Kết luận và kiến nghị
Năm 2019, số lượng doanh nghiệp đang
hoạt động trong khu vực dịch vụ chiếm 61,7%
tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt
Nam với mức tăng trưởng 7,3% và đóng góp
45% vào mức tăng chung của toàn nền kinh tế
[2]. Trong đó, số lượng doanh nghiệp ở Hà Nội
chiếm 20,6% tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động trong cả nước. Với vai trò và tầm quan
trọng như vậy, để tiếp tục hoạt động và có cơ
hội phát triển trong thời gian tới, các DNNVV
tại Hà Nội cần tiếp tục chú trọng vào hoạt động
QTNNL nhằm tăng cường sự gắn bó của nhân
viên thông qua một số giải pháp như sau:
i) DNNVV cần đảm bảo sự an toàn về
công việc.
Dịch bệnh COVID-19 xảy ra trên toàn thế
giới khiến cho các DNNVV, đặc biệt là doanh
nghiệp trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ gặp
rất nhiều khó khăn. Các hoạt động giao thương,
dịch vụ phục vụ cuộc sống bị hạn chế khiến cho
sự an toàn về công việc bị đe dọa, nhiều
DNNVV có nguy cơ đóng cửa và phá sản.
Trong bối cảnh đó, các chủ DNNVV một mặt
cần nhanh nhạy, sáng tạo trong việc học hỏi,
điều chỉnh sản phẩm và chiến lược kinh doanh
phù hợp nhằm duy trì công việc tối thiểu cho
nhân viên. Mặt khác, các chủ doanh nghiệp cần
tạo niềm tin cho nhân viên, giúp nhân viên có
công việc và ổn định cuộc sống. Chính thời điểm
khó khăn này là cơ hội để chủ doanh nghiệp và
nhân viên thấu hiểu và chia sẻ với nhau, cùng hỗ
trợ nhau vượt qua những khó khăn.
ii) Các doanh nghiệp cần chú trọng xây
dựng môi trường làm việc tích cực, thân thiện
và tăng cường sự quan tâm, hỗ trợ nhân viên.
Các DNNVV cần chú ý lắng nghe nhân
viên, tăng cường sự quan tâm giữa cấp trên với
cấp dưới và giữa đồng nghiệp với nhau; chú
trọng phát triển mối quan hệ gắn kết, thân thiện,
hỗ trợ nhau trong công việc. Do đặc thù công
việc và điều kiện nguồn lực của DNNVV, để
đáp ứng yêu cầu công việc, các nhân viên trong
DNNVV thường phải đảm nhận nhiều vị trí
công việc với những nhiệm vụ khác nhau. Họ là
những người năng động, nhanh nhẹn và linh
hoạt trong công việc. Tuy nhiên, cơ hội thăng
tiến, phát triển và chế độ đãi ngộ của DNNVV
dành cho nhân viên còn hạn chế khiến họ có
tâm lý tìm kiếm môi trường làm việc tốt hơn.
Để tăng cường sự cam kết của nhân viên, các
chủ doanh nghiệp cần đầu tư cơ sở vật chất,
máy móc thiết bị cập nhật, tạo môi trường làm
việc gần gũi, cởi mở, khuyến khích nhân viên
chia sẻ quan điểm và ý kiến của mình, từ đó
tăng tính chủ động và sáng tạo của nhân viên.
DNNVV có thể thực hiện được điều này thông
qua xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thường
xuyên tổ chức và thu hút nhân viên tham gia
các hoạt động tập thể,
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của thực tiễn quản trị nguồn nhân lực đến sự cam kết của nhân viên trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại khu vực Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
38
Original Article
The Effect of Human Resource Management Practices
on Organizational Commitment in SEMs in Hanoi
Dang Thi Huong*
VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 04 November 2020
Revised 12 December 2020; Accepted 12 December 2020
Abstract: The article measures the effect of Human Resource Management (HRM) practices on
organizational commitment in small and medium enterprises (SMEs). A survey of 379 employees
working in Hanoi based SMEs in the commercial and service sector indicates that human resource
training and development, performance evaluation, remuneration, job security, working
environment, and organizational support have a positive affect on organizational commitment. The
article then proposes several solutions to enhance organizational commitment in SMEs.
Keywords: Human Resource Management, organizational commitment, SMEs.
D*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: huongdthvn@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4419
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
39
Ảnh hưởng của thực tiễn quản trị nguồn nhân lực
đến sự cam kết của nhân viên trong doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại khu vực Hà Nội
Đặng Thị Hương*
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 04 tháng 11 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 12 năm 2020
Tóm tắt: Bài viết đề xuất mô hình nghiên cứu và đo lường tác động của thực tiễn quản trị nguồn
nhân lực (QTNNL) đến sự cam kết của nhân viên trong doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Kết
quả xử lý dữ liệu khảo sát 379 nhân viên trong DNNVV khu vực thương mại, dịch vụ tại Hà Nội
cho thấy các hoạt động gồm Đào tạo và phát triển nhân lực, Đánh giá thực hiện công việc, Chế độ
đãi ngộ, Sự an toàn trong công việc, Môi trường và hỗ trợ của tổ chức có ảnh hưởng tích cực đến
sự cam kết của nhân viên. Từ đó, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm tăng cường sự cam kết
của nhân viên với DNNVV.
Từ khóa: Quản trị nguồn nhân lực, cam kết của nhân viên, DNNVV.
1. Đặt vấn đề *
Trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 đang
diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp ngày càng gay gắt, việc duy trì và giữ
gìn sự cam kết của người lao động chất lượng
cao trở nên ngày càng khó khăn. Người lao
động trẻ có xu hướng thích thay đổi công việc
và môi trường làm việc cùng với nhu cầu cân
bằng giữa công việc và cuộc sống cá nhân tăng
cao tác động mạnh đến sự gắn bó của nhân
viên với doanh nghiệp. Trong khi đó, các chính
sách thu hút, đãi ngộ nhân lực chất lượng cao từ
các đối thủ cạnh tranh được đầu tư ngày càng
mạnh mẽ dẫn đến sự trung thành của nhân viên
với doanh nghiệp có xu hướng suy giảm. Để
giữ chân được người lao động, các doanh
nghiệp phải không ngừng đầu tư cho nhân viên
bằng những chính sách nhân lực nhân văn, bền
vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt động
QTNNL đóng góp đáng kể vào thành tựu của tổ
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: huongdthvn@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4419
chức, giúp tăng cường sự cam kết, năng lực và
tính linh hoạt của nhân viên, từ đó giúp đạt
được mục tiêu kinh doanh và gia tăng giá trị
cho khách hàng [1].
Doanh nghiệp DNNVV là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống doanh nghiệp Việt
Nam. Loại hình này chiếm 97,2% tổng số
doanh nghiệp Việt Nam với hoạt động sản xuất
kinh doanh đạt nhiều kết quả tích cực, đóng góp
đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế [2].
Tuy nhiên, do đặc thù có quy mô nhỏ và vừa,
các DNNVV gặp không ít khó khăn trong hoạt
động kinh doanh, hoạt động QTNNL chưa được
quan tâm và đầu tư đúng mức. Việc duy trì, giữ
gìn sự cam kết của nhân viên trong DNNVV
cũng trở nên ngày càng khó. Theo Giauquea,
Resenterraa và Siggenb (2010), việc duy trì nhân
viên trong DNNVV luôn không hề dễ dàng do các
doanh nghiệp này chịu sự cạnh tranh gay gắt từ
các nhóm doanh nghiệp khác [3].
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa thực tiễn
QTNNL và sự cam kết của nhân viên đã nhận
được sự quan tâm của nhiều học giả trên thế
giới. Tại Việt Nam, các nghiên cứu về sự tác
động này bắt đầu được quan tâm nhưng chủ yếu
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
40
được thực hiện ở từng doanh nghiệp riêng rẽ.
Nghiên cứu về chủ đề này ở số đông DNNVV
tại Việt Nam còn khá hạn chế, dẫn đến các hàm
ý cho các DNNVV trong việc duy trì và giữ
chân nhân viên chưa mang tính đại diện. Hơn
thế, môi trường sản xuất kinh doanh của các
DNNVV gặp nhiều biến động trong bối cảnh
đại dịch COVID-19 đang diễn ra trên toàn thế
giới. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của DNNVV, tới sự
cam kết, gắn bó của nhân viên. Trong bối cảnh
đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục
đích đo lường ảnh hưởng của QTNNL đến sự
cam kết của nhân viên tại các DNNVV khu vực
thương mại, dịch vụ trên địa bàn Hà Nội, đối
tượng chịu ảnh hưởng lớn trong đại dịch
COVID-19. Từ kết quả nghiên cứu, bài viết đưa
ra một số đề xuất nhằm tăng cường sự cam kết
của nhân viên trong các DNNVV dưới góc độ
của QTNNL.
2. Cơ sở lý luận và khung phân tích
2.1. Cam kết của nhân viên với tổ chức
Mowday và cộng sự (1979) xác định: “Sự
cam kết với tổ chức là sức mạnh tương đối về
sự đồng nhất của nhân viên với tổ chức và sự
tham gia tích cực của nhân viên trong một tổ
chức nhất định” [4]. Theo đó, sự cam kết bao
gồm sự đồng nhất, sự cố gắng và lòng trung
thành của nhân viên. Theo Allen và Meyer
(1990), sự cam kết đối với tổ chức là trạng thái
tâm lý gắn kết cá nhân vào tổ chức. Sự cam kết
gồm 3 yếu tố: mong muốn là thành viên trong
tổ chức (gắn kết tình cảm), sự sẵn sàng nỗ lực
làm việc lâu dài (gắn kết liên tục) và sự ý thức
về sự gắn bó công việc (gắn kết về đạo đức
nghề nghiệp) [5]. Crewson (1997) nhấn mạnh,
sự cam kết với tổ chức được tạo thành từ 3 yếu
tố riêng biệt: niềm tin mạnh mẽ chấp nhận giá
trị và mục tiêu của tổ chức; sự sẵn sàng làm
việc chăm chỉ cho tổ chức; và sự mong muốn
luôn là thành viên của tổ chức [6]. Trong mọi tổ
chức, để đạt mục tiêu đề ra thì mỗi nhân viên
đều cần có sự cam kết cao với tổ chức, mong
muốn duy trì tư cách thành viên trong tổ chức
và sẵn sàng cống hiến làm việc, phục vụ để đạt
được mục tiêu xuất phát từ thái độ và hành vi
tích cực của tất cả nhân viên. Newman và cộng
sự (2011) xác định cam kết với tổ chức là sự
ảnh hưởng của mức độ gắn bó và tham gia của
một cá nhân với tổ chức cũng như cảm nhận về
sự bắt buộc (gắn kết về đạo đức nghề nghiệp)
để làm việc trong một tổ chức [7].
Nassar (2017) đã tổng hợp các mức độ cam
kết của nhân viên với tổ chức theo 3 mức độ.
Cam kết mức độ cao được đặc trưng bởi sự
chấp nhận các giá trị của tổ chức và sẵn sàng,
nỗ lực trên mức mong đợi [8]. Ở mức độ này,
nhân viên ở lại công ty vì họ thực sự mong
muốn điều đó [9]. Cam kết mức độ vừa được
đặc trưng bởi sự chấp nhận hợp lý của nhân
viên nên họ nỗ lực để đạt được mục tiêu của tổ
chức. Ở cấp độ này, để duy trì việc làm, cam
kết của nhân viên gắn liền với các khía cạnh về
đạo đức. Họ ở lại công ty vì họ cảm thấy nên
làm chứ không thực sự vì họ muốn [10]. Cam
kết mức độ thấp thể hiện sự thiếu chấp nhận các
mục tiêu và giá trị của tổ chức bởi nhân viên
không sẵn sàng nỗ lực để đạt mục tiêu và giá trị
của tổ chức. Kiểu nhân viên này sẵn sàng rời bỏ
công ty bất cứ lúc nào và thường thất vọng về
tổ chức [11].
2.2. Quản trị nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
QTNNL là một chức năng quản trị quan
trọng trong bất kỳ doanh nghiệp nào. Theo
Price (2004) một tổ chức/doanh nghiệp có thể
tăng lợi thế cạnh tranh của mình bằng cách sử
dụng người lao động một cách hiệu quả, tận
dụng kinh nghiệm và sự khéo léo của họ nhằm
đạt được mục tiêu đặt ra [12]. Theo Noe và
cộng sự (2006), QTNNL bao gồm các hoạt
động được thiết kế để cung cấp và điều phối các
nguồn lực con người của một tổ chức [13].
Ahmad và Schroeder (2003), Dessler (2010)
cho rằng hoạt động QTNNL đóng góp đáng kể
vào thành tựu của tổ chức, giúp đạt được mục
tiêu của tổ chức và gia tăng giá trị cho khách
hàng [1, 14]. QTNNL là sự kết hợp các hoạt
động quản lý lấy con người làm trung tâm, coi
nhân viên là tài sản cần được phát triển và duy
trì một cách khéo léo để họ đóng góp nhằm đạt
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
41
mục tiêu của tổ chức [15]. Theo Amstrong
(2013), hoạt động QTNNL là những nỗ lực của
tổ chức trong việc quản lý hợp lý nhân viên của
mình nhằm đạt được các mục tiêu [16]. Tổ chức
sử dụng các chức năng này để từ đó hình thành
thái độ, hành vi, văn hóa cũng như nhận thức
của nhân viên theo cách đạt được kết quả mong
muốn của tổ chức [17, 18].
Về các thành phần của QTNNL, Guest
1997), Pfeffer (1998) xác định gồm: Tuyển
dụng và tuyển chọn nhân viên mới, Đào tạo,
Đánh giá nhân viên, Quản lý lương thưởng, Mô
tả công việc, Sự tham gia của nhân viên, Địa vị
và bảo đảm ổn định trong công việc, Mở rộng
việc chia sẻ thông tin về kết quả tài chính trong
tổ chức [19, 20]. Ramlall (2003) đo lường hiệu
quả của QTNNL và chỉ ra các thành phần
QTNNL gồm: Lập kế hoạch chiến lược, Thu
nhận người lao động, Đào tạo và phát triển,
Phát triển và thay đổi tổ chức, Quản lý kết quả
làm việc, Hệ thống lương thưởng, Lý thuyết và
hành vi tổ chức [21]. Trong khi đó, Chew và
Chan (2008) xác định gồm các hoạt động: Sự
phù hợp mục tiêu giữa cá nhân và tổ chức, Thù
lao và sự ghi nhận, Công việc thách thức, Đào
tạo và phát triển nghề nghiệp [22]. Bisharat và
cộng sự (2017) cho rằng thực tiễn QTNNL
gồm: Đánh giá thành tích, Hệ thống thù lao,
Tuyển dụng và tuyển chọn, Đào tạo và phát
triển [23]. Còn Suksod và Cruthaka (2020) xác
định gồm: Đánh giá thực hiện công việc, Sự
thăng tiến trong công việc, Chia sẻ thông tin,
Sự hỗ trợ của tổ chức, Sự an toàn trong công
việc [24]
2.3. Mối quan hệ giữa hoạt động quản trị nguồn
nhân lực và sự cam kết của nhân viên với
tổ chức
Nghiên cứu của Meyer và Smith (2000) tìm
thấy tác động đáng kể của phát triển nghề
nghiệp, đánh giá năng lực thực hiện công việc
và đãi ngộ đến sự gắn kết của nhân viên [25].
Paul và Anantharaman (2004) đã khảo sát và
tìm thấy mối quan hệ giữa QTNNL và cam kết
của nhân viên trong ngành phần mềm tại Ấn Độ
[26]. Browning (2006) tìm thấy tác động của
QTNNL đến cam kết của nhân viên tại các
doanh nghiệp dịch vụ tại Nam Phi [27], trong
khi Payne và Huffman (2005) tìm thấy mối liên
hệ giữa QTNNL và tỷ lệ bỏ việc của nhân viên.
Nhân viên sẽ bỏ việc khi họ không thấy có gì để
cam kết hoặc chỉ đơn giản là công ty không có
cam kết hoặc giữ đúng cam kết với họ [28].
Nghiên cứu của Giauquea, Resenterraa và
Siggenb (2010) chỉ ra, QTNNL có thể giúp các
công ty cải thiện hành vi tổ chức, tăng cường sự
cam kết, năng lực và tính linh hoạt của nhân
viên [3]. Gần đây, Nassar (2017) cho thấy ảnh
hưởng của thực tiễn QTNNL đến sự cam kết
của nhân viên ở các khách sạn 4-5 sao ở Ai
Cập, đặc biệt là ảnh hưởng đến cam kết về tình
cảm và sự gắn bó liên tục đối với công ty [8].
Suksod và Cruthaka (2020) chỉ ra ảnh hưởng
của Đánh giá thực hiện công việc, Sự an toàn
trong công việc, Chia sẻ thông tin đến sự cam
kết của nhân viên trong ngành công nghiệp
dược phẩm Thái Lan [24].
Tại Việt Nam, Hồ Huy Tựu và Phạm Hồng
Liêm (2012) xác nhận mối quan hệ giữa sự hỗ
trợ trong công việc, đào tạo, huấn luyện đến sự
cam kết của nhân viên công ty du lịch Khánh
Hòa [29]. Mối quan hệ giữa chế độ đãi ngộ, cơ
hội phát triển nghề nghiệp và bản mô tả công
việc với việc nhân viên gắn bó với doanh
nghiệp được tìm thấy trong nghiên cứu của
Phạm Thế Anh và Nguyễn Thị Hồng Đào
(2013) [30]. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc
Thắng (2015) chỉ ra tác động tích cực của
QTNNL đến sự cam kết của nhân viên ở 3 khía
cạnh cam kết của nhân viên: tình cảm, thị
trường lao động và đạo đức nghề nghiệp [31]...
2.4. Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu trong bài viết này được
thiết lập trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước
đây. Các thành phần về QTNNL được kế thừa
và chọn lọc từ các nghiên cứu của Geringer,
Frayne và Milliman (2002), Bisharat và cộng sự
(2017), Nassar (2017) [8, 23, 32]. Sự cam kết
của nhân viên kế thừa từ nghiên cứu của Allen
và Meyer (1990) gồm 3 thành phần: cam kết về
tình cảm, cam kết về sự gắn bó lâu dài và cam
kết về đạo đức nghề nghiệp [5]. Tuy nhiên, theo
Wang và các cộng sự (2010), cam kết đạo đức
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
42
nghề nghiệp và cam kết về tình cảm khá liên
quan với nhau [33], do đó nghiên cứu này chỉ
sử dụng thang đo cam kết tình cảm và thang đo
gắn bó lâu dài.
Với mô hình nghiên cứu được đề xuất
(Hình 1), các giả thuyết nghiên cứu được phát
triển như sau:
H1: Hoạt động tuyển dụng có ảnh hưởng tích
cực đến sự cam kết của nhân viên DNNVV.
H2: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
có ảnh hưởng tích cực đến sự cam kết của nhân
viên DNNVV.
H3: Đánh giá thực hiện công việc có ảnh
hưởng tích cực đến sự cam kết của nhân
viên DNNVV.
H4: Chế độ đãi ngộ có ảnh hưởng tích cực
đến sự cam kết của nhân viên DNNVV.
H5: Sự an toàn trong công việc có ảnh
hưởng tích cực đến sự cam kết của nhân
viên DNNVV.
H6: Môi trường làm việc và sự hỗ trợ của
doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến sự
cam kết của nhân viên DNNVV.
h
Hình 1. Mô hình nghiên cứu.
Nguồn: Tác giả đề xuất.
3. Phương pháp nghiên cứu
i) Thang đo và bảng hỏi
Các thang đo được kế thừa và được điều
chỉnh cho phù hợp với bối cảnh của DNNVV.
Một số thang đo gốc mang tính phủ định được
chuyển thành các nhận định có ý nghĩa khẳng
định giúp người trả lời hiểu đúng ý câu hỏi. Kết
quả, Tuyển dụng nhân lực được thể hiện qua 5
thang đo; Đào tạo và phát triển nhân lực gồm 5
thang đo; Đánh giá thực hiện công việc gồm 5
thang đo; Chế độ đãi ngộ gồm 3 thang đo; Sự
an toàn trong công việc gồm 3 thang đo; Môi
trường và sự hỗ trợ tổ chức gồm 5 thang đo.
Cam kết của nhân viên với tổ chức gồm Cam
kết liên quan đến tình cảm (5 thang đo); Cam
kết liên quan đến sự gắn bó liên tục (4 thang
đo). Các thang đo được thiết kế theo thang đo
Likert 5 mức độ (1 là hoàn toàn không đồng ý
đến 5 là hoàn toàn đồng ý).
ii) Chọn mẫu và thu thập dữ liệu
Đối tượng khảo sát trong nghiên cứu này là
nhân viên trong DNNVV khu vực thương mại,
dịch vụ. Để đảm bảo tính đại diện của các
DNNVV, phiếu khảo sát được gửi đến 18
DNNVV hoạt động trong các lĩnh vực: xuất
nhập khẩu, thương mại, siêu thị, dịch vụ đào
Tuyển dụng
Đào tạo và phát triển
Đánh giá thực hiện công việc
Chế độ đãi ngộ
Sự an toàn trong công việc
Môi trường làm việc và sự
hỗ trợ của tổ chức
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC
Sự cam kết của nhân viên
Sự cam kết tình cảm
Sự cam kết gắn bó lâu dài
H1
(+)
H2
(+)
H3
(+)
H4
(+)
H5
(+)
H6
(+)
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
43
tạo, tư vấn pháp lý, du lịch, nhà hàng, thẩm mỹ
viện, Phiếu khảo sát được gửi đến các công
ty thông qua mối quan hệ với lãnh đạo doanh
nghiệp và phòng hành chính nhân sự. Nhân
viên có thể trả lời phiếu khảo sát trực tiếp hoặc
qua phiếu khảo sát thiết kế trên Google form
được gửi qua emai/Zalo/Viber của nhân viên.
Về mẫu nghiên cứu, nghiên cứu sử dụng
công thức tính mẫu của Hair và cộng sự (1998)
[34]. Với 35 biến quan sát về hoạt động
QTNNL và sự cam kết của nhân viên, cỡ mẫu
dự kiến tối thiểu cần là 175 mẫu quan sát. Tác
giả đã gửi bảng khảo sát đến 18 DNNVV, với
tổng số khoảng 642 nhân viên. Sau 1,5 tháng
khảo sát (từ ngày 15/6/2020 đến 30/7/2020), kết
quả thu về 403 phiếu, đạt tỷ lệ trả lời khoảng
63%. Sau khi làm sạch dữ liệu, 379 phiếu khảo
sát đáp ứng yêu cầu để thực hiện phân tích. Các
phiếu khảo sát sau đó được mã hóa, nhập liệu,
xử lý và phân tích thông qua phần mềm SPSS
20 để thực hiện phân tích hồi quy và kiểm định
giả thuyết.
4. Kết quả và thảo luận
Khảo sát thu về 379 phiếu đạt yêu cầu.
Trong đó, tỷ lệ nam giới chiếm 35,1% với 133
phiếu, nữ giới chiếm 64,9 % với 246 phiếu. Về
độ tuổi, số nhân viên dưới 25 tuổi là 82 người
(21,6%), từ 25-40 tuổi là 194 người (51,2%) và
trên 40 tuổi là 103 người (27,2%). Về thâm niên
công tác, số nhân viên làm việc dưới 3 năm là
116 người (30,6%), từ 3-5 năm là 107 người
(28,2%) và trên 5 năm là 156 người (41,2%).
i) Kết quả độ trung bình và độ tin cậy của
thang đo
Bảng 1 cho thấy giá trị trung bình của tất cả
các thang đo trong mô hình nghiên cứu. Hoạt
động tuyển dụng được các nhân viên đánh giá
cao nhất với giá trị trung bình đạt 4,03. Các
hoạt động QTNNL khác có giá trị trung bình
dao động giảm dần từ 3,83 đến 3,28, tương ứng
với các đánh giá từ phân vân đến đồng ý. Mức
độ cam kết của nhân viên với DNNVV chỉ
được đánh giá ở mức trung bình, trong đó cam
kết về tình cảm là 3,29 và cam kết gắn bó với
doanh nghiệp là 3,18. Kết quả này cho thấy,
nhân viên trong DNNVV tỏ ra khá phân vân, lo
lắng về sự cam kết của mình. Điều này được
giải thích bởi số liệu khảo sát được thu thập vào
thời điểm các DNNVV gặp rất nhiều khó khăn
sau khi trải qua dịch bệnh COVID-19. Hoạt
động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng dẫn đến
hoạt động QTNNL ít được đầu tư, mức độ gắn
bó của nhân viên cũng dễ bị suy giảm. Độ lệch
chuẩn của các thang đo xoay quanh giá trị từ
0,4 đến 0,6 cho thấy các ý kiến của nhân viên
khá tập trung. Các biến và thang đo sau đó được
kiểm định độ tin cậy thông qua phân tích
Crobach’s Alpha. Kết quả cho thấy, 6 nhóm
yếu tố của QTNNL và 2 nhóm yếu tố thể hiện
sự cam kết của nhân viên đều có giá trị
Cronbach’s Alpha lớn hơn 0,6; tất cả 35 thang
đo trong mô hình đều có hệ số tương quan biến
tổng lớn hơn 0,5. Như vậy, các biến và thang đo
trong mô hình đề xuất đều đạt độ tin cậy và có
thể sử dụng để phân tích tiếp [35].
ii) Phân tích nhân tố khám phá (EFA) và
tương quan
Kết quả kiểm định nhân tố khám phá cho
thấy các biến độc lập tải về 6 nhân tố. Hệ số
KMO cho giá trị 0,892 > 0,5 cho thấy phân tích
nhân tố phù hợp với tập dữ liệu nghiên cứu.
Bartlett’s Test of Sphericity có giá trị sig =
0,000 < 0,05 thể hiện các biến quan sát có
tương quan với nhau trong nhân tố (Bảng 2).
Tổng phương sai giải thích tích lũy 55,923%
cho thấy việc sử dụng EFA để phân tích là phù
hợp. Các hệ số tải của các biến đều dao động từ
giá trị 0,5 đến 0,7 thể hiện biến quan sát có ý
nghĩa thống kê tốt.
Với biến phụ thuộc, các biến liên quan đến
sự cam kết của nhân viên đều tải về 2 nhân tố
(Sự cam kết tình cảm, Sự cam kết gắn bó) với
hệ số KMO cho giá trị 0,873 > 0,5. Với giá trị
sig = 0,000 < 0,05. Tổng phương sai giải thích
tích lũy 46,358% cho thấy việc sử dụng EFA để
phân tích là phù hợp. Các hệ số tải của các biến
đều dao động từ 0,46 đến 0,56 cho thấy các
biến này có ý nghĩa thống kê tốt.
Kết quả phân tích tương quan (Bảng 3) cho
thấy các hệ số tương quan giữa các biến nằm
trong khoảng -1,1. Các giá trị Sig = 0,000 (nhỏ
hơn 0,05), điều này thể hiện các nhân tố độc lập
có tương quan với nhân tố phụ thuộc
(AFFCOM, CONCOM).
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
44
c
Bảng 1. Kết quả thống kê
Mã hóa Giải thích N
Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị
lớn nhất
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Giá trị
Cronbach’s
Alpha
REC Tuyển dụng 379 2,20 5,00 4,0285 0,37689 0,842
DEV Đào tạo, phát triển 379 1,80 4,80 3,8338 0,52019 0,833
EVA
Đánh giá thực hiện
công việc
379 2,00 5,00 3,7288 0,53024 0,810
REW Chế độ đãi ngộ 379 1,33 5,00 3,4010 0,63436 0,817
SEC An toàn công việc 379 1,33 5,00 3,2802 0,66122 0,844
SUP
Môi trường và sự hỗ
trợ
379 1,80 5,00 3,4760 0,48939 0,814
AFFCOM Cam kết tình cảm 379 2,00 4,80 3,2905 0,56504 0,817
CONCOM Cam kết gắn bó 379 1,00 4,25 3,1883 0,62057 0,848
Valid N Tổng 379
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả.
Bảng 2. Hệ số KMO và kiểm định Barlett
Hệ số Kaiser-Meyer-Olkin (KMO) 0,892
Kiểm định Barlett Giá trị chi bình phương xấp xỉ 4636,865
Df 325
Mức ý nghĩa 0,000
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả.
Bảng 3. Sự tương quan giữa các biến
REC DEV EVA REW SEC SUP AFFCOM CONCOM
REC 1 0,331** 0,321** 0,259** 0,328** 0,224** 0,328** 0,229**
DEV 1 0,381** 0,429** 0,221** 0,377** 0,233** 0,188**
EVA 1 0,235** 0,395** 0,264** 0,336** 0,330**
REW 1 0,267** 0,348** 0,210** 0,316**
SEC 1 0,399** 0,300** 0,251**
SUP 1 0,521** 0,264**
AFFCOM 1 0,355**
CONCOM 1
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả.
iii) Kết quả phân tích hồi quy với biến Sự
cam kết tình cảm
Kết quả bảng 4 cho thấy hoạt động Đào tạo và
phát triển nhân lực, Đánh giá thực hiện công việc,
Chế độ đãi ngộ, Môi trường và sự hỗ trợ trong
công việc có tác động đến cam kết tình cảm của
nhân viên (R2 điều chỉnh = 0,344, F = 36,053,
p < 0,01). Trong đó, biến Môi trường làm việc
và sự hỗ trợ trong công việc có hệ số hồi quy
chuẩn hóa có giá trị lớn nhất (0,259) đồng nghĩa
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
45
đây là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự
cam kết tình cảm của nhân viên. Kết quả này
cho thấy, những DNNVV tạo được môi trường
làm việc phù hợp, thân thiện, có sự quan tâm,
hỗ trợ nhân viên trong công việc sẽ làm gia tăng
nhiều nhất sự cam kết về tình cảm của nhân
viên với tổ chức. Chế độ đãi ngộ là yếu tố ảnh
hưởng lớn tiếp theo đến sự cam kết về tình cảm
của nhân viên (hệ số hồi quy chuẩn hóa 0,182).
Bên cạnh đó, hoạt động đánh giá thực hiện công
việc và đào tạo, phát triển nhân lực là những
yếu tố giúp DNNVV thu hút và duy trì sự cam
kết của nhân viên (hệ số hồi quy chuẩn hóa
tương ứng là 0,166 và 0,081). Trong kết quả
nghiên cứu này, hoạt động Tuyển dụng nhân
lực và Sự an toàn trong công việc không có ảnh
hưởng có ý nghĩa thống kê đến sự cam kết tình
cảm của nhân viên.
iv) Kết quả phân tích hồi quy với biến Sự
cam kết gắn bó liên tục
Số liệu trong Bảng 5 chỉ ra rằng hoạt động
Đánh giá thực hiện công việc, Chế độ đãi ngộ
và Sự an toàn trong công việc có ý nghĩa thống
kê và có tác động tích cực đến cam kết gắn bó
lâu dài của nhân viên (R2 điều chỉnh = 0,218,
F = 19,093, p < 0,01).
Bảng 4. Kết quả phân tích hồi quy với biến Sự cam kết về tình cảm
Mô hình Hệ số hồi quy chuẩn hóa Thống kê (t) Mức ý nghĩa Sig.
1
(Hằng số) 1,308 0,192
Tuyển dụng 0,112 2,287 0,123
Đào tạo, phát triển 0,081** 1,409 0,043
Đánh giá thực hiện công việc 0,166** 2,438 0,015
Chế độ đãi ngộ 0,182*** 2,919 0,004
An toàn công việc -0,093 -1,629 0,104
Môi trường và sự hỗ trợ 0,259*** 3,732 0,000
R2 0,354
R2 điều chỉnh 0,344
F 36,053
Ghi chú: ***, ** và * ký hiệu mức ý nghĩa tương ứng 1%, 5% và 10%.
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả.
Bảng 5. Kết quả phân tích hồi quy với biến Sự cam kết gắn bó liên tục
Mô hình Hệ số hồi quy chuẩn hóa Thống kê (t) Mức ý nghĩa Sig.
1
(Hằng số) 3,171 0,002
Tuyển dụng 0,117 2,109 0,066
Đào tạo, phát triển -0,041 -0,622 0,534
Đánh giá thực hiện công việc 0,260*** 3,355 0,001
Chế độ đãi ngộ 0,133** 2,008 0,045
An toàn công việc 0,127** 1,970 0,050
Môi trường và sự hỗ trợ -0,123 -1,556 0,121
R2 0,237
R2 điều chỉnh 0,218
F 19,093
Ghi chú: ***, ** và * ký hiệu mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả.
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
46
Trong đó, Đánh giá thực hiện công việc có
hệ số hồi quy chuẩn hóa cao nhất (0,260) cho
thấy nếu hoạt động này được thực hiện công
bằng, hợp lý, đúng quy trình sẽ giúp tăng cường
sự cam kết lâu dài của nhân viên trong tổ chức.
Bên cạnh đó, Chế độ đãi ngộ và Sự an toàn
trong công việc có ảnh hưởng tích cực đến sự
cam kết lâu dài của nhân viên (giá trị hệ số hồi
quy chuẩn hóa tương ứng là 0,133, 0,127). Các
hoạt động khác của QTNNL như Tuyển dụng,
Đào tạo và phát triển nhân lực, Môi trường làm
việc và sự hỗ trợ của doanh nghiệp không có
tác động có ý nghĩa thống kê đến sự cam kết
gắn bó lâu dài của nhân viên.
Tổng hợp kết quả phân tích hồi quy cho
thấy, các biến của hoạt động QTNNL có ảnh
hưởng đáng kể đến cam kết của nhân viên trong
DNNVV. Trong đó, Đào tạo và phát triển nhân
lực, Đánh giá thực hiện công việc, Chế độ đãi
ngộ, Môi trường và sự hỗ trợ trong công việc có
tác động tích cực đến cam kết tình cảm. Đánh
giá thực hiện công việc, Chế độ đãi ngộ và Sự
an toàn trong công việc có tác động tích cực
đến cam kết gắn bó lâu dài của nhân viên với
DNNVV. Các giả thuyết H2, H3, H4, H5, H6
được chấp nhận. Hoạt động Tuyển dụng nhân
lực không có ý nghĩa thống kê trong phân tích
hồi quy nên giả thuyết H1 bị loại bỏ. Những
phát hiện này tiếp tục khẳng định mối quan hệ
tích cực giữa QTNNL và sự cam kết, gắn bó
của nhân viên với DNNVV.
5. Kết luận và kiến nghị
Năm 2019, số lượng doanh nghiệp đang
hoạt động trong khu vực dịch vụ chiếm 61,7%
tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt
Nam với mức tăng trưởng 7,3% và đóng góp
45% vào mức tăng chung của toàn nền kinh tế
[2]. Trong đó, số lượng doanh nghiệp ở Hà Nội
chiếm 20,6% tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động trong cả nước. Với vai trò và tầm quan
trọng như vậy, để tiếp tục hoạt động và có cơ
hội phát triển trong thời gian tới, các DNNVV
tại Hà Nội cần tiếp tục chú trọng vào hoạt động
QTNNL nhằm tăng cường sự gắn bó của nhân
viên thông qua một số giải pháp như sau:
i) DNNVV cần đảm bảo sự an toàn về
công việc.
Dịch bệnh COVID-19 xảy ra trên toàn thế
giới khiến cho các DNNVV, đặc biệt là doanh
nghiệp trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ gặp
rất nhiều khó khăn. Các hoạt động giao thương,
dịch vụ phục vụ cuộc sống bị hạn chế khiến cho
sự an toàn về công việc bị đe dọa, nhiều
DNNVV có nguy cơ đóng cửa và phá sản.
Trong bối cảnh đó, các chủ DNNVV một mặt
cần nhanh nhạy, sáng tạo trong việc học hỏi,
điều chỉnh sản phẩm và chiến lược kinh doanh
phù hợp nhằm duy trì công việc tối thiểu cho
nhân viên. Mặt khác, các chủ doanh nghiệp cần
tạo niềm tin cho nhân viên, giúp nhân viên có
công việc và ổn định cuộc sống. Chính thời điểm
khó khăn này là cơ hội để chủ doanh nghiệp và
nhân viên thấu hiểu và chia sẻ với nhau, cùng hỗ
trợ nhau vượt qua những khó khăn.
ii) Các doanh nghiệp cần chú trọng xây
dựng môi trường làm việc tích cực, thân thiện
và tăng cường sự quan tâm, hỗ trợ nhân viên.
Các DNNVV cần chú ý lắng nghe nhân
viên, tăng cường sự quan tâm giữa cấp trên với
cấp dưới và giữa đồng nghiệp với nhau; chú
trọng phát triển mối quan hệ gắn kết, thân thiện,
hỗ trợ nhau trong công việc. Do đặc thù công
việc và điều kiện nguồn lực của DNNVV, để
đáp ứng yêu cầu công việc, các nhân viên trong
DNNVV thường phải đảm nhận nhiều vị trí
công việc với những nhiệm vụ khác nhau. Họ là
những người năng động, nhanh nhẹn và linh
hoạt trong công việc. Tuy nhiên, cơ hội thăng
tiến, phát triển và chế độ đãi ngộ của DNNVV
dành cho nhân viên còn hạn chế khiến họ có
tâm lý tìm kiếm môi trường làm việc tốt hơn.
Để tăng cường sự cam kết của nhân viên, các
chủ doanh nghiệp cần đầu tư cơ sở vật chất,
máy móc thiết bị cập nhật, tạo môi trường làm
việc gần gũi, cởi mở, khuyến khích nhân viên
chia sẻ quan điểm và ý kiến của mình, từ đó
tăng tính chủ động và sáng tạo của nhân viên.
DNNVV có thể thực hiện được điều này thông
qua xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thường
xuyên tổ chức và thu hút nhân viên tham gia
các hoạt động tập thể,
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
47
iii) Các DNNVV cần tăng cường chế độ đãi
ngộ cho nhân viên; gắn chế độ đãi ngộ với đánh
giá kết quả thực hiện công việc.
Chế độ đãi ngộ là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến sự cam kết của nhân viên trong
DNNVV. Nhân viên sẽ tìm kiếm và muốn gắn
bó với những doanh nghiệp có chế độ đãi ngộ
hợp lý, giúp họ trang trải cuộc sống cá nhân và
gia đình. Vì vậy, các DNNVV cần đổi mới chế
độ đãi ngộ, xây dựng chính sách tiền lương, tiền
thưởng phù hợp trên cơ sở đa dạng hóa các
khoản thu nhập, chú trọng cả chế độ đãi ngộ tài
chính và phi tài chính, Bên cạnh đó, việc
thực hiện đánh giá kết quả công việc theo các
tiêu chí rõ ràng, công khai; gắn chế độ lương,
thưởng và phúc lợi với kết quả công việc sẽ
khiến nhân viên thấy được đánh giá công bằng,
ghi nhận xứng đáng. Đây là cơ hội để nhân viên
phát huy tài năng, kiến thức, thúc đẩy họ cam
kết, gắn bó nhiều hơn với tổ chức của mình.
Lời cảm ơn
Bài viết nằm trong khuôn khổ đề tài
KQ.19.04, được tài trợ bởi Trường Đại học
Kinh tế - ĐHQGHN.
Tài liệu tham khảo
[1] G. Dessler, Human Resource Management, 12th
edition, Pearson Prentice Hall, 2011.
[2] Ministry of Planning and Investment, The While
Booke on Vietnamese Businesses 2020, Statistical
Publishing House, Hanoi, 2020.
[3] D. Giauquea, F. Resenterraa, M. Siggenb, “The
relationship between HRM practices and
organizational commitment of knowledge
workers. Facts obtained from Swiss SMEs”,
Human Resource Development International,
13(2) (2010) 185-205.
[4] R.T. Mowday, R.M. Steers, L.W. Porter, “The
Measurement of Organization Commitment”,
Journal of Vocational Behavior 14 (1979) 224-274.
[5] N.J. Allen, J.P. Meyer, “The measurement and
antecedents of affective, continuance and normative
commitment to the organization”, Journal of
Occupational Psychology, 63 (1990) 1-18.
[6] P. Crewson, “Public service motivation: Building
empirical evidence of incidence and effect”,
Journal of Public Administration Research and
Theory 7 (1997) 499-518.
[7] A. Newman, R. Thanacoody, W. Hui, “The impact
of employee perceptions of training on
organizational commitment and turnover intentions:
a study of multinationals in the Chinese service
sector”, The International Journal of Human
Resource Management 22(8) (2011) 1765-1787.
[8] M.A. Nassar, “Human resource management
practices and organizational commitment in four-
and five-star hotels in Egypt”, Journal of Human
Resources in Hospitality & Tourism, 2017.
[9] S. Wood, “Human resource management and
performance”, International Journal of
Management Reviews 1(4) (1999) 367-413.
[10] S.A. Way, “High Performance Work Systems and
Intermediate Indicators of Firm Performance
within the US Small Business Sector”, Journal of
Management 28(6) (2002) 765-785.
[11] T.D. Wall, S.J. Wood, “The romance of human
resource management and business performance,
and the case for big science”, Human Relations,
58(4) (2005) 429-462.
[12] A. Price, Human Resource Management in a
Business Context, 2nd Edition, London:
Thomson, 2004.
[13] R.A. Noe. J.R. Hollenneck, B. Gerhart, P.M.
Wright, Human Resource Management: Gaining a
Competitive Advantage, 2006.
[14] S. Ahmad, R.G. Schroeder, “The impact of human
resource management practices on operational
performance: Recognizing country and industry
differences”, Journal of Operations Management,
21(1) (2003) 19-43.
[15] Z. Senyucel, Managing the human resource in the
21st century, London, UK: BookBoon, 2009.
[16] M.A. Armstrong, handbook of personnel
management practice, Kogan Page, London:
UK, 2003.
[17] R. Shannak, Z. Al-Zu’bi, M. Alshurideh,
H. Altamony, “A theoretical perspective on the
relationship between knowledge management
systems, customer knowledge management, and
firm competitive advantage”, European Journal of
Social Sciences 32 (2012) 520-532.
[18] S. Al-Sarayrah, B.Y. Obeidat, Z. Al-Salti, T.
Kattoua, “The effect of culture on strategic human
resource management practices: A theoretical
perspective”, International Journal of Business
Management and Economic Research 7(4) (2016)
704-716.
[19] D. Guest, “Human Resource Management and
performance: a review and research agenda”,
D.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 38-48
48
International Journal of Human Resource
Management 8(3) (1997) 263-76.
[20] J. Pfeffer, “Seven practices of successful
organizations”, California Management Review,
40 (2) (1998) 96-124.
[21] S. Ramlall, “Managing Employee Retention as a
Strategy for Increasing Organizational
Competitiveness”, Applied Human Resource
Management Research 8 (2003) 63-72.
[22] J. Chew, C.C.A. Chan, “Human Resource
Practices, Organizational Commitment and
Intention to Stay”, International Journal of
Manpower 29(6) (2008) 503-522.
[23] H. Bisharat, B.Y. Obeidat, A. Alrowwad, A.
Tarhini, I. Mukattash, “The Effect of Human
Resource Management Practices on
Organizational Commitment in Chain Pharmacies
in Jordan”, International Journal of Business and
Management, 12(1) (2017) 50-67.
[24] P. Suksod, C. Cruthaka, “The Effect of Human
Resource Practices on Employee Organizational
Commitment: Findings from the Pharmaceutical
Industry in Thailand”, System Revision Pharmacy
11(3) (2020) 77-86.
[25] J.P. Meyer, C.A. Smith, “HRM practices and
organizational commitment: Test of a mediation
model”, Canadian Journal of Administrative
Sciences 17(4) (2000) 319 - 331.
[26] A.K. Paul, R.N. Anantharaman, “Influence of
HRM practices on organizational commitment: A
study among software professionals in India”,
Human Resource Development Quarterly 15
(2004) 77-88.
[27] V. Browning, “The relationship between HRM
practices and service behaviour in South African
service organizations”, International Journal of Human
Resource Management 17 (2006) 1321-1338.
[28] Payne, Huffman, “A longitudinal examination of
the influence of mentoring on organizational
commitment and turnover”, Academy of
Management Journal 48 (2005) 158-168.
[29] H.T. Ho, H.L. Pham, “The Organizational
Commitment of Employees in Khanh Hoa Travel
Company”, Journal of Economic Development,
264 (2012) 56-64.
[30] T.A. Pham, T.H.D. Nguyen, “Human Resource
Management and Organizational Commitment”,
VNU Journal of Science: Economics and Business
29(4) (2013) 24-34.
[31] N.T. Nguyen, “The Impact of Human Resource
Management to Employee Organizational
Commitment”, Journal of Economics and
Development 212(II) (2015) 43-51.
[32] J.M. Geringer, C.A. Frayne, J.F. Milliman, “In
Research of “Best Practices” in International
Human Resource Management: Research Design
and Methodology”, Human Resource
Management 41(1) (2002) 5-30.
[33] C.L. Wang, T. Indridason, M.N.K. Saunders,
“Affective and continuance commitment in
public, private partnership”, Employee Relations,
32(4) (2010) 396-417.
[34] J.F. Hair, R.E. Anderson, R.L. Tatham, W.C.
Black, Multivariate Data Analysis, Fifth Edition,
Prentice-Hall Intenational, Inc, 1998.
[35] D.T. Nguyen, T.M.T. Nguyen, Research
Methodology in Business Administration,
Statistical Publisher, 2009.
p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_thuc_tien_quan_tri_nguon_nhan_luc_den_su_cam_k.pdf