Về nguyên tắc, khi xét xử, thẩm phán,
hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để
giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm
những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý
giống nhau phải được giải quyết như nhau.
Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án,
quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ,
tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được
nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc
đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong
án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ
trong bản án, quyết định của Toà án.
Trường hợp do có sự thay đổi của luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nghị
định của Chính phủ mà án lệ không còn phù
hợp thì thẩm phán, hội thẩm không áp dụng
án lệ; trường hợp do chuyển biến tình hình
mà án lệ không còn phù hợp nhưng chưa
có quy định mới của pháp luật thì Hội đồng
Thẩm phán TANDTC có trách nhiệm xem
xét huỷ bỏ án lệ16.
Việc áp dụng án lệ có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc thực hiện chủ trương
cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta
cũng như tạo điều kiện cho việc pháp luật
được áp dụng thống nhất trong công tác xét
xử tại Tòa án. Tuy nhiên, việc áp dụng thống
nhất án lệ phụ thuộc rất lớn vào kết quả lựa
chọn, xác định án lệ của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC và kỹ năng, kiến thức của
thẩm phán, hội thẩm, hội đồng xét xử, hội
đồng giải quyết vụ việc dân sự trong việc áp
dụng án lệ.
BLDS và Bộ luật TTDS quy định tòa
án không được từ chối giải quyết vụ việc
dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.
Trước hết là áp dụng tập quán, nếu không có
tập quán, sẽ áp dụng “tương tự pháp luật”.
Nếu không thể áp dụng tập quán và tương tự
pháp luật, thẩm phán sẽ áp dụng “nguyên tắc
cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công
bằng”. Lẽ công bằng được xác định trên cơ
sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa
nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo,
không thiên vị và sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân
sự đó.
Có thể nói, việc quy định về ADPL dân
sự như trên, đặc biệt là về án lệ và lẽ công
bằng, là một trong những điểm mới mang
tính chất đột phá của BLDS năm 2015, góp
phần bảo vệ một cách hữu hiệu, kịp thời và
triệt để quyền dân sự của con người, bảo đảm
sự tương thích của pháp luật dân sự quốc tế,
thể hiện tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 và Hiến pháp năm 2013
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng pháp luật trong bộ luật dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích, đánh giá các điểm mới về vấn đề áp dụng pháp
luật trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và so sánh với BLDS
năm 2005.
Dương Quỳnh Hoa*
Abstract:
This article provides analysis, assessments of the new provisions and
their enforcements under the Civil Code of 2015 in comparison with
the Civil Code of 2005.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: áp dụng pháp luật, áp dụng
tập quán, áp dụng tương tự pháp
luật, án lệ, lẽ công bằng.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 11/04/2017
Biên tập: 31/05/2017
Duyệt bài: 07/06/2017
Article Infomation:
Keywords: Law application,
customs application, application of
lawful similality, case laws, fairness.
Article History:
Received: 11 Apr. 2017
Edited: 31 May 2017
Appproved: 07 Jun. 2017
* Viện Nhà nước và pháp luật.
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
1. Khái niệm về áp dụng pháp luật dân sự
Khái niệm áp dụng pháp luật (ADPL)
đã được sử dụng trong nhiều công trình
nghiên cứu1. Tuy các công trình đó định
1 Ví dụ Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 2003;
Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005; Nguyễn Văn Động, Giáo trình Lý luận về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Giáo dục; Nguyễn Thị Hồi và Lê
Vương Long, Nội dung cơ bản của môn học Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội 2008;
Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995
nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng
tựu trung lại, ADPL được hiểu là một hoạt
động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước,
do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
43Số 15(343) T8/2017
do pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa các
quy phạm pháp luật hiện hành vào những
trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ
chức cụ thể2. Trong các hình thức thực hiện
pháp luật, ADPL được xem là hình thức cơ
bản, chủ yếu và quan trọng nhất. Phần lớn
các quy định của pháp luật chỉ có thể được
thực hiện trong thực tế thông qua hoạt động
của các chủ thể có thẩm quyền.
ADPL được thực hiện ở tất cả các lĩnh
vực pháp luật. Trong lĩnh vực pháp luật dân
sự, nhờ có ADPL mà các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự
được xác định một cách rõ ràng3.
Theo nguyên lý chung, ADPL dân sự
là hoạt động của những cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do pháp
luật quy định nhằm cá biệt hoá các quy phạm
pháp luật dân sự vào những trường hợp cụ
thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể hoặc
nhằm xác định rõ quyền, nghĩa vụ dân sự
của các bên hoặc của người thứ ba có liên
quan khi giải quyết các tranh chấp dân sự4.
Như vậy, thông qua hoạt động ADPL của
các chủ thể có thẩm quyền, các quy phạm
pháp luật dân sự mới điều chỉnh các quan
hệ xã hội, thực hiện sự tác động lên hành
vi của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự
và thông qua đó, tác động lên các quan hệ
xã hội. ADPL dân sự là một giai đoạn quan
trọng trong quá trình biến các quy phạm
pháp luật dân sự thành thực tế5.
2. Áp dụng Bộ luật Dân sự
Với tính chất là một đạo luật quan
trọng, BLDS năm 2015 đã xác định một
2 Nguyễn Thị Hồi (2009), Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, tr. 30.
3 Nguyễn Thị Hồi, Sđd, tr. 153.
4 Phạm Thị Hồng Đào, “Áp dụng pháp luật dân sự - dưới góc nhìn thực tiễn”,
cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1909.
5 Xem thêm Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Thị Huệ (2017), “Bình luận khoa học BLDS năm 2015 của nước Cộng hòa
XNCN Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 19.
6 Phùng Trung Tập (2016), tham luận “Nội dung mới chủ yếu của phần thứ nhất: “Quy định chung” của BLDS năm
2015” tại Hội thảo “Những điểm mới của BLDS năm 2015”, do Dự án Jica tổ chức ngày 17/6/2016 tại Hà Nội.
7 Xem Đỗ Văn Đại (2016), “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015”, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 26.
cách nhất quán tư tưởng chỉ đạo của các
nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều
3 và khẳng định: “Bộ luật này là luật chung
điều chỉnh các quan hệ dân sự”. Với nguyên
tắc này, BLDS sẽ điều chỉnh toàn bộ các
quan hệ tài sản giữa các chủ thể trong xã
hội mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và các
quan hệ nhân thân phi vật chất, trong đó các
chủ thể tham gia bình đẳng về mặt pháp lý,
tự chịu trách nhiệm về tài sản6. Hay nói cách
khác, BLDS sẽ điều chỉnh tất cả những vấn
đề thuộc “pháp luật dân sự”, tức là những
ứng xử, quan hệ được điều chỉnh bởi luật
khác nhưng thuộc trong lĩnh vực “pháp luật
dân sự”7.
BLDS năm 2005 không quy định cụ
thể xử lý mối quan hệ giữa BLDS và các
luật chuyên ngành. Do đó, trong thực tế, đã
phát sinh vướng mắc về việc ADPL khi các
quy định của BLDS 2005 khác với quy định
của các luật chuyên ngành. Để khắc phục
bất cập trên, BLDS năm 2015 đã quy định
cụ thể nguyên tắc áp dụng BLDS tại Điều
4. Theo đó, trong trường hợp các quy định
của luật khác vi phạm nguyên tắc cơ bản của
BLDS năm 2015 hoặc trường hợp luật khác
có liên quan không quy định hoặc có quy
định nhưng trái với quy định của BLDS thì
phải áp dụng các quy định của BLDS.
Đối với các quan hệ có cùng bản chất
pháp lý, luật chuyên ngành có thể khác với
BLDS do đặc thù của quan hệ chuyên ngành
nhưng không được trái với các nguyên tắc
chung của luật dân sự. Một số quy định của
BLDS như quy định về tư cách pháp nhân,
về sở hữu chung hợp nhất, sở hữu chung
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 15(343) T8/2017
theo phần, những quy định mang tính xác
định một khái niệm pháp lý có ý nghĩa,
giá trị pháp lý chung cho toàn bộ hệ thống
pháp luật. Không thể có pháp nhân riêng cho
luật dân sự, riêng cho luật thương mại, luật
hợp tác xã, mặc dù các loại hình công ty và
hợp tác xã có quy chế riêng về việc thành
lập, hoạt động, giải thể. Đối với một tài sản
nào đó, nếu chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu,
sử dụng thì sẽ phải tuân theo quy định của
chế định tài sản vật quyền. Tuy nhiên, nếu
tài sản đó đưa vào quá trình giao lưu dân sự,
kinh tế thông qua hợp đồng vay, cho thuê,
đầu tư kinh doanh như lập công ty thì phải
áp dụng theo các quy định của các loại hợp
đồng, giao dịch tương ứng, theo quy chế
trái quyền. Việc điều chỉnh các quan hệ dân
sự trong các lĩnh vực cụ thể phải tuân thủ
nguyên tắc không được trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy
định tại Điều 3 của BLDS.
Ví dụ, liên quan đến vấn đề lãi suất,
Điều 468 BLDS năm 2015 đã có quy định
loại trừ việc áp dụng mức trần lãi suất vay
20% trong "trường hợp luật khác có liên
quan quy định khác". “Luật khác” ở đây
được hiểu là pháp luật chuyên ngành. Theo
quy định tại Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà
nước năm 2010 và khoản 2, 3 Điều 91 Luật
Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010,
trong điều kiện bình thường, lãi suất trong
hoạt động ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ
chế tự thỏa thuận, không có trần lãi suất.
Chỉ trong điều kiện đặc biệt cần có sự can
thiệp của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước
mới quy định cơ chế xác định lãi suất trong
quan hệ giữa TCTD và khách hàng, cơ chế
xác định lãi suất này có thể bao gồm trần
lãi suất cho vay trong quan hệ cấp tín dụng
giữa TCTD với khách hàng. Như vậy, BLDS
năm 2015 đã loại trừ việc áp dụng mức trần
lãi suất vay 20%/năm đối với hoạt động cho
8 Phùng Trung Tập, tlđd.
9 Nguyễn Minh Tuấn (2016), “Bình luận khoa học BLDS năm 2015”, Nxb. Tư pháp, tr. 85.
vay của các TCTD, lúc đó pháp luật về tín
dụng, ngân hàng sẽ cho phép các bên trong
quan hệ tín dụng là TCTD và khách hàng
được tự thoả thuận.
3. Áp dụng tập quán
Trong những quan hệ xã hội nhất định,
tập quán được biểu hiện và định hình một
cách tự phát hoặc được hình thành và tồn
tại ổn định thông qua nhận thức của chủ thể
trong một quan hệ nhất định và tập quán
được bảo tồn thông qua ý thức của quá trình
giáo dục có định hướng rõ nét. Như vậy, tập
quán được hiểu như những chuẩn mực xử sự
của các chủ thể trong một cộng đồng nhất
định và còn là tiêu chí để đánh giá tính cách
của một cá nhân tuân theo hay không tuân
theo những chuẩn mực xử sự mà cộng đồng
đã thừa nhận và áp dụng trong suốt quá trình
sống, lao động, sinh hoạt tạo ra vật chất và
những quan hệ liên quan đến tài sản, đến
tình cảm của con người trong cộng đồng8.
Trên thế giới, tập quán vẫn được xem
là một nguồn của pháp luật, tuy ở mức độ
khác nhau ở các hệ thống pháp luật và ở các
nước khác nhau. Tập quán còn được biết
đến với vai trò nền tảng của luật thương mại
và là một nguồn quan trọng của công pháp
quốc tế hiện đại.
Dù ngày nay, pháp luật thành văn
được chú trọng nhưng tập quán vẫn là một
nguồn luật bổ sung quan trọng ở hầu hết các
nước và góp phần to lớn vào việc xây dựng
và ADPL. Ở một đất nước có nhiều dân tộc
cùng chung sống trong đa dạng văn hoá,
tập quán hay luật tục như ở Việt Nam thì áp
dụng tập quán càng trở nên có ý nghĩa. Đây
chính là nguồn luật quan trọng góp phần
mang lại hiệu quả trong việc giải quyết các
vụ việc dân sự nói chung cũng như bảo vệ
quyền của chủ thể nói riêng9.
Thực tế cho thấy, trong nhiều trường
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 15(343) T8/2017
hợp khi xây dựng và ban hành pháp luật,
các nhà làm luật không thể dự liệu hết tình
huống pháp lý để điều chỉnh chính xác, phù
hợp với những vùng hay địa bàn đặc biệt. Vì
vậy, việc áp dụng tập quán của cộng đồng
sẽ góp phần giải quyết tranh chấp một cách
có hiệu quả, nhanh chóng và kịp thời, tăng
cường việc tiếp cận công lý và bảo vệ quyền
cho người dân.
Tuy nhiên, không phải bất cứ phong
tục, tập quán nào cũng được công nhận là
tập quán pháp mà phải đáp ứng những tiêu
chuẩn nhất định. Theo hiểu biết chung, một
quy tắc xử sự chỉ được thừa nhận là tập quán
pháp khi đáp ứng các điều kiện: (1) tồn tại
liên tục trong một khoảng thời gian nhất định;
(2) được thiết lập trên cơ sở đồng thuận; (3)
được một cộng đồng nhất định thừa nhận;
(4) có khả năng xác định quyền và nghĩa vụ
giữa các bên trong một hoàn cảnh nhất định;
(5) hợp lý; (6) phù hợp với các quy tắc tập
quán khác; và (7) không chống lại các quy
định của văn bản pháp luật10. Chỉ khi đó, tập
quán mới được xem là tập quán pháp hay
nguồn bổ trợ cho pháp luật Việt Nam.
Điều 3 BLDS năm 2005 quy định:
“Trong trường hợp pháp luật không quy
định và các bên không có thỏa thuận thì có
thể áp dụng tập quán”. Tuy nhiên, việc áp
dụng tập quán trong giải quyết quan hệ dân
sự còn gặp rất nhiều vướng mắc do quy định
này còn chung chung, chưa giải thích rõ thế
nào là tập quán, và điều kiện áp dụng, dẫn
tới sự không thống nhất trong ADPL.
Trên thực tế, Điều 3 BLDS năm 2005
chỉ mới đưa ra được một số điều kiện để tập
quán được áp dụng chứ không phải là điều
luật quy định về điều kiện áp dụng tập quán.
Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày
17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn thi
hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng
10 Xem thêm Ngô Huy Cương, “Cụ thể hóa quan điểm về tập quán pháp theo Nghị quyết số 48- NQ/TW của Bộ Chính
trị”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 3+4 (164+165) tháng 2/2010, tr. 77.
dân sự (TTDS) về chứng minh và chứng cứ
định nghĩa: “Tập quán là thói quen đã thành
nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và
sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi
có tập quán đó thừa nhận và làm theo như
một quy ước chung của cộng đồng”. Mặc
dù đã xác lập nghĩa vụ chứng minh tập quán
pháp của các bên, song ở Việt Nam chưa rõ
quy trình đó được chứng minh như thế nào?
Các tài liệu, dữ liệu cần được chứng minh
là gì? Có cần giám định hay không? Và ai
là người giám định? Có thể thấy rõ, những
hướng dẫn của Nghị quyết số 04/2005/NQ-
HĐTP là chưa đủ để đánh giá, xác định các
điều kiện để áp dụng tập quán pháp ở nước
ta hiện nay.
Các quy định của pháp luật về tập quán
pháp ở Việt Nam chỉ nhấn mạnh đến vai trò
bổ sung của nguồn pháp luật này khi văn
bản quy phạm pháp luật không có quy định
và các bên không có sự thỏa thuận. Trong
hoạt động thương mại, điều kiện bổ sung để
áp dụng tập quán thương mại còn là "không
có thói quen đã được thiết lập giữa các bên".
Nói cách khác, trong mối quan hệ giữa "thói
quen trong hoạt động thương mại" và "tập
quán thương mại" thì "thói quen trong hoạt
động thương mại" có giá trị ưu tiên áp dụng.
Điều này mâu thuẫn với tính phổ biến của
tập quán pháp và trên thực tế sẽ không bảo
vệ được bên yếu thế khi "thói quen trong
hoạt động thương mại" xung đột với "tập
quán thương mại".
Do sự thiếu hụt nhận thức lý luận ở
Việt Nam về quy trình sử dụng nguồn luật,
lựa chọn quy phạm trong quá trình ADPL
nên chúng ta chưa có quy định mối liên hệ
giữa luật chung và luật chuyên ngành trong
việc lựa chọn quy tắc pháp luật, quy phạm
pháp luật giữa các nguồn luật, hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật. Bởi vậy, tập quán
pháp chưa được sử dụng và phát huy vai trò
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 15(343) T8/2017
thực sự của nó trong hệ thống pháp luật, ý
nghĩa pháp lý của nó sau khi được áp dụng.
BLDS năm 2015 đã có những sửa đổi
quy định về áp dụng tập quán hoàn chỉnh
hơn, quy định rõ chỉ những thói quen chứa
đựng quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để
xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp
nhân trong quan hệ dân sự cụ thể mới được
thừa nhận là tập quán.
Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 cũng
đã xác định phạm vi áp dụng của tập quán
không chỉ ở trong một cộng đồng dân cư
nhất định mà còn được thừa nhận trong một
vùng, miền, dân tộc hoặc trong một lĩnh vực
dân sự. Có thể thấy rằng, quy định về tập
quán trong BLDS năm 2015 đã hàm chứa
được các trường hợp cụ thể như tập quán
thương mại hoặc tập quán hôn nhân, gia
đình, tập quán lao động.
Về thứ tự ưu tiên áp dụng, BLDS năm
2015 quy định: “Trường hợp các bên không
có thỏa thuận và pháp luật không quy định
thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán
áp dụng không được trái với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại
Điều 3 của Bộ luật này ”11.
Nguyên tắc này cũng được quy định
tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật TTDS năm 2015
về nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong
trường hợp chưa có điều luật để áp dụng:
“Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân
sự, đương sự có quyền viện dẫn tập quán
để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng. Tòa án
có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của
tập quán bảo đảm đúng quy định tại Điều 5
của BLDS. Trường hợp các đương sự viện
dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có
giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận
tại nơi phát sinh vụ việc dân sự”. Đây là sự
11 Điều 5 BLDS năm 2015.
12 Nguyễn Minh Hằng và Ngô Tiến Hùng, “Một số điểm mới chủ đạo của BLDS năm 2015”,
cuu-trao-doi/201602/mot-so-diem-moi-chu-dao-cua-bo-luat-dan-su-nam-2015-299945/ truy cập ngày 10/4/2017.
13 Xem thêm Nguyễn Thị Hồi (2009), “Áp dụng pháp luật ở Việt nam hiện nay: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb.
Tư pháp, tr. 86.
thống nhất trong ghi nhận lập pháp từ quy
định của BLDS đến Bộ luật TTDS làm cho
các chủ thể có quyền khởi kiện có đủ những
điều kiện cần thiết, chắc chắn để thực hiện
được trên thực tế quyền khởi kiện nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước
Tòa án thông qua các biện pháp được xác
định. Đây là một quy định mới mang tính
chất đột phá, góp phần bảo vệ một cách kịp
thời và triệt để hơn quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực dân sự12.
4. Áp dụng tương tự pháp luật, án lệ và lẽ
công bằng
Trong quá trình làm luật, các nhà làm
luật đều cố gắng dự kiến đến mức tối đa các
trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy
ra trong cuộc sống để điều chỉnh kịp thời,
nhằm tạo ra đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc
ADPL để giải quyết các vụ việc xảy ra trong
đời sống xã hội. Tuy nhiên, các tranh chấp
diễn ra trong thực tế không phải lúc nào
cũng có các quy phạm trực tiếp điều chỉnh
vụ việc đó. Đây chính là tình trạng thiếu
pháp luật, tình trạng pháp luật có những lỗ
hổng, những khoảng trống13.
Khi gặp trường hợp nêu trên, để bảo
đảm công lý, bảo vệ quyền dân sự của các
chủ thể trong quan hệ dân sự, chủ thể có thẩm
quyền không thể chờ đến khi ban hành được
quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh vụ
việc mới giải quyết mà phải giải quyết ngay
bằng cách thừa nhận việc áp dụng tương tự
pháp luật.
Khoản 1 Điều 6 BLDS năm 2015 quy
định: “Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc
phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự
mà các bên không có thoả thuận, pháp luật
không có quy định và không có tập quán
được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 15(343) T8/2017
luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự”.
Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa
án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ
việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống
pháp luật hiện hành không có quy phạm
pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác
định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
dân sự tương tự. Khoản 2 Điều 6 BLDS năm
2015 quy định: “Trong trường hợp không
thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
quy định tại Điều 3 của BLDS, án lệ và lẽ
công bằng”. Án lệ có thể được hiểu là những
nguyên tắc, quy phạm được hình thành và
áp dụng trong quá trình xét xử và đưa ra
phán quyết của toà án. Xử theo án lệ là việc
toà án cấp dưới vận dụng các phán quyết có
từ trước của TANDTC để đưa ra một phán
quyết mới tương tự trong một vụ việc tương
tự. Hay nói cách khác, án lệ là những bản
án có tính chất làm mẫu do TANDTC ban
hành được áp dụng trong những trường hợp
không có quy định của pháp luật một cách
trực tiếp hoặc có quy định nhưng không áp
dụng thống nhất giữa các toà án để đảm bảo
cùng vụ việc tương tự ở các toà án cần được
xét xử như nhau.
Khoản 3 Điều 45 Bộ luật TTDS có giải
thích theo hướng án lệ được Toà án nghiên
cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự
khi đã được Hội đồng thẩm phán TANDTC
lựa chọn và được Chánh án TANDTC công
bố14.
Án lệ được lựa chọn phải đáp ứng
được các tiêu chí sau đây15:
i. Chứa đựng lập luận để làm rõ quy
định của pháp luật còn có cách hiểu khác
nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự
14 Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP “Về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ” cũng đưa ra khái niệm về
án lệ: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc
cụ thể được Hội đồng thẩm phán TANDTC lựa chọn và được Chánh án TANDTC công bố là án lệ để các Toà án nghiên
cứu, áp dụng trong xét xử”.
15 Điều 2 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP “về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ”.
16 Khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP “Về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ”.
kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối
xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong
một vụ việc cụ thể;
ii. Có tính chuẩn mực;
ii. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những
vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau
thì phải được giải quyết như nhau.
Về nguyên tắc, khi xét xử, thẩm phán,
hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để
giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm
những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý
giống nhau phải được giải quyết như nhau.
Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án,
quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ,
tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được
nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc
đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong
án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ
trong bản án, quyết định của Toà án.
Trường hợp do có sự thay đổi của luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nghị
định của Chính phủ mà án lệ không còn phù
hợp thì thẩm phán, hội thẩm không áp dụng
án lệ; trường hợp do chuyển biến tình hình
mà án lệ không còn phù hợp nhưng chưa
có quy định mới của pháp luật thì Hội đồng
Thẩm phán TANDTC có trách nhiệm xem
xét huỷ bỏ án lệ16.
Việc áp dụng án lệ có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc thực hiện chủ trương
cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta
cũng như tạo điều kiện cho việc pháp luật
được áp dụng thống nhất trong công tác xét
xử tại Tòa án. Tuy nhiên, việc áp dụng thống
nhất án lệ phụ thuộc rất lớn vào kết quả lựa
chọn, xác định án lệ của Hội đồng Thẩm
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 15(343) T8/2017
phán TANDTC và kỹ năng, kiến thức của
thẩm phán, hội thẩm, hội đồng xét xử, hội
đồng giải quyết vụ việc dân sự trong việc áp
dụng án lệ.
BLDS và Bộ luật TTDS quy định tòa
án không được từ chối giải quyết vụ việc
dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.
Trước hết là áp dụng tập quán, nếu không có
tập quán, sẽ áp dụng “tương tự pháp luật”.
Nếu không thể áp dụng tập quán và tương tự
pháp luật, thẩm phán sẽ áp dụng “nguyên tắc
cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công
bằng”. Lẽ công bằng được xác định trên cơ
sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa
nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo,
không thiên vị và sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân
sự đó.
Có thể nói, việc quy định về ADPL dân
sự như trên, đặc biệt là về án lệ và lẽ công
bằng, là một trong những điểm mới mang
tính chất đột phá của BLDS năm 2015, góp
phần bảo vệ một cách hữu hiệu, kịp thời và
triệt để quyền dân sự của con người, bảo đảm
sự tương thích của pháp luật dân sự quốc tế,
thể hiện tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 và Hiến pháp năm 2013
một số điều của BLHS năm 2015 - là một
ví dụ minh họa cho thấy sự thiếu phù hợp
của các cụm từ thay thế so với các thuật ngữ
được sử dụng trong các bộ luật trước đây1.
Tóm lại, thời gian vừa qua, Việt Nam
đã nỗ lực cải cách hệ thống pháp luật và
hướng đến một hệ thống pháp luật đầy đủ
và hoàn thiện; đồng bộ và hài hòa với các
quy định của pháp luật quốc tế, trong đó có
CUQTE. Hệ thống pháp luật quốc gia đã có
nhiều thay đổi trong thời gian vừa qua, trong
đó có việc ban hành Luật Trẻ em năm 2016,
các bộ luật về hình sự và TTHS năm 2015...
Tuy nhiên, vẫn còn một khoảng cách đáng kể
để có thể đến gần mục tiêu đề ra. Chỉ trong
phạm vi định nghĩa về trẻ em và tư pháp người
chưa thành niên đã cho thấy nhiều vấn đề cần
phải cải thiện. Trong hệ thống pháp luật hiện
hành của Việt Nam, vẫn tồn tại những người
không phải là trẻ em nhưng cũng không là
người trưởng thành. Việt Nam vẫn chưa thực
hiện được cam kết dưới góc độ là quốc gia
thành viên của CUQTE; chưa đáp ứng các
chuẩn mực pháp lý quốc tế về tư pháp người
chưa thành niên. Việc BLHS và Bộ luật TTHS
năm 2015 thay thế các thuật ngữ “người chưa
thành niên” và “trẻ em” bằng các cụm từ
“người dưới 18 tuổi” và “người dưới 16 tuổi”
thể hiện sự thiếu liên hệ, thiếu tính chính sách
và đường lối của những văn bản pháp lý quan
trọng; thiếu tính kế thừa, tính liên quan và tính
đồng bộ trong hệ thống VBQPPL quốc gia
“TRẺ EM” VÀ “NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN” TRONG ...
(Tiếp trang 30)
27 Xem: Tổng thư ký Quốc hội khóa XIV (2017), Báo cáo số 625/BC-TTKQH ngày 18/5/2017 tổng hợp ý kiến các Đoàn
đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội tại Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách về dự án Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS số 100/2015/QH13, tr. 18, 20, 27, 28, 47; Ủy ban thường vụ Quốc hội (2017), Báo cáo số 117/
BC-UBTVQH14 ngày 20/5/2017 về giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS
số 100/2015/QH13, tr. 8, 20, 29.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 15(343) T8/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ap_dung_phap_luat_trong_bo_luat_dan_su_nam_2015.pdf