This study was conducted to evaluate the effect of combination factors of salinity
and temperature on the growth and survival rate of hard clam (Meretrix meretrix) juveniles. Hard
clam was cultured in laboratory at three different temperatures (150C, 270C and 350C) in
combination with three different salinity conditions (5‰, 20‰ and 35‰). Each experiment was
carried out in triplicate and remained for one month. The results show that: At the experimental
condition of 20‰ and 270C of salinity and temperature, the growth of hard clam juveniles was
fastest and survival rate of hard clam juveniles was highest (86%). In the 150C - 20‰, 350C - 20‰,
270C - 5‰, 150C - 35‰, 270C - 35‰, the growth of hard clam juveniles was slower and their
survival rate was lower with 61.3%, 42.6%, 39.3%, 10.7% and 60.6%, respectively. In the 150C -
5‰, 350C - 5‰ and 350C - 35‰, clam was dead all. Our findings are scientific basis for
aquacultural planning, farm management. In addition, these findings will contribute to building
cultural techniques of clam appropriate for each production season together with protection and
development of hard clam resource.
6 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 560 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng đồng thời của nhiệt độ và độ mặn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ngao dầu (meretrix meretrix) giai đoạn giống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
341
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 4; 2015: 341-346
DOI: 10.15625/1859-3097/15/4/6381
ẢNH HƯỞNG ĐỒNG THỜI CỦA NHIỆT ĐỘ VÀ ĐỘ MẶN
ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA NGAO DẦU
(MERETRIX MERETRIX) GIAI ĐOẠN GIỐNG
Nguyễn Xuân Thành*, Đỗ Công Thung
Viện Tài nguyên và Môi trường biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
*E-mail: thanhnx@imer.ac.vn
Ngày nhận bài: 29-5-2015
TÓM TẮT: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng đồng thời của nhiệt độ
và độ mặn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ngao dầu (Meretrix meretrix) ở giai đoạn giống. Thí
nghiệm được tiến hành với ba ngưỡng nhiệt độ khác nhau (150C, 270C và 350C), kết hợp với ba
ngưỡng độ mặn khác nhau (5‰, 20‰ và 35‰), ba lần lặp lại cho mỗi ngưỡng thí nghiệm. Kết quả
cho thấy sau một tháng nuôi trong điều kiện thí nghiệm: Ở ngưỡng độ mặn 20‰ và nhiệt độ 270C
ngao dầu giống sinh trưởng nhanh nhất, tỷ lệ sống cao nhất (86%); Ở những ngưỡng độ mặn 5‰
và nhiệt độ 150C, 5‰ và nhiệt độ 350C, 35‰ và nhiệt độ 350C ngao chết toàn bộ sau quá trình thí
nghiệm; Ở các ngưỡng độ mặn 20‰ và nhiệt độ150C, độ mặn 20‰ và nhiệt độ 350C, độ mặn 5‰
và nhiệt độ 270C , độ mặn 35‰ và nhiệt độ150C, độ mặn 35‰ và nhiệt độ 270C ngao sinh trưởng
chậm hơn, tỷ lệ sống thấp, với các giá trị tương ứng là 61,3%, 42,6%, 39,3%, 10,7% và 60,6%. Kết
quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho việc quy hoạch, quản lý vùng nuôi, xây dựng kỹ thuật nuôi
phù hợp cho từng mùa vụ sản xuất, đồng thời bảo tồn và phát triển nguồn lợi ngao dầu.
Từ khóa: Nhiệt độ, độ mặn, ngao dầu, sinh trưởng, tỷ lệ sống, giai đoạn giống.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngao dầu (Meretrix meretrix) là một trong
những đối tượng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao
thuộc họ Veneridae. Ngao phân bố tự nhiên,
cho sản lượng lớn và được coi là loài bản địa
vùng triều ven biển các tỉnh miền Bắc như
Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Nghệ An.
Những năm gần đây, nguồn lợi ngao dầu suy
giảm nhanh chóng, một số địa phương như
Thái Bình, Nam Định ngao dầu trở lên hiếm
dần và có nguy cơ mất hẳn [1, 2]. Sự suy giảm
nguồn lợi ngao dầu do nhiều nguyên nhân,
ngoài nguyên nhân môi trường vùng cửa sông
ven biển thay đổi, thì sự phát triển quá mức
diện tích nuôi ngao Bến Tre (Meretrix lyrata)
cũng là một trong những nguyên nhân quan
trọng. Ngao Bến Tre là loài phân bố chủ yếu tại
vùng ven biển Nam Bộ được di giống ra miền
Bắc để nuôi và đã nhanh chóng thích nghi với
môi trường tại đây [2], làm thay đổi cấu trúc
quần xã sinh vật, cạnh tranh môi trường sống,
suy giảm đa dạng sinh học.
Trong các yếu tố sinh thái thì nhiệt độ và độ
mặn là những yếu tố sinh thái quan trọng quyết
định đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển
của động vật thân mềm hai mảnh vỏ nói chung,
ngao nói riêng. Bài viết này sẽ cung cấp những
thông tin về sự ảnh hưởng đồng thời của hai
nhân tố nhiệt độ và độ mặn ở các ngưỡng khác
nhau đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ngao
dầu (Meretrix meretrix) giai đoạn giống, nhằm
cung cấp cơ sở khoa học việc quy hoạch vùng
nuôi, xây dựng kỹ thuật nuôi phù hợp cho từng
vùng, đảm bảo cho ngao sinh trưởng phát triển,
Nguyễn Xuân Thành, Đỗ Công Thung
342
nâng cao năng suất, sản lượng, bảo vệ nguồn
lợi và phát triển bền vững nghề nuôi ngao.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và thời gian
Thí nghiệm được thực hiện tại Trạm
Nghiên cứu biển Đồ Sơn, Viện Tài nguyên và
Môi trường biển. Thời gian tiến hành thí
nghiệm từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2012.
1.350 cá thể ngao dầu được đưa vào
nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ kết hợp độ
mặn có kích cỡ ban đầu với chiều dài 29,39
1,12 mm, khối lượng 6,52 0,44 g.
Dụng cụ và thiết bị thí nghiệm
Dụng cụ thí nghiệm: Thùng xốp kích thước
60 cm × 30 cm × 30 cm (54 lít), cân điện tử
Prescisa XT 120A của Thụy Sĩ độ chính xác
đến 0,01 gam, thước kẹp panmer, dao, kéo mổ
lấy phần thân mềm.
Thiết bị đo môi trường: Máy đo DO hiệu
YSI 55 của Mỹ, Máy đo pH cầm tay hiệu
pH315i/set của Đức, khúc xạ kế hiệu ATAGO.
Hệ thống sục khí: dây dẫn khí và đá sủi.
Cát biển rửa sạch và nước biển đã được lọc,
xử lý.
Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí với 9 nghiệm thức
như sau:
5‰ 20‰ 35‰
150C 5‰ - 150C (I) 20‰ - 150C (IV) 35‰ - 150C (VII)
270C 5‰ - 270C (II) 20‰ - 270C (V) 35‰ - 270C (VIII)
350C 5‰ - 350C (III) 20‰ - 350C (VI) 35‰ - 350C (IX)
Ba lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức. Các
yếu tố môi trường phi thí nghiệm luôn được
theo dõi và điều chỉnh ở các lô tương đương
nhau, pH trong các lô thí nghiệm từ 8,21 - 8,52.
Hàm lượng ôxy hòa tan > 6 mg O2/lít, các yếu
tố môi trường nền nằm trong ngưỡng thích hợp
cho ngao sinh trưởng và phát triển [3].
Cơ sở để lựa chọn các ngưỡng nhiệt độ và
độ mặn làm thí nghiệm: Ba ngưỡng nhiệt độ
150C, 270C và 350C chọn làm thí nghiệm trên
cơ sở dựa vào thực trạng nhiệt độ nước tại các
vùng triều cửa sông ven biển miền Bắc, mùa
đông nhiệt độ thấp phổ biến giao động ở 150C,
mùa hè nhiệt độ cao, phổ biến ở 350C và mùa
chuyển tiếp phổ biến ở 270C; Ba ngưỡng độ
mặn 5‰, 20‰ và 35‰ làm thí nghiệm, trên cơ
sở dựa vào thực trạng độ mặn tại các vùng triều
vùng cửa sông ven biển miền Bắc, nơi có độ
mặn biến động lớn theo mùa. Thời gian những
tháng mùa mưa (mùa hè), độ mặn xuống thấp
trong khoảng 1 - 15‰, phổ biến 5‰. Mùa
chuyển tiếp độ mặn tương đối ổn định, phổ
biến 20‰. Thời gian những tháng mùa khô
(mùa đông) độ mặn lên cao, thời điểm cực đoan
đạt độ muôi 35‰ và thường kéo dài.
Các ngưỡng nhiệt độ, độ mặn thường hay xảy
ra trong thực tế có tác động rất lớn đến ngao nuôi
ngoài tự nhiên được lựa chọn làm thí nghiệm.
Ngao được thu tại bãi bồi xã Giao Xuân,
huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định về địa điểm
thí nghiệm và được nuôi thuần dưỡng trong
khoảng 1 tuần với các điều kiện môi trường
tương đương môi trường ngoài tự nhiên nơi
ngao sống trước khi đưa về thí nghiệm.
Lấy mẫu ngẫu nhiên cân khối lượng toàn
thân, khối lượng thân mềm. Đo kích thước
chiều dài, chiều rộng, chiều cao của 30 cá thể
của đàn ngao trước khi đưa vào làm thí nghiệm.
Lựa chọn 50 cá thể khỏe mạnh làm thí
nghiệm cho một lô thí nghiệm với mỗi nghiệm
thức trong một lần lặp.
Điều chỉnh độ mặn bằng bằng nước chạt
(nước mặn bão hòa) và nước ngọt. Điều chỉnh
nhiệt độ bằng heater nâng nhiệt và đá lạnh (làm
đá trong chai nhựa 0,5 - 1 lít). Thay nước có
cùng nhiệt độ và độ mặn.
Nguồn thức ăn cho ngao: Vi tảo dị dưỡng
(Schizochytrium), được quay li tâm thu sinh
S‰
ToC
Ảnh hưởng đồng thời của nhiệt độ và độ mặn
343
khối, do Viện Công nghệ Sinh học cung cấp để
chủ động trong việc tiến hành thí nghiệm, ngoài
ra các loài tảo Nannochloropsis oculata,
Chlorella sp, Chaetoceros sp được nuôi sinh
khối trong các túi nilon và thùng xốp cho ngao
ăn. Thức ăn là hỗn hợp các loài tảo, các loài vi
tảo này là thức ăn phù hợp cho ngao sinh
trưởng phát triển, mật độ hỗn hợp vi tảo cho
ngao ăn được duy trì ở mức từ 80.000 -
100.000 tb/ml. Cho ăn ngày 2 lần vào buổi sáng
và buổi chiều, với lượng thức ăn ở các lô thí
nghiệm là tương đương.
Xử lí số liệu
Các số liệu được thể hiện bằng TB ± SD
(độ lệch chuẩn) sử dụng công cụ thống kê mô
tả (Descriptive Statistics) và Anova để phân
tích số liệu trên Microsoft Office EXCEL. Cụ
thể như sau:
Tính toán sinh trưởng: Sự tăng trưởng của
ngao, được thể hiện bằng chiều dài trung bình
của vỏ (mm) và khối lượng trung bình toàn thân
và khối lượng thịt (g), được cân đo trước khi đưa
vào làm thí nghiệm và sau khi kết thúc thí
nghiệm, bằng cách lấy ngẫu nhiên 20 - 30 con
ngao. Sự chênh lệch chiều dài và khối lượng
giữa hai lần kiểm tra là sinh trưởng của ngao.
Tốc độ sinh trưởng của ngao được tính
toán dựa theo công thức của Cao Fujun et al.,
(2009) [4].
Tốc độ sinh trưởng tương đối (%/ngày) -
Specific Growth Rate (SGR).
Tăng trưởng khối lượng tương đối:
SGR (%.ngày-1) = 100*(LnWf - LnWi)/t;
Tăng trưởng chiều dài tương đối:
SGR (%.ngày-1) = 100*(LnLf - LnLi)/t.
Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối: DGR (Daily
Growth Rate)
Tăng trưởng khối lượng tuyệt đối:
DGR (g.ngày-1) = (Wf - Wi )/t;
Tăng trưởng chiều dài tuyệt đối:
DGR (mm.ngày-1) = (Lf - Li)/t.
Trong đó: Wi and Wf theo thứ tự là khối lượng
ban đầu và khối lượng cuối cùng; Li and Lf theo
thứ tự là chiều dài ban đầu và chiều dài cuối
cùng, t là số ngày thí nghiệm.
Tỷ lệ sống: Tỉ lệ sống của ngao (%) = 100
× (Số ngao còn sống/số ngao thả ban đầu).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Sinh trưởng chiều dài của ngao
Kết quả ảnh hưởng kết hợp của nhiệt độ và
độ mặn đến sinh trưởng chiều dài của ngao
được thể hiện bảng 1.
Bảng 1. Sinh trưởng theo chiều dài của ngao dầu trong điều kiện thí nghiệm
Lô TN
Chỉ tiêu sinh trưởng
SGR (%/ngày) DGR (mm/ngày)
5‰ 20‰ 35‰ 5‰ 20‰ 35‰
150C - 0,131
(0,033) Ab
0,039
(0,007) Aa
- 0,039
(0,010) Ab
0,011
(0,002 ) Ac
270C 0,098
(0,008 ) Ba
0,443
(0,011) Bb
0,121
(0,008) Ba
0,029
(0,002) Ba
0,139
(0,004) Bb
0,036
(0,002) Ba
350C - 0,075
(0,017) Cb
- - 0,022
(0,005) Ab
-
Ghi chú: Số liệu có các chữ cái in thường khác nhau trong cùng một hàng cho thấy sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Số liệu có chữ cái in hoa khác nhau trong cùng một cột cho
thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Độ lệch chuẩn được đặt trong dấu ngoặc đơn, dấu.
“-” không có số liệu.
Kết quả cho thấy ở nghiệm thức V, khi kết
hợp nhiệt độ 27 0C với 20‰ ngao sinh trưởng
về chiều dài nhanh nhất đạt 0,139 mm/ngày,
tương đương 0,443 %/ngày (xấp xỉ
13,3 %/tháng), cũng tương tự ở các nghiệm
thức II và VIII ở ngưỡng nhiệt độ 270C kết hợp
Nguyễn Xuân Thành, Đỗ Công Thung
344
các ngưỡng độ mặn khác nhau đều cho giá trị
cao hơn ở các nghiệm thức khác. Tại ba
nghiệm thức I (150C và 5‰), III (350C và 5‰)
và IX (350C và 35‰), không thu được số liệu
sinh trưởng của ngao, do khi kết thúc thí
nghiệm tại các nghiệm thức này ngao chết
100%, giá trị trung bình giữa các lô thí nghiệm
trong mỗi nghiệm thức không có sự sai khác
lớn. Như vậy ở những điều kiện môi trường
nhiệt độ và độ mặn đồng thời bất lợi ngao sinh
trưởng chậm, thậm chí sinh trưởng âm dẫn đến
gầy yếu và chết đồng loạt.
Sinh trưởng về khối lượng của ngao
Kết quả ảnh hưởng kết hợp của nhiệt độ, độ
mặn đến sinh trưởng về khối lượng của ngao
dầu thể hiện tại bảng 2.
Bảng 2. Sinh trưởng theo khối lượng của ngao dầu trong điều kiện thí nghiệm
Lô thí
nghiệm
Khối
lượng
Chỉ tiêu sinh trưởng
SGR (%/ngày) DGR (g/ngày)
5‰ 20‰ 35‰ 5‰ 20‰ 35‰
150C
BW - 0,391 (0,071)Ab
0,112
(0,027)Aa -
0,027
(0,005) Ab
0,007
(0,002) Aa
TW - 0,694
(0,083) Ab
0,211
(0,008)Ac
- 0,006
(0,001) Ab
0,002
(0,00) Aa
270C
BW 0,199
(0,042) Ba
1,808
(0,053)Bb
0,274
(0,058)B c
0,013
(0,003) Ba
0,153
(0,006)Bb
0,019
(0,004)Ba
TW 0,422
(0,034)Ba
1,986
(0,046)Bb
0,727
(0,112) Bc
0,004
(0,000)Ba
0,022
(0,001)Bb
0,007
(0,001)Aa
350C
BW -
0,186
(0,027) Cb - -
0,012
(0,002)Cb -
TW -
0,200
(0,041) Cb - -
0,002
(0,000)Ca -
Ghi chú: BW (Body weight)- Khối lượng toàn thân; TW (Tissue weight )- Khối lượng thân
mềm. Số liệu có các chữ cái in thường khác nhau trong cùng một hàng, số liệu có chữ cái in hoa
khác nhau trong cùng một cột cho thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Độ lệch chuẩn
được đặt trong dấu ngoặc đơn, “-” không có số liệu.
Tương tự tăng trưởng về chiều dài, tăng
trưởng về khối lượng ở nghiệm thức V ngao
dầu tăng trưởng về khối lượng toàn thân (BW)
và khối lương thân mềm (TW) là nhanh nhất
(bảng 2), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05), mức tăng trưởng về khối lượng toàn
thân tại nghiệm thức này trung bình là
0,153 g/tháng, tương ứng 1,8 %/ngày (xấp xỉ
54,2 %/tháng), tăng trưởng về khối lượng thân
mềm trung bình là 0,022 g/tháng, tương ứng
1,9 %/ngày (59,5 %/tháng). Ở các nghiệm thức
khác (II, IV, VI, VII, VIII) do yếu tố nhiệt độ
và độ mặn không phù hợp, làm ngao kém trao
đổi chất, sinh trưởng chậm. Ở các nghiệm thức
I, III, IX cả hai yếu tố nhiệt độ và độ mặn đều
bất lợi là ngao ngậm chặt vỏ, dừng trao đổi chất
dẫn đến mất năng lượng gầy yếu và chết
hàng loạt.
Ảnh hưởng của nhiệt đô - độ mặn đến tỷ lệ
sống của ngao dầu
Tỷ lệ sống của ngao dầu trong điều kiện thí
nghiệm khác nhau thể hiện tại hình 1.
Ngao dầu chịu tác động rất lớn của nhiệt độ
và độ mặn. Sau 30 ngày thí nghiệm có 3
nghiệm thức có tỉ lệ sống bằng 0% (hình 1),
trong đó ở nghiệm thức III (350C - 5‰) ngao
chết toàn bộ sau 3 ngày thí nghiệm, nghiệm
thức IX (350C - 35‰) chết toàn bộ sau 5 ngày
thí nghiệm, nghiệm thức I (150C - 5‰) chết
toàn bộ sau 11 ngày thí nghiệm, còn ở các
nghiệm thức khác ngao chết rải rác từ ngày thứ
7 cho đến khi kết thúc thí nghiệm. Ở nghiệm
thức VII (150C - 5‰) tỷ lệ sống của ngao dầu
đạt rất thấp, trung bình 10,6%, trong khi đó ở
nghiệm thức 270C - 20‰ tỷ lệ sống của ngao
đạt cao nhất (86%). Ở điều kiện ngoài ngưỡng
Ảnh hưởng đồng thời của nhiệt độ và độ mặn
345
thích hợp, trong cùng điều kiện độ mặn, ở
ngưỡng nhiệt độ thấp (150C), tỷ lệ sống của
ngao dầu cao hơn ở nhiệt độ cao (350C) và
trong cùng điều kiện nhiệt độ ở tại ngưỡng độ
mặn thấp (5‰) tỷ lệ sống của ngao thấp hơn ở
ngưỡng độ mặn cao (35‰). Ở tất cả các
ngưỡng độ muối kết hợp với ngưỡng nhiệt độ
cao (350C) ngao dầu dễ chết hơn.
Hình 1. Tỷ lệ sống của ngao dầu tại các
nghiệm thức thí nghiệm
Ghi chú: I: 5‰ -150C; II: 5‰ -270C ; III: 5‰ -
350C; IV: 20‰ -150C; V: 20‰ -270C; VI: 20‰ -
350C; VII: 35‰ -150C; VIII: 35‰ -270C;
IX: 35‰ - 350C.
Sự ảnh hưởng đồng thời của nhiệt độ và độ
mặn còn phụ thuộc vào kích cỡ ngao [5] và các
giai đoạn phát triển khác nhau trong vòng đời
ngao [4, 6]. Các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng
đồng thời hai nhân tố nhiệt độ và độ mặn phù
hợp với các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của
một nhân tố riêng rẽ [7, 8].
Từ kết quả thí nghiệm có thể giải thích cho
hiện tượng khiến ngao chết đồng loạt ngoài tự
nhiên vào một số thời điểm mùa hè và mùa
đông. Vào thời gian nắng nóng, thủy triều cạn
thời gian phơi bãi dài vào mùa hè, khiến nhiệt
độ nước ở bãi tăng cao, độ mặn tại bãi nơi ngao
sống do quá trình bốc hơi cũng tăng cao, cũng
như những ngày thời tiết oi bức nhiệt độ cao lại
có mưa, lũ đột ngột làm độ mặn tại bãi xuống
thấp nhanh, hoặc vào những ngày mùa đông
khi nhiệt độ nước xuống thấp kéo dài, cùng lúc
đó độ mặn giảm hoặc tăng cao đột ngột. Đây là
những thời điểm khiến ngao ngoài tự nhiên
chết với tỷ lệ lớn.
Vì vậy cần có những giải pháp quản lý và
biện pháp kỹ thuật cụ thể cho từng mùa vụ,
từng giai đoạn nuôi (giai đoạn ương giống từng
kích cỡ, giai đoạn nuôi thương phẩm), đồng
thời cần quy hoạch phân vùng chức năng (vùng
bãi đẻ, vùng ương giống, vùng nuôi thương
phẩm ...) phù hợp hiện trạng môi trường ở từng
khu vực để bảo vệ nguồn lợi và phát triển nghề
nuôi ngao bền vững.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Ngao chịu tác động rất mạnh trong điều
kiện kết hợp nhiệt độ và độ mặn. Đối với ngao
dầu giống ở điều kiện 150C - 5‰, 350C - 5‰,
350C - 35‰, ngao dừng sinh trưởng và sau thời
gian thí nghiệm một tháng tỷ lệ sống đạt 0%.
Nhiệt độ và độ mặn là một trong những yếu
tố sinh thái quan trọng tác động đến năng suất,
sản lượng ngao nuôi. Đề xuất ngưỡng nhiệt độ
và độ mặn phù hợp cho sinh trưởng phát triển
và tỷ lệ sống cao của ngao dầu trong khoảng,
nhiệt độ 270C ± 30C, độ mặn 20‰ ± 5‰.
Từ kết quả nghiên cứu này chúng tôi cho
rằng cần phải tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng
đồng thời của nhiệt độ - độ mặn đến sinh
trưởng và tỷ lệ sống của ngao ở các giai đoạn
và kích cỡ ngao khác nhau, cũng như các sự kết
hợp của các yếu tố khác như mật độ - chất đáy,
độ mặn và thời gian phơi bãi để cung cấp
đầy đủ cơ sở khoa học cho việc nuôi, bảo tồn
và phát triển nguồn lợi ngao dầu.
Lời cảm ơn: Xin trân thành cảm ơn Viện Tài
nguyên và Môi trường biển-Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam và đề tài
KC.09.07/11-15 đã hỗ trợ để hoàn thành bài
báo này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Phụng, Võ Sĩ Tuấn và Nguyễn
Huy Yết, 2001. Phân bố và nguồn lợi động vật
thân mềm kinh tế thuộc lớp chân bụng
(Gastropoda) và lớp hai mảnh vỏ (Bivalvia) ở
ven biển Việt Nam. Tuyển tập báo cáo khoa
học Hội thảo động vật thân mềm toàn quốc
lần thứ nhất. Nxb. Nông nghiệp, Tr. 27-60.
2. Junzhuo Thung, D. C., Thinh, D. D, Thuy,
L. T., 2013. Mollusks Resources in Western
Nguyễn Xuân Thành, Đỗ Công Thung
346
Coast of the Tonkin Gulf. Journal of Earth
Science and Engineering, 3(1): 35-41.
3. Narasimham, K. A., Muthiah, P.,
Sundararajan, D., and Vaithinathan, N.,
1988. Biology of the great clam, Meretrix
meretrix in the Korampallam creek,
Tuticorin. Indian Journal of Fisheries,
35(4): 288-293.
4. Cao, F. J., Liu, Z. G., and Luo, Z. J., 2009.
Effects of sea water temperature and
salinity on the growth and survival of
juvenile Meretrix meretrix Linnaeus. Ying
yong sheng tai xue bao= The journal of
applied ecology/Zhongguo sheng tai xue
xue hui, Zhongguo ke xue yuan Shenyang
ying yong sheng tai yan jiu suo zhu ban,
20(10): 2545-2550.
5. Ngô Thị Thu Thảo, Lâm Quang Mẫn, 2012.
Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ muối đến tốc
độ lọc tảo, chỉ số độ béo và tỷ lệ sống của
nghêu (Meretrix lyrata). Tạp chí Khoa học,
Đại học Cần Thơ. 23b, 265-271.
6. Junzhuo, L., 1997. Xu zhenzu (Depart, of
oceanogr., Xiamen Univ. Xiamen 361005);
The Effects of Temperature and Salinity on
the Development of Meretrix meretrix
Larvae [J]. Journal of Fujian Fisheries, 1.
7. Nguyễn Xuân Thành, 2013. Ảnh hưởng của
nhiệt độ đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của
ngao dầu (Meretrix meretrix) giai đoạn giống
trong điều kiện thí nghiệm. Tạp chí Khoa học
và Công nghệ biển, 13(2): 161-167.
8. Nguyễn Xuân Thành, 2015. Ảnh hưởng của
độ mặn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của
ngao dầu (M. meretrix) giai đoạn giống.
Tạp chí NN&PTNT số 3+4, Tr. 198-203.
THE EFFECT OF COMBINATION FACTORS OF SALINITY AND
TEMPERATURE ON THE GROWTH AND SURVIVAL RATE OF HARD
CLAM (MERETRIX MERETRIX) JUVENILES
Nguyen Xuan Thanh, Do Cong Thung
Institute of Marine environment and Resources-VAST
ABSTRACT: This study was conducted to evaluate the effect of combination factors of salinity
and temperature on the growth and survival rate of hard clam (Meretrix meretrix) juveniles. Hard
clam was cultured in laboratory at three different temperatures (150C, 270C and 350C) in
combination with three different salinity conditions (5‰, 20‰ and 35‰). Each experiment was
carried out in triplicate and remained for one month. The results show that: At the experimental
condition of 20‰ and 270C of salinity and temperature, the growth of hard clam juveniles was
fastest and survival rate of hard clam juveniles was highest (86%). In the 150C - 20‰, 350C - 20‰,
270C - 5‰, 150C - 35‰, 270C - 35‰, the growth of hard clam juveniles was slower and their
survival rate was lower with 61.3%, 42.6%, 39.3%, 10.7% and 60.6%, respectively. In the 150C -
5‰, 350C - 5‰ and 350C - 35‰, clam was dead all. Our findings are scientific basis for
aquacultural planning, farm management. In addition, these findings will contribute to building
cultural techniques of clam appropriate for each production season together with protection and
development of hard clam resource.
Keywords: Temperature, salinity, hard clam, growth, survival rate, juveniles.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6381_27362_1_pb_0678_2079674.pdf