Lê Thị Bích Thủy (2013) tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và hình ảnh
cộng hưởng từ ở BN TVĐĐ CSTL có hội
chứng chuyển hóa”, kết quả cho thấy tỷ lệ các
triệu chứng trong hội chứng chuyển hóa là:
tăng trigricerid 93,7%, tăng vòng bụng 79,2%,
giảm HDL-C 79,2%, tăng huyết áp 47,9%,
tăng glucose máu 14,6%. Số BN TVĐĐ CSTL
có hội chứng chuyển hóa được cấu tạo từ 3
triệu chứng chiếm tỷ lệ cao nhất (87,5%), đó
à: tăng vòng bụng, tăng trigricerid, HDL-C
thấp.
Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu về vai trò của
cholesterol toàn phần, triglycerid và các yếu tố
nguy cơ khác của vữa xơ động mạch trong
bệnh TVĐĐ CSTL. Đây là một hướng tư duy
mới và ý tưởng khoa học này cần được triển
khai nghiên cứu nhiều hơn trong thời gian tới .
9 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 558 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của một số yếu tố nguy cơ tim mạch, chuyển hóa đối với thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng - Một hướng tư duy mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 3-2015
114
ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH,
CHUYỂN HÓA ĐỐI VỚI THOÁT VỊ ĐĨA ĐỆM
CỘT SỐNG THẮT LƢNG - MỘT HƢỚNG TƢ DUY MỚI
ý*; Ng yễn Văn C ương**
TÓM TẮT
Cơ sở bệnh sinh đầu tiên của thoát vị đĩa đệm (TVĐĐ) cột sống là thoái hoá cột sống. Có
nhiều yếu tố bất lợi khiến đĩa đệm cột sống rất dễ thoaí hoá. Đầu tiên phải kể đến quá trình lão
hoá theo tuổi, sau đó là tình trạng chịu đựng tải trọng lâu dài (mang trọng lượng của cả cơ thể
và các trọng lượng bổ sung trong sinh hoạt vầ lao động suốt đời), thêm vào đó tình trạng bệnh
lý của bản thân đĩa đệm mà con người mắc phải trong đời như viêm, u, chấn thương Tình
trạng cung cấp máu cho đĩa đệm rất nghèo nàn, chỉ có các mạch máu rất nhỏ cung cấp máu
cho cả cột sống, tuỷ sống và các cấu trúc phần mềm cạnh sống. Ngặt nghèo hơn là phương
thức nuôi dưỡng đĩa đệm. Đĩa đệm chỉ được nuôi dưỡng bằng phương thức thầm thấu chất
dinh dưỡng qua các mâm sụn. Như vậy, khi cột sống mang tải, áp lực nội đĩa đệm tăng, tình
trạng nuôi dưỡng đĩa đệm sẽ xấu đi rõ rệt. Trong hoàn cảnh dinh dưỡng khó khăn bất lợi như
vậy, nếu hệ thống mạch nuôi lại bị vữa xơ thì tốc độ thoái hoá đĩa đệm càng tăng và nguy cơ
TVĐĐ càng lớn. Gần đây, nhiều tác giả trên thế giới đề cập đến ảnh hưởng của vữa xơ động
mạch tới TVĐĐ. Bài viết tổng hợp các thông tin về mối liên quan giữa yếu tố nguy cơ vữa xơ
động mạch với TVĐĐ cột sống thắt lưng (CSTL).
* Từ khóa: Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng; Yếu tố nguy cơ tim mạch; Chuyển hóa.
The Influences of some Cardiovascular, Metabolic Risk Factors on
Lumbar Intervertebral Disc Herniation
Summary
The first basis in pathophysiology of intervertebral disc herniation is degeneration. There are
many risks, that increases degeneration of human. Firstly, the age relevant degeneration, then
the continuous wearing of body weight and supplementary weight during the life, additionally
many acquiered disc diseases in the life. Especially, the blood supply and the nutrition of the
discs are very poor, there are only small arteries advaiable, then the manner of nutrition though
diffusion. Therefore, nowaday many articles are written on the relation between the disc
herniation and the atherosclerosis risks. This article collects the opinions of authors in relation of
atherosclerosis risks with lumbar intervertebal disc herniation - A New distention of thinking.
* Key words: Intervertebral disc herniation; Cardiovascular risk factors; Metabolism.
* Bệnh viện 198
** Bệnh viện Quân y 103
Người p ản ồi (Corresponding): õ úy (lethanhbinhkts@gmail.com)
Ngày n ận bài: 30/01/2015; Ngày p ản bi n đán giá bài báo: 11/02/2015
Ngày bài báo được đăng: 26/02/2015
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 3-2015
115
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng là bệnh
có tính thời sự trong lĩnh vực y học cũng như
trong Chuyên ngành Thần kinh. Tại Hoa Kỳ, tỷ
lệ bệnh TVĐĐ là 1,6%, tại Anh là 2,2% và
Phần Lan là 1,2%. Năm 1984, ước tính tổn
thất do TVĐĐ khoảng 21 tỷ USD.
Ở Việt Nam, tỷ lệ BN TVĐĐ CSTL tương
đối cao. Thống kê cơ cấu bệnh 10 năm của
Hồ Hữu Lương cho thấy TVĐĐ CSTL chiếm
23% BN điều trị tại Khoa Nội Thần kinh, Bệnh
viện Quân y 103 [11]. Gần đây, tỷ lệ mắc
TVĐĐ CSTL có xu hướng gia tăng. Theo
Nguyễn Văn Chương và CS, tỷ lệ BN TVĐĐ
CSTL trên tổng số BN điều trị nội trú tại Khoa
Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103 trong 10
năm ( 2004 - 2013) là 30,69%, thậm chí năm
cao nhất là 40,12%.
Bệnh thường xảy ra ở những người trong
độ tuổi lao động, hậu quả làm giảm, mất khả
năng lao động, ảnh hưởng nhiều tới kinh tế xã
hội. Do đặc điểm cấu tạo và nuôi dưỡng của
đĩa đệm cũng như hoạt động chức năng của
đĩa đệm-cột sống có những bất lợi cho chính
bản thân đĩa đệm, làm cho quá trình thoái hóa
đĩa đệm xảy ra nhanh và sớm từ những năm
đầu đời. Nghiên cứu về bệnh TVĐĐ cột sống,
các tác giả cho rằng cơ chế bệnh sinh của
TVĐĐ có liên quan rất nhiều tới quá trình
thoái hóa đĩa đệm. Đĩa đệm được nuôi dưỡng
thông qua thẩm thấu là chính, nên sự hoàn
thiện của mạch máu nuôi dưỡng cột sống có
vai trò rất lớn tới quá trình TVĐĐ. Quá trình
vữa xơ của những động mạch này có ý nghĩa
trong cơ chế bệnh sinh TVĐĐ. Vì vậy, vấn đề
được đặt ra là liệu các yếu tố nguy cơ của
vữa xơ động mạch có ảnh hưởng ở chừng
mực nào tới mức độ phơi nhiễm cũng như
lâm sàng của TVĐĐ CSTL và khả năng dự
phòng TVĐĐ CSTL thông qua ngăn ngừa và
điều trị có hiệu quả các yếu tố nguy cơ vữa xơ
động mạch có ý nghĩa như thế nào trong thực
tế?. Gần đây, các nhà nghiên cứu Mỹ đã đề
cập đến vai trò của cholesterol toàn phần và
triglycerid trong bệnh TVĐĐ CSTL. BN có
tăng lipid máu thường có bảng lâm sàng nặng
nề hơn những BN khác.
Như vậy, còn các yếu tố khác như: tuổi,
trọng lượng cơ thể, nồng độ đường huyết, chỉ
số huyết áp... ảnh hưởng như thế nào tới tình
trạng lâm sàng của TVĐĐ CSTL?. Điều này
còn là dấu hỏi lớn cần được nghiên cứu nhiều
hơn nữa.
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ CHỨC NĂNG
CỦA ĐĨA ĐỆM
Đĩa đệm là thành phần cấu trúc không
xương nằm trong khoang gian sống, bao gồm:
mâm sụn, vòng sợi và nhân nhày. Cột sống
con người không chỉ chịu những lực tĩnh trong
quá trình vận động mà còn phải gánh chịu
nhiều lực động. Do đó, cột sống vừa có khả
năng đứng trụ vững chắc cho cơ thể lại vừa
rất linh động có thể xoay chuyển về tất cả các
hướng.
Đĩa đệm tham gia vào vận động của cột
sống với vai trò là một tổ chức có khả năng
biến dạng. Bằng sự kết hợp đặc tính chịu nén
ép có giới hạn của đĩa đệm với sức co giãn
của khớp nhỏ đốt sống đã tạo cho cột sống có
một trường vận động nhất định. Trên cơ sở
của sức đàn hồi lớn, các đĩa đệm có chức
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 3-2015
116
năng “giảm xóc”, làm giảm nhẹ chấn động
theo dọc trục cột sống do trọng tải.
Nhân nhày đảm nhận chức năng như một
bọc chứa dịch lỏng, có khả năng chuyển tiếp
các lực dọc trục để trải đều và cân đối tới
mâm sụn và vòng sợi. Qua kết quả nghiên
cứu đồ thị về lực nén ép và lực xô dồn trở lại
của đĩa đệm, Hartmann (1970) đã kết luận:
trương lực tổ chức của nhân nhày đã giữ cho
các thớ của vòng sợi một trương lực nhất
định. Khi trương lực tổ chức tăng, các thớ sợi
của vòng sợi sẽ chịu được độ căng lớn hơn,
nên độ căng duỗi cũng sẽ tăng lên. Khi trọng
tải không cân đối, tổ chức nhân nhày sẽ di
chuyển về phần đĩa đệm chịu lực trọng tải ít
hơn, nghĩa là khi cúi xuống, nhân nhày trượt
về phía sau, khi ưỡn lưng thì chuyển dịch ra
trước và khi nghiêng người chúng lại chạy
sang bên đối diện. Sự chuyển dịch mạnh nhất
trong 3 giây đầu với tốc độ 0,6 mm/phút, nếu
vẫn giữ nguyên nén ép không cân đối này thì
nhân nhày sẽ tiếp tục chuyển động về phía
bên nửa đĩa đệm ít chịu trọng tải hơn với tốc
độ nhỏ hơn và kéo dài trong nhiều giờ sau.
Khi cột sống bắt buộc phải duy trì lâu ở tư thế
đứng liên tục với trọng tải không đều, nhân
nhày bị đè ép, bè ra dần dần làm tăng độ giải
toả lực theo hướng ly tâm, gây nên triệu
chứng đau do đĩa đệm. Khi tuổi càng cao, khả
năng chuyển dịch của tổ chức đĩa đệm giảm
tính linh động trung tâm.
Trên cơ sở của khả năng chuyển dịch sinh
lý vốn có của nhân nhày và đặc tính chun giãn
của vòng sợi, đĩa đệm đã thể hiện đúng là một
hệ thống sinh cơ học và có tính thích ứng,
đàn hồi cao, có tính chịu đựng đối với trọng tải
lớn của cột sống, nếu trương lực tổ chức và
lực căng của nó còn ở trạng thái bình thường.
Chính nó đã được điều vận một cách linh hoạt
hai đặc tính vừa thích ứng, vừa đề kháng để
tạo nên sức chống đỡ cho thân đốt sống
trước những tác động của chấn thương.
Nhưng nếu do rạn rách hoặc giập nát nên
vòng sợi đã mất đặc tính đàn hồi, làm cho
nhân nhày dễ thoát ra khỏi giới hạn sinh lý,
tuỳ theo mức độ tổn thương khác nhau, đĩa
đệm lại trở thành đối tượng dễ bị tổn thương
nhất.
1. Đặc điểm mạch máu nuôi dƣỡng đĩa
đệm
CSTL, tủy sống và các rễ thần kinh được
cung cấp máu bởi các nhánh động mạch
chạy dọc và động mạch tiết đoạn. 3 động
mạch chạy dọc chính là động mạch tủy sống
trước và hai động mạch tủy sống sau.
* Các động mạch dọc tủy sống:
- Động mạch tủy sống trước: là một động
mạch nhỏ, tách ra từ động mạch đốt sống đi
xuống ở phía trước hành tủy để kết hợp với
nhánh bên đối diện tạo thân chung, thân
chung tiếp tục đi xuống trên mặt giữa, trước
của tủy sống và được tiếp ứng bởi chuỗi
mạch nối các động mạch đoạn tủy trước. Các
động mạch đoạn tủy trước là những nhánh
của nhánh tủy sống (từ ngoài đi vào ống sống
qua các lỗ gian đốt sống) của nhiều động
mạch: động mạch đốt sống, động mạch thắt
lưng. Mỗi động mạch đoạn tủy khi đi vào đến
khe giữa trước tủy chia thành hai nhánh lên
và xuống, những nhánh này tiếp nối với nhau
thành chuỗi mạch dọc. Các nhánh trung ương
của động mạch tủy sống trước cấp máu cho
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 3-2015
117
2/3 trước tủy sống và phần trước thân đốt
sống.
- Động mạch tủy sống sau: bắt nguồn tực
tiếp từ động mạch đốt sống cùng bên hoặc từ
động mạch tiểu não dưới sau. Nó đi xuống và
chia thành hai nhánh đi trong rãnh bên sau
của tủy sống, trên đường đi xuống, nó được
tiếp ứng bởi hàng loạt các động mạch đoạn
tủy sau, riêng nhánh trước của nó còn nhận
được nhánh đến từ động mạch Adamkiewicz.
Động mạch tủy sống sau cấp máu
* Các động mạch ngang đoạn tủy:
Xuất phát từ các nhánh tủy sống. Mỗi
nhánh tủy sống đi vào ống sống qua lỗ gian
đốt sống và chia thành:
- Các nhánh rễ trước và sau cung cấp máu
cho rễ trước và rễ sau của thần kinh sống.
- Các động mạch đoạn tủy: đi thẳng tới
mạch dọc để tiếp nối và tăng cường cho
những động mạch này và cùng nhau tạo
nên đám rối màng mềm trên bề mặt tủy
sống. Động mạch đoạn tủy lớn nhất là động
mạch Adamkievicz, động mạch này được
tách ra từ một nhánh tủy sống hoặc là một
trong các động mạch gian sườn sau phía
dưới hoặc của động mạch dưới sườn hoặc
ít gặp hơn của động mạch thắt lưng (L1 và
L2). Nó phát sinh hầu hết ở bên trái, chỉ
khoảng 30% ở bên phải, khi đi tới tủy sống,
nó tách ra một nhánh đi tới động mạch tủy
sống trước và một nhánh khác nối với
nhánh của động mạch tủy sống sau. Nó có
thể là nguồn cung cấp máu chính cho 2/3
dưới của tủy sống thắt lưng cùng. Ngoài ra,
còn có các động mạch trực tràng - giữa,
động mạch thắt lưng tham gia tưới máu cho
vùng CSTL.
Mạch máu từ mạng lưới mạch ở bên ngoài,
đặc biệt từ khu vực lỗ liên đốt sống chạy ngay
vào trong vòng sợi rồi toả vào những lá mỏng,
tạo nên mạng lưới mao mạch giữa lá mỏng,
nhưng không bao giờ tới lớp trong của vòng
sợi và nhân nhày (Tondury, 1958). Do đó, ở
khu vực trung tâm của khoang gian đốt sống,
ngay từ lúc đầu chỉ được nuôi dưỡng lan toả,
trái lại, ở mâm sụn, mạch máu được phân bố
tốt. Đó là sự khác biệt về phân bố mạch máu
ở vùng rìa với vùng trung tâm, càng đi vào
trung tâm của đĩa đệm, lá mỏng của vòng sợi
lại càng giảm về số lượng và lại càng kém về
độ chắc đến mức những chất cơ bản không
cấu trúc chiếm ưu thế ở trong nhân keo ở thời
kỳ phát triển cuối cùng. Những sợi và tế bào
tổ chức liên kết do chất cơ bản sinh ra ở vòng
sợi chỉ được nuôi dưỡng bằng mạch máu cho
tới hai tuổi (Tondry, 1955), sau đó mạch máu
bị thoái hoá đến mức vòng sợi của trẻ em bốn
tuổi đã không tìm thấy mạch máu nào ở đó
nữa. Cho đến nay, người ta vẫn không thể
giải thích được sự thoái hoá này. Khoang gian
sống giàu tế bào và sợi, ở đó diễn ra liên tiếp
quá trình xây dựng và phân huỷ phân tử, nên
đòi hỏi ở đĩa đệm người một kiểu phân bố
mạch máu đặc biệt. Tổ chức đĩa đệm là chất
keo thuần nhất, có đặc tính lý học của chất
lỏng và áp lực trong đĩa đệm lại biến đổi theo
tư thế của thân đốt, nên mạch máu ở đây
thường xuyên bị chèn ép. Do đó, đĩa đệm rất
dễ bị rối loạn chuyển hoá. Có thể nói: “Sự
nuôi dưỡng xấu ở đĩa đệm không những chỉ
làm suy giảm chất lượng mà còn đến cả số
lượng, của những tổ chức liên kết và tổ chức
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 3-2015
118
tựa đỡ ở khoang gian đốt sống”. Như vậy, đủ
thấy ngay ở thời kỳ bào thai, tổ chức đĩa đệm
đã bị chèn ép, hạn chế nuôi dưỡng.
Quá trình vữa xơ động mạch chủ bụng
thường phát triển ở ngã ba phân nhánh của
động mạch chủ, nó có thể làm tắc động mạch
tưới máu vùng CSTL. Do cấp máu vùng CSTL
theo nguyên lý phân đoạn và hình thành
mạng lưới mao mạch bên, khi động mạch
nuôi dưỡng hẹp tắc sẽ dẫn đến gia tăng cấp
máu qua mạng lưới mao mạch bên, nhưng
các nhánh bên này phát triển rất chậm, không
đáp ứng đủ nhu cầu bình thường. Cản trở lưu
thông dòng máu qua động mạch cột sống gây
rối loạn dinh dưỡng đĩa đệm: giảm oxy và dự
trữ dinh dưỡng trong đĩa đệm, phá hủy các
sản phẩm trao đổi chất của đĩa đệm. Mặc dù
các tế bào đĩa đệm có thể sống sót trong điều
kiện thiếu oxy và độ pH thấp, nhưng khả năng
hoạt động của chúng bị giảm rất nhanh
chóng, tạo điều kiện cho quá trình thoái hóa
đĩa đệm.
2. Đặc điểm dinh dƣỡng đĩa đệm.
Đĩa đệm được nuôi dưỡng bằng hiện
tượng khuếch tán (Schmorl, 1932), các chất
liệu được chuyển hóa từ khoang tủy của thân
đốt sống qua lỗ sàng bề mặt thân đốt và lớp
canxi dưới mâm sụn để dinh dưỡng cho
khoang đốt sống. Do được tưới máu bằng
phương thức khuếch tán, nên chất lượng nuôi
dưỡng đĩa đệm kém, đĩa đệm trở thành loại
mô dinh dưỡng chậm điển hình, loạn dưỡng
và thoái hóa đĩa đệm xuất hiện sớm ở người.
Như vậy, đĩa đệm thoái hóa đã hình thành
một tình trạng sẵn sàng bị bệnh và hiện tượng
thoái hóa này diễn ra liên tục trong suốt đời
người, chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố
bên trong và bên ngoài như: miễn dịch, dinh
dưỡng, nghề nghiệp, chế độ vận động, chấn
thương, vi chấn thương, nhiễm khuẩn
Đĩa đệm được nuôi dưỡng bằng hình thức
thẩm thấu, tổ chức biên giới của đĩa đệm có
đặc tính của một màng bán thấm, vòng sợi và
tấm sụn có cấu trúc mắt lưới siêu hiển vi, chỉ
có những phần tử nhỏ mới lọt qua được.
Mariodas (1975) và Urban (1976) đã chứng
minh: glucoza khuyếch tán vào đĩa đệm chủ
yếu qua tấm sụn, ion sulfat, nước và một số
chất cặn chuyển hóa khuếch tán qua vòng
sợi. Hàng rào thẩm thấu của tấm sụn và vòng
sợi đã phân chia tổ chức đĩa đệm thành hai
khoang: khoang trong đĩa đệm và khoang
ngoài đĩa đệm. Ở khoang ngoài đĩa đệm, áp
lực mô bình thường chỉ có vài mmHg, còn ở
trong khoang đĩa đệm, áp lực tăng cao, tùy
thuộc vào tư thế và trọng tải phải gánh, nhưng
phần tử lớn ở khoang bên trong đĩa đệm có
khả năng hút nước mạnh tạo nên áp lực keo
đủ để cân bằng áp lực tải trọng, giữ cho đĩa
đệm không bị khô kiệt và có khả năng trỗi dậy
mạnh mẽ khi bị nén ép. J. Kramer nghiên cứu
bằng chất phóng xạ và chất màu đã chứng
minh áp lực trọng tải tăng trên 80 kg sẽ dẫn
đến phân tán dịch lỏng ra khỏi đĩa đệm. Như
vậy, tình trạng nuôi dưỡng đĩa đệm luôn có
những bất lợi do áp lực trọng tải mà bản thân
đĩa đệm phải gánh chịu và chất lượng nuôi
dưỡng đĩa đệm vốn đã nghèo nàn.
3. Thoái hóa đĩa đệm.
Quá trình thoái hoá đĩa đệm đã hình thành
và bắt đầu từ những năm đầu của tuổi đời. Do
đó, trên thực tế rất khó phân biệt được quá
trình thoái hoá sinh học với thoái hoá bệnh lý.
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 3-2015
119
Trong quá trình phát triển cá thể, thoái hoá
sinh lý ở đĩa đệm thắt lưng diễn ra rất sớm.
Tới những năm đầu của tuổi ngoài 30 đã xuất
hiện biến đổi thoái hoá về cấu trúc và hình
thái đĩa đệm. Quá trình thoái hoá đĩa đệm
tăng dần theo tuổi, diễn biến từ từ suốt cả
cuộc đời và có những giai đoạn không biểu
hiện lâm sàng. Do nhiều yếu tố bên trong và
bên ngoài tác động, thoái hoá tiến triển nhanh
hơn, trở thành thoái hoá bệnh lý. Nhiều tác
giả cho rằng TVĐĐ là một “đột biến”, một giai
đoạn của quá trình thoái hoá bệnh lý của đĩa
đệm.
Đĩa đệm còn nguyên vẹn có thể chịu đựng
được những chấn thương mạnh và trọng tải
lớn. Chỉ khi đĩa đệm bị thoái hoá tới một giai
đoạn nhất định thì TVĐĐ mới mới có những
điều kiện sinh - cơ học để xuất hiện. Khi đó,
chỉ cần một lực chấn thương nhẹ hoặc một
tác động của trọng tải nhẹ, không cân đối
cũng có thể gây TVĐĐ.
Khi tổ chức vòng sợi bị suy yếu, những tác
động trọng tải lên cột sống đã trở thành quá
sức chịu đựng, dẫn đến giập nát các sợi, làm
cản trở chuyển dịch lớn trong đĩa đệm. Đĩa
đệm bị rạn nứt, mất đàn hồi nên không còn
khả năng, đảm nhiệm chức năng làm giảm
chấn động và chức năng của một khớp bán
động đoạn vận động cột sống nữa. Trong điều
kiện nuôi dưỡng kém, khả năng thích nghi của
đĩa đệm bị giảm sút, các tổ chức liên kết và tổ
chức đỡ kém phát triển, nên chúng sớm bị
suy thoái. Vì vậy, những bệnh của đĩa đệm do
thoái hoá có thể xuất hiện ở lứa tuổi trẻ nhỏ.
Ở người, vào lứa tuổi 30, hầu như không còn
một cột sống nào nguyên vẹn, chưa có biến
đổi thoái hoá.
Klapp (1958), Exner (1954) đã mô tả
những thể nặng của bệnh thoái hoá, biến
dạng cột sống ở loài vượn dạng người có tư
thế đi đứng thẳng. Yamada (1962), Vassalev
và Dimova (1970) đã làm thực nghiệm cắt cụt
hai chân trước của chuột, buộc chúng phải đi
thẳng, 1 năm sau khi đi thẳng đã thấy xuất
hiện những thay đổi cấu trúc ở vòng sợi và
tấm sụn do áp lực trọng tải theo chiều dọc của
dáng đi đứng thẳng gây nên. Trẻ đang bú mẹ,
sự trao đổi chất diễn ra mạnh mẽ, thông qua
những mạch máu của đĩa đệm do cột sống,
chưa phải chịu đựng áp lực trọng tải đáng kể.
Khi ở tư thế đi đứng thẳng, điều kiện sinh - cơ
học ở khoang gian đốt sống đã thay đổi về cơ
bản. Mạch máu của đĩa đệm trực tiếp chịu áp
lực trọng tải, gồm: trọng lượng phần trên cơ
thể và trương lực cơ. Vì áp lực tĩnh mạch và
áp lực tiểu động mạch thấp hơn áp lực cân
bằng thuỷ tĩnh nên máu bị ép đẩy ra ngoài
hoặc không chảy vào đĩa đệm nữa. Các mạch
máu bị xẹp, dẫn tới teo đét dần và cuối cùng
mất đi. Việc đảm bảo nuôi dưỡng đĩa đệm
nhờ tuần hoàn trong khoang gian đốt trở nên
xấu đi, sự trao đổi chất qua mô đĩa đệm nhờ
cơ chế vận chuyển. Do đó, mô đĩa đệm trở
thành mô dinh dưỡng chậm do hậu quả của
cơ chế đứng thẳng của cột sống. Reichauer
(1994) đã viết một cách khái quát: “bệnh của
đĩa đệm là những hiến vật của con người phải
trả cho thiên năng dáng đi đứng thẳng”. Có
thể nói một cách khái quát: thoái hoá đĩa đệm
là nguyên nhân cơ bản bên trong, tác động cơ
họ,c là nguyên nhân khởi phát bên ngoài và
sự phối hợp của hai yếu tố này là nguồn phát
sinh TVĐĐ.
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 3-2015
120
4. Vai của vữa xơ động mạch đối với
TVĐĐ cột sống.
Quá trình vữa xơ động mạch được khởi
đầu bằng tổn thương lớp tế bào nội mô, các
yếu tố nguy cơ tim mạch - chuyển hoá chính là
tác nhân gây tổn thương lớp tế bào nội mô và
đóng một vai trò quan trọng trong bệnh lý vữa
xơ động mạch.
Năm 2006, Jhwa BS, Fuchs CS, Colditz GA,
Stampfer MJ thuộc Trường Y khoa Harvard
(Mỹ) đã tiến hành nghiên cứu đánh giá mối
liên quan giữa yếu tố nguy cơ tim mạch với
bệnh TVĐĐ CSTL. Các tác giả nghiên cứu
trên 98.407 BN TVĐĐ CSTL độ tuổi 30 - 55 và
đưa ra kết luận: xơ vữa động mạch có thể
được coi là yếu tố tham gia vào thoái hóa đĩa
đệm [10].
- Tăng huyết áp: là một trong những bệnh
l ý lâm sàng mà tổn thương lớp tế bào nội mô
mạch máu được xác nhận, trong khi tổn
thương lớp tế bào nội mô là mắt xích đầu tiên
trong chuỗi quá trình bệnh lý vữa xơ động
mạch. Theo chiều ngược lại, ảnh hưởng của
tổn thương lớp tế bào nội mô tới tăng huyết
áp vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nghiên
cứu của Shimbo và CS (2010) ở 3.500 người
cho thấy rối loạn chức năng nội mạc không có
vai trò gì trong tăng huyết áp. Tuy nhiên, một
điều chắc chắn là có mất cân bằng giữa giảm
sản xuất, giảm chức năng thụ thể của yếu tố
giãn mạch và gia tăng hình thành hoặc tăng
nhạy cảm với tác nhân co mạch. Tổn thương
nội mạc mạch máu cũng có thể đóng vai trò
chìa khoá trong phát triển tổn thương các cơ
quan của bệnh tăng huyết áp.
- Tăng đường máu: tăng đường máu có vai
trò quan trọng trong bệnh sinh biến chứng vi
mạch và mạch máu lớn trong đái tháo đường,
nhưng vẫn ít được biết là có liên quan đến
điều hoà các chất vận chuyển glucose ở tế
bào nội mạc mạch máu. Tăng đường máu
mạn tính ở đái tháo đường gây rối loạn chức
năng tế bào nội mạc mạch máu, đó là yếu tố
chính thúc đẩy phát triển các bệnh vi mạch và
bệnh mạch máu lớn. Robinson D, Mirovsky
Y, Halperin N, Evron Z, Nevo Z (1998) nghiên
cứu phẫu thuật lấy đĩa đệm và phân tích đặc
điểm của proteoglycans ở đĩa đệm L4-L5 trên
5 BN không mắc tiểu đường và 5 BN tiểu
đường. Kết quả cho thấy, nhóm chứng: tỷ lệ
35S-sulfate kết hợp trong phân tử
proteoglycan cao hơn 15 lần so với nhóm đái
đường, proteoglycan của nhóm đái đường
nằm trong dải tỷ trọng thấp, giảm số lượng
keratin sulfate. Các tác giả đi đến kết luận: đái
đường làm giảm tỷ trọng proteoglycan trong
đĩa đệm, gây ra những tổn thương đặc biệt có
thể dẫn tới TVĐĐ.
- Tăng lipid máu: các lipid, đặc biệt là LDL
đóng vai trò chính làm suy giảm chức năng
nội mạc mạch máu bằng việc giảm khả dụng
sinh học của NO và hoạt hoá con đường tín
hiệu về tiền viêm như: NF-κB. LDL cũng làm
giảm cấu trúc và chức năng các hốc. Việc hạ
thấp nồng độ cholesterol thông qua tăng hoạt
tính của NO, làm chức năng nội mạc mạch
máu được cải thiện đáng kể. Người ta thấy,
sau 3 ngày điều trị bằng statin hoạt tính NO
tăng, mà không ảnh hưởng đến lipid huyết
tương. Ngược lại, khi cholesterol máu tăng, các
sản phẩm thoái giáng mang đặc tính oxy hoá
của eNOS làm tổn thương nội mạc mạch máu
và thúc đẩy tiến trình vữa xơ động mạch. Điều
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 3-2015
121
này cho thấy tầm quan trọng của việc điều
chỉnh yếu tố nguy cơ của vữa xơ động mạch.
Bahram Jam (2009) nghiên cứu ảnh hưởng
của cholesterol huyết thanh đối với bệnh đau
lưng mạn tính, tác giả đi đến kết luận: những
BN có mức cholesterol LDL cao hơn sẽ có
triệu chứng thần kinh nặng hơn và phàn nàn
đau nhiều hơn so với những BN có mức
cholesterol LDL bình thường [9]. Umile
Giuseppe Longo, Luca Denaro, Filippo
Spiezia, Francisco Forriol, Nicola Maffulli,
Vincenzo Denaro (2011) nghiên cứu định
lượng lipid huyết thanh trên 2 nhóm BN, nhóm
1 gồm 169 BN sau phẫu thuật TVĐĐ CSTL
(nhóm bệnh), nhóm 2 gồm 169 BN sau phẫu
thuật nội soi cắt sụn chêm (nhóm chứng)
trong cùng một giai đoạn. Kết quả thu được
cho thấy nồng độ cholesterol, triglycerid huyết
thanh ở nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng có ý
nghĩa thống kê. Nồng độ lipid huyết thanh cao
có phải là yếu tố nguy cơ của TVĐĐ?.
- Thừa cân, béo phì: M. Like, S Solovieva,
A. Lamminen, K. Luoma, P. Leino-Arjas,
R. Luukkonen và H. Riihimäki (2005) nghiên
cứu 129 nam công nhân lứa tuổi trung niên,
chọn ra từ 1.832 công nhân làm việc trong
các chuyên ngành: lái máy công nghiệp, xây
dựng, văn phòng. Độ tuổi 40 - 45. Chụp MRI
lần 1, sau 4 năm chụp lại kiểm tra. Tiến hành
phân tích các chỉ tiêu nghề nghiệp, tiền sử lái
xe, hút thuốc, chấn thương vùng lưng. Kết
quả cho thấy: chỉ số BMI > 25 liên quan chặt
chẽ với TVĐĐ với biểu hiện giảm cường độ
tín hiệu của nhân đĩa đệm ở lần chụp sau (OR
= 4,3, độ tin cậy 95% 1,3 - 14,3). Thừa cân
tuổi trẻ có RR = 3,8, CI 95% 1,4 - 10,4 cao
hơn so với thừa cân ở lứa tuổi trung niên RR
= 1,3, CI 95% 0,7 - 2,7. Các tác giả kết luận:
BMI > 25 làm tăng nguy cơ TVĐĐ, thừa cân
tuổi trẻ là yếu tố nguy hiểm.
- Hút thuốc lá: Leino-Arjas P, Kauppila
L, Kaila-Kangas L, Shiri R, Heistaro
S, Heliövaara M (2008) nghiên cứu mối liên
quan giữa thoái hóa đĩa đệm, đau thần kinh
hông to và tăng lipid máu trên 8.028 BN ở lứa
tuổi > 30 được chẩn đoán đau thần kinh hông
to và kết luận: đau thần kinh hông to có liên
quan đến cholesterol toàn phần, cholesterol
LDL và triglycerid, tuổi, chỉ số BMI, chế độ thể
dục, hút thuốc lá, tình trạng công việc, học
tập.
Lê Thị Bích Thủy (2013) tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và hình ảnh
cộng hưởng từ ở BN TVĐĐ CSTL có hội
chứng chuyển hóa”, kết quả cho thấy tỷ lệ các
triệu chứng trong hội chứng chuyển hóa là:
tăng trigricerid 93,7%, tăng vòng bụng 79,2%,
giảm HDL-C 79,2%, tăng huyết áp 47,9%,
tăng glucose máu 14,6%. Số BN TVĐĐ CSTL
có hội chứng chuyển hóa được cấu tạo từ 3
triệu chứng chiếm tỷ lệ cao nhất (87,5%), đó
là: tăng vòng bụng, tăng trigricerid, HDL-C
thấp.
Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu về vai trò của
cholesterol toàn phần, triglycerid và các yếu tố
nguy cơ khác của vữa xơ động mạch trong
bệnh TVĐĐ CSTL. Đây là một hướng tư duy
mới và ý tưởng khoa học này cần được triển
khai nghiên cứu nhiều hơn trong thời gian tới .
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 3-2015
122
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Quang Bích. Phòng và chữa các bệnh
đau lưng. Nhà xuất bản Y học. 2006.
2. Tạ Văn Bình. Những nguyên lý nền tảng
bệnh đái tháo đường, tăng glucose máu. Nhà xuất
bản Y học. 2007.
3. Nguyễn Văn Chương. Tình hình nghiên cứu
TVĐĐ CSTL tại Bộ môn - Khoa Thần kinh, Bệnh
viện Quân y 103 - Học viện Quân y. Các báo cáo
Hội nghị khoa học. 2010.
4. Hồ Hữu Lương, Nguyễn Văn Chương, Cao
Hữu Hân. Cơ cấu bệnh tật tại Khoa Thần kinh,
Bệnh viện Quân y 103 trong 10 năm (1980 - 1990).
1991, tr.22-27.
5. Trịnh Văn Minh. Giải phẫu người, tập 3, hệ
thần kinh-hệ nội tiết. Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam.
6. Nguyễn Quang Quyền. Bài giảng giải phẫu
cột sống. Nhà xuất bản Y học, chi nhánh Thành
phố Hồ Chí Minh. 1993.
7. Lê Thị Bích Thủy. Nghiên cứu đặc điểm lâm
sàng, hình ảnh cộng hưởng từ ở BN TVĐĐ CSTL
có hội chứng chuyển hóa. Luận văn Thạc sỹ Y
học. Học viện Quân y. 2012.
8. Bộ Y tế, Bệnh viện Nội tiết Trung ương.
Chuyên đề nội tiết, chuyển hóa. Nhà xuất bản Y
học. 2008.
9. Bahram Jam. Serum cholesterol and chronic
low.back.pain,. ysicaltherapyweb.com//
Articles/serum cholesterol low back pain.php.
10. Jhawar BS, Fuchs CS, Colditz GA, Stamfer
MJ. Cardiovascular risk factors for physician-
diagnosed lumbar disc herniation. Spine J. 2006, 6
(6), pp.684-691.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_mot_so_yeu_to_nguy_co_tim_mach_chuyen_hoa_doi.pdf