KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ
phèn đến khả năng sinh trưởng của một số dòng/
giống lúa trong điều kiện nhân tạo cho thấy giống
lúa Huyết rồng có khả năng chịu được phèn tốt nhất
(cấp 3) trong nhóm dòng/giống lúa tham gia thí
nghiệm trong cùng điều kiện và được thể hiện thông
qua chiều cao cây: 56,8 cm và chiều dài rễ: 10,3 cm ở
nồng độ phèn 200 ppm, theo dõi sau 42 ngày.
Ngoài ra, các dòng triển vọng: M2, M4, M12 cũng
có khả năng chịu phèn (cấp 5), cây lúa tăng trưởng
chậm và có một vài chồi bị chết sau 42 ngày theo dõi
ở nồng độ phèn 200 ppm.
4.2. Đề nghị
Cần tiếp tục chọn lọc và làm thuần các dòng/
giống M2, M4, M12 để tiến tới công nhận giống
chính thức phục vụ sản xuất lúa cho các vùng trồng
lúa bị nhiễm phèn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của nồng độ phèn sắt đến khả năng sinh trưởng của một số dòng/giống lúa trong điều kiện nhân tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
28
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
Cục Bảo vệ thực vật, 2017. Giấy chứng nhận đăng ký
BVTV số 4967/CNĐKT-BVTV ngày 29/5/2017 của
Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật đối với thuốc trừ
cỏ Calaris Xtra 275SC của Công ty TNHH Syngenta
Việt Nam áp dụng trên cây ngô ở Việt Nam.
Cao Anh Đương, 2011. Một số điểm cần lưu ý trong
sản xuất mía đường ở tỉnh Tây Ninh. Tập san Thông
tin Khoa học công nghệ Tây Ninh, số 3/2011, trang
12-18.
Trần Văn Sỏi, 2003. Cây mía. NXB Nghệ An.
Nguyễn Huy Ước, 1994. Kỹ thuật trồng mía. NXB
Nông nghiệp.
Viện Nghiên cứu Mía đường, 2014. Kỹ thuật chăm sóc
mía tơ. Địa chỉ:
ngan-hang-kien-thuc/phan6.html. Ngày truy cập
02/4/2019.
ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ PHÈN SẮT ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG
CỦA MỘT SỐ DÒNG/GIỐNG LÚA TRONG ĐIỀU KIỆN NHÂN TẠO
Tạ Hồng Lĩnh1, Phạm Văn Tính2, Nguyễn Phi Long2
TÓM TẮT
Đánh giá ảnh hưởng của nồng độ phèn sắt đến khả năng sinh trưởng của các giống lúa bằng phương pháp thanh
lọc thông qua dung dịch Yoshida có bổ sung FeCl2 với các nồng độ 0 ppm (đối chứng), 50 ppm, 100 ppm và 200
ppm trên 6 dòng/giống lúa ở giai đoạn mạ đã xác định được giống lúa Huyết rồng có khả năng sống sót và chống
chịu cao trong điều kiện phèn (chịu cấp 3). Kết quả thí nghiệm cho thấy, giống lúa Huyết rồng vẫn sinh trưởng tốt
(cao cây: 56,8 cm, chiều dài rễ: 10,3 cm) sau 42 ngày thí nghiệm ở nồng độ FeCl2 200 ppm so với các dòng/giống lúa
khác trong cùng điều kiện thí nghiệm.
Từ khóa: Lúa, chịu phèn, dòng triển vọng, sinh trưởng
Evaluation of efficiency of Calaris Xtra 275SC herbicide
for sugarcane in Southeast region
Do Duc Hanh, Duong Cong Thong, Do Van Tuong,
Nguyen Thi Tan, Tran Van Son
Abstract
The Calaris Xtra 275SC herbicide effectiveness on Sugarcane was evaluated in Song Phan commune, Ham Thuan
district, Binh Thuan province by 8 different spraying doses from 3.0 to 8.0 liters/ha. KK3 variety was not poisoned
at 15 and 13 days after growing. The doses of Calaris Xtra ( as in CT 4: spraying after 30-day planting with 4.5l/ha
when grasses had 4-5 cotyledons) was the most ideal treatment which showed the highest efficiency on both grasses
and broadleaf grass (100%) at 30 days after spraying.
Keywords: Herbicides, Calasis Xtra 275SC, sugarcane
Ngày nhận bài: 12/5/2019
Ngày phản biện: 29/5/2019
Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Văn Viết
Ngày duyệt đăng: 14/6/2019
1 Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam; 2 Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ô nhiễm môi trường đất đang là tình trạng đáng
báo động hiện nay. Việc ô nhiễm đất được hình
thành bởi các nguồn khác nhau, có thể là do các hoạt
động sản xuất của con người hoặc do ảnh hưởng
trực tiếp từ các thành phần hóa học có trong đất.
Lượng đất nhiễm phèn, nhiễm mặn gây ra một số
ảnh hưởng đáng kể đối với nguồn nước nói chung
và mạch nước ngầm nói riêng (Balaji Meriga et al.,
2010). Ở Việt Nam có khoảng 2 triệu ha đất nhiễm
phèn, trong đó khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
chiếm khoảng 1,6 triệu ha, còn lại là phân bố tại các
tỉnh miền Trung và Đồng bằng Bắc bộ.
Việc chuyển đổi mục đích từ đất trồng lúa kém
hiệu quả sang đất nuôi trồng thủy sản đã và đang
làm thay đổi kết cấu đất, làm tăng độ phèn, dẫn đến
suy thoái nguồn tài nguyên đất ngày càng diễn ra
đáng báo động (Bùi Chí Bửu và Nguyễn Thị Lang,
2013). Do đó, việc phát triển nguồn gen lúa có khả
năng chịu phèn là nguồn vật liệu không thể thiếu
29
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
trong việc lai tạo và phát triển các giống lúa mới với
các tính trạng vượt trội như vừa có khả năng chịu
phèn, năng suất chấp nhận, chất lượng cao, chống
chịu sâu bệnh và các điều kiện tự nhiên bất lợi khác.
Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của
biến đối khí hậu, một số vùng trồng lúa chính với
lượng mưa ít và phân bố không đều vào đầu vụ
(vụ Hè và vụ Hè Thu), nắng hạn kéo dài, không chủ
động nguồn nước bổ sung làm cho các tầng đất chứa
vật liệu sinh phèn dễ bị oxy hóa dẫn đến hiện tượng
xì phèn thông qua các kẻ nứt và các mạch mao quản
trong đất. Vào thời điểm này, đất có độ pH rất chua,
đồng thời nồng độ Fe2+ và Al3+ di động trong dung
dịch đất cũng rất cao, tuy nhiên theo điều tra sơ bộ
cho thấy trên đất trồng lúa chủ yếu là bị nhiễm độc
do phèn sắt gây ra. Theo đó, nghiên cứu ảnh hưởng
của nồng độ phèn sắt đến khả năng sinh trưởng của
một số dòng/giống lúa trong điều kiện nhân tạo sẽ
là cơ sở khoa học trong việc đánh giá các nguồn gen
lúa chịu phèn nói chung, từ đó chọn lọc và tạo mới
các dòng/lúa mới có khả năng chịu phèn phục vụ
sản xuất là việc làm hết sức cấp bách và có ý nghĩa
trong bối cảnh hiện nay.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Giống lúa: Huyết rồng, Gia Lộc 105, Gia Lộc 159,
AS996 (chuẩn chịu phèn - đối chứng 1), IR29 (chuẩn
nhiễm phèn - đối chứng 2)
- Dòng lúa triển vọng: M2; M4; M12 (đột biến từ
giống lúa AS996 bằng nguồn phóng xạ Co60)
- Hóa chất thanh lọc phèn: các thành phần hóa
chất trong môi trường dinh dưỡng Yoshida (1976)
có bổ sung FeCl2 ở các nồng độ khác nhau.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên,
3 lần lặp lại với 4 nồng độ Fe2+: đối chứng (0 ppm),
50 ppm, 100 ppm và 200 ppm với 06 dòng/giống
lúa được lựa chọn thí nghiệm và 2 giống đối chứng
(AS996: chuẩn chịu phèn; IR29: chuẩn nhiễm phèn)
2.2.2. Phương pháp đánh giá khả năng chịu phèn
trong nhà lưới
Thanh lọc theo quy trình thanh lọc phèn của IRRI
(1997) có cải tiến. Cây mạ được đánh giá cấp điểm
theo tiêu chuẩn SES (Standard Evaluation System)
để phân biệt từ mẫn cảm đến kháng.
Bảng 1. Đánh giá khả năng chịu phèn
theo tiêu chuẩn (SES)
Cấp Mô tả triệu chứng Đánh giá
1 Tăng trưởng bình thường không có vết lá cháy Chịu tốt
3 Gần như bình thường, nhưng đầu lá hoặc vài lá có vết trắng, lá hơi cuốn lại Chịu
5 Tăng trưởng chậm, hết lá bị khô, một vài chồi bị chết
Chịu
trung bình
7 Tăng trưởng bị ngưng lại hoàn toàn, hầu hết lá bị khô, một vài chồi bị chết Nhiễm
9 Tất cả cây bị chết hoặc khô Rất nhiễm
(Nguồn: Gregorio et al., 1997).
2.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi
Cấp độ chống chịu phèn, khả năng sinh trưởng
(chiều cao cây và chiều dài rễ) của giống lúa thí
nghiệm trong điều kiện phèn sau 7, 14, 21, 28, 42 ngày.
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lí thống kê bằng phần mềm
IRRISTAT 5.0 thông qua phương pháp phân tích
ANOVA và Excel 2010.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trong vụ Mùa 2018
tại Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm - Gia Lộc,
Hải Dương.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đánh giá khả năng chịu phèn của các dòng/
giống lúa trong nhà lưới
Thí nghiệm đánh giá khả năng chịu phèn của
các dòng/giống lúa được thử nghiệm ở 3 nồng độ:
50 ppm, 100 ppm, 200 ppm và đối chứng (phèn
0 ppm). Theo dõi triệu chứng của cây lúa ở các giai
đoạn: 7, 14, 21, 28, 42 ngày.
Ở công thức đối chứng (phèn 0 ppm) sau 42
ngàycác giống lúa sinh trưởng bình thường, không
có biểu hiện của sự nhiễm phèn. Các công thức
phèn còn lại đã biểu hiện sự nhiễm phèn thông qua
việc quan sát các đặc điểm hình thái và mức độ ảnh
hưởng này đang dần tăng theo thời gian. Ở giai đoạn
7 ngày nhiễm phèn ở nồng độ 50 ppm, 100 ppm và
200 ppm, tất các các dòng/giống trong thí nghiệm
đều xuất hiện biểu hiện chóp lá lúa hơi vàng, các
biểu hiện nhiễm phèn vẫn chưa xuất hiện rõ rệt.
Sau 14 ngày, ở nồng độ 50 ppm các dòng/giống
lúa Huyết rồng, M2, M4, M12, AS996 có biểu hiện
thích ứng tốt với môi trường nhiễm phèn (giống
triệu chứng bị nhiễm ở cấp độ 1), riêng các dòng/
30
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
giống lúa còn lại đã bắt đầu có biểu hiện lá bị vàng và
hơi cuốn lại cùng vài đốm trắng (Hình 1); trong khi
ở nồng độ 100 ppm thì chỉ có một số giống lúa như:
Huyết rồng, M2, M4, M12 không xuất hiện các đốm
nhỏ li ti màu nâu, các đốm trắng hay các lá lúa hơi bị
cuốn lại nhưng cũng đã có một số cây lúa bị chết ở
nồng độ 100 ppm là giống M4. Ở nồng độ 200 ppm
các giống lúa AS996, Huyết rồng, M2, M4, M12 phát
triển bình thường, còn các giống còn lại có biểu hiện
bị nhiễm phèn và sự phát triển cũng đã chậm lại,
biểu hiện là các lá lúa nhỏ hơn so với các công thức
khác và một số giống lúa cũng đã dừng sinh trưởng
như: Gia Lộc 105, Gia Lộc 159, IR29. Đến ngày thứ
21 các giống lúa ở các nồng độ 50 ppm, 100 ppm và
200 ppm không có biểu hiện nhiễm phèn thêm so
với thời gian theo dõi trước đó.
Hình 1. Biểu hiện của giống lúa nhiễm phèn sau 14 ngày ở nồng độ 50 ppm
Sau 28 ngày thí nghiệm, mặc dù các giống lúa đã
có những biểu hiện của sự nhiễm phèn nhưng khi
đến giai đoạn này đã thể hiện được tính chống chịu
phèn tốt, mức độ nhiễm phèn không còn tăng lên
và sự nhiễm phèn không còn ảnh hưởng nhiều đến
sự tăng trưởng của hầu hết các giống lúa ngoại trừ
IR29, Gia Lộc 105, Gia Lộc 159 ở nồng độ 100 ppm
và 200 ppm. Ngày thứ 42 nhiễm phèn, hầu hết các
giống lúa: Huyết rồng, M2, M4, M12, AS996 vẫn
sinh trưởng nhưng đầu lá hoặc vài lá có vết trắng, lá
hơi cuốn lại. Tuy nhiên, đối với nhóm giống: IR29,
Gia Lộc 105, Gia Lộc 159 có biểu hiện tăng trưởng bị
ngưng lại hoàn toàn, hầu hết lá bị khô, một vài chồi
bị chết (Hình 2).
Như vậy, đối với thí nghiệm đánh giá khả năng
chịu phèn của các giống lúa sau 7 - 42 ngày ở các
nồng độ phèn từ 0 ppm - 200 ppm và so sánh với tiêu
chuẩn (SES) cho thấy nhóm giống lúa: Huyết rồng,
M2, M4, M12, AS996 có khả năng chịu phèn ở cấp 3
theo thang đánh giá của IRRI.
Hình 2. Biểu hiện của cây lúa sau nhiễm phèn 42 ngày đối với giống Gia Lộc 105 ở nồng độ 200 ppm
3.2. Ảnh hưởng của phèn đến chiều cao thân của
các giống lúa thanh lọc
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên,
3 lần lặp lại và sử dụng giống AS996 là giống đối
chứng cho chuẩn kháng và giống IR29 là giống đối
chứng cho chuẩn nhiễm, thời gian theo dõi chiều
cao thân ở giai đoạn 21 ngày và 42 ngày. Kết quả thí
nghiệm được thể hiện ở bảng 2.
Qua bảng 2 cho thấy: các giống lúa trong cùng
một công thức cũng có những sự khác biệt rất đáng
31
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
kể và thể hiện rõ khi nồng độ phèn tăng. Ở công
thức đối chứng, chiều cao thân lá tăng liên tục qua
các mốc thời gian 7 ngày các giống lúa hầu như phát
triển tương đối bình thường và chậm lại dần khi đến
giai đoạn 21 ngày.
Ở nồng độ phèn 50 - 200 ppm, hầu hết các giống
lúa đều có sức sinh trưởng về chiều cao liên tục ở
giai đoạn 7 đến 21 ngày và phát triển chậm lại sau
giai đoạn 42 ngày.
Đối với công thức đối chứng (không bổ sung
FeCl2), sau 21 ngày theo dõi, chiều cao cây biến động
từ 45,0 - 58,8 cm. Giống Huyết rồng và giống Gia
Lộc 159 có chiều cao vượt trội lần lượt là: 58,8 cm
và 55,8 cm trong cùng điều kiện thí nghiệm ở mức
tin cậy 95%. Các giống lúa còn lại có sức sinh trưởng
tương đối như nhau và không có sự sai khác so với
đối chứng. Tuy nhiên, sức sinh trưởng không được
duy trì khi tiến hành với các nồng đồ phèn ở 50 ppm,
100 ppm và 200 ppm. Trong hầu hết các thí nghiệm,
giống lúa Huyết rồng vẫn có khả năng sinh trưởng
tốt và chiều cao vượt trội so với các giống trong
cùng điều kiện thí nghiệm với chiều cao lần lượt là:
53,0 cm (50 ppm), 47,8 cm (100 ppm) và 53,0 cm
(200 ppm). Tiếp theo là dòng/giống lúa M4 có chiều
cao thân sau 21 ngày đều cao hơn giống đối chứng
(AS996) ở cả 3 nồng độ khác nhau với mức tin cậy
95% và biến động từ 43,8 - 50,0 cm. Riêng giống lúa
IR (đối chứng 2) bị chết sau 21 ngày ở các nồng độ
100 ppm và 200 ppm.
Bảng 2. Chiều cao thân của các giống lúa
sau 21 ngày nhiễm phèn
TT Tên giống
Chiều cao thân của các giống
lúa sau 21 ngày nhiễm phèn
Đối
chứng
50
ppm
100
ppm
200
ppm
1 Huyết rồng 58,8 59,1 49,7 53,0
2 M2 52,6 51,8 44,2 44,7
3 M4 52,5 52,1 42,9 45,9
4 M12 52,0 52,3 42,1 43,8
5 Gia Lộc 105 52,9 50,9 43,7 44,1
6 Gia Lộc159 55,8 49,5 42,8 38,4
7 AS996 (đ/c 1) 51,1 47,5 36,5 35,8
8 IR29 (đ/c 2) 45,0 - - -
CV% 7,3 5,4 7,5 5,9
LSD 0,05 6,8 3,8 6,8 5,6
Sau 42 ngày nhiễm phèn hầu hết các giống lúa
trong thí nghiệm đều không có sự tăng trưởng đáng
kể về chiều cao. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.
Bảng 3. Chiều cao thân của các giống lúa
sau 42 ngày nhiễm phèn
TT Tên giống
Chiều cao thân của các giống
lúa sau 42 ngày nhiễm phèn
Đối
chứng
50
ppm
100
ppm
200
ppm
1 Huyết rồng 69,7 53,7 48,2 56,8
2 M2 62,2 48,6 42,1 44,7
3 M4 58,2 50,0 43,8 45,9
4 M12 58,4 50,1 41,0 43,8
5 Gia Lộc 105 59,3 50,9 42,5 44,1
6 Gia Lộc159 57,6 49,5 41,6 38,4
7 AS996 (đ/c 1) 58,3 47,5 32,9 35,8
8 IR29 (đ/c 2) 48,8 41,0 - -
CV% 6,7 4,3 4,8 8,6
LSD0,05 7,4 3,1 9,8 9,6
Kết quả thí nghiệm ở bảng 3 cho thấy: các giống
lúa: Huyết rồng, M2, M4, M12 thể hiện tính kháng
tốt qua các công thức 50 ppm, 100 ppm và có chiều
cao tương đương với giống đối chứng (AS996) trong
cùng điều kiện thí nghiệm và biến động từ 51,8 -
59,1 cm (nồng độ 50 ppm) và 42,1 - 49,7 cm (nồng
độ 100 ppm). Riêng ở nồng độ 200 ppm, chỉ duy
nhất giống lúa Huyết rồng vẫn sinh trưởng và có
chiều cao cây 56,8 cm và các giống còn lại tham gia
thí nghiệm không có sự sai khác về chiều cao cây so
với 21 ngày.
3.3. Ảnh hưởng của phèn đến chiều dài rễ của
giống lúa thanh lọc
Song song với việc đánh giá mức độ tăng trưởng
chiều dài thân trong điều kiện phèn nhân tạo sau
21 và 42 ngày ở các nồng độ phèn khác nhau, thí
nghiệm cũng tiến hành thu thập chỉ số chiều dài rễ.
Kết quả được thể hiện ở bảng 4.
Bảng 4. Chiều dài rễ của các giống lúa
thanh lọc ở 21 ngày nhiễm phèn
TT Tên giống
Chiều dài rễ của các công
thức ở giai đoạn 21 ngày
Đối
chứng
50
ppm
100
ppm
200
ppm
1 Huyết rồng 10,9 9,5 9,1 5,7
2 M2 11,5 8,5 7,4 4,8
3 M4 10,1 9,4 7,5 6,7
4 M12 11,6 9,2 6,9 5,5
5 Gia Lộc105 11,1 6,3 5,8 4,7
6 Gia Lộc159 9,3 5,4 4,8 4,4
7 AS996 (đ/c 1) 9,2 7,0 7,1 5,2
8 IR29 (đ/c 2) 8,5 - - -
CV% 3,8 5,6 4,7 8,8
LSD0,05 1,5 2,7 3,8 2,1
32
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
Qua bảng 4 cho thấy: Ở tất cả các công thức thí
nghiệm, chiều dài rễ có xu hướng tăng chậm lại khi
bổ sung các nồng độ phèn khác nhau. Ở nồng độ
phèn 200 ppm chiều dài rễ tăng rất chậm, đặc biệt là
giống lúa Huyết rồng chỉ đạt 5,7 cm; trong khi đó ở
các nồng độ 0 ppm, 100 ppm, 200 ppm chiều dài rễ
tăng và ổn định. Điều này cho thấy giống lúa Huyết
rồng có khả năng sinh trưởng và phát triển bình
thường ở mức độ phèn ≤ 100 ppm.
Tiếp theo là nhóm giống: M2, M4 và M12 có chiều
dài rễ tương đương so với giống đối chứng AS996
trong cùng điều kiện thí nghiệm ở mức tin cậy 95%
ở cả 3 nồng độ phèn 50 ppm, 100 ppm và 200 ppm.
Ở nồng độ phèn 50 ppm, các dòng/giống có chiều
dài biến động từ 8,5 - 9,4 cm và tương đương với
giống đối chứng: 7,0 cm. Tương tự, ở nồng độ phèn
100 ppm và 200 ppm dòng/giống có chiều dài rễ lớn
nhất là: M4 có chiều dài rễ lần lượt là 7,5 cm (ở nồng
độ 100 ppm) và 6,7 cm (ở nồng độ 200 ppm).
Tiếp tục theo dõi sự phát triển chiều dài rễ của
các dòng/giống lúa sau 42 ngày ở 3 mức độ phèn
50 ppm, 100 ppm và 200 ppm. Kết quả được trình
bày ở bảng 5.
Bảng 5. Chiều dài rễ của các giống lúa
thanh lọc ở 42 ngày nhiễm phèn
TT Tên giống
Chiều dài rễ của các công thức
ở giai đoạn 42 ngày
Đối
chứng
50
ppm
100
ppm
200
ppm
1 Huyết rồng 10,9 9,7 9,7 10,3
2 M2 11,5 8,8 7,8 4,8
3 M4 10,1 9,6 7,7 6,7
4 M12 11,6 9,5 7,2 5,5
5 Gia Lộc105 11,1 6,6 6,1 4,7
6 Gia Lộc159 9,3 5,7 5,2 4,4
7 AS996 (đ/c 1) 9,2 7,9 7,7 5,8
8 IR29 (đ/c 2) 8,5 - - -
CV% 4,9 6,3 5,7 7,9
LSD0,05 1,8 2,3 3,1 3,3
Quan sát sau 42 ngày cho thấy: ở tất cả các công
thức thí nghiệm, các dòng/giống ở các công thức
phèn 50 ppm, 100 ppm và 200 ppm đều có biểu hiện
chung là có màu vàng nâu ở rễ. Đây không phải
là hiện tượng sinh lý mà do trong môi trường thí
nghiệm có bổ sung (Fe2+).
Kết quả thí nghiệm ở bảng 4 cũng chỉ ra rằng:
ở nồng độ phèn 200 ppm các dòng/giống: M2; M4;
M12; Gia Lộc 105 và Gia Lộc 159 không có sự tăng
trưởng về chiều dài rễ và chiều dài rễ biến động
từ 4,4 - 6,7 cm. Riêng giống lúa Huyết rồng có
chiều dài rễ là cao nhất: 10,3 cm và có chiều dài rễ
lớn hơn cả khi thí nghiệm ở nồng độ 100 ppm và
200 ppm. Điều này có thể giải thích đây là hiện tượng
phản ứng lại với nồng độ phèn nhằm chống lại hiện
tượng hạn sinh lý của cây và thể hiện thông qua việc
tăng trưởng chiều dài rễ, điều này cũng phù hợp với
nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Đệ (2008).
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ
phèn đến khả năng sinh trưởng của một số dòng/
giống lúa trong điều kiện nhân tạo cho thấy giống
lúa Huyết rồng có khả năng chịu được phèn tốt nhất
(cấp 3) trong nhóm dòng/giống lúa tham gia thí
nghiệm trong cùng điều kiện và được thể hiện thông
qua chiều cao cây: 56,8 cm và chiều dài rễ: 10,3 cm ở
nồng độ phèn 200 ppm, theo dõi sau 42 ngày.
Ngoài ra, các dòng triển vọng: M2, M4, M12 cũng
có khả năng chịu phèn (cấp 5), cây lúa tăng trưởng
chậm và có một vài chồi bị chết sau 42 ngày theo dõi
ở nồng độ phèn 200 ppm.
4.2. Đề nghị
Cần tiếp tục chọn lọc và làm thuần các dòng/
giống M2, M4, M12 để tiến tới công nhận giống
chính thức phục vụ sản xuất lúa cho các vùng trồng
lúa bị nhiễm phèn.
LỜI CẢM ƠN
Kết quả nghiên cứu này được thực hiện trong
khuôn khổ đề tài “Khai thác và phát triển nguồn gen
lúa đặc sản Huyết rồng tại vùng Bắc Trung bộ” do
Bộ Khoa học Công nghệ cấp kinh phí. Nhóm tác giả
xin chân thành cảm ơn Viện Cây lương thực và Cây
thực phẩm và các cộng tác viên đã hỗ trợ, tạo điều
kiện thuận lợi để nhóm thực hiện nội dung nghiên
cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Chí Bửu và Nguyễn Thị Lang, 2013. Nghiên cứu
biến động di truyền trên quần thể lai hồi giao của
giống chống chịu độ độc của sắt trên cây lúa. Báo
cáo khoa học, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
miền Nam, 25/11/2013.
Nguyễn Ngọc Đệ, 2008. Giáo trình cây lúa. NXB Đại
học Quốc gia, TP HCM.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_nong_do_phen_sat_den_kha_nang_sinh_truong_cua.pdf