Tác động của kẹo cao su chứa xylitol đối
với lượng Streptococcus mutans
Ở nhóm chứng, lượng vi khuẩn tăng theo
thời gian, khác biệt có ý nghĩa tại thời điểm 9
tháng so với ban đầu. Ở nhóm nhai kẹo cao su
chứa xylitol, dù trẻ thuộc nhóm sâu răng cao
nhưng lượng vi khuẩn không bị tăng lên sau
9 tháng.
So sánh hai nhóm nhai và không nhai kẹo
cao su chứa xylitol
Chưa xác định được ảnh hưởng của kẹo cao
su chứa xylitol lên độ nhớt và lưu lượng của
nước bọt. Việc nhai kẹo cao su chứa xylitol làm
cho pH nước bọt không kích thích thay đổi theo
chiều hướng có lợi cho sâu răng nhưng chưa ảnh
hưởng lên pH nước bọt có kích thích. Chưa xác
định được ảnh hưởng của việc nhai kẹo cao su
chứa xylitol lên khả năng đệm của nước bọt. Vào
lúc bắt đầu nghiên cứu, không có sự khác biệt
hàm lượng S.mutans giữa hai nhóm. Sau 9 tháng
thử nghiệm, có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
nhóm chứng và nhóm thử nghiệm với nhóm trẻ
không nhai kẹo chứa xylitol có lượngS.mutanscao
hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm trẻ không
nhai kẹo.
9 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 582 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của kẹo cao su chứa xylitol lên các đặc điểm nước bọt của trẻ 8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 271
ẢNH HƯỞNG CỦA KẸO CAO SU CHỨA XYLITOL LÊN CÁC ĐẶC ĐIỂM
NƯỚC BỌT CỦA TRẺ 8-9 TUỔI CÓ TÌNH TRẠNG SÂU RĂNG CAO
Trần Thị Minh Thảo*, Ngô Thị Quỳnh Lan*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tác động của kẹo cao su chứa xylitol lên đặc điểm nước bọt (lưu lượng, độ
nhớt, pH, khả năng đệm của nước bọt); hàm lượng Streptococcus mutans trong nước bọt kích thích của trẻ 8-9
tuổi có tình trạng sâu răng cao sống trong vùng không fluor hóa nước máy.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn có nhóm chứng. Mẫu thuận tiện
gồm: Nhóm thử nghiệm (nhai kẹo cao su có chứa xylitol): 153 học sinh cho nhóm thử nghiệm (nhai kẹo cao su
Xylitol); 147 học sinh cho nhóm chứng (không nhai kẹo), cả hai nhóm đều có tình trạng sâu răng cao (SMTR +
smt-r ≥ 3) là những học sinh của trường tiểu học Nguyễn Văn Trân, huyện Bình Chánh, TP HCM (địa phương
không có fluor hoá nước máy). Các biến nghiên cứu gồm: Độ nhớt nước bọt: Đánh giá bằng bằng test kéo sợi; Lưu
lượng nước bọt, pH nước bọt, Khả năng đệm của nước bọt: Sử dụng bộ thử nghiệm Saliva-Check BUFFER; Hàm
lượng S.mutans trong nước bọt: Sử dụng bộ Saliva-Check Mutans. Các dữ liệu được thu thập trước thử nghiệm
và sau 1 và 9 tháng. Nhóm thử nghiệm: nhai kẹo cao su chứa xylitol mỗi ngày 4 lần (lúc truy bài đầu giờ, sau giờ
ra chơi buổi sáng, sau giờ ra chơi buổi chiều, buổi tối trước khi đi ngủ), mỗi lần nhai 2 viên trong ít nhất 5 phút.
Không đánh răng sau khi nhai kẹo tối thiểu 1 tiếng đồng hồ.
Kết quả: (1) Tác động của kẹo cao su chứa xylitol lên các tính chất của nước bọt: Độ nhớt nước bọt loãng
dần (độ nhớt giảm)và lưu lượng nước bọt tăng dần ở cả hai nhóm sau 1 tháng và 9 tháng thử nghiệm. pH nước
bọt không kích thích ở nhóm thử nghiệm tăng sau 9 tháng, nhóm chứng là không thay đổi. pH có kích thích tăng ở
cả hai nhóm. Khả năng đệm: không thay đổi ở cả hai nhóm. (2) Tác động của kẹo cao su chứa xylitol đối với lượng
Streptococcus mutans: Nhóm chứng: lượng vi khuẩn tăng theo thời gian, khác biệt có ý nghĩa tại thời điểm 9
tháng so với ban đầu; Nhóm nhai kẹo cao su chứa xylitol: dù trẻ thuộc nhóm sâu răng cao nhưng lượng vi khuẩn
không bị tăng lên sau 9 tháng. (3)So sánh hai nhóm nhai và không nhai kẹo cao su chứa xylitol: chưa xác định
được ảnh hưởng của kẹo cao su chứa xylitol lên độ nhớt và lưu lượng của nước bọt; Việc nhai kẹo cao su chứa
xylitol làm cho pH nước bọt không kích thích thay đổi theo chiều hướng có lợi cho sâu răng nhưng chưa ảnh
hưởng lên pH nước bọt có kích thích. Hàm lượng S.mutans: vào lúc bắt đầu nghiên cứu, không có sự khác biệt
hàm lượng S.mutans giữa hai nhóm. Sau 9 tháng thử nghiệm, có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm chứng và
nhóm thử nghiệm: nhóm trẻ không nhai kẹo chứa xylitol có lượng S.mutans cao hơn một cách có ý nghĩa so với
nhóm trẻ không nhai kẹo.
Kết luận: Việc nhai kẹo cao su chứa Xylitol có một số tác động lên tính chất nước bọt theo chiều hướng có lợi
cho phòng ngừa sâu răng.
Từ khóa: kẹo cao su chứa xylitol, lưu lượng, độ nhớt, pH, khả năng đệm của nước bọt.
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: PGS Ngô Thị Quỳnh Lan, ĐT: 0903125864, Email: ngothiquynhlan@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 272
ABSTRACT
EFFECT OF XYLITOL CHEWING GUM ON THE SALIVARY CHARACTERISTICS AMONG 8-9
YEARS-OLD CHILDREN WITH HIGH CARIES PREVALENCE
Tran Thi Minh Thao, Ngo Thi Quynh Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 271 - 279
Objective: The aim of this study was to evaluate the effect of xylitol chewing gum on the salivary parameters
(flow, viscosity, pH, buffering capacity) and the amount of Streptococcus mutans in stimulated saliva among 8-9
years-old children with high caries prevalence living in a non-fluoridated area.
Materials and method: The study design was clinical single-blind experiment with control group.
Convenient sampling consisted of: 153 schoolchildren in the experiment group (chewing xylitol gum) and 147
schoolchildren in the control group (no chewing gum). All subjects were student at primary school Nguyen Van
Tran, Binh Chanh, HoChiMinh city (non-fluoridated area) with high caries prevalence (DMFT + dmft ≥ 3).
Variables included: salivary viscosity (evaluated by stringy test); flow, pH, buffering capacity (evaluated with
Saliva-Check BUFFER); salivary load of S.mutans (evaluated with Saliva-Check Mutans). Baseline data was
collected as well as 1 and 9 months after experiment. Subjects in experiment group were requested to chew 2
xylitol gums during at least 5 minutes 4 times/day (before class time, after morning break, after afternoon break,
before bedtime). They were not allowed to brush their teeth at least 1 hour after chewing gum.
Results: (1) Effects of xylitol gum on salivary parameters: decreased viscosity with increased flow in both
groups 1 and 9 months after experiment. pH of non-stimulated saliva increased after 9 months, with no change in
control group. pH of stimulated saliva increased in both groups. No modification of buffering capacity was
observed in both groups. (2) Effect of xylitol gum on Streptococcus mutans load: control group: bacterial load
increased with time, with a significant difference between the load 9 months after experiment and baseline data;
experiment group: the bacterial load did not increase after 9 months despite the initial high caries prevalence.
(3)Comparing the 2 groups: the effect of xylitol gum on salivary viscosity and flow was not determined; chewing
xylitol made the pH of stimulated saliva change to enhance the benefit for dental caries prevention. S.mutans load:
there was no significant difference between 2 groups at the beginning. After 9 months, there was a significant
difference between 2 groups: children chewing xylitol gum had significantly less S.mutans compared to control
group.
Conclusion: Xylitol chewing gum had positive effect on salivary characteristics towards caries prevention.
Key words: Xylitol chewing gum, flow, viscosity, pH, buffering capacity.
MỞ ĐẦU
Sâu răng là một bệnh phổ biến, việc dự
phòng sâu răng đem lại nhiều lợi ích cho cá nhân
và xã hội. Ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều
vùng chưa được hưởng lợi từ những chương
trình dự phòng sâu răng. Việc fluor hóa nước
máy tuy có làm giảm tỉ lệ phần trăm và mức độ
trầm trọng của sâu răng nhưng vẫn chưa đủ để
bảo vệ tối đa cho trẻ em. Vì vậy, cần có những
chiến lược dự phòng khác mà mọi người có thể
chủ động áp dụng mà không phụ thuộc vào các
chính sách của xã hội. Một phương pháp dự
phòng sâu răng dựa vào những tính chất đặc
biệt của một loại đường thay thế - xylitol đang
được nghiên cứu trên thế giới hơn 40 năm qua.
Hiện nay, chưa có nhiều nghiên cứu ảnh hưởng
của xylitol đối với người Việt Nam. Do đó việc
nghiên cứu ảnh hưởng của việc nhai kẹo cao su
chứa xylitol đối với sâu răng nói chung và yếu tố
nước bọt nói riêng để hiểu rõ hơn tác động của
xylitol trong môi trường miệng đồng thời góp
phần xây dựng chiến lược dự phòng sâu răng
cho cộng đồng là cần thiết.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 273
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá tác động của kẹo cao su chứa
xylitol lên đặc điểm nước bọt của trẻ 8-9 tuổi có
tình trạng sâu răng cao sốngtrong vùng không
fluor hóa nước máy.
Mục tiêu chuyên biệt
Đánh giá tác động của kẹo cao su chứa
xylitol lên các tính chất của nước bọt (lưu lượng,
độ nhớt, pH, khả năng đệm của nước bọt) của trẻ
8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao sống trong
vùng không fluor hóa nước máy.
Đánh giá tác động của kẹo cao su chứa
xylitol lên hàm lượng Streptococcus mutans
trong nước bọt (có kích thích) của trẻ 8-9 tuổi có
tình trạng sâu răng cao sống trong vùng không
fluor hóa nước máy.
So sánh đặc điểm nước bọt giữa nhóm nhai
và không nhai kẹo cao su chứa xylitol.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng mù đơn có nhóm
chứng.
Đối tượng nghiên cứu
Trẻ 8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao (SMTR
+ smt-r ≥ 3) đang học tại trường tiểu học Nguyễn
Văn Trân, huyện Bình Chánh, Tp.HCM (là địa
phương không có fluor hoá nước máy).
Tiêu chí đưa vào
Trẻ 8-9 tuổi (lớp 3 và lớp 4 của năm học 2011-
2012), thường trú tại huyện Bình Chánh, từ 5
năm trở lên, có tình trạng sâu răng cao (SMT-R +
smt-r ≥), có giấy đồng ý cho tham gia nghiên cứu
của phụ huynh, chịu hợp tác tham gia bằng cách
tuân thủ đúng các quy trình mà nghiên cứu yêu
cầu.
Tiêu chí loại ra
Trẻ có tiền sử dị ứng với polyols, sử dụng
kháng sinh toàn thân hoặc CHX kéo dài liên tục
trên 1 tháng, sử dụng fluor tại chỗ (verni, gel,
ngoại trừ kem đánh răng có chứa fluor) trong
thời gian thử nghiệm; trẻ đang điều trị chỉnh
nha; trẻ không tuân thủ quá trình nhai kẹo,
không tham gia đầy đủ các đợt khám.
Kỹ thuật chọn mẫu
Mẫu thuận tiện.
Tiến trình chọn mẫu
Đánh giá sàng lọc sâu răng dựa trên phiếu
khám sâu răng theo tiêu chí WHO (1997) cho học
sinh 8-9 tuổi. Chọn ra những học sinh đáp ứng
tiêu chí chọn mẫu. Mã hóa số thứ tự cho 300 học
sinh. Chọn ngẫu nhiên các đối tượng vào 2
nhóm nghiên cứu theo lớp bằng cách bốc thăm
ngẫu nhiên để phân thành nhóm thử nghiệm và
nhóm chứng, đảm bảo số lượng hai nhóm là
ngang nhau, có đồng thời 2 lứa tuổi và thuận
tiện cho công việc kiểm soát thử nghiệm.
Mẫu nghiên cứu gồm: 153 học sinh cho
nhóm thử nghiệm (gồm 7 lớp học), 147 học sinh
cho nhóm chứng (gồm 6 lớp học).
Phương tiện nghiên cứu
Vật liệu thử nghiệm là kẹo cao su chứa
xylitol của Công ty Lotte Việt Nam. Mỗi viên
kẹo cao su có trọng lượng 1,45g chứa 41,1%
xylitol (0,56g).
Các biến nghiên cứu
Độ nhớt nước bọt
Đánh giá bằng bằng test kéo sợi.
Lưu lượng nước bọt, pH nước bọt, Khả năng
đệm của nước bọt
Sử dụng bộ thử nghiệm Saliva-Check
BUFFER (Hình 1, Hình 2).
Hình 1: Bộ GC Saliva-Check BUFFER.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 274
Hình 2: Bảng so màu đánh giá độ pH của nước bọt.
Hàm lượng S.mutans trong nước bọt
Sử dụng bộ Saliva-Check Mutans.
Các bước tiến hành thử nghiệm
Bước 1
Thu thập các dữ liệu nền về độ nhớt nước
bọt, lưu lượng nước bọt có kích thích, pH nước
bọt có và không có kích thích, khả năng đệm của
nước bọt, hàm lượng S.mutans trong nước bọt.
Bước 2
Tiến hành thử nghiệm:
- Nhóm thử nghiệm: Nhai kẹo cao su chứa
xylitol mỗi ngày 4 lần (lúc truy bài đầu giờ, sau
giờ ra chơi buổi sáng, sau giờ ra chơi buổi chiều,
buổi tối trước khi đi ngủ), mỗi lần nhai 2 viên
trong ít nhất 5 phút. Không đánh răng sau khi
nhai kẹo tối thiểu 1 tiếng đồng hồ.
- Nhóm chứng: Không nhai kẹo cao su.
- Cả hai nhóm: Đều được hướng dẫn VSRM,
cung cấp kem đánh răng và bàn chải để sử dụng
tại nhà ngoài việc chải răng tại trường theo
chương trình bán trú của trẻ. Kem đánh răng và
bàn chải mới được phát định kỳ sau mỗi 3 tháng.
Bước 3
Đánh giá lại các tham số và chỉ sổ giống như
bước 1 sau 1 và 9 tháng.
Kiểm soát sai lệch thông tin
Kiểm soát nhai kẹo.
Các học sinh không thuộc đối tượng nghiên
cứu nhưng chung lớp với các học sinh thuộc
nhóm thử nghiệm (nhai kẹo cao su) vẫn được
phát kẹo để tránh tình trạng trẻ thuộc nhóm thử
nghiệm chia phần kẹo của mình cho bạn.
Một số biện pháp đảm bảo các trẻ trong
nhóm thử nghiệm nhai đủ lượng kẹo là kẹo cao
su chỉ được phát đủ dùng cho 1 ngày, đến thứ 6
sẽ được phát cho 2 ngày thứ 7 và chủ nhật. Trẻ
sẽ đánh dấu vào phiếu theo dõi nhai kẹo tại lớp
và tại nhà, nộp lại phiếu này sau mỗi tháng. Ở
trường, giáo viên giám sát việc nhai kẹo của trẻ,
ở nhà phụ huynh sẽ giám sát. Trong hè trẻ sẽ
được phát đủ số kẹo để nhai, được yêu cầu đính
các bã kẹo đã nhai lên tờ giấy theo dõi và sẽ nộp
lại vào đầu năm học. Loại khỏi nhóm nghiên cứu
các trẻ không nhai kẹo như yêu cầu.
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được xử lý và phân tích bằng phần
mềm SPSS phiên bản 18.0.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu tại các thời điểm
nghiên cứu
T0
(Ban
ñầu)
T1
(Sau 1
tháng)
T9
(Sau 9
tháng)
Thất thoát
n(%)
Nhóm thử nghiệm 153 153 145 8
Nhóm chứng 147 143 142 5
Tổng 300 296 287 13 (4,34)
Bảng 2: Phân bố mẫu nghiên cứu theo giới tính.
n (%) Tổng N (%)
Nam Nữ
Nhóm thử nghiệm 76 (52,4) 69 (47,6) 145 (100)
Nhóm chứng 76 (53,5) 66 (46,5) 142 (100)
Kiểm định χ2, p=0,851.
Đây là một mẫu khá lớn khi so với các
nghiên cứu tương tự. Các cá thể trong mẫu
được chọn có đặc điểm chung tương tự nhau
(lứa tuổi, nơi sinh sống, học tập, thói quen vệ
sinh răng miệng, ăn uống và mức sống) và
không khác biệt về đặc điểm nước bọt vào thời
điểm ban đầu. Điều này giúp tăng tính thuần
nhất của mẫu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 275
Sự thay đổi độ nhớt và lưu lượng nước
bọt giữa hai nhóm nghiên cứu sau 1
tháng và 9 tháng thử nghiệm
Bảng 3: Sự thay đổi độ nhớt của nước bọt ở hai nhóm
nghiên cứu sau 1 tháng và 9 tháng thử nghiệm
n (%)
p (†)
T0 T1 T9
Nhóm thử nghiệm (n=145)
Thấp 88
(60,7)
124
(85,5)
131
(90,3)
T0/T1<0,001
Trung bình&Cao 57
(39,3)
21
(14,5)
14 (9,7) T0/T9<0,001
Nhóm chứng (n=142)
Thấp 96
(67,6)
138
(97,2)
135
(95,1)
T0/T1<0,001
Trung bình&Cao 46
(32,4)
4
(2,8)
7
(4,9)
T0/T9<0,001
p (#) 0,222 <0,001 0,124
(#) Kiểm định chính xác Fisher, (†) Kiểm định McNemar.
Bảng 4: So sánh trung bình lưu lượng nước bọt có
kích thích giữa hai nhóm nghiên cứu sau 1 tháng và 9
tháng thử nghiệm
TB ± ðLC p (π)
T0 T1 T9 T0/T1 T0/T9
Nhóm thử
nghiệm
(n=145)
5,41 ±
2,60
5,92 ±
2,64
6,34 ±
2,76
0,006 <0,001
Nhóm chứng
(n=142)
5,25 ±
2,61
6,45 ±
2,83
6,36 ±
2,52
<0,001 <0,001
p (α) 0,603 0,102 0,946
(α) Kiểm định t cho hai mẫu độc lập.
(π) Phân tích Anova có lặp (kết hợp phương pháp
Bonferroni).
Như vậy, xét về khía cạnh dự phòng sâu
răng thì độ nhớt và lưu lượng nước bọt đã thay
đổi theo xu hướng có lợi không chỉ ở nhóm thực
nghiệm mà cả ở nhóm chứng. Theo Dawes(3),
việc nhai kẹo cao su (bất kể chất tạo ngọt thuộc
loại nào) đều có tác dụng làm tăng tiết nước bọt,
dẫn đến thay đổi độ nhớt của nước bọt. Aguirre-
Zero (1993)(1), Tanzer (1995)(13), Machiulskiene
(2001)(6), Ribelles (2010)(12) cho rằng lưu lượng
nước bọt tăng sau khi nhai kẹo cao su là do động
tác nhai chứ không phải chất làm ngọt. Tuy
nhiên, Masalin (1992)(8), Peng (2004)(11) cho thấy
việc sử dụng xylitol làm tăng lưu lượng của
nước bọt, ông còn nhấn mạnh tác động của chất
làm ngọt-xylitol lên sự tăng lưu lượng này.
Trong nghiên cứu này, việc nhai kẹo cao su
có chứa xylitol đã không làm thay đổi lưu lượng
nước bọt của trẻ trong nhóm thử nghiệm so với
nhóm chứng, mặc dù sự gia tăng lưu lượng nước
bọt được tìm thấy ở cả 2 nhóm nghiên cứu. Kết
quả này không tương đồng với một số nghiên
cứu liên quan đến nhai kẹo cao su chứa xylitol
và sự tăng lưu lượng nước bọt(3,8). Điều này có
thể là do thời điểm lấy nước bọt là đầu giờ học
và sau giờ ra chơi buổi sáng, lúc này học sinh đã
nhai kẹo cao su lần thứ nhất và thứ hai trước đó
một thời gian, nước bọt đã được tiết ra nhiều
trong quá trình nhai. Khi lấy mẫu, lượng nước
bọt không tiết ra được nhiều ngay lập tức dẫn
đến lưu lượng ở nhóm thử nghiệm hơi thấp hơn
nhóm chứng. Ở các nghiên cứu trên, có thể vì
nước bọt được thu thập ngay sau khi nhai kẹo
cao su nên các tác giả đã ghi nhận được sự tăng
lưu lượng nước bọt.
Sự thay đổi pH nước bọt giữa hai nhóm
nghiên cứu sau 1 tháng và 9 tháng thử
nghiệm
pH nước bọt không kích thích
Bảng 6: So sánh trung bình pH nước bọt không kích
thích giữa hai nhóm nghiên cứu sau 1 tháng và 9
tháng thử nghiệm
(TB ± ðLC) p (π)
T0 T1 T9 T0/T1 T0/T9
Nhóm thử nghiệm
(n=145)
7,15 ±
0,53
7,22 ±
0,47
7,29 ±
0,71
0,138 0,034
Nhóm chứng
(n=142)
7,20 ±
0,44
7,05 ±
0,53
7,20 ±
0,74
0,001 1,000
p (α) 0,375 0,005 0,318
(α) Kiểm định t cho hai mẫu độc lập.
(π) Phân tích Anova có lặp (kết hợp phương pháp
Bonferroni).
Bảng 7: So sánh phân bố tỉ lệ phần trăm học sinh ở
hai nhóm nghiên cứu theo đặc điểm của pH nước bọt
không kích thích sau 1 tháng và 9 tháng thử nghiệm
n (%)
p (†)
T0 T1 T9
Nhóm thử nghiệm (n=145)
Thấp +
Trung bình
27 (18,6) 20 (13,8) 23 (15,9) T0/T1=0,310
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 276
n (%)
p (†)
T0 T1 T9
Cao 118 (81,4) 125 (86,2) 122 (84,1) T0/T9=0,596
Nhóm chứng (n=142)
Thấp +
Trung bình
20 (14,1) 34 (23,9) 30 (21,1) T0/T1=0,022
Cao 122 (85,9) 108 (76,1) 112 (78,9) T0/T9=0,123
p 0,048(β) 0,028(#) 0,484(β)
(β) Kiểm định χ2, (#) Kiểm định chính xác Fisher, (†) Kiểm
định McNemar.
Bảng 8: So sánh chênh lệch pH nước bọt không kích
thích giữa hai nhóm nghiên cứu sau 1 tháng và 9
tháng so với ban đầu
(TB ± ðLC)
T1-T0 T9-T0
Nhóm thử nghiệm 0,07 ± 0,55 0,14 ± 0,77
Nhóm chứng -0,15 ± 0,51 0,00 ± 0,66
p (γ) 0,001 0,117
(γ) Kiểm định Mann-Whitney.
Sự thay đổi pH ở nhóm thử nghiệm tiến
triển theo chiều hướng có lợi cho việc dự phòng
sâu răng và nhóm chứng thì không có hiện
tượng này. Kết quả ở bảng 7 đến bảng 9 cho thấy
việc nhai kẹo cao su chứa xylitol có ảnh hưởng
lên sự gia tăng pH nước bọt. Tuy nhiên, do pH
ban đầu ở cả hai nhóm nghiên cứu đã ở mức tốt,
được xem là có tính bảo vệ đối với sâu răng, do
đó việc thay đổi trị số này trong một khoảng hẹp
(nhỏ hơn 1 đơn vị) chưa có ý nghĩa đối với việc
dự phòng sâu răng. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Dawes và cs (2004)(3).
pH nước bọt có kích thích
Bảng 9: So sánh trung bình pH nước bọt có kích thích
giữa hai nhóm nghiên cứu sau 1 tháng và 9 tháng thử
nghiệm
TB ± ðLC p (π)
T0 T1 T9 T0/T1 T0/T9
Nhóm thử
nghiệm
(n=145)
7,58 ±
0,23
7,69 ±
0,14
7,88 ±
0,34
<0,00
1
<0,00
1
Nhóm chứng
(n=142)
7,59 ±
0,22
7,62 ±
0,27
7,83 ±
0,66
0,126
<0,00
1
p (α) 0,885 0,009 0,405
(α) Kiểm định t cho hai mẫu độc lập. (π) Phân tích
Anova có lặp (kết hợp phương pháp Bonferroni).
Trong nghiên cứu này chưa chứng minh
được sự thay đổi của pH có kích thích là do đáp
ứng tích cực sau khi sử dụng kẹo cao su chứa
xylitol bởi vì sự tăng pH nước bọt có kích thích
quan sát thấy trên cả hai nhóm.
Nhận định như trên cũng phù hợp với
nghiên cứu của Ribelles (2010)(12). Tác giả này
nhận thấy sự khác biệt pH giữa nhóm nhai kẹo
cao su chứa xylitol và nhóm nhai paraffin là rất
ít. Tác giả kết luận rằng sự tăng pH là kết quả
của động tác nhai, không liên quan đến sự hiện
diện của xylitol trong kẹo cao su Việc nhai kẹo
kẹo cao su chứa xylitol giúp tăng tiết nước bọt(11)
nên được cho là làm tăng pH nước bọt thông
qua việc tăng lưu lượng nước bọt.
Tuy nhiên, theo Ramon và Montserrat (2000)
Grillaud (2005) sự gia tăng pH sau khi nhai kẹo
cao su sử dụng chất làm ngọt thay thế đường, ví
dụ đường rượu, phụ thuộc vào loại chất làm
ngọt, trong đó xylitol làm tăng pH nhiều nhất(12).
Hoàng Tử Hùng và Ngô Thị Quỳnh Lan (2007)(5)
đã nhận thấy việc nhai kẹo cao su chứa xylitol
giúp duy trì pH nước bọt tốt hơn (pH nước bọt
kích thích giảm ít hơn và tăng trở lại như ban
đầu nhanh hơn sau khi súc miệng với dung dịch
đường sucrose) so với nhóm không nhai hoặc
nhai kẹo cao su không chứa xylitol.
Như vậy, trong nghiên cứu này, việc nhai
kẹo cao su chứa xylitol làm thay đổi pH nước bọt
không kích thích theo chiều hướng có lợi cho sâu
răng nhưng không ảnh hưởng đến pH nước bọt
có kích thích.
Sự thay đổi khả năng đệm giữa hai nhóm
nghiên cứu sau 1 tháng và 9 tháng thử nghiệm
Bảng 10: So sánh trung bình khả năng đệm giữa
hai nhóm nghiên cứu sau 1 tháng và sau 9 tháng
thử nghiệm
TB ± ðLC p (π )
T0 T1 T9 T0/T1 T0/T9
Nhóm thử nghiệm
(n=145)
7,83 ±
2,26
7,84 ±
2,32
7,86 ±
2,22
0,977 0,918
Nhóm chứng
(n=142)
7,94 ±
2,32
8,22 ±
2,51
8,23 ±
2,29
0,210 0,218
p (α) 0,706 0,187 0,174
(α) Kiểm định t cho hai mẫu độc lập. (π) Phân tích
Anova có lặp (kết hợp phương pháp Bonferroni).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 277
Trong nghiên cứu này, mặc dù đối tượng
nghiên cứu là trẻ có sâu răng cao nhưng khả
năng đệm thể hiện có lợi đối với việc dự
phòng sâu răng và gần như không thay đổi
theo tiến trình nghiên cứu. Kết quả nghiên
cứu chưa chứng tỏ được ảnh hưởng của việc
nhai kẹo cao su chứa xylitol lên khả năng đệm
của nước bọt. Kết quả này khác với nghiên
cứu của Ribelles (2010)(12), khả năng đệm ở
nhóm nhai kẹo cao su chứa xylitol và nhóm
nhai paraffin cao hơn nhóm chứng.
Như ta đã biết, có mối liên hệ mật thiết
giữa lưu lượng nước bọt, pH và khả năng
đệm. Trong nghiên cứu này, lưu lượng và pH
đều có sự thay đổi, nhất là ở thời điểm sau 1
tháng, nhưng sự thay đổi này không quá
nhiều do đó chưa đủ để làm thay đổi khả năng
đệm (vốn đã ở mức cao). Thêm vào đó, khả
năng đệm của nước bọt là một thông số tương
đối ổn định, ít thay đổi theo thời gian trên
cùng một người do đó sự thay đổi khả năng
đệm không xảy ra trong nghiên cứu này.
Sự thay đổi hàm lượng S.mutans giữa hai
nhóm nghiên cứu sau 1 tháng và 9 tháng
thử nghiệm
Bảng 11: So sánh phân bố tỉ lệ phần trăm học sinh ở
hai nhóm nghiên cứu theo hàm lượng S.mutans sau 1
tháng và 9 tháng thử nghiệm
n (%) p (†)
T0 T1 T9
Nhóm thử nghiệm (n=145)
≥105 CFU/ml 33 (22,8) 49 (33,8) 38 (26,2) T0/T1=0,027
<105 CFU/ml 112
(77,2)
96
(66,2)
107
(73,8)
T0/T9=0,583
Nhóm chứng (n=142)
≥105 CFU/ml 33 (23,3) 36 (25,4) 80 (56,3) T0/T1=0,760
<105 CFU/ml 109
(76,8)
106
(74,6)
62 (43,7) T0/T9<0,001
p (#) 0,923 0,117 <0,001
(#) Kiểm định chính xác Fisher, (†) Kiểm định McNemar.
Bảng 12: So sánh sự thay đổi hàm lượng S.mutans
giữa hai nhóm nghiên cứu sau 1 tháng so với ban đầu
Tỉ lệ % hàm lượng S.mutans thay ñổi
sau 1 tháng, n (%)
Không ñổi Tăng Giảm
Nhóm thử nghiệm 99 (68,3) 31 (21,4) 15 (10,3)
Nhóm chứng 99 (69,7) 23 (16,2) 20 (14,1)
Kiểm định χ2, p=0,393.
Bảng 13: So sánh sự thay đổi hàm lượng S.mutans
giữa hai nhóm nghiên cứu sau 9 tháng so với ban đầu
Tỉ lệ % hàm lượng S.mutans thay ñổi
sau 9 tháng, n (%)
Không ñổi Tăng Giảm
Nhóm thử nghiệm 92 (63,4) 29 (20) 24 (16,6)
Nhóm chứng 67 (47,2) 61 (43) 14 (9,9)
Kiểm định χ2, p < 0,001.
Lượng vi khuẩn tăng theo thời gian ở cả hai
nhóm nghiên cứu, nhưng sự thay đổi rõ nét nhất
được nhận thấy sau 9 tháng thử nghiệm. Ở thời
điểm 9 tháng, lượng vi khuẩn ở nhóm thử
nghiệm quay về tương tự mức ban đầu trong khi
nhóm chứng lại tăng rất rõ rệt. Cụ thể là ở nhóm
chứng tăng 43% trong khi nhóm thử nghiệm chỉ
tăng 20%. Sự khác biệt này rất có ý nghĩa.
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc nhai kẹo
cao su có xylitol đã có ảnh hưởng rõ rệt lên hàm
lượng S.mutans ở trẻ nhai kẹo so với trẻ không
nhai kẹo. Kết quả này là phù hợp với một số
nghiên cứu tương tự. Tuy nhiên, đa số tác giả
nhận thấy sự giảm S.mutans trong nước bọt ghi
nhận được sau 1 đến 3 tháng thì trong nghiên
cứu này ghi nhận ở thời điểm 9 tháng.
Bảng 14: Một số nghiên cứu ảnh hưởng của việc nhai
kẹo cao su chứa xylitol lên lượng S.mutans trong
mảng bám và nước bọt.
Tác giả
Liều lượng xylitol
sử dụng S.mutans trong NB
% g/ngày
Thaweboon (2004) 55 5,76 Không ảnh hưởng
100 11,88 Giảm sau 3 tháng
Milgrom (2006)(9) 6,44-10,32 Giảm sau 6 tháng
Holgerson (2007)(4) 100 6,18 Giảm sau 4 tuần
Campus (2009)(2) 11,6 Giảm sau 3, 6 tháng
Bahador (2012) 70 6,6 Giảm sau 3 tuần
Minh Thảo (2012) 41,1 4,76 Hạn chế sự phát
triển sau 9 tháng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 278
Milgrom (2006)(9), Makinen (1995)(7) nhận
thấy hiệu quả dự phòng sâu răng của xylitol phụ
thuộc vào liều lượng và tần suất sử dụng. Hàm
lượng xylitol sử dụng có ảnh hưởng đến sự giảm
lượng vi khuẩn trong nước bọt hay trong mảng
bám. Khi so sánh với các tác giả ở trên chúng tôi
nhận thấy lượng xylitol sử dụng trong nghiên
cứu này là 41,1% (4,76g/ngày) nhỏ hơn các tác
giả khác về tỉ lệ % xylitol trong viên kẹo cũng
như tổng lượng xylitol tiêu thụ trong một ngày.
Như vậy, hầu hết các nghiên cứu trên đều dùng
xylitol với hàm lượng cao do đó hiệu quả làm
giảm lượng S.mutans trong nghiên cứu này diễn
ra chậm hơn cũng có thể là vì hàm lượng xylitol
sử dụng hơi thấp hơn các nghiên cứu khác.
Hầu hết các nghiên cứu trong y văn đề
nghị liều xylitol cần thiết để đạt được kết quả
dự phòng sâu răng là 4-10g/ ngày, chia làm 3-7
lần(2,4,7,10). Liều lượng cho trẻ em được AAPD
khuyến cáo là khoảng 3-8g/ngày chia làm
nhiều lần. Căn cứ vào điều đó, nghiên cứu cho
trẻ nhai 8 viên kẹo cao su trong một ngày, chia
làm 4 lần với tổng lượng xylitol tiêu thụ là
4,76g/ngày. Như vậy, liều lượng xylitol sử
dụng trong nghiên cứu này là đủ để có hiệu
quả dự phòng sâu răng.
KẾT LUẬN
Tác động của kẹo cao su chứa xylitol lên các
tính chất của nước bọt
Về độ nhớt và lưu lượng nước bọt, nước
bọt loãng dần (độ nhớt giảm) và có lưu lượng
tăng dần ở cả hai nhóm sau 1 tháng và 9
tháng thử nghiệm. pH không kích thích ở
nhóm thử nghiệm tăng sau 9 tháng, nhóm
chứng là không thay đổi. pH có kích thích
tăng ở cả hai nhóm. Khả năng đệm không
thay đổi ở cả hai nhóm.
Tác động của kẹo cao su chứa xylitol đối
với lượng Streptococcus mutans
Ở nhóm chứng, lượng vi khuẩn tăng theo
thời gian, khác biệt có ý nghĩa tại thời điểm 9
tháng so với ban đầu. Ở nhóm nhai kẹo cao su
chứa xylitol, dù trẻ thuộc nhóm sâu răng cao
nhưng lượng vi khuẩn không bị tăng lên sau
9 tháng.
So sánh hai nhóm nhai và không nhai kẹo
cao su chứa xylitol
Chưa xác định được ảnh hưởng của kẹo cao
su chứa xylitol lên độ nhớt và lưu lượng của
nước bọt. Việc nhai kẹo cao su chứa xylitol làm
cho pH nước bọt không kích thích thay đổi theo
chiều hướng có lợi cho sâu răng nhưng chưa ảnh
hưởng lên pH nước bọt có kích thích. Chưa xác
định được ảnh hưởng của việc nhai kẹo cao su
chứa xylitol lên khả năng đệm của nước bọt. Vào
lúc bắt đầu nghiên cứu, không có sự khác biệt
hàm lượng S.mutans giữa hai nhóm. Sau 9 tháng
thử nghiệm, có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
nhóm chứng và nhóm thử nghiệm với nhóm trẻ
không nhai kẹo chứa xylitol có lượngS.mutanscao
hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm trẻ không
nhai kẹo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aguirre-Zero O, Zero DT, Proskin HM (1993). Effect of
chewing xylitol chewing gum on salivary flow rate and the
axitogenic potential of dental plaque. Caries Res, 27(1): 55-59.
2. Campus G, Cagetti MG (2009). Six months of daily high-dose
xylitol in high-risk schoolchildren: a randomized clinical trial
on plaque pH and salivary mutans streptococci. Caries Res,
43(6): 455-461.
3. Dawes C, Kubieniec K (2004). The effects of prolonged gum
chewing on salivary flow rate and composition. Arch Oral
Biol, 49(8): 665-669.
4. Holgerson PL, Sjöström I (2007). Dental plaque formation and
salivary mutans streptococci in schoolchildren after use of
xylitol-containing chewing gum. Int J Paediatr Dent, 17(2): 79-
85.
5. Hoàng Tử Hùng, Ngô Thị Quỳnh Lan (2007). Sự thay đổi pH
mảng bám, pH nước bọt và chỉ số mảng bám khi sử dụng kẹo
gum Lotte có chứa xylitol. Tuyển tập công trình nghiên cứu
khoa học Răng Hàm Mặt.
6. Machiulskiene V, Nyvad B, Baelum V (2001). Caries
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 279
preventive effect of sugar-substituted chewing gum.
Community Dent Oral Epidemiol, 29(4): 278-288.
7. Mäkinen KK, Bennett CA (1995). Xylitol chewing gum and
caries rates: a 40-month cohort study. J Dent Res, 74: 1904-
1913.
8. Masalin K (1992). Caries-risk-reducing effects of xylitol-
containing chewing gum and tablets in confectionery workers
in Finland. Community Dent Health, 9(1): 3-10.
9. Milgrom P, Ly KA (2006). Mutans streptococci dose response
to Xylitol chewing gum. J Dent Res, 85(2): 177-181.
10. Peldyak J, Makinen KK (2002). Xylitol for caries prevention. J
Dent Hyg, 76: 276-285.
11. Peng B, Petersen PE (2004). Can school-based oral health
education and a sugar-free chewing gum program improve
oral health? Results from a two-year study in PR China. Acta
Odontol Scand, 62(6): 328-332.
12. Ribelles LM, Guinot JF (2010). Effects of xylitol chewing gum
on salivary flow rate, pH, buffering capacity and presence of
Streptococcus mutans in saliva. Eur J Paediatr Dent, 11(1): 9-
14.
13. Tanzer JM (1995). Xylitol chewing gum and dental caries. Int
Dent J, 45(1): 65-76.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_keo_cao_su_chua_xylitol_len_cac_dac_diem_nuoc.pdf