+ Tăng cường các giải pháp đảm bảo
an ninh tài chính cho thị trường nợ công
của chính phủ như các giải pháp: tăng
cường hiệu quả đầu tư công; tăng cường
kiểm soát tốc độ tăng nợ công; cải thiện
nguồn thu; nâng dự trữ ngoại hối để tăng
khả năng trả nợ của nền kinh tế; xây dựng
kế hoạch trả nợ; công khai, minh bạch để
kiểm soát nợ công.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng, chống rửa tiền, phòng chống tội
phạm trong điều kiện hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đó là:
Hoàn thiện cơ sở pháp lý đáp ứng yêu cầu
trong nước và quốc tế; hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chủ
yếu thực hiện chức năng phòng, chống rửa
tiền; tăng cường hợp tác trong nước giữa
các bộ, ngành, các cơ quan liên quan về
phòng, chống rửa tiền; tăng cường hợp tác
quốc tế về phòng, chống rửa tiền, phòng,
chống tội phạm toàn cầu.
Các giải pháp đồng bộ về an ninh
tài chính cho thị trường tài chính Việt
Nam cần được tiến hành để đáp ứng cả
về mặt chất lượng và số lượng, đảm bảo
tính liên kết của các loại thị trường tạo cho
thị trường hoạt động thống nhất trong thị
trường tài chính.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu An ninh tài chính tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
AN NINH TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Bùi Thanh Nga*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 2/3/2020
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 01/9/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/9/2020
Tóm tắt: Đảm bảo an ninh tài chính ngày càng trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi
quốc gia và toàn cầu trong xu thế ngày càng tự do thương mại, tự do lưu chuyển các dòng
vốn. Thị trường tài chính phát triển qua các năm đã góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, Việt Nam có hệ thống tài chính, kinh tế
còn nhỏ bé nên dễ bị tổn thương khi có các tác động của khủng hoảng tài chính, kinh tế của
thế giới và những khó khăn từ nội tại nền kinh tế. Bài viết tập trung nghiên cứu về an ninh tài
chính tại Việt Nam và đưa ra các khuyến nghị để giữ ổn định thị trường tài chính trong quá
trình hội nhập quốc tế.
Tứ khóa: An ninh tài chính; Hội nhập quốc tế; Việt Nam.
* Viện Kinh tế và Quản lý – Đại học Bách Khoa Hà Nội
1. Tổng quan về an ninh tài chính
Dưới tác động ảnh hưởng của xu thế
toàn cầu hóa và tự do hóa tài chính các
quốc gia đối mặt với rủi ro tài chính ngày
càng lớn và khủng hoảng tài chính đã trở
thành mối đe dọa chủ yếu đến anh ninh
kinh tế thế giới. Chính vì vậy, tăng cường
an ninh tài chính, hoàn thiện và cải cách
thể chế giám sát và tài chính, thiết lập cơ
chế ứng phó cần thiết, cơ chế ngăn chặn
rủi ro linh hoạt, tăng cường phối hợp và
hợp tác với cộng đồng quốc tế trong lĩnh
vực tài chính, đã trở thành nội dung chính
của an ninh tài chính.
Thị trường tài chính bao gồm nhiều
loại thị trường cùng hoạt động, trong đó,
đặc biệt quan trọng là hoạt động của thị
trường tiền tệ và ngân hàng, thị trường
chứng khoán, thị trường bảo hiểm hoạt
động ổn định, an toàn, phát triển và nó có
khả năng ngăn chặn khủng hoảng sẽ tạo
tiền đề chủ yếu cho đảm bảo an ninh tài
chính cho thị trường tài chính. Thị trường
tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng
khoán, thị trường bảo hiểm có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, thị trường này hoạt
động đảm bảo an ninh tài chính sẽ tác động
tích cực đảm bảo an ninh cho thị trường
khác và ngược lại, thị trường này không
đảm bảo an ninh tài chính sẽ tác động tiêu
cực đến thị trường khác và tác động tiêu
cực đến hoạt động của cả thị trường tài
chính trong mối quan hệ quốc gia và trong
một số trường hợp có thể ảnh hưởng tiêu
cực đến thị trường tài chính của cả khu
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 71 (9/2020) 36-40
37Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
vực và ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường
tài chính toàn cầu.
Các chỉ tiêu đảm bảo an ninh tài
chính cho thị trường tiền tệ và ngân hàng
bao gồm: Các chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu
cho tổ chức và cả hệ thống, chỉ tiêu giới hạn
tín dụng; tỷ lệ về khả năng chi trả; giới hạn
góp vốn mua cổ phần; tỷ lệ cấp tín dụng
trong tổng nguồn vốn huy động; giới hạn
tối đa về tỷ lệ nợ quá hạn; tỷ lệ lợi nhuận
thu được. Các chỉ tiêu đánh giá mức chịu
đựng của từng tổ chức tham gia thị trường
và cả hệ thống để đảm bảo tránh được các
tác động của các cuộc khủng hoảng.
Một số dạng khủng hoảng tài chính
phổ biến như: khủng hoảng ngân hàng
(Banking Crisis); khủng hoảng nợ quốc
gia (National Debt Crisis); khủng hoảng
tiền tệ (Monetary Crisis); khủng hoản thị
trường chứng khoán (Crisis of Security
market); khủng hoảng cán cân thanh
toán (Crisis of Balance of payment);
khủng hoảng cán cân vãng lai (Crisis of
current Account); khủng hoảng cán cân
vốn (Crisis of capital Account); khủng
hoảng khả năng thanh khoản (Crisis of
Liquidity); khủng hoảng ngân sách (Crisis
of Government Budget).
Bốn nhân tố đảm bảo an ninh tài
chính cho thị trường tài chính là tính ổn
định, tính an toàn, tính phát triển và khả
năng chống đỡ sự tác động của các cuộc
khủng hoảng. Trong các thị trường cấu
phần tạo thành thị trường tài chính cũng
được đảm bảo bởi bốn nhân tố quyết định
chung như thị trường tài chính. Đó là tính
ổn định, tính an toàn, tính phát triển và
khả năng chống đỡ khủng hoảng của thị
trường tiền tệ và ngân hàng, thị trường
chứng khoán, thị trường bảo hiểm. Ngoài
ra các nhân tố tác động mạnh mẽ đến thị
trường tài chính đó là ảnh hưởng của nợ
công, đáp ứng các tiêu chuẩn về phòng,
chống rửa tiền của các quốc gia, của các
tổ chức tài chính.
2. Đánh giá thực trạng an ninh tài
chính tại Việt Nam trong hội nhập quốc
tế
Việt Nam từ một hệ thống ngân
hàng theo cơ chế bao cấp đã hình thành
hệ thống ngân hàng, trong đó Ngân hàng
Nhà nước đóng vai trò chức năng Ngân
hàng Trung ương, Ngân hàng của chính
phủ và hệ thống các tổ chức tín dụng bao
gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng
phát triển, ngân hàng hợp tác, các tổ chức
tài chính phi ngân hàng, ngân hàng nước
ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
tại Việt Nam và hơn 1.100 quỹ tín dụng
nhân dân. Đây là những tiền đề đặc biệt
quan trọng trong quá trình phát triển của
thị trường tiền tệ và ngân hàng Việt Nam.
Với quy mô hoạt động của thị trường
tiền tệ và ngân hàng hiện nay là khá lớn
đối với hoạt động của toàn bộ nền kinh tế,
do đó phải đảm bảo an ninh tài chính cho
hoạt động của thị trường tiền tệ và ngân
hàng Việt Nam, tức là phải bảo đảm tính
ổn định, tính an toàn và phát triển cho thị
trường mang tính sống còn để ổn định và
phát triển kinh tế.
Thực chất của vấn đề nợ xấu trong
ngành ngân hàng đang là chủ đề, nhiệm
vụ đặc biệt quan trọng mà Chính phủ,
các ngành, các cấp, phải tập trung xử lý.
Nếu không xử lý tốt sẽ gây hậu quả rất
xấu cho nền kinh tế, đe dọa an ninh của
thị trường tài chính. Theo báo cáo của tổ
chức tín dụng, nợ xấu hạch toán nội bảng
đến tháng 4/2013 là 136 ngàn tỷ Việt Nam
38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
đồng, chiếm 4,7% so với tổng dư nợ tín
dụng. Tính đến cuối tháng 12 năm 2012,
dư nợ cho vay của Ngân hàng Nhà nước
đến các tổ chức tín dụng khoảng 130 ngàn
tỷ Việt Nam đồng.
Trong những năm qua thị trường
tiền tệ và ngân hàng Việt Nam hoạt động
chưa có tính ổn định cao do tác động của
các yếu tố bất lợi của kinh tế vĩ mô toàn
cầu và của nội tại nền kinh tế Việt Nam.
Nếu tính đầy đủ các yếu tố để đảm bảo
an ninh tài chính cho thị trường tiền tệ và
ngân hàng Việt Nam những năm qua, đó
là yếu tố ổn định, an toàn, phát triển và
chống đỡ được các cuộc khủng hoảng từ
bên ngoài hoặc từ trong nội tại nền kinh tế
thì các yêu tố này đều mong manh, thiếu
vững chắc. Lạm phát năm 2011 tăng cao
(18,6%); sang năm 2012, đột ngột giảm
xuống còn (6,81%).
Như vậy, để giải quyết kịp thời khả
năng mất an ninh tài chính của thị trường
tài chính của Việt Nam hiện nay là tìm ra
nguyên nhân chính của nợ xấu và có bài
học rút ra từ thực tiễn này và biện pháp
xử lý tốt để tránh khỏi khủng hoảng nặng
nề cho thị trường tiền tệ và ngân hàng,
một cấu phần đặc biệt quan trọng của thị
trường tài chính.
+ Nhóm nguyên nhân từ môi trường
kinh tế trong nước và quốc tế: điều kiện
kinh tế vĩ mô, trong nước và quốc tế
không ổn định, như chính sách kích thích
kinh tế, điều hành lạm phát, khủng hoảng
kinh tế toàn cầu, đặc biệt là khu vực Châu
Âu, đang tràn ngập trong khủng hoảng
nợ công. Nợ đọng trong xây dựng cơ bản
lớn dẫn đến nhiều công trình thi công dở
dang, kéo dài, hiệu quả đầu tư thấp, tổng
nợ đọng xây dựng cơ bản đến nay khoảng
100 ngàn tỷ Việt Nam đồng; sản xuất, kinh
doanh, tiêu thụ hàng hóa khó khăn, hàng
tồn kho tăng cao; thị trường chứng khoán,
thị trường bất động sản sụt giảm mạnh và
trì trệ kéo dài
+ Nhóm nguyên nhân từ phía các tổ
chức tín dụng: năng lực quản trị của các
tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập so với
quy mô va tốc độ tăng trưởng tín dụng và
mức độ rủi ro, vi phạm quy định pháp luật
về hoạt động cấp tín dụng và an toàn hoạt
động ngân hàng dẫn đến nợ xấu hơn ở
nhiều tổ chức tín dụng, năng lực, trình độ
chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của
một số cán bộ ngân hàng yếu kém, kể cả ở
cấp lãnh đạo cao nhất.
+ Nhóm nguyên nhân từ phía khách
hàng: khách hàng vay vốn tổ chức tín
dụng có tình hình tài chính kém lành
mạnh, kinh doanh thua lỗ, sử dụng vốn
vay sai mục đích, phương án đầu tư kém
hiệu quả, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế về
năng lực cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh
thấp, chậm được củng cố, đổi mới, khả
năng tài chính yếu kém, vốn chủ sở hữu
nhỏ, chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng,
do đó ứng phó với thay đổi môi trường
kinh doanh yếu.
+ Nhóm nguyên nhân từ cơ chế,
chính sách: trong nhiều năm các chính
sách kinh tế vĩ mô, trong đó có chính sách
tiền tệ còn nhiều điểm chưa nhất quán,
thiếu ổn định do phải theo đuổi giữa mục
tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, khuôn khổ thể chế của
Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là chính
sách quản lý, quy chế an toàn và quy định
về hoạt động đầu tư, tín dụng còn bấp cập,
cơ chế trích lập phân loại nợ xấu chưa
39Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
đồng bộ và chưa chỉ đạo làm quyết liệt, hệ
thống pháp luật còn bất cập, nhất là trong
lĩnh vực quy hoạch, quản lý đất đai, phá
sản, giải thể doanh nghiệp, cơ chế thu hồi
tài sản, chiến lược phát triển của các bộ,
ngành, địa phương còn nhiều bất cập.
+ Nhóm nguyên nhân từ thanh tra,
giám sát: hiệu quả công tác thanh tra,
giám sát còn hạn chế từ hệ thống thanh
tra của Cơ quan thanh tra, giám sát Ngân
hàng và thanh tra giám sát các chi nhánh
tỉnh, thành phố. Công tác thanh tra, giám
sát, quản lý của các bộ ngành cũng còn
nhiều bất cập. Như vậy, có thể khẳng định
rằng thị trường tiền tệ và ngân hàng Việt
Nam hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, an
ninh tài chính không được đảm bảo, tất cả
các yếu tố của an ninh tài chính là: tính ổn
định, an toàn, vững mạnh như khả năng
chống đỡ với khủng hoảng đều có nguy
cơ bị phá vỡ.
Thị trường tiền tệ và ngân hàng Việt
Nam hoạt động về cơ bản ổn định chưa
cao, an toàn ở mức thấp và phát triển khó
khăn, có khả năng lâm vào khủng hoảng
do nợ quá hạn của các ngân hàng thương
mại tăng cao.
3. Một số khuyến nghị đảm bảo an
ninh tài chính tại Việt Nam
Tại quyết định số 450/QĐ-TTg năm
2012 về việc phê duyệt chiến lược tài chính
đến năm 2020, với các mục tiêu tổng quát
là: “Xây dựng nền tài chính quốc gia lành
mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính,
ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính tiền tệ, tạo
điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái
cấu trúc nền kinh tế, giải quyết tốt các vấn
đề an sinh xã hội; huy động, quản lý phân
phối và sử dụng các nguồn lực tài chính
trong xã hội, hiệu quả, công bằng, cải cách
hành chính đồng bộ, toàn diện đảm bảo
tính hiệu quả và hiệu lực của công tác quản
lý giám sát tài chính”. Các giải pháp cụ thể
đảm bảo an ninh cho thị trường tài chính
Việt Nam là đảm bảo an ninh tài chính cho
thị trường tiền tệ và ngân hàng, thị trường
chứng khoán và thị trường bảo hiểm, tăng
cường an toàn của nợ quốc gia, các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng,
chống rửa tiền nhằm đảm bảo an ninh tài
chính của Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Để tránh tổn thương cho nền kinh
tế, tạo cho hệ thống tài chính, ngân hàng,
hoạt động ngày càng hiệu quả, hạn chế rủi
ro, thị trường tài chính hoạt động an toàn,
hiệu quả, Việt Nam cần xây dựng các giải
pháp đảm bảo an ninh tài chính cho hoạt
động của thị trường tài chính:
+ Đó là các giải pháp đảm bảo an
ninh cho thị trường tiền tệ và ngân hàng
Việt Nam: xây dựng, ban hành chính sách
tiền tệ ổn định; xây dựng và thực thi chính
sách an toàn trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng; nâng cao hiệu quả công tác
thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng;
tăng cường quản lý rủi ro trong các hoạt
động của tổ chức tín dụng; xử lý sự cố
bất thường trong hoạt động của tổ chức
tín dụng; xử lý nợ xấu đảm bảo đến năm
2015 nợ xấu toàn tổ chức tín dụng Việt
Nam về mức dưới 5%;phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm trong các tổ chức
tín dụng; xây dựng các giải pháp liên kết;
xây dựng và thực thi nâng cao tính ổn định
và an toàn trong hoạt động của thị trường
liên ngân hàng, thị trường giữa tổ chức tín
dụng và ngân hàng trung ương; quản lý,
giám sát các danh mục đầu tư của tổ chức
tín dụng.
40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
+ Tăng cường các giải pháp an ninh
tài chính cho thị trường chứng khoán như:
xây dựng và thực thi chính sách vĩ mô ổn
định và phát triển; xây dựng, ban hành
và giám sát thực thi các quy định pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán Việt Nam; các giải pháp ổn định và
phát triển, các chủ thể tham gia thị trường
chứng khoán; các giải pháp chủ yếu phát
triển hệ thống giám sát thị trường chứng
khoán; các giải pháp minh bạch, kiểm soát
thông tin liên quan đến thị trường chứng
khoán; các giải pháp tăng hàng hoá có
chất lượng cho thị trường chứng khoán
+ Tăng cường các giải pháp đảm bảo
an ninh tài chính cho thị trường nợ công
của chính phủ như các giải pháp: tăng
cường hiệu quả đầu tư công; tăng cường
kiểm soát tốc độ tăng nợ công; cải thiện
nguồn thu; nâng dự trữ ngoại hối để tăng
khả năng trả nợ của nền kinh tế; xây dựng
kế hoạch trả nợ; công khai, minh bạch để
kiểm soát nợ công.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng, chống rửa tiền, phòng chống tội
phạm trong điều kiện hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đó là:
Hoàn thiện cơ sở pháp lý đáp ứng yêu cầu
trong nước và quốc tế; hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chủ
yếu thực hiện chức năng phòng, chống rửa
tiền; tăng cường hợp tác trong nước giữa
các bộ, ngành, các cơ quan liên quan về
phòng, chống rửa tiền; tăng cường hợp tác
quốc tế về phòng, chống rửa tiền, phòng,
chống tội phạm toàn cầu.
Các giải pháp đồng bộ về an ninh
tài chính cho thị trường tài chính Việt
Nam cần được tiến hành để đáp ứng cả
về mặt chất lượng và số lượng, đảm bảo
tính liên kết của các loại thị trường tạo cho
thị trường hoạt động thống nhất trong thị
trường tài chính.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Thủ tướng chính phủ nước Cộng hòa chủ
nghĩa Việt Nam (2012), Phê duyệt chiến lược
phát triển tài chính Việt Nam đến năm 2020,
Quyết định 450/QĐ-TTg năm 2012
[2]. Tô Ngọc Hưng (2011), Hệ thống giám sát
tài chính Việt Nam, Nhà xuất bản Tài chính
[3]. Citi Groups, 05 November 2012,
Discussion materials banking system reform
[4]. Nouriel Roubini (2008), Ten Fundamental
issues in reforming fi nancial Regulation
and supervision in a world of fi nancial and
globalization, fi nancial stability Forum on
march 31,2008
Địa chỉ tác giả: Viện Kinh tế và Quản lý –
Đại học Bách Khoa Hà Nội
Email: nga.buithanh@hust.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- an_ninh_tai_chinh_tai_viet_nam_trong_dieu_kien_hoi_nhap_quoc.pdf