Kết quả khảo sát cho thấy: NCT sống trong các
TTDL đánh giá mối quan hệ của họ với gia đình, họ hàng
là ở mức thấp. Trong đó, mối quan hệ với các con, cháu
có ĐTB cao nhất, tiếp đến là mối quan hệ với vợ/chồng,
tiếp theo là mối quan hệ với anh, chị, em và cuối cùng là
mối quan hệ với bà con, họ hàng. Có ít NCT thường
xuyên về thăm gia đình, họ hàng. Có hơn một nửa số
NCT được hỏi đều cho rằng họ không bao giờ về thăm
gia đình, họ hàng. Điều này có ảnh hưởng lớn đến tâm lí,
quá trình giao tiếp của NCT sống trong các TTDL.
Bên cạnh đó, sự quan tâm của gia đình, họ hàng thể
hiện nhiều nhất ở nhu cầu vật chất (như đóng tiền cho
trung tâm, hỗ trợ tài chính, đồ ăn, quần áo, ). Tuy nhiên,
việc quan tâm đến đời sống tinh thần cho NCT sống tại
TTDL cũng gặp những khó khăn nhất định
3 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 554 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của mối quan hệ gia đình, họ hàng tới giao tiếp của người cao tuổi sống trong các trung tâm dưỡng lão, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 422 (Kì 2 - 1/2018), tr 12-14
12
ẢNH HƯỞNG CỦA MỐI QUAN HỆ GIA ĐÌNH, HỌ HÀNG TỚI GIAO TIẾP
CỦA NGƯỜI CAO TUỔI SỐNG TRONG CÁC TRUNG TÂM DƯỠNG LÃO
Vũ Thúy Ngọc - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Ngày nhận bài: 21/11/2017; ngày sửa chữa: 25/11/2017; ngày duyệt đăng: 07/12/2017.
Abstract: The results of the survey of the elderly living in nursing homes show that elderly people
living in aged care centers have underestimated their relationships with their families and relatives.
The majority of elderly respondents said that they never visited home. Families and relatives
seldom visited them at the nursing home. That affected directly the communication of the elderly.
The effects of family and relative relationships on communication of the elderly people living in
nursing homes were mentioned detailedly in this article.
Keywords: Communication, family, elderly, nursing center.
1. Mở đầu
Gia đình không chỉ là “tổ ấm yêu thương”, là “cái
nôi” che chở, nuôi dưỡng con người về mặt sinh học, mà
còn là nền tảng tinh thần, là điểm tựa vững chắc cho mỗi
cá nhân trong cuộc sống. Đối với những người cao tuổi
(NCT) thì mối quan hệ gắn kết với các thành viên trong
gia đình có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến cuộc sống
của NCT. Tình cảm gia đình, sự yêu thương, quan tâm,
chăm sóc, kính trọng của các thành viên trong gia đình
sẽ giúp NCT bớt đi cảm giác cô đơn, buồn chán, mang
lại niềm vui trong cuộc sống.
Với những NCT sống ở các trung tâm dưỡng lão
(TTDL), mối quan hệ với gia đình lại có những nét đặc
thù, riêng biệt do sự thay đổi căn bản của môi trường
sống. Cuộc sống của NCT ở TTDL bị tách biệt khỏi gia
đình, người thân, quê hương, họ hàng. Vì vậy, mối quan
hệ của họ với gia đình, họ hàng có những đặc điểm riêng,
khác biệt với những NCT đang sống tại gia đình. Việc
tìm hiểu về mối quan hệ với gia đình, họ hàng của NCT
sống trong TTDL là cần thiết, để từ đó đề xuất một số
biện pháp tâm lí nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng
cuộc sống cho NCT.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Mục tiêu, phương pháp nghiên cứu. Để tìm hiểu sự
ảnh hưởng của mối quan hệ gia đình, họ hàng tới giao
tiếp của NCT sống trong TTDL, chúng tôi tiến hành khảo
sát 127 NCT sống tại các TTDL tại Hà Nội: Trung tâm
chăm sóc người cao tuổi Nhân Ái, TTDL Diên Hồng và
Trung tâm bảo trợ Xã hội 3 vào tháng 8-10/2017 bằng
nhiều phương pháp nghiên cứu như: Điều tra bằng bảng
hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát và thống kê toán học, sử
dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 để xử lí số liệu.
Thang đo gồm 5 mức độ, với mức điểm trung bình
(ĐTB) từ 1 đến 5 điểm. Khoảng cách giữa các mức độ
của thang đo là: (5 - 1)/5 = 0,8 điểm. Cụ thể 5 mức độ
của thang đo như sau: Mức rất thấp: 1 < ĐTB < 1,8; Mức
thấp: 1,8 < ĐTB < 2,6; Mức trung bình: 2,6 < ĐTB < 3,4;
Mức khá: 3,4 < ĐTB < 4,2; Mức cao: 4,2 < ĐTB ≤ 5.
2.2. Kết quả nghiên cứu như sau:
2.2.1. Đánh giá của NCT sống trong các TTDL về mối
quan hệ của họ với gia đình, họ hàng. Kết quả khảo sát
về đánh giá của NCT sống trong các TTDL về mối quan
hệ với gia đình, họ hàng được phản ánh qua biểu đồ 1:
Biểu đồ 1. Đánh giá chung của NCT
sống trong các TTDL về mối quan hệ với gia đình, họ hàng
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ĐTB của toàn thang đo
là 2,19. Với mức điểm này, mối quan hệ với gia đình và họ
hàng của NCT sống trong TTDL ở mức thấp. Sở dĩ có kết
quả như vậy là do hoàn cảnh sống của họ tách biệt với gia
đình, họ hàng, người thân nên mối quan hệ với gia đình, họ
hàng không được khăng khít, gắn bó như trước. Sống ở đây,
NCT không được tiếp xúc, trò chuyện thường xuyên với
người thân nên khiến các cụ có phần bị ức chế về mặt tinh
thần, có cảm giác tủi thân, bị bỏ rơi. Mặc dù, các cụ rất nhớ
nhà, nhớ con, nhớ cháu, nhớ anh chị em, bà con họ hàng
và muốn về thăm nhà hay gọi điện thoại trò chuyện, hỏi
thăm nhưng không có đủ điều kiện để thực hiện. Điều đó
2.13
2.58
2.09 1.96
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
Vợ/chồng Con, cháu Anh, chị, em Bà con, họ
hàng
Mối quan hệ với gia đình, họ hàng của NCT
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 422 (Kì 2 - 1/2018), tr 12-14
13
khiến NCT sống trong TTDL đánh giá thấp về mối quan hệ
giữa họ với gia đình và họ hàng.
Trong các mối quan hệ với gia đình và họ hàng, mối
quan hệ với các con, cháu có ĐTB cao nhất, với 2,58
điểm. Xếp thứ hai là mối quan hệ với vợ/chồng có ĐTB
là 2,13. Xếp thứ ba là mối quan hệ với anh, chị, em có
ĐTB là 2,09 và xếp cuối cùng là mối quan hệ với bà con,
họ hàng có ĐTB là 1,96.
Tìm hiểu mức độ về thăm gia đình, họ hàng của NCT,
khi được hỏi “Ông/bà có thường xuyên về thăm gia đình
không?”, kết quả thu được như sau (xem bảng 1):
Bảng 1. Mức độ về thăm gia đình của NCT
sống trong trung tâm
STT
Mức độ về thăm
gia đình
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Thứ
bậc
1
Rất thường xuyên
(hàng ngày)
2 1,57 5
2
Thường xuyên
(mỗi tuần một lần)
9 7,08 4
3
Thỉnh thoảng
(mỗi tháng một lần)
21 16,53 3
4
Hiếm khi
(vài tháng một lần)
29 22,83 2
5 Không bao giờ 66 51,99 1
Tổng số 127 100
Bảng 1 cho thấy: Chỉ có một tỉ lệ rất nhỏ NCT được
hỏi cho rằng, mình thường xuyên về thăm gia đình, họ
hàng (9/127 người; chiếm 7,08%), trong đó chỉ có 2
người (chiếm 1,57%) cho rằng, mình rất thường xuyên
về thăm gia đình, họ hàng. Có hơn một nửa số NCT
không bao giờ về thăm gia đình, họ hàng (66/127 người,
chiếm 51,99%), biểu hiện này chiếm vị trí cao nhất. Có
21/127 NCT (chiếm 16,53%) là thỉnh thoảng về thăm gia
đình, họ hàng, còn lại 22,83% NCT hiếm khi về thăm gia
đình, họ hàng. Trước thực trạng này, chúng tôi đã tìm
hiểu lí do và thu được kết quả như sau:
- Đối với NCT thường xuyên về thăm gia đình, họ
hàng thường là những người sống bán trú tại trung tâm.
Buổi sáng con cháu đưa vào trung tâm, chiều đón về gia
đình, cuối tuần ở lại gia đình. Bà Đỗ Thị C (73 tuổi) sống
bán trú tại trung tâm cho biết: “Ở nhà buồn lắm, ông nhà
tôi mới mất được 3 tháng, con cháu thì đi làm, đi học tối
mới về. Buổi sáng con tôi đưa vào, chiều đón về. Vào đây
nói chuyện với mọi người một lúc thì đến giờ ăn cơm
trưa. Ăn xong ngủ một giấc, dậy trò chuyện với mọi
người, rồi tắm giặt xong là đến giờ con tôi đón. Tối về
ăn, ngủ tại gia đình, Tôi thấy như vậy vui và hợp lí, vì
vừa có nhiều bạn để trò chuyện, lại vừa được gần con,
cháu”. Một số NCT khác thì sống trong trung tâm từ thứ
hai đến thứ sáu, cuối tuần con cháu đến đón về nhà. Một
số NCT khác còn khỏe mạnh; nhà ở gần trung tâm, đi lại
thuận lợi; con cháu thường xuyên đến đón về thăm gia
đình. Ông Lê Văn H (69 tuổi) cho biết: “Nhà tôi cách
đây có 2km, cuối tuần con, cháu tôi vào đón về nhà, thứ
hai lại vào. Nếu con, cháu bận không đưa, đón được thì
tôi đi xe bus, tôi còn khỏe tự đi được, nhưng mà chúng nó
hiếm khi để cho tôi tự đi một mình lắm vì không yên tâm”.
- Đối với NCT ít hoặc không bao giờ về thăm gia
đình thì có rất nhiều lí do như: Con cháu không đến đón;
trung tâm không cho về; không có tiền; sức khỏe yếu, đi
lại khó khăn, Trong những lí do trên, đáng chú ý là lí
do con, cháu không đến đón. Qua phỏng vấn sâu, chúng
tôi được biết, đối với nhiều NCT thì con cháu ít khi cho
họ về thăm gia đình, họ hàng bởi đa số các cụ đều rất yếu,
không tự đi lại được, phải có sự hỗ trợ của các nhân viên
điều dưỡng hoặc dùng xe lăn, Bên cạnh đó, họ còn
mắc một số bệnh mãn tính phải điều trị và bị nhiều bệnh
cùng một lúc. Do vậy, họ không có đủ điều kiện để về
thăm gia đình. Hơn nữa, nhiều NCT cho rằng, đi lại nhiều
sẽ gây phiền hà cho con cháu (mặc dù họ rất muốn về
thăm gia đình). Cụ bà Trương Thị H (77 tuổi - TTDL
Diên Hồng) cho biết “Tôi nhớ nhà, muốn về lắm nhưng
mỗi lần đi lại tốn tiền taxi, phải có người đỡ lên tầng 2,
phiền lắm. Nên từ hồi vào đây, 9 tháng rồi tôi chưa về
nhà”, hay “Tôi cũng thích về nhà, nhưng mỗi lần về con
cháu lại vất vả, chúng nó đi làm cả tuần, cuối tuần mình
về lại làm phiền chúng, dù nhớ nhà nhưng ở đây cũng
thoải mái, không phiền đến con, cháu” (Bà Trần Thị L,
82 tuổi - Trung tâm chăm sóc người cao tuổi Nhân Ái).
Bên cạnh việc tìm hiểu mức độ về thăm gia đình, họ
hàng của NCT sống trong các TTDL, chúng tôi còn đi sâu
tìm hiểu gia đình, họ hàng đến thăm NCT ở các mức độ.
Khi đưa ra câu hỏi “Trong gia đình, họ hàng, ai là người
hay đến thăm ông/bà nhất?”, kết quả thu được ở bảng 2:
Bảng 2. Mức độ vào thăm NCT của gia đình, họ hàng
STT Mức độ vào thăm ĐTB Thứ bậc
1 Vợ/chồng 2,71 2
2 Các con, cháu 2,93 1
3 Anh, chị, em 2,33 3
4 Bà con, họ hàng 2,15 4
ĐTB chung 2,53
Bảng 2 cho thấy, ĐTB của toàn thang đo là 2,53. Mức
điểm này cho thấy: mức độ gia đình, họ hàng đến thăm
NCT sống ở trung tâm ở mức thấp. Qua phỏng vấn sâu
một số nhân viên điều dưỡng, phục vụ của trung tâm,
chúng tôi được biết một số NCT sau khi được gia đình
đưa vào TTDL thì rất ít đến thăm nom. Con, cháu dường
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 422 (Kì 2 - 1/2018), tr 12-14
14
như phó mặc cho trung tâm, ít quan tâm đến bố, mẹ, ông,
bà của mình. Chị Hồ Thị M (32 tuổi, điều dưỡng viên của
TTDL Diên Hồng) cho biết: “Ở trung tâm có một số cụ
5-6 tháng chẳng thấy gia đình, con cháu, họ hàng đến
thăm, các cụ buồn lắm”. Cụ bà Nguyễn Thị D (75 tuổi -
Trung tâm chăm sóc người cao tuổi Nhân Ái) cho biết:
“Con cháu tôi thỉnh thoảng mới vào thăm, nó bảo tôi cứ
yên tâm ở đây, chúng nó còn phải đi làm, kiếm tiền để lo
cho tôi. Nó không bỏ mặc tôi đâu, vẫn quan tâm nhưng
mà bận không vào được”.
Trong gia đình, họ hàng của NCT thì con, cháu là
người thường xuyên đến thăm nom các cụ nhất (ĐTB =
2,93, xếp thứ 1). Tiếp theo, xếp thứ 2 là vợ/chồng của các
cụ (ĐTB = 2,71). Xếp thứ 3 là anh, chị, em của NCT
sống trong các TTDL (ĐTB = 2,33). Cuối cùng, xếp thứ
4 với ĐTB là 2,15 là bà con, họ hàng của họ.
2.2.2. Sự quan tâm của gia đình, họ hàng tới NCT sống
trong các TTDL. Để làm rõ hơn mối quan hệ của gia
đình, họ hàng với NCT sống trong các TTDL, chúng tôi
tiến hành khảo sát mức độ quan tâm của gia đình, họ
hàng với NCT, kết quả được thể hiện ở bảng 3:
Bảng 3. Biểu hiện sự quan tâm của gia đình,
họ hàng với NCT
STT Biểu hiện của sự quan tâm ĐTB
Thứ
bậc
1
Quan tâm đến các nhu cầu vật
chất (đóng tiền cho trung tâm, hỗ
trợ tài chính, đồ ăn, quần áo,)
3,26 1
2
Quan tâm đến các nhu cầu tinh
thần (mua sách báo, điện thoại,
ipad, máy tính, ti vi, gọi điện
thoại hỏi thăm,)
2,75 5
3
Đến chơi và hỏi thăm sức khỏe
hàng tuần
3,14 2
4 Đưa các cháu đến thăm 2,83 4
5
Gọi điện cho các cán bộ phục
vụ để hỏi thăm tình hình của
ông/bà hàng tuần
3,09 3
ĐTB chung 2,94
Với ĐTB là 2,94 cho thấy, mức độ quan tâm của gia
đình, họ hàng đối với NCT ở mức trung bình. Sự quan
tâm của gia đình, họ hàng thể hiện nhiều nhất ở việc quan
tâm đến các nhu cầu vật chất (đóng tiền cho trung tâm,
hỗ trợ tài chính, đồ ăn, quần áo,) với ĐTB = 3,26, tiếp
đến là đến chơi và hỏi thăm sức khỏe hàng tuần với ĐTB
là 3,14. Như vậy, việc quan tâm đến đời sống vật chất
cho NCT sống trong TTDL của gia đình, họ hàng là rất
cần thiết. Bởi vì, hầu hết NCT không có đủ tài chính để
trả chi trả phí sinh hoạt tại đây. Với những cụ không có
lương hưu sẽ nhờ vào số tiền tiết kiệm trước đây, nhờ sự
giúp đỡ của gia đình, họ hàng.
Về đời sống tinh thần, theo quy định của TTDL thì
NCT được phép dùng đài nhưng phải dùng tai nghe để
không ảnh hưởng đến người khác. Bên cạnh đó, hầu hết
các cụ đều tuổi cao, do nghe không rõ, mắt mờ nên ít cụ
sử dụng được điện thoại, hoặc không biết sử dụng điện
thoại, ít đọc sách báo. Hình thức giải trí của các cụ chủ
yếu là xem ti vi, mỗi phòng đều có ti vi để phục vụ nhu
cầu giải trí.
Như vậy, có thể thấy, các phương tiện để thỏa mãn
nhu cầu giao tiếp của NCT sống trong các TTDL còn
chưa được đáp ứng đầy đủ, điều đó có ảnh hưởng lớn đến
việc giao tiếp của họ.
3. Kết luận
Kết quả khảo sát cho thấy: NCT sống trong các
TTDL đánh giá mối quan hệ của họ với gia đình, họ hàng
là ở mức thấp. Trong đó, mối quan hệ với các con, cháu
có ĐTB cao nhất, tiếp đến là mối quan hệ với vợ/chồng,
tiếp theo là mối quan hệ với anh, chị, em và cuối cùng là
mối quan hệ với bà con, họ hàng. Có ít NCT thường
xuyên về thăm gia đình, họ hàng. Có hơn một nửa số
NCT được hỏi đều cho rằng họ không bao giờ về thăm
gia đình, họ hàng. Điều này có ảnh hưởng lớn đến tâm lí,
quá trình giao tiếp của NCT sống trong các TTDL.
Bên cạnh đó, sự quan tâm của gia đình, họ hàng thể
hiện nhiều nhất ở nhu cầu vật chất (như đóng tiền cho
trung tâm, hỗ trợ tài chính, đồ ăn, quần áo,). Tuy nhiên,
việc quan tâm đến đời sống tinh thần cho NCT sống tại
TTDL cũng gặp những khó khăn nhất định.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Quốc Anh (2007). Người cao tuổi Việt Nam.
NXB Hồng Đức.
[2] Phạm Khắc Chương (2006). Văn hóa ứng xử trong
gia đình. NXB Thanh niên.
[3] Nguyễn Xuân Cường - Lê Trung Sơn (2004). Thực
trạng người cao tuổi và các giải pháp nâng cao chất
lượng chăm sóc người cao tuổi ở Hà Tây. Tạp chí
Dân số và Phát triển, số 3.
[4] Đặng Vũ Cảnh Linh (2009). Người cao tuổi và các mô
hình chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam. NXB Dân trí.
[5] Alan Walker - Catherine Hagan Hennessy (2004).
Growing older - Quality of life in old age. Open
University Press.
[6] Bowling A (1998). Models of quality of life in older
age. Aging Well, Open University Press.
[7] Robert C.A. (2000). Social forces and aging - An
introduction to social gerontology. Ninth edition,
Warsworth.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_moi_quan_he_gia_dinh_ho_hang_toi_giao_tiep_cua.pdf