Mangrove soil stores a high amount of organic carbon, however one part of this source emitted
towards the atmosphere as CO2. The objective of the present study was to determine the influence of
biofilm on CO2 fluxes at the soil-air interface of mangrove forest. Fluxes were measured using
dynamic closed incubation dark chamber connected to an infra-red gas analyzer (IRGA – Licor
820) at the two main seasons (dry and wet seasons) to find the influence of environmental
parameters on the fluxes. In situ measurements showed that CO2 fluxes were 3,98 ± 3,72 mmol m-2
h-1 in the mangrove, and 1,77 ± 1,36 mmol m-2 h-1 in the bare land. However, after having removed
2 mm depth of soil surface, CO2 fluxes were increased 1.28 times in mangroves, and 1.74 times in
the bare land. The study results found that the environmental parameters, like temperature, rainfall,
and the biofilm on the soil surface have strong impact on the CO2 emission to the atmosphere.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 746 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của lớp màng sinh học trên bề mặt đất tới sự phát thải khí co2 vào khí quyển từ đất rừng ngập mặn vườn quốc gia Xuân Thủy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 3
BÀI BÁO KHOA HỌC
ẢNH HƯỞNG CỦA LỚP MÀNG SINH HỌC TRÊN BỀ MẶT ĐẤT
TỚI SỰ PHÁT THẢI KHÍ CO2 VÀO KHÍ QUYỂN
TỪ ĐẤT RỪNG NGẬP MẶN VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY
Hà Thị Hiền, Nguyễn Thị Kim Cúc1
Tóm tắt: Đất rừng ngập mặn có khả năng lưu giữ một lượng carbon rất lớn nhưng cũng phát thải
một phần carbon tích lũy được vào khí quyển dưới dạng khí CO2. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm
định lượng lượng khí CO2 phát thải từ bề mặt đất rừng ngập mặn vào khí quyển và ảnh hưởng của
lớp màng sinh học trên bề mặt đất tới lượng khí phát thải. Nồng độ khí CO2 phát thải được đo bằng
một buồng tối kết nối trực tiếp với máy phân tích khí hồng ngoại (IRGA) và được thực hiện vào hai
mùa đặc trưng trong năm (mùa khô và mùa mưa) để tìm mối tương quan giữa các yếu tố môi
trường và nồng độ khí CO2 phát thải. Kết quả khảo sát thu được giá trị nồng độ khí CO2 phát thải
từ đất rừng ngập mặn ở điều kiện thường là 3,98 ± 3,72 mmol m-2 h-1 và tại vùng đất trống là 1,77 ±
1,36 mmol m-2 h-1. Tuy nhiên, khi gạt bỏ lớp màng sinh học trên bề mặt đất (tới độ sâu ~ 2 mm),
nồng độ khí CO2 phát thải tăng lên là 1,28 và 1,74 lần tương ứng với đất rừng ngập mặn và đất
trống. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố môi trường như nhiệt độ, lượng mưa và lớp màng
sinh học trên lớp đất bề mặt có ảnh hưởng lớn tới lượng khí CO2 phát thải vào khí quyển.
Từ khóa: nồng độ khí CO2, đất rừng ngập mặn, chlorophyll-a, lớp màng sinh học, Vườn Quốc gia
Xuân Thủy
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Rừng ngập mặn (RNM) là hệ sinh thái rừng
phát triển dọc bờ biển ở các vùng nhiệt đới và
cận nhiệt đới với đặc điểm nổi bật là có năng
suất sơ cấp cao (Bouillon và cs., 2008;
Komiyama và cs., 2008). Do tình trạng đất bị
ngập úng thường xuyên bởi thủy triều nên các
chất hữu cơ bị phân hủy chậm, vì vậy một lượng
lớn carbon được tích lũy lại trong các tầng đất
của RNM. Tuy nhiên, một phần carbon tích lũy
trong đất RNM bị phân hủy, khoáng hóa và hình
thành nên các khí nhà kính, trong đó có khí
CO2. Khí này có thể phát thải trực tiếp vào
không khí qua giao diện đất – không khí, hoặc
hòa tan trong nước và theo dòng chảy ngầm ra
vùng nước kênh rạch xung quanh (Bouillon và
cs., 2008; Maher và cs., 2013). Hiện nay, đã có
một số nghiên cứu trên thế giới về phát thải khí
1 Trường Đại học Thủy Lợi.
CO2 từ giao diện đất - không khí, tập trung vào
vai trò của tổng carbon tích lũy trong đất RNM,
vào hàm lượng nước chứa trong đất, vào lớp
màng sinh học (tảo bám) phát triển trên bề mặt
trầm tích (Lovelock, 2008; Leopold và cs.,
2013; Lovelock và cs., 2014). Tuy nhiên, số liệu
về phát thải khí nhà kính vào không khí tại vùng
RNM thuộc khu vực cửa sông Hồng còn rất hạn
chế. Để tìm hiểu về lượng phát thải khí CO2 từ
RNM vào khí quyển, trong nội dung bài báo
này, nhóm tác giả sẽ tập trung vào việc định
lượng và tìm hiểu sự biến động của nồng độ khí
CO2 phát thải vào không khí từ đất rừng
Kandelia obovata (Trang) trồng 18 tuổi theo
mùa. Trong công bố trước của chúng tôi, RNM
tại đây có tổng giá trị carbon tích lũy trong đất
rừng cao hơn so với trong đất trống (Hà và cs.,
2018), vì vậy giả thiết của chúng tôi là CO2 phát
thải từ đất RNM cũng cao hơn. Hơn nữa, cũng
cần lưu ý thêm là sự gia tăng mạnh mẽ của nền
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 4
nhiệt trong mùa hè sẽ có ảnh hưởng mạnh tới sự
phát thải của các khí nhà kính (Lovelock 2008;
Leopold và cs., 2015); vì vậy chúng tôi giả định
rằng lượng phát thải sẽ tăng trong khoảng thời
gian mùa hè, và cũng là mùa mưa tại khu vực
nghiên cứu. Để đạt được mục tiêu đề ra, nồng
độ khí CO2 phát thải từ giao diện đất – không
khí trong đất RNM và đất trống (bãi bồi không
có rừng trồng) được đo trực tiếp tại hiện trường
vào hai mùa đại diện trong năm 2016: mùa mưa
và mùa khô. Song song với việc đo tốc độ phát
thải khí CO2, nghiên cứu cũng xác định nồng độ
chlorophyll-a (chl-a) trong lớp đất bề mặt, các
thông số vi khí hậu tại địa điểm đo và nồng độ
carbon hữu cơ trong đất.
2. ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu được lựa chọn tại vùng
RNM thuộc vườn Quốc gia Xuân Thủy
(VQGXT) nằm tại vị trí bờ Nam của cửa sông
Hồng, tỉnh Nam Định, miền Bắc Việt Nam.
Rừng ngập mặn tại VQGXT là hỗn giao của
rừng trồng và rừng tự nhiên với ba loài cây
chính: cây Trang (Kandelia obovata; Sheue, Lui
& Yong), cây Bần chua (Sonneratia caseolaris)
và cây Đước (Rhizophora apiculata). Khu vực
nghiên cứu được thực hiện tại vùng đệm của
VQGXT, nơi RNM được trồng từ năm 1998 và
có vị trí tại tọa độ 20o13’37.6” N vĩ độ Bắc và
106o31’42.0”E kinh độ Đông (Hình 1).
Nằm ở khu vực phía Bắc Việt Nam, VQGXT
có đủ các hình thái và đặc điểm thời tiết đặc
trưng của khu vực là khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Lượng mưa trung bình hàng năm dao động
trong khoảng từ 1.750 – 1.800 mm với hai mùa
rõ rệt; mùa mưa từ tháng Năm đến tháng Chín
và mùa khô từ tháng Mười đến tháng Tư năm
sau. Nhiệt độ không khí trung bình năm dao
động từ 23,4 tới 24,5oC và có sự khác biệt rất rõ
giữa mùa đông và mùa hè (Cục Thống kê Nam
Định, 2016). Chu kì thủy triều tại đây là chế độ
nhật triều với biên độ rộng, lớn nhất là 3,54 m
và nhỏ nhất là 0,37 m (Bảng thủy triều 2016).
Hình 1. Bản đồ khu vực nghiên cứu và vị trí lấy
mẫu tại VQGXT, tỉnh Nam Định
Nhiệt độ và lượng mưa tại khu vực Vườn
Quốc gia Xuân Thủy có sự khác biệt lớn trong
hai tháng đo đạc thực địa, tháng tư và tháng tám
năm 2016 (Hình 2). Nhiệt độ không khí trung
bình đo trong tháng Tư (mùa khô) và tháng Tám
(mùa mưa) tương ứng là 23,6oC và 31,7oC.
Tổng lượng mưa đo được trong tháng Tư là
150,2 mm và tần suất mưa phân bố chủ yếu vào
mười ngày cuối tháng. Trong tháng Tám, lượng
mưa rất cao và đạt tới 439,1 mm. Vào mùa khô,
nghiên cứu thực địa được tiến hành vào hai
ngày: 2/4 (ngày chu kì nước lớn - spring tide) và
6/4 (ngày chu kì nước ròng - neap tide). Trong
khoảng thời gian 10 ngày trước các ngày đo đạc
thực địa vào mùa khô, trời không có mưa và
nhiều mây, ít nắng. Vào mùa mưa, nồng độ khí
CO2 phát thải từ đất được đo vào ngày 3/8
(nước lớn), và 9/8 (nước ròng). Có các trận mưa
lớn ghi nhận được vài ngày trước đo đạc thực
địa (70 mm vào ngày 28/7, và 65 mm vào tối
3/8). Bốn ngày đo đạc thực địa trong hai mùa
được thể hiện trong sơ đồ tại Hình 2.
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 5
Hình 2. Phân bố nhiệt độ và lượng mưa tại VQGXT, tỉnh Nam Định (Nguồn: Trạm thủy văn
Ba Lạt, 2016) và kí hiệu mũi tên là các ngày đo đạc thực địa tại hai mùa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp xác định nồng độ khí
CO2 phát thải từ giao diện đất - không khí
Tại mỗi ô nghiên cứu và tại mỗi mùa trong
năm, ba vị trí đo nồng độ khí CO2 được thực
hiện trên bề mặt giao diện đất - không khí khi
thủy triều xuống thấp để bộc lộ lớp đất tại bề
mặt sàn rừng. Ở mỗi vị trí, phép đo được lặp lại
ba lần. Thời điểm đo trong mỗi mùa được lựa
chọn theo hai chế độ thủy triều tiêu biểu đại
diện cho một chu kì con nước: một chu kì nước
lớn và chu kì nước ròng. Phép đo nồng độ khí
CO2 phát thải từ đất được thực hiện tại hiện
trường bằng cách sử dụng một buồng kín, tối.
Buồng tối được làm bằng nhựa cứng, có thể
tích và diện tích bề mặt xác định (0,0098m3;
0,088m2) và được nối trực tiếp với một máy
phân tích khí hồng ngoại (IRGA; Licor 840,
Li-cor Biosciences, Inc.). Hiệu chỉnh máy phân
tích khí hồng ngoại trước mỗi ngày đo bằng ba
loại nồng độ khí: 0 ppm CO2 (N2 tinh khiết, Air
Liquide Inc.), và hai nồng độ CO2 (551 ± 11 và
2.756 ± 137 ppm; Air Liquide Inc.). Úp buồng
tối xuống bề mặt đất với vành buồng sâu trong
bùn khoảng 1 cm để loại bỏ hết nguy cơ rò rỉ
khí từ buồng đo ra môi trường bên ngoài. Mỗi
phép đo được tiến hành trong khoảng thời gian
là 3 phút để giảm thiểu tối đa ảnh hưởng của
các yếu tố vi khí hậu tới kết quả đo (ví dụ như
hàm lượng nước trong đất, nhiệt độ đất và biến
thiên nồng độ khí CO2; Rochette và cs., 1992).
Nhiệt độ của đất ở độ sâu 5 cm được đo bằng
nhiệt kế Hanna (HI 98509) trong quá trình đo.
Tốc độ gió, nhiệt độ không khí và cường độ
bức xạ mặt trời được đo ở độ cao 1,5m bằng
cách sử dụng máy đo tốc độ gió cầm tay
(Extech 45170, Taiwan). Nồng độ khí CO2
phát thải từ giao diện đất – không khí được đo
trong hai điều kiện: (1) ở điều kiện thường (khi
lớp đất bề mặt được giữ nguyên, không có bất
kì tác động nào làm ảnh hưởng tới lớp đất bề
mặt này), và (2) sau khi gạt bỏ khoảng 2 mm
lớp đất bề mặt, lớp đất này có thể chứa thành
phần tảo bám (microphytobenthos) có thể làm
giảm thiểu sự phát thải của khí CO2 (Leopold
và cs., 2013). Buồng tối được đặt tại vị trí
tương đối bằng phẳng và bề mặt đất không bị
xáo trộn, không có các hang đào của động vật
đáy, không có thành phần của lượng rơi như lá,
hoa, trụ mầm của cây ngập mặn, vvcó thể
gây ảnh hưởng đến kết quả của phép đo. Nồng
độ khí CO2 phát thải được tính theo phương
trình sau:
F = (δpCO2/δt)*V/R.T.S (1)
Trong phương trình trên F kí hiệu cho nồng
độ khí CO2 phát thải từ đất (mmol m-2 s-1),
δpCO2/δt là biến động của áp suất khí pCO2
theo thời gian (ppm s-1), V là thể tích của buồng
đo (0,0098 m3), R là hằng số khí lí tưởng
(8,20528.10-5 atm m3 K-1 mol-1), T là nhiệt độ
tuyệt đối (K), và S là diện tích bề mặt đất trong
buồng đo (0,088 m2).
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 6
Hình 3. Đo dòng khí CO2 trong RNM và lấy mẫu đất bề mặt tại vùng đất trống bìa rừng
2.2.2. Phương pháp xác định nồng độ
chlorophyll-a trong đất
Chlorophyll-a trong lớp đất bề mặt được
phân tích theo phương pháp trắc quang. Sau khi
đã đo lặp lại nồng độ khí CO2 phát thải 3 lần tại
mỗi vị trí, gạt nhẹ và thu mẫu đất bề mặt với độ
sâu ~ 2 mm trong diện tích bề mặt buồng đo
(Hình 3). Gói mẫu đất vào giấy aluminium và
bảo quản lạnh ở - 20oC ngay sau khi lấy mẫu.
Chuyển mẫu về phòng thí nghiệm và tiến hành
đông khô mẫu ở - 80oC trước khi phân tích. Chl-
a trong mẫu được chiết bằng dung môi axeton.
Nồng độ Chl-a được tính toán theo tài liệu tham
khảo trong APHA (2012).
2.3. Phương pháp phân tích và thống kê
số liệu
Sử dụng phương pháp phân tích phương sai
hai biến (ANOVA) để so sánh giá trị CO2 phát
thải trung bình đo được từ ba ô nghiên cứu của
đất RNM và đất trống. Phương pháp phân tích
tương tự được ứng dụng cho việc so sánh nồng
độ khí CO2 phát thải giữa hai địa điểm nghiên
cứu và hai mùa đo đạc trong năm.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Biến động nồng độ khí CO2 theo địa
điểm đo và theo mùa
Nồng độ khí CO2 phát thải từ bề mặt đất biến
động mạnh giữa giao diện của đất rừng ngập
mặn và đất trống (Hình 4). Ở điều kiện thường
(có lớp màng sinh học trên bề mặt), nồng độ khí
CO2 biến động trong khoảng từ 1,55 ± 0,61 tới
9,52 ± 3,27 mmol m-2 h-1 với đất RNM, trong
khi ở địa điểm đất trống, nồng độ CO2 biến
động từ 0,68 ± 0,60 tới 3,66 ± 1,36 mmol m-2
h-1. Nồng độ khí CO2 trung bình trong RNM
(3,98 ± 3,72 mmol m-2 h-1) lớn hơn trên hai lần
nồng độ khí CO2 đo được trong đất trống (1,77
± 1,36 mmol m-2 h-1). Sau khi gạt nhẹ khoảng
2mm lớp đất trên bề mặt (lớp đất có thể chứa
chl-a và các vi sinh vật), nồng độ khí CO2 đo
được cao hơn so với trong điều kiện thường ở
cả hai địa điểm. Nồng độ khí CO2 biến động từ
2,59 ± 0,26 tới 10,60 ± 2,81 mmol m-2 h-1 trong
đất RNM, và từ 1,65 ± 0,59 tới 5,47 ± 1,51
mmol m-2 h-1 trong đất trống. Nồng độ khí CO2
đo được trong đất RNM cao gần gấp đôi giá trị
đo được trong đất trống, tương ứng với các giá
trị trung bình là 5,09 ± 3,76 mmol m-2 h-1 và
3,07 ± 1,66 mmol m-2 h-1. Số liệu phân tích
thống kê phương sai cho thấy có sự khác biệt
lớn về giá trị nồng độ khí CO2 đo được giữa hai
địa điểm đất RNM và đất trống, khi có lớp
màng sinh học (P < 0,001), và không có lớp
màng sinh học (P < 0,01).
Nồng độ khí CO2 đo được tại giao diện đất -
khí cũng biến động mạnh theo mùa (Hình 4).
Vào mùa khô, nồng độ khí CO2 trung bình đo
được tại RNM và đất trống ở điều kiện thường
tương ứng là 2,10 ± 1,32 mmol m-2 h-1 và 0,78 ±
0,44 mmol m-2 h-1. Trong mùa mưa, nồng độ khí
đo được là 5,86 ± 4,57 mmol m-2 h-1 tại đất
RNM, và 2,76 ± 1,59 mmol m-2 h-1 tại vùng đất
trống. Nhìn chung, nồng độ khí CO2 đo được
trong mùa mưa cao hơn trong mùa khô ở điều
kiện thường (có lớp màng sinh học, Hình 4). Sau
khi gạt bỏ 2 mm lớp đất trên bề mặt, nồng độ khí
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 7
CO2 đo được trong RNM vào mùa mưa cao hơn
gần 3 lần giá trị đo được trong mùa khô; nhưng
với địa điểm đất trống, tỉ số này tương ứng chỉ
bằng 1,38 lần. Tại cả hai địa điểm đo, số liệu
thống kê cho thấy có sự khác biệt về giá trị nồng
độ khí CO2 tính được giữa hai mùa (P < 0,05).
Hình 4. Nồng độ khí CO2 phát thải từ đất RNM và đất trống khi có và không có lớp màng
sinh học ở các mùa và các chu kì thủy triều khác nhau (giá trị trung bình của ba lần đo
lặp lại ± độ lệch chuẩn).
Các giá trị đo được trong nghiên cứu này
cũng nằm trong khoảng các giá trị đã công bố
của các vùng RNM khác trên thế giới; ví dụ tại
11 vị trí RNM (tại vùng Caribean, Australia và
New Zealand) với giá trị biến động trong
khoảng từ -0,90 tới 10,69 mmol m-2 h-1
(Lovelock 2008); và cũng trong một nghiên cứu
khác được thực hiện tại New Caledonia đối với
rừng Mắm và rừng Đước tự nhiên, với các giá
trị trung bình đo được tương ứng là 3,68 ± 0,99
mmol m-2 h-1 và 3,04 ± 1,54 mmol m-2 h-1
(Leopold và cs., 2013). Và gần đây, một nghiên
cứu mới được thực hiện với rừng Mắm tại New
Zealand và tại Australia với giá trị trung bình
tương ứng là 4,75 ± 0,83 mmol m-2 h-1 và 4,46 ±
1,91 mmol m-2 h-1 (Lovelock và cs., 2014). Mặc
dù tổng hàm lượng carbon trong lớp đất bề mặt
khu vực lựa chọn nghiên cứu của chúng tôi (~
2%) thấp hơn trong các nghiên cứu khác (7 –
8%), nhưng nồng độ khí CO2 đo được dường
như bị ảnh hưởng khá lớn bởi các nhân tố vô
sinh (nhiệt độ, lượng mưa, ) và hữu sinh (chl-
a, độ che phủ tán lá, vi sinh vật đất,) trong
vùng khí hậu bán nhiệt đới nóng ẩm và mưa
nhiều của miền Bắc Việt Nam so với các vùng
khí hậu bán khô hạn ở New Caledonia (Leopold
và cs., 2013). Như vậy, kết quả nghiên cứu cho
thấy CO2 phát thải từ đất vào không khí có sự
khác biệt lớn giữa đất RNM và đất trống, giữa
mùa mưa và mùa khô. Phân tích và so sánh kết
quả của nghiên cứu với các công bố khác trên
thế giới cho thấy, lượng phát thải CO2 của rừng
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 8
Trang trồng trong khu vực nghiên cứu ở mức độ
trung bình.
3.2. Ảnh hưởng của nồng độ chl-a tới nồng độ
khí CO2 phát thải tại giao diện đất- không khí
Nồng độ chl-a trong lớp đất bề mặt đo được
tại cả hai địa điểm đất RNM và đất trống vào
mùa mưa có giá trị gần như tương đương, tương
ứng với 0,32 ± 0,07 và 0,35 ± 0,05 µg g-1 đất khô
(Hình 5). Tuy nhiên vào mùa khô, nồng độ chl-a
tại hai địa điểm đất RNM và đất trống có sự khác
biệt rất lớn (P < 0,0001), với giá trị rất cao (0,59
± 0,56 µg g-1) đo được trong đất trống và giá trị
rất thấp đo được trong đất RNM (0,02 ± 0,01 µg
g-1). Sự biến động lớn của nồng độ chl-a trong
mùa khô có thể lý giải do sự che phủ của tán cây
trong RNM làm giảm (hoặc ngăn cản phần lớn)
cường độ bức xạ mặt trời chiếu xuống lớp đất
mặt trên sàn rừng, vì vậy thực vật đơn bào trong
lớp màng sinh học thiếu ánh sáng để quang hợp
và phát triển. Còn tại đất trống, thời gian tiếp xúc
với ánh sáng mặt trời nhiều hơn và dài hơn so với
sàn RNM, do đó nồng độ của chl-a tại địa điểm
đất trống luôn cao hơn đất RNM.
Hình 5. Nồng độ chl-a đo được tại các địa điểm
và các mùa khác nhau (giá trị trung bình ± độ
lệch chuẩn)
Do sự khác biệt rất lớn về nhiệt độ của đất
giữa mùa mưa và mùa khô (nhiệt độ trung bình
của các đợt nghiên cứu vào mùa mưa và mùa
khô lần lượt là 32,8ºC và 22,8ºC), nên nồng độ
khí CO2 đo được trong mùa mưa có sự khác biệt
lớn so với các giá trị đo được trong mùa khô (P
< 0,001). Kết quả nghiên cứu ghi nhận giá trị
nồng độ khí CO2 phát thải rất cao (~ 10,00
mmol m-2 h-1) khi giá trị nhiệt độ đo được đạt
tới giá trị cao nhất (38,9ºC) trong đất RNM vào
buổi trưa. Điều kiện này có thể bị cộng hưởng
thêm với yếu tố lượng mưa rất cao (~ 70mm) đo
được vào ba ngày liên tiếp: ngày 3/8, 5/8 và
6/8), tức là các trận mưa diễn ra trước thời điểm
đo đạc tại hiện trường từ ba đến sáu ngày. Và
cũng từ Hình 2 có thể thấy rằng nhiệt độ không
khí rất cao đo được trong suốt nhiều ngày trước
ngày đo đạc thực địa (ngày 9/8). Do tình trạng
mưa liên tục, lớp màng sinh học trên bề mặt đất
bị cuốn trôi do lực tác động của các hạt nước và
dòng chảy mặt, và lớp màng sinh học này không
đủ thời gian để tái tạo lại trên bề mặt đất dẫn tới
lớp đất bề mặt bị mất đi một tấm lá chắn
(physical barrier) để bảo vệ và giữ lại lượng khí
CO2 trong đất. Vì vậy, tại thời điểm này, việc
lớp màng sinh học bị cuốn trôi bởi nước mưa,
kết hợp với nhiệt độ môi trường cao, có thể giải
thích được giá trị nồng độ khí CO2 phát thải cao
hơn so với tất cả các đợt khảo sát thực địa khác.
Davidson và cs. (2000), Liang và cs. (2013)
cũng quan sát và ghi nhận được sự gia tăng đột
ngột của nồng độ khí CO2 phát thải từ bề mặt
đất sau khi trời mưa. Các kết quả đo đạc và tính
toán của các tác giả này hoàn toàn tương đồng
với các giá trị thu được trong nghiên cứu thực
địa của chúng tôi vào ngày 9/8. Kết quả nghiên
cứu cũng giúp khẳng định rằng tỉ lệ chênh lệch
nhỏ tính toán được về nồng độ khí CO2 phát thải
trước và sau khi loại bỏ 2mm lớp đất mỏng trên
bề mặt đất trống (1,28) trong mùa mưa so với tỉ
lệ chênh lệch lớn trong mùa khô (3,33). Các
phân tích và kết quả của nghiên cứu chứng minh
rằng, lượng mưa cao có thể làm xáo trộn và
cuốn trôi lớp màng sinh học trên bề mặt đất do
quá trình rửa trôi dẫn tới kết quả là lớp đất bề
mặt mất đi một lớp màng bảo vệ để giữ lại
lượng khí CO2 trong cấu trúc của chúng.
Sự biến động theo mùa của nồng độ khí CO2
phát thải từ đất cũng phụ thuộc vào các yếu tố
hữu sinh (Leopold và cs., 2013; Leopold và cs.,
2015). Trong hầu hết tất cả các kết quả đo đạc
của chúng tôi, khi loại bỏ 2mm lớp đất trên bề
mặt, nồng độ khí CO2 phát thải luôn cao hơn so
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 9
với điều kiện đo đạc ở chế độ bình thường. Các
kết quả công bố của Lovelock (2008), Leopold và
cs. (2013) và Grellier và cs. (2017) cũng ghi nhận
được sự gia tăng phát thải nồng độ khí CO2 sau
khi loại bỏ lớp màng sinh học trên bề mặt đất. Vào
mùa khô, sau khi loại bỏ 2 mm lớp đất bề mặt, giá
trị CO2 đo được tại đất trống tăng lên 3,33 lần và
tại đất RNM chỉ tăng 1,27 lần so với điều kiện
thường. Tỉ lệ khác biệt này có thể được giải thích
là trong mùa khô, lượng mưa là hầu như không có
trong thời gian hàng tháng trước ngày đo đạc, và
đất trống có khoảng thời gian tiếp xúc trực tiếp
với ánh sáng mặt trời nhiều hơn và dài hơn so với
đất RNM. Thực tế, lớp đất mặt của RNM rất thiếu
ánh sáng do bị lớp tán lá của RNM ngăn cản, và
kết quả là, chính lớp tán lá của cây RNM sẽ làm
giảm mật độ của lớp màng sinh học trên bề mặt
đất RNM so với trong đất trống. Kết quả tương tự
được Leopold và cs. (2013) công bố với mật độ
cao của lớp màng sinh học phụ thuộc vào diện tích
tán lá của cây RNM thuộc hai loài Đước
(Rhizophora sp.) và Mắm (Avicennia sp.) ở New
Caledonia và vì vậy yếu tố này tác động tới sự
phát thải của CO2 tại cả hai địa điểm của RNM.
Tóm lại, CO2 phát thải từ đất bị tác động
phức hợp bởi các yếu tố môi trường, trong đó
nhiệt độ là yếu tố chính. Nhiệt độ và các thông
số môi trường (lượng mưa, độ dày tán lá, cường
độ bức xạ) ảnh hưởng ngược trở lại tới mật độ
của lớp màng sinh học trên bề mặt đất, vì vậy,
tác động trực tiếp tới lượng khí CO2 phát thải
vào không khí. Hơn nữa, nhiệt độ môi trường
cao cũng làm gia tăng tốc độ khoáng hóa của
các hợp chất hữu cơ trong đất và thúc đẩy sự hô
hấp của các vi sinh vật, do đó cũng góp phần
làm tăng lượng CO2 phát thải từ môi trường đất
vào không khí.
4. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sự biến động
của nồng độ khí CO2 phụ thuộc vào các yếu tố vô
sinh và hữu sinh, và lớp màng sinh học là một
trong các yếu tố hữu sinh ảnh hưởng tới sự phát
thải của CO2 từ đất vào không khí. Nồng độ khí
CO2 phát thải từ bề mặt đất biến động mạnh giữa
giao diện của đất rừng ngập mặn và đất trống.
Nồng độ khí CO2 trung bình trong RNM lớn hơn
trên hai lần nồng độ khí CO2 đo được trong đất
trống. Nồng độ khí CO2 phát thải từ giao diện đất
– không khí tại RNM ở điều kiện thường là 3,98
± 3,72 mmol m-2 h-1 và sau khi gạt bỏ lớp màng
sinh học là 5,09 ± 3,76 mmol m-2 h-1; tại vùng đất
trống là 1,77 ± 1,36 mmol m-2 h-1 và 3,07 ± 1,66
mmol m-2 h-1 sau khi gạt bỏ lớp màng sinh học.
Kết quả đo đạc vi khí hậu tại hiện trường cho
thấy, nhiệt độ, lượng mưa, độ dày tán lá và
cường độ bức xạ mặt trời lớn có tác động trực
tiếp tới nồng độ của chl-a trên bề mặt đất. Lớp
màng sinh học đóng vai trò như tấm lá chắn
trong việc lưu giữ và kiểm soát việc phát thải khí
CO2. Kết quả nghiên cứu gợi ý việc sử dụng lớp
màng sinh học trong tương lai ở một số lĩnh vực
nhằm kiểm soát phát thải CO2 vào khí quyển.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được thực hiện với sự hỗ trợ kinh phí
từ Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia
(NAFOSTED) của đề tài số 105.99-2015.17.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
APHA (2012) Standard methods for the examination of water and wastewater, Standard method
10200H. doi: ISBN 9780875532356.
Bouillon, S. et al. (2008) ‘Mangrove production and carbon sinks: A revision of global budget
estimates’, Global Biogeochemical Cycles, 22(2), pp. 1–12. doi: 10.1029/2007GB003052.
Call, M. et al. (2015) ‘Spatial and temporal variability of carbon dioxide and methane fluxes over
semi-diurnal and spring – neap – spring timescales in a mangrove creek’, Geochimica et
Cosmochimica Acta. Elsevier Ltd, 150, pp. 211–225. doi: 10.1016/j.gca.2014.11.023.
Davidson, E. A. et al. (2000) ‘Effects of soil water content on soil respiration in forests and cattle
pastures of eastern Amazonia’, Biogeochemistry, 48(1), pp. 53–69. doi:
10.1023/A:1006204113917.
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 10
Grellier, S. et al. (2017) ‘Changes in soil characteristics and C dynamics after mangrove clearing
(Vietnam)’, Science of the Total Environment. Elsevier B.V., 593–594, pp. 654–663. doi:
10.1016/j.scitotenv.2017.03.204.
Ha, T. H. et al. (2018) ‘Belowground carbon sequestration in a mature planted mangroves
(Northern Viet Nam)’, Forest Ecology and Management. Elsevier B.V., 407, pp. 191–199. doi:
10.1016/j.foreco.2017.06.057.
Komiyama, A., Ong, J. E. and Poungparn, S. (2008) ‘Allometry, biomass, and productivity of
mangrove forests: A review’, Aquatic Botany, 89(2), pp. 128–137. doi:
10.1016/j.aquabot.2007.12.006.
Leopold, A. et al. (2013) ‘Influence of mangrove zonation on CO2 fluxes at the sediment-air
interface (New Caledonia)’, Geoderma, 202–203, pp. 62–70. doi:
10.1016/j.geoderma.2013.03.008.
Leopold, A. et al. (2015) ‘Temporal variability of CO2 fluxes at the sediment-air interface in
mangroves (New Caledonia)’, Science of the Total Environment. Elsevier B.V., 502, pp. 617–
626. doi: 10.1016/j.scitotenv.2014.09.066.
Liang, J. et al. (2013) ‘Soil respiration in a subtropical mangrove wetland in the Jiulong River
Estuary, China’, Pedosphere, 23(5), pp. 678–685. doi: 10.1016/S1002-0160(13)60060-0.
Lovelock, C. E., Adame, M. F., et al. (2014) ‘Contemporary rates of carbon sequestration through
vertical accretion of sediments in mangrove forests and saltmarshes of South East Queensland,
Australia’, Estuaries and Coasts, 37(3), pp. 763–771. doi: 10.1007/s12237-013-9702-4.
Lovelock, C. E., Feller, I. C., et al. (2014) ‘Variable effects of nutrient enrichment on soil respiration in
mangrove forests’, Plant and Soil, 379(1–2), pp. 135–148. doi: 10.1007/s11104-014-2036-6.
Lovelock, C. and Lovelock, C. E. (2008) ‘Soil Respiration and Belowground Carbon Allocation in
Mangrove Forests’, Ecosystems, 11, pp. 342–354. doi: 10.1007/s10021-008-9125-4.
Maher, D. T. et al. (2013) ‘Groundwater-derived dissolved inorganic and organic carbon exports
from a mangrove tidal creek : The missing mangrove carbon sink ?’, Association for the
Sciences of Limnology and Ocenology, pp. 475–488. doi: 10.4319/lo.2013.58.2.0475.
Rochette, P., Gregorich, E. G. and Desjardins, R. L. (1992) ‘Comparison of static and dynamic
closed chambers for measurement of soil respiration under field conditions’, Can. J. Soil Sci.,
72, pp. 605–609.
Abstract:
INFLUENCE OF BIOFILM ON SOIL SURFACE TO CO2 EMISSON FROM SOIL-AIR
INTERFACE IN PLANTED MANGROVES (XUAN THUY NATIONAL PARK)
Mangrove soil stores a high amount of organic carbon, however one part of this source emitted
towards the atmosphere as CO2. The objective of the present study was to determine the influence of
biofilm on CO2 fluxes at the soil-air interface of mangrove forest. Fluxes were measured using
dynamic closed incubation dark chamber connected to an infra-red gas analyzer (IRGA – Licor
820) at the two main seasons (dry and wet seasons) to find the influence of environmental
parameters on the fluxes. In situ measurements showed that CO2 fluxes were 3,98 ± 3,72 mmol m-2
h-1 in the mangrove, and 1,77 ± 1,36 mmol m-2 h-1 in the bare land. However, after having removed
2 mm depth of soil surface, CO2 fluxes were increased 1.28 times in mangroves, and 1.74 times in
the bare land. The study results found that the environmental parameters, like temperature, rainfall,
and the biofilm on the soil surface have strong impact on the CO2 emission to the atmosphere.
Keywords: CO2 fluxes, mangrove soil, chlorophyll-a, biofilm, Xuan Thuy National Park
Ngày nhận bài: 31/1/2018
Ngày chấp nhận đăng: 18/4/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36463_117889_1_pb_2353_2070336.pdf