhiệt qua da. Mặt khác, chườm nước ấm làm trẻ thấy dễ chịu, không bị lạnh và tránh được nguy cơ viêm phổi. Các phương pháp vật lý khác Ngâm trẻ vào bồn nước Phương pháp này không nên sử dụng vì cơ chế thải nhiệt chủ yếu là do bay hơi qua da. Nếu ngâm trẻ vào bồn nước thì sẽ giảm sự bay hơi qua da của trẻ làm hạn chế sự thải nhiệt của cơ thể. Lau cồn Hiện nay, phương pháp này không được sử dụng vì cồn có thể có nguy cơ hít cồn qua hơi thở và hấp thu cồn qua da, có thể làm tổn thương hệ thần kinh của trẻ. Chườm nước lạnh Trước đây, quan niệm chườm nước lạnh sẽ làm giảm nhiệt do truyền nhiệt qua da nhưng thực tế, phương pháp này ít hiệu quả. Trái với chườm nước ấm, nước lạnh làm co mạch dưới da làm hạn chế quá trình thoát nhiệt. Mặt khác, khi trẻ sốt, nhiệt độ cơ thể trẻ cao tương đối so với môi trường nên trẻ thường có cảm giác rét run, vì thế, khi chườm nước lạnh càng làm cho trẻ run, chính sự run này lại làm tăng quá trình sản nhiệt. Nước lạnh chườm cho trẻ cũng làm tăng nguy cơ viêm phổi cho trẻ. Chính vì những lý do này mà hiện nay, phương pháp chườm nước lạnh được khuyến cáo không nên áp dụng. Dán miếng dán hạ sốt Hiện nay trên thị trường có bán một số loại miếng dán hạ sốt tác dụng theo cơ chế vật lý. Thành phần chủ yếu của chúng là Hydrogen, có tac dụng hấp thu nhiệt và phân tán ra ngoài. Một số có chứa tinh dầu bạc hà, khi bay hơi sẽ có tác dụng làm hạ nhiệt. Tuy nhiên, hiệu quả của những miếng dán này còn chưa được chứng minh một cách rõ rệt. Các phương pháp hạ sốt khác mà các bà mẹ hay dùng Trong dân gian, khi trẻ sốt, các bà mẹ hay dùng những phương pháp khác để hạ nhiệt cho con mình như cho trẻ uống nước lá nhọ nồi, đắp lá nhọ nồi, đắp khăn ướt trên trán trẻ. Thực tế cho thấy những phương pháp này thường ít hiệu quả. Nhiều bà mẹ khi thấy trẻ sốt cao, rét run còn đắp chăn cho con vì sợ con mình lạnh. Đây là một quan điểm sai lầm vì trẻ không những không hạ sốt mà còn có thể làm trẻ tăng nhiệt độ và tăng nguy cơ co giật Xử trí co giật do sốt Một trong những biến chứng của sốt cao là co giật. Đây là một cấp cứu mà các bà mẹ phải xử trí khẩn trương và đúng cách để tránh nguy cơ tử vong và di chứng thần kinh cho trẻ. Khi trẻ co giật do sốt, cần nhanh chóng cho trẻ dùng thuốc hạ sốt bằng cách đặt hậu môn nếu trước đó trẻ chưa được dùng. Tuyệt đối không được ghì chặt trẻ. Dùng miếng gạc sạch Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 118 đặt giữa hai hàm răng trẻ để tránh cho trẻ cắn phải lưỡi và nhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất để kịp thời điều trị. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn chọn lựa Tất cả những bệnh nhi bị sốt đến khám và điều trị tại khoa Nhi của Bệnh viện Việt Nam – Cu Ba. Những bà mẹ của những em bé này. Tiêu chuẩn loại trừ Những bệnh nhi không sốt. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 07/ 2010 đến tháng 09/2010. Địa điểm nghiên cứu Khoa Nhi Bệnh viện Việt Nam – Cu ba Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang có can thiệp. Cỡ mẫu nghiên cứu 212 trẻ bị sốt đến khám tại khoa Nhi Bệnh viện Việt Nam – Cu ba từ tháng 07 đến tháng 09 năm 2010. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu Phương pháp thu thập số liệu Khảo sát kiến thức nhận biết và xử trí trẻ sốt của các bà mẹ Chúng tôi phỏng vấn các bà mẹ có con bị sốt đến khám tại khoa qua bộ câu hỏi đã được thiết kế. Đánh giá điểm kiến thức nhận biết và xử trí trẻ sốt bằng cách chấm điểm những câu trả lời của các mẹ dựa vào thang điểm định sẵn. Trong số những trẻ bị sốt tham gia nghiên cứu, chọn ra những trẻ sốt cao trên 39oC nhưng chưa được dùng thuốc hạ sốt trước đó 6 giờ và chia những trẻ này thành hai nhóm theo cách chọn mẫu ngẫu nhiên, cứ 1 trẻ vào nhóm 1, trẻ tiếp theo sẽ vào nhóm 2. Nhóm 1 được dùng thuốc hạ sốt kết hợp với phương pháp chườm ấm Nhóm 2 chỉ được dùng thuốc hạ sốt đơn thuần. Theo dõi nhiệt độ của hai nhóm trẻ này 15 phút / lần trong 30 phút. So sánh sự giảm nhiệt độ trung bình của hai nhóm sau 15 phút và sau 30 phút. Cách đo thân nhiệt: Trẻ được đo thân nhiệt ở hõm nách bằng nhiệt kế thủy ngân. Thuốc hạ sốt được sử dụng cho trẻ là Paracetamol với liều 10 – 15 mg/kg/lần. Cách chườm ấm cho trẻ: + Chuẩn bị dụng cụ: * Chậu nước ấm, nhiệt độ nước trong chậu khoảng 37oC. * Khăn bông mềm. + Đặt trẻ ở nơi thoáng, tránh gió lùa. + Cởi bớt quần áo trẻ. + Nhúng khăn bông vào nước ấm, vắt bớt nước (không vắt kiệt). Lau nhẹ để tạo một lớp nước mỏng ở đầu, thân mình, tay, chân, đặc biệt là những vùng có mạch máu lớn như cổ, nách, bẹn. + Theo dõi thân nhiệt cho trẻ trong quá trình chườm ấm cứ 15 phút 1 lần. + Khi nhiệt độ cơ thể trẻ < 38oC, ngừng chườm, lau khô người và mặc quần áo cho trẻ. Công cụ thu thập số liệu Bộ câu hỏi phỏng vấn. Phiếu theo dõi thân nhiệt trẻ. Nhiệt kế đo thân nhiệt cho trẻ. Dụng cụ để chườm ấm cho trẻ: + Chậu đựng nước. + Khăn bông. + Phích đun nước nóng. Thuốc Paracetamol 0,1g. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 119 Các biến số nghiên cứu Trình độ học vấn của mẹ. Nơi cư trú. Cách nhận biết trẻ sốt. Vị trí đo thân nhiệt trẻ mẹ thường đo. Mốc nhiệt độ mẹ xác định là trẻ sốt. Mốc nhiệt độ mẹ cho là trẻ sốt cao. Mốc nhiệt độ mẹ cần cho trẻ uống thuốc hạ sốt. Kiến thức của mẹ về những rối loạn cơ thể khi trẻ sốt cao. + Thở nhanh. + Mạch và nhịp tim nhanh. + Mệt mỏi. + Ăn uống kém. + Đau đầu. + Buồn nôn hoặc nôn. + Nổi vân tím trên da. + Run. + Co giật. + Mất nước và điện giải. Dùng thuốc hạ sốt theo hướng dẫn của Bác sĩ. Việc quan tâm đến liều và khoảng cách giữa các lần dùng thuốc hạ sốt của những mẹ không theo hướng dẫn của Bác sĩ. Những biện pháp hạ sốt khác mà các bà mẹ sử dụng. + Uống nước lá nhọ nồi. + Đắp lá nhọ nồi. + Đắp khăn ướt. + Đắp chăn cho trẻ vì sợ lạnh. + Dán miếng dán hạ sốt. + Nới rộng quần áo. + Chườm nước lạnh. + Chườm nước ấm. + Không làm gì. Xử trí của các bà mẹ nếu trẻ bị co giật do sốt. + Đặt thuốc hạ sốt đường hậu môn ngay nếu trẻ chưa được dùng thuốc hạ sốt. + Đặt miếng gạc giữa hai hàm răng trẻ. + Ghì chặt trẻ. + Khẩn trương đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất. + Không biết làm gì. Điểm kiến thức của các bà mẹ. Nhiệt độ cơ thể lúc bắt đầu theo dõi. Nhiệt độ cơ thể sau 15 phút. Nhiệt độ cơ thể sau 30 phút. Nhiệt độ giảm sau 15 phút. Nhiệt độ giảm sau 30 phút. Xử lý số liệu Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 15.0. Các thuật toán thống kê: Tính tần suất, so sánh trung bình của hai nhóm. Đạo đức trong nghiên cứu Tất cả các đối tượng tham gia nghiên cứu đều được giải thích cụ thể về mục đích, nội dung nghiên cứu để đối tượng tham gia một cách tự nguyện và cung cấp thông tin chính xác. Tất cả các thông tin thu thập được chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài, không nhằm mục đích khác. KẾT QUẢ Kiến thức nhận biết và xử trí sốt của các bà mẹ Nhận biết sốt Đa số các bà mẹ nhận biết trẻ sốt bằng cách cảm nhận bằng tay (178 bà mẹ chiếm 84%). 178 34 Cảm nhận bằng tay Đo bằng nhiệt kế Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 120 Biểu đồ 1. Cách nhận biết sốt của các bà mẹ 1 193 8 10 Miệng Hõm nách Hậu môn Màng nhĩ Biểu đồ 2. Vị trí đo thân nhiệt cho trẻ * Nhận xét: Hầu hết các bà mẹ (193 mẹ chiếm 91%) thường đo thân nhiệt cho trẻ ở hõm nách. 13 154 45 >37oC >37,5oC >38oC Biểu đồ 3. Quan điểm của các bà mẹ về mốc nhiệt xác định trẻ sốt (Đo ở hõm nách) * Nhận xét: Phần lớn các bà mẹ (154 bà mẹ chiếm 72,6%) quan niệm trẻ sốt khi nhiệt độ cơ thể trẻ > 37,5oC. 44 115 38 15 >38oC >38,5oC >39oC >39,5oC Biểu đồ 4. Quan điểm của các bà mẹ về mốc nhiệt được coi là trẻ sốt cao (Đo ở hõm nách) * Nhận xét: Phần lớn các bà mẹ (115 mẹ chiếm 54,3%) cho rằng trẻ sốt cao khi thân nhiệt trẻ > 38,5oC. Bảng 1. Sự hiểu biết của các bà mẹ về những rối loạn cơ thể trẻ có thể gặp khi trẻ sốt cao Các rối loạn khi trẻ sốt cao N % Thở nhanh 47 22,2 Mạch và nhịp tim nhanh 46 21,7 Mệt mỏi 168 79,2 Ăn uống kém 170 80,2 Đau đầu 132 58,0 Buồn nôn và nôn 57 26,8 Nổi vân tím trên da 46 21,7 Run 72 34 Co giật 72 34 Mất nước và điện giải 53 25 * Nhận xét: Những triệu chứng rối loạn cơ thể khi trẻ sốt cao được các bà mẹ biết nhiều nhất là ăn uống kém, mệt mỏi, đau đầu. Cách xử trí sốt 13 136 47 16 0 20 40 60 80 100 120 140 >37,5oC >38oC >38,5oC >39oC Biểu đồ 5. Quan điểm về mốc nhiệt cần dùng thuốc hạ sốt cho trẻ của các bà mẹ (Đo thân nhiệt ở hõm nách) * Nhận xét: Đa số các bà mẹ (136 mẹ chiếm 64,2%) cho rằng cần cho trẻ uống thuốc hạ sốt khi trẻ sốt > 38oC. 105 107 107 Theo chỉ định của BS Tự ý dùng Biểu đồ 6. Việc tuân theo chỉ định của bác sĩ khi dùng thuốc hạ sốt cho trẻ * Nhận xét: Trong số 212 bà mẹ được phỏng vấn, chỉ có 105 bà mẹ (49,5%) thấy cần thiết dùng thuốc hạ sốt cho trẻ theo hướng dẫn của bác sĩ. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 121 50 57 Quan tâm đến liều & khoảng cách dùng Không quan tâm Biểu đồ 7. Việc quan tâm đến liều và khoảng thời gian giữa các lần dùng thuốc của các bà mẹ tự ý cho con dùng thuốc hạ sốt * Nhận xét: Trong số 107 bà mẹ tự ý cho con dùng thuốc hạ sốt, có 57 bà mẹ (53,3%) dùng thuốc hạ sốt cho con bất cứ khi nào trẻ sốt mà không quan tâm đến lượng thuốc hạ sốt đã dùng trong ngày và khoảng cách giữa các lần dùng. Bảng 2. Các biện pháp hạ sốt khác các bà mẹ sử dụng cho trẻ Các phương pháp hạ sôt khác N % Uống nước lá nhọ nồi 60 28,3 Đắp lá nhọ nồi 41 22,6 Đắp khăn ướt lên trán 91 42,9 Đắp chăn cho trẻ vì sợ lạnh 37 17,5 Dán miếng dán hạ sốt 61 28,8 Nới rộng quần áo 86 40,6 Chườm khắp cơ thể bằng nước lạnh 31 14,6 Chườm khắp cơ thể bằng nước ấm 95 44,8 Không làm gì 5 2,4 * Nhận xét: Trong số những bà mẹ được phỏng vấn, vẫn còn một số bà mẹ có quan điểm sai lầm khi xử trí trẻ sốt như đắp chăn cho trẻ (37 mẹ chiếm 17,5%), chườm nước lạnh cho trẻ (31 mẹ chiếm 14,6%) Bảng 3. Kiến thức xử trí nếu trẻ bị co giật do sốt của các bà mẹ Các động tác xử trí N % Ghì chặt trẻ 53 25,6 Không biết làm gì 40 18,9 Đặt thuốc hạ sốt đường hậu môn 126 59,4 Đặt miếng gạc giữa hai hàm răng trẻ 34 16,0 Khẩn trương đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất 206 97,2 * Nhận xét: Trong số các bà mẹ được phỏng vấn, hầu hết các bà mẹ đều biết khẩn trương đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất nếu trẻ bị co giật do sốt. Đánh giá điểm kiến thức của các bà mẹ về nhận biết và cách xử trí khi trẻ sốt 74 84 54 <50 điểm 50 - < 70 điểm ≥ 70 điểm Biểu đồ 8. Điểm kiến thức nhận biết và xử trí sốt của các bà mẹ * Nhận xét:Trong số 212 bà mẹ, số bà mẹ có điểm kiến thức trung bình từ 50 - < 70 điểm chiếm tỉ lệ cao nhất (39,6%), số bà mẹ có kiến thức tốt > 70 điểm chỉ có 25,5%. Bảng 4. Điểm trung bình kiến thức theo trình độ học vấn của mẹ Tốt nghiệp PTTH hoặc dưới PTTH Trên PTTH p Số bà mẹ 120 92 ĐIểm TB KT 49,3 ± 7,9 69,9 ± 12,9 0,000 * Nhận xét: Những bà mẹ có trình độ văn hóa trên phổ thông trung học có điểm trung bình kiến thức hơn nhóm những bà mẹ có trình độ văn hóa dưới phổ thông trung học 29,6 điểm (p < 0,01). Bảng 5. Điểm trung bình kiến thức theo nơi cư trú của các bà mẹ Nội thành Ngoại thành p Số bà mẹ 175 37 Điểm TB KT 58,4 ± 14,8 57,2 ± 12,9 0,607 * Nhận xét: Điểm trung bình kiến thức của các bà mẹ sống ở nội thành tương đương với điểm trung bình kiến thức của các bà mẹ sống ở ngoại thành (p > 0,05). Đánh giá hiệu quả của phương pháp chườm ấm khi trẻ sốt cao Bảng 6. So sánh nhiệt độ giảm trung bình sau 15 phút của 2 nhóm Nhóm 1 Nhóm 2 p Nhiệt độ giảm trung bình sau 15 phút 1,1 ± 0,3 0,4 ± 0,3 < 0,01 * Nhận xét: Sau 15 phút, nhiệt độ giảm trung bình của những bệnh nhi nhóm 1 giảm 1,1 ± 0,3 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 122 độ C, nhiệt độ giảm trung bình của các bệnh nhi nhóm 2 là 0,4 ± 0,3 độ C. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Bảng 7. So sánh nhiệt độ giảm trung bình sau 30 phút của 2 nhóm Nhóm 1 Nhóm 2 p Nhiệt độ giảm trung bình sau 30 phút 2,3 ± 0,5 1,8 ± 0,6 < 0,01 * Nhận xét: Sau 30 phút, nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 1 là 2,3 ± 0,5 độ C, nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 2 là 1,8 ± 0,6 độ C. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. BÀN LUẬN Kiến thức nhận biết và xử trí sôt của các bà mẹ Nhận biết trẻ sốt Cách nhận biết trẻ sốt của các bà mẹ Biểu đồ 1 cho thấy, 84% các bà mẹ nhận biết con mình có sốt hay không bằng cách sờ tay vào người trẻ, chỉ có số ít các bà mẹ có thói quen đo nhiệt độ cho con bằng nhiệt kế. Việc cảm nhận bằng tay để xác định con mình bị sốt là không chính xác vì phụ thuộc vào chủ quan của từng bà mẹ. Nhiều trẻ được mẹ cho là sốt nhưng trên thực tế trẻ không sốt và ngược lại. Trong trường hợp trẻ có sốt thì cảm nhận bằng tay cũng không giúp người mẹ biết chính xác được con mình sốt bao nhiêu độ để cho con uống thuốc hạ sốt một cách hợp lý. Vị trí đo thân nhiệt cho trẻ Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy hầu hết các bà mẹ (193 bà mẹ chiếm 91%) có thói quen đo thân nhiệt cho con mình ở hõm nách trẻ, chỉ có 1 mẹ đo ở miệng, 8 mẹ đo ở hậu môn và 10 mẹ đo thân nhiệt cho con ở màng nhĩ. Điều này lý giải đo thân nhiệt ở hõm nách dễ thực hiện và tương đối an toàn cho trẻ. Trên thị trường, loại nhiệt kế để đo ở hõm nách thường sẵn có và giá cả cũng phải chăng nên thường được các bà mẹ lựa chọn. Đo thân nhiệt ở miệng chỉ nên thực hiện với những trẻ trên 5 tuổi vì có nguy cơ trẻ cắn vỡ đầu nhiệt kế gây ngộ độc thủy ngân. Nhiều bà mẹ e ngại đo thân nhiệt cho con ở hậu môn vì cách này khó thực hiện, nếu không thao tác cẩn thận, nhẹ nhàng dễ làm trẻ đau và có thể làm tổn thương niêm mạc hậu môn, thậm chí có thể làm thủng trực tràng của trẻ. Đo thân nhiệt ở màng nhĩ cũng ít được các bà mẹ sử dụng mặc dù cho kết quả nhanh và cũng ít gây khó chịu cho trẻ. Lý do là loại nhiệt kế đo ở màng nhĩ đắt, có ít trên thị trường và nhiều mẹ không quen sử dụng. Mốc nhiệt xác định trẻ sốt Theo kết quả biểu đồ 3, phẩn lớn các mẹ (154 mẹ - 72,6%) đã xác định đúng trẻ sốt khi nhiệt độ cơ thể trẻ > 37,5oC. Tuy nhiên, còn một số mẹ quan niệm trẻ > 37oC đã là sốt hoặc một số mẹ lại cho rằng trẻ sốt khi thân nhiệt phải > 38oC. Những quan niệm sai lầm này đều không tốt vì nếu nhận định sai sẽ có những cách theo dõi và xử trí không hợp lý đối với trẻ. Mốc nhiệt độ được xác định là trẻ sốt cao Nếu như phần lớn các bà mẹ xác định đúng mốc nhiệt độ trẻ sốt thì đa phần trong số các mẹ lại trả lời sai về mốc nhiệt độ trẻ sốt cao, chỉ có 38 mẹ (17,9%) xác định đúng trẻ sốt cao khi thân nhiệt của trẻ > 39oC. Sốt cao là một cấp cứu đối với trẻ vì khi trẻ sốt cao sẽ gây ra những rối loạn chức năng các cơ quan như hô hấp, tim mạch, thần kinh, trong đó co giât là một biến chứng nguy hiểm hay gặp ở trẻ. Chính vì thế, xác định đúng khi nào trẻ sốt cao là rất quan trọng để kịp thời xử trí hoặc cho trẻ đi cấp cứu, tránh cho trẻ những biến chứng đáng tiếc. Một số mẹ cho rằng nhiệt độ cơ thể của con họ > 39,5oC mới là sốt cao. Chính sự kém hiẻu biết này của mẹ khiến nhiều trẻ bị co giật vì sốt cao mà không được uống thuốc hạ sốt và các biện pháp hạ sốt khác. Ngược lại, nhiều mẹ lại cho rằng trẻ > 38oC đã là sốt cao nên lo lắng và cho con uống thuốc sớm một cách không cần thiết. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 123 Kiến thức về những rối loạn cơ thể trẻ khi sốt cao của các bà mẹ Theo kết quả bảng 1, những triệu chứng rối loạn cơ thể được các bà mẹ biết đến nhiều nhất là ăn uống kém (80,2% số bà mẹ biết triệu chứng này), mệt mỏi (79,2%), đau đầu (58,0%). Những triệu chứng khác như thở nhanh, nhịp tim nhanh, nổi vân tím trên da, run, mất nước và điện giải còn ít mẹ biết đến. Đặc biệt, co giật là biến chứng nguy hiểm khi trẻ sốt cao nhưng còn ít mẹ biết đến triệu chứng này. Qua đây, chúng tôi thấy cần phải giáo dục kiến thức cho các bà mẹ về những rối loạn cơ thể khi trẻ sốt cao để các mẹ biết cách phòng tránh những rối loạn này cho trẻ. Kiến thức xử trí sốt của các bà mẹ Quan điểm về mốc nhiệt (đo ở hõm nách) cần dùng thuốc hạ sốt cho trẻ của các bà mẹ Trong số 212 bà mẹ được phỏng vấn, chỉ có 47 mẹ (22,2%) cho con uống thuốc hạ sốt khi trẻ sốt > 38,5oC, đa số các mẹ (64,2%) cho rằng cần uống thuốc hạ sốt khi nhiệt độ cơ thể trẻ > 38oC,(6,1%) các bà mẹ cho con uống hạ sốt khi thân nhiệt của con mới >37,5oC và (7,5%) số bà mẹ cho con dùng thuốc chỉ khi bé sốt > 39oC. Việc cho con uống thuốc hạ sốt khi nhiệt độ cơ thể còn chưa đến mức phải uống thuốc hoặc con sốt quá cao đều không có lợi cho trẻ. Sốt là phản ứng có lợi của cơ thể, vì thế nếu cho trẻ uống thuốc hạ sốt khi thân nhiệt trẻ < 38,5oC sẽ làm hạn chế những tác dụng có lợi của sốt, hạn chế khả năng diệt khuẩn, làm giảm hoạt động đề kháng của cơ thể. Trái lại, nếu mẹ không kịp cho con uống thuốc khi nhiệt độ cơ thể cao có thể gây ra những rối loạn chức năng các cơ quan đặc biệt trẻ sẽ có nhiều nguy cơ co giật do sốt. Việc tuân theo hướng dẫn của bác sĩ và tuân thủ liều lượng, khoảng cách dùng thuốc hạ sốt của các bà mẹ Qua nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận được chỉ có 49,5% các bà mẹ thấy cần thiết dùng thuốc hạ sốt cho con theo hướng dẫn của bác sĩ. 51,5% số mẹ còn lại tự ý dùng, trong số các bà mẹ này, có đến 50 mẹ dùng thuốc cho con bất cứ khi nào thấy trẻ sốt mà không quan tâm đến liều lượng thuốc và khoảng cách giữa các lần dùng. Đây là cách dùng thuốc có thể gây nguy hiểm cho trẻ vì chúng ta đã biết, ở liều điều trị thông thường, paracetamol an toàn cho trẻ và hầu như không thấy có tác dụng phụ, nhưng nếu dùng quá liều thuốc này có thể gây độc cho gan và liều cao có thể dẫn tới tử vong. Vì thế, việc tuân theo hướng dẫn của bác sĩ để dùng thuốc cho con đúng liều lượng và khoảng cách giữa các lần dùng là rất quan trọng, để đảm bảo hiệu quả của thuốc và đảm bảo sự an toàn cho trẻ. Các biện pháp hạ sốt khác mà các bà mẹ dùng cho trẻ Ngoài việc dùng thuốc hạ sốt cho trẻ khi bé sốt, chúng tôi thấy các bà mẹ còn thực hiện một số các biện pháp khác hỗ trợ như uống nước lá nhọ nồi (28,3%), đắp lá nhọ nồi (22,6%), nới rộng quần áo (40,6%), chườm nước ấm (44,8%), dán miếng dán hạ sốt (28,8%), đắp khăn ướt lên trán (42,9%). Bên cạnh đó, còn có một số mẹ có những động tác không đúng khi xử trí sốt cho con như đắp chăn cho trẻ vì thấy trẻ run (17,5%) hay chườm cho trẻ bằng nước lạnh, thậm chí chườm nước đá (14,6%). Việc đắp chăn cho trẻ khi bé sốt không những không hạ được sốt cho bé mà còn góp phần làm tăng thân nhiệt có thể làm bé sốt cao hơn. Chườm nước lạnh khi trẻ sốt cũng là không nên vì việc hạ sốt bằng phương thức truyền nhiệt qua da ít hiệu quả, hơn nữa, nước lạnh sẽ làm co mạch ngoại vi và hạn chế quá trình thoát nhiệt. Trẻ lạnh sẽ run, chính sự co cơ do run làm tăng chuyển hoá và tăng thải nhiệt. Mặt khác, nước lạnh sẽ làm tăng nguy cơ viêm phổi ở trẻ. Bên cạnh phương pháp dùng thuốc hạ sốt, những biện pháp hỗ trợ đúng đắn như chườm ấm, nới rộng quần áo trẻ sẽ góp phần điều trị tích cực để trẻ hạ sốt kịp thời tránh những biến chứng khi trẻ sốt cao cần được phổ biến rộng rãi hơn nữa đến các bà mẹ. Những tác hại của việc xử trí không đúng cũng cần được khuyến cáo Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 124 đến các bà mẹ không nên thực hiện. Rất may là những bà mẹ thực hiện các động tác không đúng này chiếm tỉ lệ thấp. Kiến thức xử trí nếu trẻ bị co giật do sốt Khi được phỏng vấn sẽ làm gì nếu trẻ bị co giật do sốt, có tới 97,2% các bà mẹ đều chọn phương án khẩn trương đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất. Nhưng trước khi đưa trẻ đến cơ sở y tế để cấp cứu, còn ít mẹ biết cách xử trí ngay tại nhà. Có 59,4% các mẹ biết đặt thuốc hạ sốt đường hậu môn nếu trước đó 4 đến 6 giờ trẻ chưa dùng thuốc hạ sốt, chỉ có 16% số các mẹ biết đặt miếng gạc giữa hai hàm răng trẻ để tránh cho trẻ cắn phải lưỡi, 18,9% các bà mẹ không biết phải xử trí thế nào và 25,6% các bà mẹ có động tác sai là ghì chặt lấy trẻ để trẻ đỡ giật. Qua đây, chúng tôi thấy kiến thức xử trí nếu trẻ co giật do sốt của các bà mẹ còn chưa tốt. Co giật là một cấp cứu đòi hỏi phải xử trí kịp thời và đúng cách, nếu không sẽ ảnh hưởng đến tính mạng trẻ hoặc để lại những di chứng thần kinh sau này. Những bà mẹ này cần được hướng dẫn cụ thể cách xử trí đúng khi trẻ co giật để tránh nguy hiểm cho trẻ. Đánh giá kiến thức của các bà mẹ Phân bố điểm kiến thức của các bà mẹ Theo kết quả nghiên cứu, chúng tôi thấy điểm kiến thức nhận biết và xử trí sốt của các bà mẹ không đồng đều. Nhóm những bà mẹ có điểm kiến thức tốt > 70 điểm chỉ chiếm 25,5%, số bà mẹ có điểm kiến thức kém < 50 điểm còn chiếm tỉ lệ cao (34,9%). Điểm trung bình kiến thức theo trình độ học vấn của các bà mẹ Qua kết quả nghiên cứu, điểm trung bình kiến thức của những bà mẹ có trình độ học vấn trên phổ thông trung học cao hơn những bà mẹ tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc dưới phổ thông trung học là 29,6 điểm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Như vậy, những bà mẹ có trình độ học vấn cao hơn sẽ có sự hiểu biết tốt hơn về sốt cũng như những kiển thức về sức khoẻ nói chung. Điểm trung bình kiến thức theo nơi cư trú của các bà mẹ Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy điểm trung bình kiến thức của những bà mẹ sống ở nội thành cũng tương đương như điểm trung bình kiến thức của những mẹ sống ở ngoại thành (p > 0,05). Điều này có thể lý giải bởi sự rộng khắp của các mạng lưới truyền thông giáo dục sức khỏe đến người dân nội thành cũng như ngoại thành. Hiệu quả của phương pháp chườm ấm khi trẻ sốt cao Đánh giá hiệu quả của phương pháp chườm ấm khi trẻ sốt cao, chúng tôi dựa trên sự giảm nhiệt độ trung bình của hai nhóm (nhóm 1 được uống thuốc hạ sốt và chườm ấm, nhóm 2 chỉ được uống thuốc hạ sốt đơn thuần) và theo dõi trong 30 phút đầu. Sau 15 phút, chúng tôi nhận thấy, nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 1 là 1,1 ± 0,3 độ C, trung bình trẻ nhóm 2 chỉ giảm được 0,4 ± 0,3 độ C (p < 0,01). Như vậy, trung bình nhóm 1 giảm hơn nhóm 2 là 0,7oC. Sau 30 phút, nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 1 là 2,3 ± 0,5 độ C, còn nhóm 2 là 1,8 ± 0,6 độ C. Nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 1 hơn nhiệt độ giảm trung bình của nhóm 2 sau 30 phút là 0,5oC. Những số liệu trên đã chứng tỏ chườm ấm kết hợp với uống thuốc hạ sốt rõ ràng giảm nhiệt được nhiều hơn và nhanh hơn so với việc chỉ uống thuốc hạ sốt đơn thuần. Điều này rất có ý nghĩa khi trẻ sốt cao vì việc hạ sốt kịp thời để tránh những nguy co co giật cho trẻ là vô cùng cần thiết, đặc biệt đối với những trẻ có tiền sử co giật do sốt. Trong nghiên cứu, chúng tôi thấy hiệu số giữa sự giảm nhiệt độ trung bình của nhóm 1 so với nhóm 2 sau 15 phút nhiều hơn là sau 30 phút. Điều này có thể lý giải rằng, sau 30 phút, thuốc hạ sốt đã đạt được nồng độ đỉnh trong Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 125 huyết thanh và đã bắt đầu có tác dụng nên lúc này, cả nhóm 1 và nhóm 2 đều hạ nhiệt tốt. KẾT LUẬN Qua khảo sát kiến thức nhận biết, xử trí sốt của các bà mẹ có con đến khám và điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Việt Nam – Cu Ba và đánh giá hiệu quả của phương pháp chườm ấm khi trẻ sốt cao, chúng tôi có những kết luận sau: Kiến thức nhận biết và xử trí sốt của các bà mẹ 84% các bà mẹ còn xác định con sốt bằng cách cảm nhận bằng tay. 91% các mẹ đo thân nhiệt cho con ở vị trí hõm nách. 72,6% các mẹ đã biết xác định trẻ sốt khi nhiệt độ hõm nách > 37,5oC. Chỉ có 17,9% số bà mẹ xác định trẻ sốt cao khi nhiệt độ hõm nách > 39oC. Phần lớn các mẹ mới chỉ biết đến những rối loạn cơ thể khi trẻ sốt cao như mệt mỏi, ăn uống kém, đau đầu. Chỉ có 22,2% các mẹ biết cho con uống thuốc hạ sốt khi nhiệt độ hõm nách > 38,5oC. Có 49,5% số các mẹ thấy cần thiết cho con uống thuốc hạ sốt theo hướng dẫn của bác sĩ. Trong số những bà mẹ tự ý cho con dùng thuốc, có 53,3% số bà mẹ không quan tâm đến liều và khoảng cách giữa các lần dùng. Ngoài thuốc hạ sốt, một số bà mẹ còn có những động tác xử trí sai khi con sốt như đắp chăn cho trẻ, chườm nước lạnh. Nhiều mẹ còn chưa biết xử trí tại nhà nếu trẻ bị co giật do sốt. Kiến thức nhận biết và xử trí trẻ sốt của các bà mẹ có trình độ trên phổ thông trung học tốt hơn kiến thức của các bà mẹ tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc dưới phổ thông trung học. Kiến thức nhận biết, xử trí sốt của những mẹ ở nội thành và ngoại thành là tương đương nhau. Hiệu quả của phương pháp chườm ấm khi trẻ sốt cao Chườm ấm kết hợp với thuốc hạ sốt có tác dụng giảm nhiệt độ tốt hơn là cho trẻ uống thuốc hạ sốt đơn thuần. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ môn Dược lý Đại học Y Hà Nội, (2001), “Thuốc hạ sốt giảm đau chống viêm”, Dược lý học, nhà xuất bản Y học, tr 184. 2. Bộ môn Nhi đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, (2007), “Sốt ở trẻ em”, Nhi khoa tập 1,NHà xuất bản Y học, tr 379. 3. Phan Thị Thu Anh, (2007), “Sinh lý bệnh điều hòa thân nhiệt – Sốt”, Sinh lý bệnh và Miễn dịch, Nhà xuất bản Y học, tr 133 – 138.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf17_khao_sat_kien_thuc_cham_soc_tre_bi_sot_cua_cac_ba_me_va_n.pdf
Tài liệu liên quan