Năng suất thực tế
Hình 1 cho thấy năng suất lúa OM4900 ở các độ
sâu từ 5 – 20 cm dao động từ 5,19 -5,55 tấn/ha
trên vùng đất xám khác biệt có ý nghĩa thống kê ở
mức 1% so với không làm đất (4,61 tấn/ha). Kar
et al. (1986) và Soodand and Acharya (1991) cho
rằng làm đất sâu được xem là biện pháp nhằm cải
thiện tính chất vật lý đất, từ đó giúp bộ rễ phát
triển và hút chất dinh dưỡng tốt hơn, từ đó giúp
tăng năng suất lúa.
Kết quả ở Bảng 6 tầng đất 0-5 cm dung trọng đất
sau thí nghiệm trên vùng đất xám tại Tân Hồng
khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các độ
sâu làm đất, do tầng canh tác hoạt động chủ yếu ở
độ sâu 7-10 cm qua các mùa vụ có chứa nhiều
chất hữu cơ. Tuy nhiên, khi quan sát xuống tầng
đất sâu hơn dung trọng có sự khác biệt khi áp
dụng độ sâu làm đất khác nhau. Trong đó, tầng
đất 5-10 cm dung trọng ở các nghiệm thức làm đất
ở các độ sâu 10, 15 và 20 cm đều thấp hơn và khác
biệt có ý nghĩa thống kê 5% so với các nghiệm
thức không làm đất và làm đất ở độ sâu 5 cm.
Ở tầng đất 10-15 cm dung trọng ở nghiệm thức làm
đất với độ sâu 15 cm và 20 cm lần lượt là 1,25
g/cm3 và 1,27 g/cm3 thấp hơn và khác biệt có ý
nghĩa thống kê 5% so với các nghiệm thức còn lại.
Ở tầng đất 15-20 cm, dung trọng ở nghiệm thức
làm đất ở độ sâu 20 cm thấp hơn với tất cả các
nghiệm thức còn lại.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của độ sâu làm đất đến sự sinh trưởng và năng suất lúa trên đất xám trồng lúa 3 vụ tại tỉnh Đồng Tháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 93 – 100
93
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ SÂU LÀM ĐẤT ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA
TRÊN ĐẤT XÁM TRỒNG LÚA 3 VỤ TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP
Mai Vũ Duy1, Nguyễn Bảo Vệ1, Nguyễn Thành Hối1, Nguyễn Thành Tài2
1Trường Đại học Cần Thơ
2Sở Khoa học và Công nghệ Đồng Tháp
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 08/03/2019
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
11/06/2019
Ngày chấp nhận đăng:
01/2021
Title:
Effect of deep tillage to the
growth and yield of rice grown
in old alluvial soils in three
rice cropping system, in Đong
Thap province
Keywords:
Tillage depth, soil bulk
density, old alluvial soils, rice
yield
Từ khóa:
Độ sâu làm đất, dung trọng,
đất xám, năng suất
ABSTRACT
The field experiment was conducted aiming to study the effects of tillage
depth on the growth and yield of rice grown in old alluvial soils in three rice
crops per year system, Dong Thap province, in the Summer-Autumn crop of
2016. The experiment was carried out in randomized complete block design
(RCBD) with 4 replications of 5 treatments, tillage depth including 0; 5; 10;
15 và 20 cm. The results showed that the 15 cm tillage depth decreased soil
bulk density (1,25 g/cm3 at the depyh of 10-15 cm); increased rice plant
height, root length, root weight/plant, the hardness of internodes, filled
grain ratio(86,9%), and grain yield (5,55 t/ha).
TÓM TẮT
Đề tài được thực hiện với mục tiêu tìm ra độ sâu làm đất thích hợp đến sinh
trưởng và năng suất lúa trên đất xám trồng lúa 3 vụ tại tỉnh Đồng Tháp, vụ
Hè Thu 2016. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu
nhiên với 5 nghiệm thức là 5 độ sâu làm đất: 0; 5; 10; 15 và 20 cm với 4 lần
lặp lại. Kết quả thí nghiệm cho thấy độ sâu làm đất 15 cm giúp giảm dung
trọng đất (1,25 g/cm3 ở tầng đất 10-15 cm), tăng chiều cao cây, chiều dài rễ
và khối lượng rễ/cây, độ cứng lóng thân, tỷ lệ hạt chắc (86,9%) và đạt năng
suất (5,55 tấn/ha).
1. GIỚI THIỆU
Hiện nay, nông dân trồng lúa 3 vụ ở Đồng bằng
sông Cửu Long chuẩn bị đất bằng cách xới cạn
hoặc đánh bùn. Quá trình cày xới cạn liên tục
trong thời gian dài sẽ hình thành nên tầng đế cày
do quá trình nén dẽ đất lâu ngày. Sự nén dẽ là quá
trình phá vỡ, làm giảm thể tích các tế khổng trong
đất, quá trình này xảy ra khi có lực bên ngoài tác
động làm cho các hạt đất nén lại (Lê Văn Khoa,
2000). Rễ lúa thường chỉ mọc trong tầng canh tác
cạn (Samson et al., 2002), rễ kém phát triển sẽ
dẫn đến tình trạng đổ ngã (Nguyễn Bảo Vệ, 2002;
Hammel, 1994; Unger & Kaspar, 1994); do đất bị
dẽ chặt rễ lúa không thể lấy nước, dinh dưỡng từ
sâu trong đất, lượng oxy vận chuyển từ rễ lên
ngọn sẽ giảm ảnh hưởng đến quá trình quang hợp
của cây và sự phát triển của bộ rễ cũng như khả
năng oxy hóa chất độc xung quanh vùng rễ trong
đất (McKee et al., 1988; Visser et al., 2003;
Visser &Bogemann, 2006; Deborde et al., 2008)
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 93 – 100
94
và cuối cùng làm giảm năng suất (Hamblin,
1985).
Để khắc phục hạn chế trên, cày đất có ảnh hưởng
tích cực đến tính chất đất đặc biệt là dung trọng và
độ xốp kể cả năng suất cây trồng. Cày đất sâu làm
tăng độ rỗng của đất, tăng trung bình của tổng độ
xốp là 30% đất có cày sâu so với canh tác thông
thường. Ngoài ra, cày sâu còn giúp làm tăng
lượng kali và độ xốp của đất, khác biệt có ý nghĩa
so với canh tác thông thường và hầu như có hiệu
quả tốt ở độ sâu 20-30 cm, lượng carbon hữu cơ
tập trung cao ở độ sâu 0-5 cm (Shabana and
Malik, 2011). Còn Kato et al. (2007) tìm thấy cày
sâu giúp tăng sinh khối, số bông/m2 và năng suất
lúa.
Tỉnh Đồng Tháp có diện tích lúa 3 vụ ngày càng
tăng, nhưng năng suất càng giảm do biện pháp xới
cạn được thực hiện liên tục qua nhiều năm làm
giảm tầng canh tác nhưng hiện nay chưa có
nghiên cứu nào được thực hiện nhằm cải thiện
hiện trạng trên. Vì vậy, đề tài “Ảnh hưởng của độ
sâu làm đất đến sinh trưởng và năng suất lúa trên
đất xám) trồng lúa 3 vụ tại tỉnh Đồng Tháp” được
thực hiện với mục tiêu tìm ra độ sâu làm đất thích
hợp đến sinh trưởng và năng suất lúa trên vùng
đất xám trồng lúa 3 vụ tại tỉnh Đồng Tháp.
2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Phương tiện
2.1.1 Thời gian và địa điểm
Thí nghiệm được thực hiện trong vụ lúa Hè Thu
trên đất xám ở xã Tân Thành B, huyện Tân Hồng,
tỉnh Đồng Tháp. Khu vực này trồng lúa 3 vụ, đê
bao khép kín từ năm 2006. Đất thí nghiệm là đất
xám (Xg) có diện tích 29.300 ha, chiếm 8,67%.
Đất xám hình thành trên mẫu chất phù sa cổ, phân
bố chủ yếu ở biên giới Campuchia. Thành phần
cơ giới nhẹ, dễ thoát nước, hàm lượng chất dinh
dưỡng thấp, nhưng thích nghi rộng với nhiều loại
cây trồng như cây ăn trái và cây hoa màu, đậu các
loại, thuốc lá, lúa.
2.1.2 Vật liệu thí nghiệm
Thí nghiệm sử dụng giống OM4900 có thời gian
sinh trưởng của giống từ 95 đến 100 ngày, năng
suất vụ Hè Thu và Thu Đông trung bình đạt 5 -
5,5 tấn/ha, vụ Đông Xuân có thể đạt: 6,5 - 7,0
tấn/ha.
2.2 Phương pháp
2.2.1 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn
toàn ngẫu nhiên, 5 nghiệm thức làm đất ở độ sâu
0; 5; 10; 15 và 20 cm, với 4 lần lặp lại. Diện tích
mỗi lô: 5m x 5m = 25m2, có bờ bao xung quanh.
Sau khi thu hoạch lúa vụ Đông Xuân, tiến hành
phân lô, đắp bờ, chặn bao nylon xung quanh bờ
đảm bảo nước không thấm qua lại giữa các lô.
Tiếp theo dùng các leng có lưỡi dài tương ứng 5,
10, 15 và 20 cm (có gắn cản ở phần chuôi lưỡi để
đảm bảo không đào sâu hơn chiều dài lưỡi) để
làm đất. Làm nhuyễn đấtvà chang bằng mặt
ruộng.
Mật độ sạ và bón phân theo nông dân địa phương
như sau: sạ tay với mật độ 150 kg/ha. Công thức
phân bón được sử dụng: 110 N- 70 P2O5- 45 K2O.
Trong đó, lần 1 bón lúc 8 ngày sau sạ với liều
lượng 30% N- 30% P2O5; lần 2 bón lúc 20 ngày
sau sạ với liều lượng 35% N- 50% P2O5- 33%
K2O; lần 3 bón lúc 42 ngày sau sạ với liều lượng
35% N- 20% P2O5- 67% K2O.
2.2.2 Chỉ tiêu theo dõi
* Các chỉ tiêu sinh trưởng
- Chiều cao cây (cm), số chồi/m2: Đo đếm theo
phương pháp của IRRI (IRRI, 1995).
- Chiều dài rễ và khối lượng rễ: Dùng các ống
nhựa PVC có đường kính 20 cm (Hình 1) đóng
vào đất cho bằng mặt ruộng ở các vị trí ngẫu
nhiên (ngoài vùng lấy năng suất thực tế) sau
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 93 – 100
95
khi làm đất trong mỗi lô có 6 ống/lô và tiến
hành gieo sạ bình thường. Mỗi lần lấy chỉ tiêu,
đào 2 ống về đem ngâm vào nước cho rả hết
đất và rửa sạch, để rễ trong khay nhựa chứa
lớp nước từ 2-3 cm giữ ẩm cho rễ rồi tiến hành
dùng thước đo chiều dài và cân khối lượng
tươi của rễ. Chiều dài rễ được đo rễ dài nhất từ
nơi tiếp giáp với hạt tới đỉnh chóp rễ. Phương
pháp xử lý rễ lúa trước khi đếm là sử dụng
nước sạch chứa trong các khay màu trắng,
ngâm cả bộ rễ để đất rã từ từ không gây đứt
mất rễ và thay nước nhiều lần (thường từ 4 - 6
lần) đến khi bộ rễ lộ rõ và đếm được; ngâm và
trải rộng bộ rễ trên khay chứa nước sạch, trong
và ngập sâu 2-3 cm.
(a)
(b)
Hình 1. Ống nhựa PVC dùng làm thí nghiệm (a) và rễ lúa sinh trưởng trong ống PVC (b)
- Độ cứng lóng thân: Chọn 15 cây cho mỗi
nghiệm thức và đo độ cứng lóng thứ 1, 2, 3, 4
của cây theo phương pháp của Nguyễn Minh
Chơn (2007).
* Năng suất và thành phần năng suất lúa
Được thu thập theo phương pháp chuẩn của IRRI
(1995) gồm số bông/m2, số hạt/bông; tỷ lệ hạt
chắc/bông; trọng lượng 1000 hạt, năng suất lý
thuyết (tấn/ha), năng suất thực tế (tấn/ha).
* Dung trọng đất (g/m2): Đánh giá theo tiêu
chuẩn Karchinski (1965).
2.2.3 Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý theo chương trình
Microsoft Excel và thống kê bằng chương trình
SPSS 23. Phân tích phương sai ANOVA so sánh
các giá trị trung bình bằng phép thử Duncan ở
mức ý nghĩa 5% hoặc 1% để so sánh sự khác
biệt giữa các nghiệm thức.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Chiều cao cây và số chồi/m2
Kết quả ở Bảng 1 cho thấy chiều cao cây lúa
OM4900 ở độ sâu làm đất 15 cm có hiệu quả gia
tăng chiều cao cây ở các thời điểm. Điều này có
thể do khi được cày sâu, đất trở nên tơi xốp, giúp
cây lúa tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng cho
sinh trưởng và phát triển (De Datta, 1981).
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 93 – 100
96
Bảng 1. Chiều cao cây (cm) ở thời điểm 20, 40, 60 và thu hoạch ở các độ sâu làm đất khác nhau
Độ sâu
làm đất
(cm)
Ngày sau sạ
20 40 60 Thu hoạch
0 29,8 c 51,2 c 79,3 c
85,0 c
5 32,4 b 54,0 bc 84,2 bc 86,7 bc
10 34,0 ab 56,6 ab 87,9 ab 91,3abc
15 34,7 ab 59,2 a 93,0 a 93,7 a
20 35,1 a 60,3 a 92,3 a 93,1 ab
F ** ** ** *
CV (%) 4,74 4,69 5,26 4,43
Ghi chú: Những số trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê qua phép thử
Duncan; **: khác biệt có ý nghĩa 1%.
Kết quả Bảng 2 cho thấy độ sâu làm đất không ảnh hưởng đến số chồi/m2 của lúa OM4900 trên vùng đất
xám glây ở các thời điểm sinh trưởng của cây lúa, dao động lần lượt từ 579-603 chồi/m2 ở 20 NSS; 687-
715 chồi/m2 ở 40 NSS; và 545-572 chồi/m2 ở 60 NSS.
Bảng 2. Số chồi/m2 ở thời điểm 20, 40, 60 ngày sau sạ ở các độ sâu làm đất khác nhau
Ghi chú: Những số trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê qua phép thử
Duncan; ns: không khác biệt ý nghĩa.
3.2 Khối lượng rễ và chiều dài rễ
Bảng 3 cho thấy độ sâu làm đất ảnh hưởng đến
chiều dài rễ và khối lượng rễ lúa OM4900 trên
vùng đất xám tại Tân Hồng. Trong đó, làm đất ở
độ sâu 15-20 cm cho chiều dài rễ dài nhất (21,9-
22,2 cm) và khối lượng rễ cao nhất (0,32-0,33
g/cây) khác biệt so với các nghiệm thức còn lại,
trừ nghiệm thức làm đất ở độ sâu 10 cm. Qua đó
cho thấy, làm đất ở độ sâu từ 15- 20 cm trên vùng
đất xám trồng lúa 3 vụ đều làm gia tăng chiều dài và
khối lượng rễ lúa. Khối lượng rễ lúa tỉ lệ thuận với
số rễ và chiều dài rễ, rễ lúa càng nhiều và càng dài
thì khối lượng càng tăng và ngược lại. Khi hệ thống
rễ phát triển tốt, gia tăng về mật số và ăn sâu hơn
Độ sâu
làm đất (cm)
Ngày sau sạ
20 40 60
0 579 687 545
5 583 693 550
10 603 702 559
15 595 715 565
20 601 687 572
F ns ns ns
CV (%) 9,05 10,23 8,81
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 93 – 100
97
vào đất, sẽ giúp cây vừa hấp thu dưỡng chất tốt hơn vừa tăng cường khả năng chống đổ ngã.
Bảng 3. Chiều dài rễ và khối lượng rễ lúa ở các độ sâu làm đất ở thời điểm thu hoạch
Độ sâu làm đất (cm) Chiều dài rễ (cm) Khối lượng rễ (g/cây)
0 17,4 b 0,20 c
5 19,1 b 0,26 b
10 19,8 ab 0,29 ab
15 21,9 a 0,32 a
20 22,2 a 0,33 a
F * **
CV (%) 8,81 9,64
Ghi chú: Những số trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê qua phép thử
Duncan; *: khác biệt có ý nghĩa 5%; **: khác biệt có ý nghĩa 1%.
3.3 Độ cứng lóng thân
Qua Bảng 4 cho thấy độ sâu làm đất không ảnh
hưởng đến độ cứng lóng 1,2,3. Tuy nhiên, độ
cứng lóng 4 của cây lúa ở các độ sâu làm đất 15
cm và 20 cm đều đạt cao hơn, khác biệt có ý
nghĩa thống kê ở mức 1% so với không cày.
Giống lúa OM4900 thuộc giống cao sản ngắn
ngày, cao cây, do đó việc làm đất ở độ sâu 15 cm
và 20 cm giúp gia tăng độ cứng lóng, đặc biệt là
lóng thứ 4 có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn
chế đỗ ngã khi canh tác trong vụ Hè Thu. Theo
Yoshida (1981) độ cứng của thân bị ảnh hưởng
nhiều bởi chiều dài của những lóng bên dưới.
Lóng thứ tư là lóng thường bị gãy khi lúa đổ ngã,
do đó việc xác định độ cứng và điều khiển chiều
cao cây thường dựa trên lóng này (Nguyễn Minh
Chơn và Nguyễn Thị Quế Phương, 2006).
Bảng 4. Độ cứng (N) các lóng thân lúa ở các độ sâu làm đất khác nhau
Độ sâu làm đất (cm) Lóng 1 Lóng 2 Lóng 3 Lóng 4
0 1,07 1,64 2,50 4,30 b
5 1,02 1,70 2,58 4,47 ab
10 1,15 1,67 2,66 4,56 ab
15 1,11 1,79 2,93 4,70 a
20 1,06 1,73 2,78 4,74 a
F ns ns ns **
CV (%) 10,37 12,60 8,84 4,28
Ghi chú: Những số trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê qua phép thử
Duncan; ns: không khác biệt **: khác biệt có ý nghĩa 1%.
3.4 Các yếu tố cấu thành năng suất
Kết quả cho thấy, độ sâu làm đất không ảnh
hưởng đến số bông/m2 và số hạt/bông, dao động
từ 452 - 468 bông/m2, 61 – 66 hạt/bông (Bảng 5).
Bên cạnh đó, khối lượng 1000 hạt giữa các
nghiệm thức cũng khác biệt không có ý nghĩa
thống kê. Tusar (2014) và Rahman et al. (2004)
cho rằng ở các độ sâu làm đất khác nhau không có
ảnh hưởng đến khối lượng 1000 hạt. Điều này có
thể do khối lượng 1000 hạt là đặc tính ổn định của
giống và bị kiểm soát chặt chẽ bởi kích thước của
vỏ trấu, do đó hạt không thể phát triển lớn hơn
kích thước vỏ trấu cho dù có điều kiện thời tiết
thuận lợi cũng như cung cấp dinh dưỡng đầy đủ
(Yoshida, 1981).
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 93 – 100
98
Bảng 5. Thành phần năng suất lúa ở các độ sâu làm đất khác nhau
Độ sâu làm đất
(cm)
Số bông/ m2
Số hạt/
bông
Tỷ lệ hạt chắc
(%)
Khối lượng
1000 hạt (g)
0 452 61 77,3 b 28,68
5 463 64 81,2 ab 28,66
10 450 67 84,6 a 28,37
15 459 67 86,9 a 28,36
20 468 66 86,2 a 28,31
F ns ns * ns
CV (%) 6,47 6,68 5,05 6,70
Ghi chú: Những số trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê qua phép thử
Duncan; ns: không khác biệt; *: khác biệt có ý nghĩa 5%
Tuy nhiên, khi gia tăng độ sâu làm đất từ 10 – 20
cm đã giúp gia tăng tỉ lệ hạt chắc so với các độ
sâu làm đất còn lại. Điều này rất có ý nghĩa trong
việc gia tăng năng suất lúa bởi tỷ lệ hạt chắc là
một trong bốn yếu tố quyết định tăng năng suất
lúa. DeDatta (1981) và Rezaei et al. (2012) cũng
cho rằng việc làm đất sâu giúp bộ rễ phát triển tốt
hơn và cây lúa có thể hút chất dinh dưỡng tốt từ
tầng đất sâu hơn, góp phần gia tăng số hạt
chắc/bông đồng thời tăng tỷ lệ hạt chắc cho cây.
Nghiên cứu của Rehman et al. (2004) cũng cho
thấy số chồi, số hạt trên bông, năng suất lúa cao
nhất ở nghiệm thức cày ở độ sâu 15 cm so với cày
ở độ sâu 7,5 cm.
3.5 Năng suất thực tế
Hình 1 cho thấy năng suất lúa OM4900 ở các độ
sâu từ 5 – 20 cm dao động từ 5,19 -5,55 tấn/ha
trên vùng đất xám khác biệt có ý nghĩa thống kê ở
mức 1% so với không làm đất (4,61 tấn/ha). Kar
et al. (1986) và Soodand and Acharya (1991) cho
rằng làm đất sâu được xem là biện pháp nhằm cải
thiện tính chất vật lý đất, từ đó giúp bộ rễ phát
triển và hút chất dinh dưỡng tốt hơn, từ đó giúp
tăng năng suất lúa.
Hình 1. Năng suất thực tế lúa OM 4900 (tấn/ha) ở các độ sâu cày đất khác nhau trên đất xám
tại Tân Hồng vụ Hè Thu 2016
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 93 – 100
99
3.6 Dung trọng đất
Bảng 6. Dung trọng ở các độ sâu làm đất khác nhau
Độ sâu làm đất
(cm)
Tầng đất (cm)
0-5 5-10 10-15 15-20
0 1,18 1,32 a 1,40 a 1,47 a
5 1,14 1,30 ab 1,44 a 1,49 a
10 1,08 1,25 ab 1,41 a 1,46 a
15 1,11 1,20 b 1,25 b 1,43 a
20 1,10 1,17 b 1,27 b 1,26 b
F ns * * *
CV (%) 5,2 4,75 6,09 4,13
Ghi chú: Những số trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê qua
phép thử Duncan; ns: không khác biệt; *: khác biệt có ý nghĩa 5%.
Kết quả ở Bảng 6 tầng đất 0-5 cm dung trọng đất
sau thí nghiệm trên vùng đất xám tại Tân Hồng
khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các độ
sâu làm đất, do tầng canh tác hoạt động chủ yếu ở
độ sâu 7-10 cm qua các mùa vụ có chứa nhiều
chất hữu cơ. Tuy nhiên, khi quan sát xuống tầng
đất sâu hơn dung trọng có sự khác biệt khi áp
dụng độ sâu làm đất khác nhau. Trong đó, tầng
đất 5-10 cm dung trọng ở các nghiệm thức làm đất
ở các độ sâu 10, 15 và 20 cm đều thấp hơn và khác
biệt có ý nghĩa thống kê 5% so với các nghiệm
thức không làm đất và làm đất ở độ sâu 5 cm.
Ở tầng đất 10-15 cm dung trọng ở nghiệm thức làm
đất với độ sâu 15 cm và 20 cm lần lượt là 1,25
g/cm3 và 1,27 g/cm3 thấp hơn và khác biệt có ý
nghĩa thống kê 5% so với các nghiệm thức còn lại.
Ở tầng đất 15-20 cm, dung trọng ở nghiệm thức
làm đất ở độ sâu 20 cm thấp hơn với tất cả các
nghiệm thức còn lại.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1 Kết luận
Trên đất xám trồng lúa 3 vụ tại tỉnh Đồng Tháp,
làm đất ở độ sâu 15 cm giúp giảm dung trọng đất;
cải thiện các chỉ tiêu sinh trưởng về chiều cao cây,
số rễ/cây, chiều dài rễ và khối lượng rễ/cây; giúp
gia tăng số hạt chắc/bông (58 hạt/bông) và tỷ lệ
hạt chắc (86,9%) và đạt năng suất 5,55 tấn/ha.
4.2 Đề nghị
Thực hiện thí nghiệm ở các mùa vụ khác nhau
nhằm đủ cơ sở để kết luận làm đất ở độ sâu 15 cm
là thích hợp trên vùng đất xám trồng lúa 3 vụ tại
tỉnh Đồng Tháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Deborde, J., A. Gwenael., A. Mouret., D.
Jezequel., G. Thouzeau & J. Clavier.
(2008). Marine Ecology Progress Series, 355,
59-71.
De Datta, S.K. (1981). Principles and practices of
rice production. New York : John Wiley.
Kato Y.,A. Kamoshita, J. Yamagishi (2007).
Improvement of rice (Oryza sativa L.) growth
in upland conditions with deep tillage and
mulch. Soil & Tillage Research 92: 30-44.
Karchinsky (1965). Vật lý đất, tập 1. Matxcova.
Kar, S., R.P Samul, J. Rasad. C.P. Gupta and T.K.
Subramanyam (1986). Compaction and tillage
depth conbination for water managent and rice
production in low retensive permeable soils.
Soiltillage Res., 6:211-222.
Lê Văn Khoa. (2000). Giáo trình môn hóa học
đất. Trường Đại Học Cần Thơ, Cần Thơ, Việt
Nam.
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 93 – 100
100
Hammel, J.E. (1994). Effect of high-axle load
traffic on subsoil physical properties and crop
yield in the Pacific Norwest USA. Soil Tillage
Research, 29, 159-203.
Hamblin, A.B. (1985). The influence of soil
structure on water movement, crop root
growth and water uptake. Advances in
Agronomy, 38, 95-158.
IRRI (International Rice Research Institute).
(1995). Effect of rice land drainage and
soybean tillage treatments on rainfed, soybean
grown after wetland rice. IRRI Annual Report
for 1979, Los Banos, Philippines.
McKee, K.L., I.A. Mendelssohn. & M.W. Hester.
(1988). Reexamination of pore water sulfide
concentrations and redox potentials near the
aerial roots of Rhizophora mangle and
Avicennia germinans. American Journal of
Botany, 75, 1352-1359.
Nguyễn Bảo Vệ. (2002). Thâm canh lúa 3 vụ và
sự thay đổi môi trường đất ở ĐBSCL. Trong
kỷ yếu Hội Thảo Khoa Học Bảo Vệ Môi
Trường và Phát Triển Bền Vững ĐBSCL, Cà
Mau,Viet Nam.
Nguyễn Minh Chơn., & Nguyễn Thị Quế Phương.
(2006). Ảnh hưởng của prohexadionecalcium
lên sự giảm đổ ngã ở lúa. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, 6, 156-165.
Nguyễn Minh Chơn. (2007). Hạn chế đổ ngã cho
cây lúa. Kỹ yếu hội nghị khoa học phát triển
bền vững Đồng Bằng Sông Cửu Long sau khi
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại quốc
tế (WTO): 432-350
Rahman, M.S., M.A. Hauqe. & M.A. Salam.
(2004). Effect of different tillage practices on
growth, yield and yield contributing characters
of transplant rice. (BRRI Dhan-33).J. Agron, 3,
103-110.
Rezaei, M., R. Tabatabaekoloor., S.R. Mousavi
seyedi. & N. Aghili Nategh. (2012). Effects of
Sakai H, Nordfjell T, Suadicani K, Talbot B,
Bøllehuus E, 2008. Soil compaction on forest
soils from different kinds of tires and tracks
and possibility of accurate estimate. Croat J
For Eng, 29, 15–27.
Rehman, M.S., M.A Hauqe. & M.A Salam.
(2004). Effect of different tillage practices on
growth, yield and yield contributing characters
of transplant rice. (BRRI Dhan-33). Journal of
Agronomy, 3, 103-110.
Samson, B.K., M. Hasan. & L.J. Wade. (2002).
Penetration of hardpans by rice lines in the
rainfed lowlands. Field Crop Research, 76,
175-188.
Shabana N. and A.U. Malik (2011). Effect of
tillage systems and farm manure on various
properties of soil and nutrient’s concentration.
Russian Agriculture Sciences, 37, 232-238.
Sood, M.C. and C.L. Acharya (1991). Effect of
tillage methods on root, plant growth and
nutrient uptale by wetiant rice in anacidic
Alfiols. Annals. Agr.Res.,12:344-351.
Tusar K.R. (2014). Effect of depth tillage and
manuring on soil physical properties, water
conservation and yield or aman rice.
Department of soil science, Bangladesh
agriculture university.
Unger, P.W. & T.C. Kaspar. (1994). Soil
compaction and root growth: A review,
Agronomy Joural, 86, 759-766.
Visser, E.J. & G.M. Bögemann. (2006).
Aerenchyma formation in the wetland plant
Juncoseffuses is independent of ethylene. New
Phytologist, 2, 305-14.
Visser, E.J.W., L.A.C.J. Voesenek, B.B.
Vartapetian. & M.B. Jackson.
(2003). Flooding and plant growth. Annals of
Botany, 91, 07-109.
Yoshida, S. (1981). Fundamental of rice crop
science. International Rice Research Institute.
Los Banos, Philippines: IRRI.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_do_sau_lam_dat_den_su_sinh_truong_va_nang_suat.pdf