Một số đánh giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam

Kết luận Chuyển giá là một hiện tượng khá phổ biến trong quan hệ đầu tư kinh doanh quốc tế thường xuất hiện trong các các giao dịch kinh tế giữa các doanh nghiệp vốn đã tồn tại mối quan hệ liên kết (theo kiểu tập đoàn kinh tế, hoặc có cơ cấu theo mô hình công ty mẹ- công ty con), trong đó các bên trong giao dịch liên kết đã thiết lập cơ chế giá chuyển giao (giá chuyển giao nội bộ hay giá liên kết) được xác định ở mức cao hơn hay thấp hơn giá trị của hàng hóa dịch vụ mua vào hoặc bán ra thông thường (giá thị trường) nhằm đạt được những lợi ích nhất định trong tập đoàn hoặc nhóm. Trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và thuế quan, hiện tượng này có thể được các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng như một phương thức trốn tránh các khoản thuế thông qua việc báo lỗ trong hoạt động kinh doanh, dẫn đến sự thất thu về ngân sách đồng thời gây ra sự bất bình đẳng sự bất bình đẳng về lợi ích và những cách biệt trong ưu thế cạnh tranh tại một quốc gia tiếp nhận đầu tư.

pdf12 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 24/01/2022 | Lượt xem: 155 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đánh giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 207- Tháng 8. 2019 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Một số đánh giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam Phạm Minh Quốc Khoa Kinh tế - Luật, Đại học Thương Mại Ngày nhận: 07/07/2019 Ngày nhận bản sửa: 11/07/2019 Ngày duyệt đăng: 22/07/2019 Việc xác định có tồn tại quan hệ chuyển giá và xử lý các vụ việc chuyển giá đòi hỏi các nhà quản lý và hoạch định chính sách phải luôn quan tâm đúng mức, từ đó nhằm kịp thời phát hiện ra các “lỗ hổng” cho việc hoàn thiện chính sách tài chính (đặc biệt là các quy định pháp luật về thuế) của Nhà nước, đồng thời đề xuất các biện pháp kinh tế- pháp lý tốt nhất để các cơ quan quản lý Nhà nước (trong đó có các cơ quan thuế) có thể chống chuyển giá một cách có hiệu quả. Bài viết này nhằm mục tiêu xác định bản chất của hoạt động chuyển giá trong khu vực doanh nghiệp FDI, đánh giá sơ bộ những hạn chế tồn tại của pháp luật hiện hành trong việc chống chuyển giá ở Việt Nam, từ đó rút ra một số kết luận và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và pháp luật về môi trường đầu tư kinh doanh nói chung và về lĩnh vực thuế quan nói riêng tại Việt Nam. Trên nền tảng tổng hợp các nghiên cứu đánh giá từ các chuyên gia khác, Some assessments about and solutions for completing the legal regulations on anti-transfer pricing conducted by FDI enterprises in Vietnam Abstract: The determination of transfer pricing transactions and dealing with these phenomina require the appropriate interests from the administrative managers and policy planners, in order, on the one hand, to timely find out the “loophole” of law in process of improving the financial policies (especially the legal regulations on taxation) of the State and, on the other hand, to put forward the proper legal - economic measures for the effective operations in anti-trasfer pricing activities of the competent administrative authorities (including the tax authorities). This paper shall mention to some legal aspects relating to the nature of transfer pricing in business transations of FDI enterprises in Vietnam, give out some preliminary assessments about the existing shortcomings of current legal regulations on anti-transfer pricing in Vietnamese law, then propose some solutions for completing the policies and laws in Vietnam on the field of investment and business in general and on the taxation and tariff sector in particular. Based on the current regulations of law, synthesizing some research results from other experts, combining with the assessments from comparative and analysis study, the paper points out some shortcomings of Vietnamese legal regulations in the field of anti-transfer pricing, concurrently offers some suggestions for continuing to improve the law in this field. Keywords: transfer pricing, anti-transfer pricing, law on anti-transfer pricing, tax evasion. Quoc Minh Pham, lecture Faculty of Economics and Law, Thuongmai University Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 49 kết hợp với việc phân tích so sánh các quy định của pháp luật thực định, bài viết đã chỉ ra một số hạn chế còn tồn tại trong pháp luật Việt Nam về chống chuyển giá, đồng thời đưa ra một số đề xuất cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Từ khóa: Chuyển giá, chống chuyển giá, pháp luật về chống chuyển giá, trốn thuế 1. Khái quát chung về chuyển giá của các doanh nghiệp FDI 1.1. Bản chất của hiện tượng chuyển giá Hiện tượng chuyển giá đã tồn tại khá phổ biến trên thế giới. Nguyên nhân cơ bản cho hiện tượng này là bởi nhu cầu của các nhà đầu tư trong việc làm giảm những chi phí có ảnh hưởng tới doanh thu (đặc biệt là chi phí thuế) của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nhằm làm gia tăng tối đa mức lợi nhuận có thể thu được từ hoạt động kinh doanh có tính liên kết nội bộ giữa các chủ thể kinh doanh đó. Tuy nhiên ở bình diện toàn xã hội, với nhiều hình thức khác nhau, hiện tượng chuyển giá nội bộ giữa các đơn vị kinh tế có mối quan hệ liên kết lại có thể gây thất thu thuế cho Nhà nước và gây bất lợi cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính, tạo ra những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong môi trường kinh doanh. Trên bình diện kinh doanh quốc tế, chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế giữa các thành viên có mối quan hệ liên kết gắn bó trong các công ty (tập đoàn) đa quốc gia trên thế giới (A. Lymer & J.Hasseldine, 2002). Theo cách hiểu như trên, có thể thấy xuất phát điểm cho hiện tượng chuyển giá diễn ra gồm những lý do khách quan sau: - Xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, trong đó có sự định đoạt về giá cả trong giao dịch mua bán của các chủ thể kinh doanh. - Xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chặt chẽ vốn có về lợi ích kinh tế và chu trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh có sự liên kết nhóm khiến cho trong các giao dịch giữa các đơn vị thành viên, các doanh nghiệp liên kết của tập đoàn tồn tại sự chi phối về quyền ra quyết định kinh doanh, sự phụ thuộc lẫn nhau về nguồn cung cấp vốn và nguyên liệu sản phẩm - Xuất phát từ thực tế của việc ra các quyết định quản lý điều hành các đơn vị thành viên (doanh nghiệp, chi nhánh) có mối liên kết chặt chẽ trong chu trình kinh doanh (đặc biệt là các chính sách giá giao dịch giữa các đơn vị đó) có thể khiến cho tổng lợi ích chung của nhóm liên kết không bị ảnh hưởng, song tổng nghĩa vụ thuế của họ lại có sự thay đổi đáng kể. - Xuất phát từ sự khác nhau về chính sách thuế giữa các quốc gia (sự ưu đãi thuế trong việc thu hút FDI) dẫn đến những chênh lệch đáng kể giữa các quốc gia về mức điều tiết thuế. Thông qua việc thực hiện các chính sách giá trong giao dịch giữa các doanh nghiệp thành viên của PHẠM MINH QUỐC Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201950 nhóm liên kết, nghĩa vụ thuế phải thực hiện đối với hàng hóa, dịch vụ hoặc tài sản trong giao dịch có thể được chuyển từ quốc gia có mức điều tiết cao sang quốc gia có mức điều tiết thấp hơn. Như vậy, việc xác định hiện tượng chuyển giá của doanh nghiệp FDI chỉ thực sự có ý nghĩa đối với các giao dịch giữa doanh nghiệp đó với các chủ thể khác vốn đã tồn tại mối quan hệ liên kết (theo kiểu tập đoàn kinh tế, hoặc có cơ cấu theo mô hình công ty mẹ- công ty con) và có hoạt động kinh doanh quốc tế1. Mặc dù các đơn vị kinh tế trong nhóm liên kết đều phải thực hiện hạch toán độc lập và có thẩm quyền riêng trong việc ra quyết về định mức chi phí và doanh thu, song trong các giao dịch chuyển giá, nhóm liên kết đã thiết lập một chính sách về giá mà ở đó giá chuyển giao (giá chuyển giao nội bộ hay giá liên kết) có thể được định ở mức cao hơn hay thấp hơn giá trị của hàng hóa dịch vụ mua vào hoặc bán ra thông thường (giá thị trường) nhằm đạt được những lợi ích nhất định trong tập đoàn hoặc nhóm. Đứng về phía lợi ích của các nhà đầu tư quốc tế, trong điều kiện kinh doanh có tính cạnh tranh gay gắt, thực hiện các giao dịch chuyển giá có thể được xem như một phương cách giúp lợi ích các tập đoàn hoặc nhóm liên kết đạt được lợi ích tối ưu do giảm được tối đa tổng các mức thuế của các đơn vị thành viên tại các quốc gia khác nhau. Hành vi chuyển giá khi đó là 1 Xem Công ước mẫu về định giá chuyển giao của OECD, theo Điều 9 của Công ước này, hai doanh nghiệp được xem là liên kết (associated enterprises) khi: 1. Một doanh nghiệp tham gia vào quản lý, điều hành hay góp vốn vào doanh nghiệp kia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc qua trung gian; 2. Hai doanh nghiệp có cùng một hoặc nhiều người hay những chủ thể (entities) khác tham gia quản lý, điều hành hay góp vốn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc thông qua trung gian. sự tận dụng tối đa những ưu thế của sự chênh lệch thuế suất tại các quốc gia khác nhau nơi tập đoàn hoặc nhóm liên kết có các đơn vị thành viên. Việc thực hiện chính sách giá chuyển giao nội bộ giữa các đơn vị liên kết ở các quốc gia khác nhau sẽ dịch chuyển các khoản lợi nhuận giữa họ sao cho lợi nhuận cao nhất sẽ được chuyển dịch tới đơn vị thành viên có trụ sở tại quốc gia có mức chịu thuế thấp nhất. Con số thống kê đánh giá của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã chỉ ra một thực tế là có tới hơn 60% giá trị giao dịch thương mại toàn cầu đã được triển khai thông qua các giao dịch nội bộ của công ty đa quốc gia (OECD, 2001)2. Thực tiễn này cho thấy tầm quan trọng của các chính sách giá nội bộ trong các doanh nghiệp FDI đối với nền kinh tế các nước và toàn cầu, cũng như mức độ ảnh hưởng lớn của các chính sách này đối với sự hình thành và tận dụng tối đa các hành vi chuyển giá của các tập đoàn hoặc nhóm liên kết đa quốc gia. Tuy nhiên, trên phương diện quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt là quản lý các hoạt động tài chính và thuế quan, hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp FDI có thể được xem như một phương thức trốn tránh các khoản thuế thông qua việc báo lỗ trong hoạt động kinh doanh. Xét trên phạm vi tổng thể của quan hệ đầu tư quốc tế, chuyển giá đã gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế tại các quốc gia khác nhau, dẫn đến sự bất bình đẳng về lợi ích và những cách biệt trong ưu thế cạnh tranh tại một quốc gia tiếp nhận đầu tư nhất định do việc phải mua cao hơn hoặc bán thấp hơn giá thị trường 2 Xem thêm: Transfer pricing: Keeping it at arm’s length, nguồn website: aid/670/Transfer_pricing:_Keeping_it_at_arms_length. html Một số đánh giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 51 PHẠM MINH QUỐC nhằm chuyển lợi nhuận về công ty mẹ hoặc một doanh nghiệp thành viên khác ở nước ngoài. 1.2. Các hình thức thực hiện chuyển giá phát sinh trong quan hệ đầu tư kinh doanh quốc tế Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, hoạt động chuyển giá tồn tại không chỉ riêng tại Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Khi hội nhập với nền kinh tế toàn cầu với sự có mặt của nhiều tập đoàn đa quốc gia, những khác biệt trong chính sách điều tiết lợi ích của các quốc gia đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp FDI tìm cách phát huy và thực hiện các hoạt động chuyển giá với nhiều phương thức đa dạng (Phan Hữu Thắng, 2013). Thông thường trong mối liên kết kinh doanh quốc tế, các hành vi chuyển giá có thể được thực hiện với những hình thức sau: - Chuyển giá thông qua việc đầu tư vốn bằng tài sản và mua tài sản cố định với giá cao. - Chuyển giá thông qua việc mua nguyên vật liệu với giá cao hơn giá bán buôn thông thường. - Chuyển giá thông qua việc cho vay hoặc đi vay. - Chuyển giá thông qua việc bảo hành sản phẩm, thương quyền sản phẩm hưởng trên doanh thu xuyên biên giới. - Chuyển giá thông qua mối liên kết đào tạo, nhà thầu. - Chuyển giá thông qua việc sản phẩm sản xuất trong nước nhưng xuất khẩu rồi lại nhập khẩu, sau đó bán trong nước sản xuất dưới tên một công ty khác trong mối liên kết. Theo kinh nghiệm của các chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực thuế và kiểm toán, việc xác định các doanh nghiệp có phát sinh hoạt động chuyển giá trong các giao dịch liên kết hay không cần lưu ý một số biểu hiện sau (Võ Phan Sử, 2013; Dương Thị Vân Anh, 2018): - Lỗ trên 03 năm hoặc lỗ âm nguồn vốn chủ sở hữu nhưng vẫn hoạt động và tăng doanh thu, tăng quy mô. - Hiệu quả kinh doanh không đáng kể nhưng luôn có sự tài trợ từ các khoản vay của các công ty liên kết giao dịch, công ty mẹ hoặc các chủ sở hữu phần góp vốn. - Công ty chỉ có một khách hàng hoặc vài khách hàng trong nhiều năm liên tục, thường bán sản phẩm chỉ bằng giá thành sản xuất không bao gồm chi phí quản lý, chi phí bán hàng. - Cùng một hàng hóa dịch vụ trong doanh nghiệp nhưng giá bán thị trường nội địa cao hơn giá xuất khẩu. - Công ty phải trả nhà cung cấp hàng hóa hoặc phải thu khách hàng có mối liên kết trong nhiều năm mà không thanh toán công nợ nhưng vẫn phát sinh giao dịch. - Xuất xứ hàng hóa có sự tham gia từ 03 nước khác nhau trở lên. Với bản chất và hình thức nêu trên của hành vi chuyển giá, việc xác định các doanh nghiệp FDI có mối quan hệ liên kết giao dịch khi giao dịch với nhau không theo giá thị trường như các bên giao dịch độc lập khác là một vấn đề không đơn Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201952 giản. Trên thực tế, các doanh nghiệp có thể đưa ra nhiều lý giải để cho rằng việc thực hiện chính sách giá trong giao dịch với các bên trong mối quan hệ liên kết của mình không phải là “chuyển giá”: Đó là kết quả của việc kinh doanh hợp pháp; xuất trình đầy đủ các hóa đơn chứng từ xuất nhập khẩu; tận dụng tốt những ưu thế vốn có về nguồn nhân lực, nguồn nguyên vật liệu, cơ sở hạ tầng, chính sách ưu đãi đầu tư tại các quốc gia khác nhau. Chính vì vậy, việc ứng phó với chuyển giá sao cho đảm bảo cân bằng được lợi ích của các nhà đầu tư và lợi ích quốc gia luôn đòi hỏi phải có cách đánh giá đúng mức và toàn diện về hiện tượng này, qua đó ban hành và hoàn thiện những cơ sở pháp lý đủ mạnh và linh hoạt để các cơ quan quản lý nhà nước có thể phản ứng nhanh và xử lý kịp thời các hành vi chuyển giá. 2. Đánh giá thực trạng pháp luật về chống chuyển giá ở Việt Nam hiện nay 2.1. Cơ sở pháp lý cho việc chống chuyển giá ở Việt Nam hiện nay Trong những năm 90 của thế kỷ trước, hoạt động thu hút khuyến khích đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã phát triển mạnh với sự ra đời của nhiều doanh nghiệp liên doanh với những ưu đãi đáng kể trong đầu tư (đặc biệt là quyền thuê, sử dụng đất và chính sách miễn, giảm thuế). Tận dụng cơ hội được miễn tiền thuê đất và thuế thu nhập doanh nghiệp trong 10-15 năm đầu và tiếp tục giảm thuế 50% trong 5-7 năm tiếp theo đối với các dự án đầu tư trong một số ngành, địa bàn, có sử dụng nhiều lao động hoạt động chuyển giá đã bắt đầu diễn ra tại Việt Nam khi đó bởi đã có nhiều doanh nghiệp FDI chuyển lợi nhuận từ nước ngoài vào Việt Nam để tránh nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên phải đến năm 1997, vấn đề chuyển giá mới chính thức được đề cập lần đầu tiên trong một văn bản pháp quy ở nước ta- Thông tư số 74-TC/TCT ngày 20/10/1997 hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là sự ra đời của Thông tư số 89/1999/TT-BTC ngày 16/7/1999 (thay thế Thông tư 74) và Thông tư số 13/2001/ TT-BTC ngày 08/3/2001 (thay thế Thông tư 89). Cả 3 Thông tư kể trên đều có những quy định cơ bản về chuyển giá với các biện pháp chống chuyển giá giống nhau, song đều thiếu hướng dẫn chi tiết. Chính bởi những thiếu sót trong các quy định về chuyển giá, nội dung và các biện pháp còn chưa sát với thực tế, các văn bản này đã khiến cho việc áp dụng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kém hiệu quả, không kiểm soát được vấn đề chống chuyển giá. Sự ra đời của Thông tư 117/2005/TT-BTC ngày 19/12/2005 hướng dẫn việc thực hiện xác định giá thị trường trong các giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết đã đánh dấu bước thay đổi đáng kể trong việc điều chỉnh vấn đề chuyển giá ở Việt Nam. Khác hẳn các văn bản pháp quy trước đó, nội dung của Thông tư 117 không chỉ quy định áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn FDI mà còn mở rộng sang tất cả các giao dịch trong nước và quốc tế. Đây là văn bản pháp quy điều chỉnh khá chi tiết về biện pháp chống chuyển giá bằng phương pháp xác định lại giá giao dịch giữa các doanh nghiệp liên kết nhằm đưa giá giao dịch nội bộ về sát với giá thị trường. Theo quy định của Thông tư 117, các bên tham gia giao dịch có tính liên kết nội bộ phải có nghĩa vụ kê khai, xác định thuế thu nhập doanh nghiệp theo giá thị trường dựa vào một trong 5 phương pháp định giá chuyển giao nội bộ sau: (1) Phương pháp so sánh giá Một số đánh giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 53 giao dịch độc lập; (2) Phương pháp giá bán lại; (3) Phương pháp giá vốn cộng lãi; (4) Phương pháp so sánh lợi nhuận; (5) Phương pháp tách lợi nhuận. Mặc dù được đánh giá là đã có những thay đổi quan trọng so với những văn bản pháp luật quy định về chuyển giá trước đó, song Thông tư 117 vẫn không thể tránh khỏi những bất cập nhất định, dẫn đến sự ra đời của Thông tư 66/2010/TT-BTC ngày 22/4/2010 về việc hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Sự ra đời của Thông tư 66 không những khắc phục những hạn chế của Thông tư 117 mà còn được coi là một cơ sở pháp lý quan trọng trong việc gia tăng các hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với vấn đề chuyển giá, đặc biệt tập trung vào các doanh nghiệp FDI (Phạm Hùng Tiến, 2012). Về cơ bản, nội dung của Thông tư 66 là sự kế thừa các quy định trong Thông tư 117 trước đó về các phương pháp chống chuyển giá thông qua việc hướng dẫn áp dụng 5 phương pháp xác định giá thị trường. Trường hợp do đặc thù duy nhất trong các giao dịch liên kết, một trong các phương pháp trên không áp dụng được thì có thể vận dụng biện pháp tổng hợp hoặc biện pháp vận dụng số liệu so sánh giữa các kỳ. Thông tư 66 cũng kế thừa các tiêu chí nhằm xác định đối tượng liên kết trong Thông tư 117, tuy nhiên ở mức độ cụ thể hóa hơn các khái niệm và tiêu chí (chẳng hạn như: về sở hữu vốn, quan hệ gia đình, đặc quyền về điều hành kiểm soát, độ lớn của sản phẩm dịch vụ trao đổi). Ngoài ra Thông tư 66 còn quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp có phát sinh giao dịch với các bên trong quan hệ liên kết ở việc lưu giữ các thông tin, tài liệu chứng từ làm căn cứ áp dụng phương pháp xác định giá thị trường và xuất trình các thông tin, tài liệu chứng từ đó theo yêu cầu kiểm tra, thanh tra của cơ quan Thuế. Trong lĩnh vực chống chuyển giá ở Việt Nam, ngoài cơ sở pháp lý quan trọng là Thông tư 66/2010/TT-BTC, các cơ quan hữu quan (đặc biệt là cơ quan Thuế) còn căn cứ áp dụng các văn bản pháp quy khác như Thông tư số 71/2010/TT-BTC ngày 07/5/2010 hướng dẫn ấn định thuế đối với hoạt động kinh doanh xe ô tô, xe hai bánh gắn máy3; Thông tư số 28/2011/TT-BTC ngày 28/02/2011 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý Thuế4; Thông tư số 201/2013/TT-BTC ngày 20/12/2013 hướng dẫn việc áp dụng thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) trong quản lý thuế. Đặc biệt gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 20/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết, đồng thời Bộ Tài chính ban hành Thông tư 41/2017/TT-BTC ngày 20/4/2017 nhằm cung cấp những quy định hướng dẫn cụ thể cho vấn đề chuyển giá. Trong khuôn khổ kế hoạch cải cách thuế của Việt Nam, hướng tới sự phù hợp với bối cảnh toàn cầu trong việc gia tăng tính minh bạch và nỗ lực chống né tránh nghĩa vụ thuế, những văn bản pháp lý quan trọng này hướng tới việc xử lý các doanh nghiệp có sử dụng các giao dịch liên kết để chuyển giá, trốn thuế. 3 Thông tư 71/2010/TT-BTC nhằm hướng dẫn xác định giá giao dịch trên thị trường làm căn cứ ấn định giá, ấn định thuế phải nộp, qua đó giúp cho việc hạn chế hoạt động chuyển giá có thể phát huy trong lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu lắp ráp các loại xe ô tô và xe hai bánh gắn máy tại Việt Nam. 4 Thông tư 28/2011/TT-BTC nêu rõ việc so sánh giá đầu ra, đầu vào với các bên trung gian của thị trường hoặc đơn vị độc lập, làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện tốt hơn Thông tư 66/2010/TT-BTC. PHẠM MINH QUỐC Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201954 Ngoài ra, vấn đề chống chuyển giá ở các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng ở Việt Nam cũng ngày càng thu hút sự quan tâm phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Chẳng hạn như Tổng Cục Thuế đã thành lập Tổ Quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá trực thuộc Tổng Cục Thuế; Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Tổ công tác liên ngành với sự tham gia của Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ để nghiên cứu vấn đề chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI; Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra Quyết định 1250/QĐ-BTC ngày 21/5/2012 phê duyệt chương trình hành động kiểm soát hoạt động chuyển giá giai đoạn 2012- 2015. 2.2. Một số hạn chế của quy định pháp luật trong xử lý vấn đề chuyển giá ở nước ta hiện nay Trong những năm qua, cùng với quá trình chuyển đổi, phát triển nền kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế thế giới, hệ thống các định chế và chính sách kinh tế- tài chính của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực, ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, thông qua việc tiếp cận các quy định pháp luật thực định về chống chuyển giá từ hệ thống các văn bản pháp quy nêu trên, theo đánh giá của tác giả, việc xây dựng và ban hành các định chế pháp lý cho việc chống chuyển giá tồn tại một số vấn đề còn hạn chế như sau: Thứ nhất, khái niệm “chuyển giá” vẫn chưa chính thức được định nghĩa trong luật- vấn đề chống chuyển giá vẫn chưa được luật hóa. Việc quản lý giá giao dịch chuyển giao sản phẩm giữa các bên liên kết còn chưa được quy định cụ thể trong Luật Thuế hiện hành. Điều này được thể hiện ở chỗ các văn bản pháp quy hiện tại làm cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xác định các vụ việc có tính “chuyển giá” thông qua việc quy định các phương pháp xác định giá thị trường đối với các giao dịch liên kết chủ yếu là các văn bản dưới luật (do Bộ Tài chính ban hành trên cơ sở đề xuất của Tổng Cục Thuế). Các văn bản này khi được ban hành, chủ yếu là nhằm hướng dẫn, hỗ trợ cơ quan Thuế thực hiện Luật Quản lý Thuế và nhằm xử lý các vụ việc được xem là vi phạm pháp luật thuế. Thứ hai, các văn pháp pháp luật hiện hành còn thiếu nhiều quy định cụ thể nhằm hỗ trợ việc triển khai thực hiện các biện pháp xác định các vụ việc chuyển giá như: - Chưa có những quy định về hệ thống định mức bình quân theo ngành nghề, hệ thống tỷ suất lợi nhuận bình quân ngành, hệ thống giá làm cơ sở so sánh, ấn định thuế. - Chưa quy định rõ cách thức kết hợp các phương pháp định giá chuyển giao trong trường hợp việc xác định giá chuyển giao bằng 1 trong 5 phương pháp đã nêu không thể đưa ra kết quả chính xác. - Chưa có quy định việc lưu trữ sổ sách kế toán, hồ sơ khai thuế dưới dạng dữ liệu để cung cấp thông tin phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Mặc dù văn bản có hiệu lực hiện hành đã quy định nghĩa vụ lập và lưu giữ hồ sơ gồm các thông tin, tài liệu và các chứng từ có liên quan đến giao dịch liên kết, nhưng lại chưa đưa ra những tiêu chí cụ thể về mức độ chi tiết của thông tin. Vì thế chưa có tiêu chuẩn cụ thể cho việc xác định tính chính xác của thông tin. Một số đánh giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 55 - Chưa xây dựng được một hệ thống các quy định riêng về chế tài dành riêng cho các doanh nghiệp có hành vi chuyển giá. Việc xử lý các hành vi này vẫn dựa theo các quy định chung về xử phạt hành vi vi phạm thuế5. Trong khi việc xử lý hành vi vi phạm thuế hiện nay ở Việt Nam không phân biệt lỗi cố ý hoặc vô ý của doanh nghiệp vi phạm, thì việc phân biệt mức độ vi phạm trong chuyển giá với lỗi cố ý hay vô ý lại hết sức có ý nghĩa trong việc xác định mức độ nghiêm khắc của chế tài xử lý. Thứ ba, cơ chế thực thi các quy định pháp luật hiện hành trong lĩnh vực xác định, xử lý hành vi chuyển giá trốn thuế còn chưa thực sự có hiệu quả, cụ thể như: - Sự tuyên truyền của các cơ quan quản lý nhà nước (đặc biệt là cơ quan thuế) đối với xã hội (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp) nhằm nâng cao nhận thức về hành vi chuyển giá cũng như những ảnh hưởng của loại hành vi này đối với lợi ích chung của xã hội còn chưa đầy đủ, hiệu quả. Cho đến nay, khái niệm chuyển giá còn khá xa lạ và mới mẻ với nhiều doanh nghiệp, nhiều khi còn có sự hiểu nhầm vấn đề chuyển giá trong các giao dịch liên kết với giá nội bộ (nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế) với khái niệm về chuyển giá (nhằm kết toán) của người làm công tác kế toán tại đơn vị sản xuất kinh doanh. - Chưa có cơ chế hợp tác cụ thể giữa các cơ quan hữu quan (cơ quan thuế, cơ quan hải quan, cơ quan kiểm toán, ngân hàng, cơ quan giám định, cơ quan ngoại giao) 5 Xem thêm: Nghị định số 129/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Nghị định số 109/2013/NĐ- CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hoá đơn; Thông tư 166/2013/ TT-BTC quy đinh chi tiết về xử phạt hành chính về thuế. trong quá trình xác định và xử lý hành vi chuyển giá. Điều đó khiến cho việc triển khai các văn bản pháp quy hiện hành trong lĩnh vực chống chuyển giá còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa thực sự đồng bộ giữa các tỉnh, thành, ngành. Mặc dù vấn đề chuyển giá trong kinh doanh ở Việt Nam ngày càng thu hút được nhiều sự quan tâm của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm phát hiện kịp thời các lỗ hổng trong công tác ban hành chính sách kinh tế và tiếp tục hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý, song sự hợp tác phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong quá trình chống chuyển giá của các doanh nghiệp FDI còn thiếu đồng bộ và chặt chẽ. Chẳng hạn, sự thiếu hợp tác giữa cơ quan thuế và cơ quan hải quan trong việc xác định giá chuyển giao sẽ làm gia tăng khối lượng công việc cho cơ quan thuế trong việc xác định giá trị chính xác của hàng hóa dịch vụ nhập khẩu... - Chưa có cơ chế giải quyết tại Tòa án những tranh chấp phát sinh giữa cơ quan thuế với doanh nghiệp trong quá trình xác định lại giá thị trường trong những giao dịch có tính liên kết để áp dụng các biện pháp ấn định thuế, xử phạt hành vi vi phạm thuế. Một trong lý do cơ bản để tồn tại hạn chế này đó là vì vấn đề chống chuyển giá hiện nay ở Việt Nam thực chất chủ yếu là để nhằm xử lý tình trạng trốn tránh nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước Việt Nam. Việc xử lý hành vi chuyển giá chủ yếu mang tính hành chính do cơ quan thuế tiến hành trên nền tảng chức năng quản lý Thuế. Các vụ việc tranh chấp về vấn đề chuyển giá vì thế còn khá mới mẻ đối với hệ thống cơ quan xét xử ở nước ta. 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam PHẠM MINH QUỐC Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201956 Đối với khu vực đầu tư FDI, chuyển giá được xem như một hiện tượng “đặc trưng” có thể xảy ra ở hầu hết các nước tiếp nhận đầu tư, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức một cách khách quan rằng, mục đích của việc chống chuyển giá không phải chỉ để nhằm “bịt khe hở” trốn thuế (như cách hiểu của nhiều thông tin đã đưa gần đây trên các phương tiện đại chúng)6, mà còn nhằm để xác định được phạm vi tác động của các giao dịch liên kết trong quan hệ kinh doanh trong nước và quốc tế, đưa các giao dịch liên kết có chuyển giá về bản chất tự nhiên vốn có của một giao dịch bình đẳng như các giao dịch thông thường khác. Có như vậy mới tránh đươc tình trạng phân bổ lợi ích cục bộ thông qua các giao dịch có tính liên kết, đồng thời bảo vệ được lợi ích của Nhà nước và tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong nền kinh tế tồn tại nhiều quan hệ đa dạng (Phan Thị Thành Dương, 2006). Trên cơ sở nhận thức trên, việc xây dựng và tiếp tục hoàn thiện các chế định pháp luật liên quan đến chuyển giá cần phải đặt trong mối tương quan giữa các chính sách kinh tế- thương mại- tài chính một cách hài hòa, sao cho đảm bảo được sự cân bằng lợi ích của nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời vừa thu hút được đầu tư, vừa đảm bảo nâng cao năng lực quản lý kinh tế tài chính của hệ thống các thiết chế quản lý của Nhà nước. Từ những đánh giá sơ bộ về những hạn chế còn tồn tại trong pháp luật hiện hành ở nước ta đối với vấn đề chống chuyển giá nêu trên, tác giả khuyến nghị một số giải 6 Xem: - Ngăn chặn lỗ giả, lãi thật, website: sggp.org.vn/kinhte/2011/9/269030 - Quốc hội bàn cách “chặn” doanh nghiệp lỗ giả, website: cach-chan-doanh-nghiep-lo-gia-p0c1034n521427.vnn pháp cần tập trung nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc chống chuyển giá ở Việt Nam như sau: Thứ nhất, cần luật hóa vấn đề chuyển giá. Như đã nêu, vấn đề chống chuyển giá hiện nay mới chỉ được đề cập trong góc độ các quy định dưới luật do Bộ Tài chính ban hành đồng thời với tư cách là nghiệp vụ quản lý của cơ quan thuế. Mặt khác, khái niệm chuyển giá còn chưa được trực tiếp chỉ ra trong bất cứ một văn bản pháp quy nào. Chính vì vậy, trước mắt vấn đề xác định chuyển giá nhằm trốn thuế nên được đề cập trong Luật Quản lý Thuế với tư cách là một nghiệp vụ quản lý của lĩnh vực thuế. Điều này sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng để Chính phủ, trên cơ sở Luật Quản lý Thuế, sẽ ban hành các văn bản pháp quy (Nghị định) có giá trị pháp lý và phạm vi tác động ở mức độ cao hơn Thông tư, giúp cho công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước hữu quan có cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ và hiệu quả hơn. Về lâu dài, công tác chống chuyển giá cần phải có sự phối hợp toàn diện của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau gồm: Đầu tư, cạnh tranh, thuế, hải quan, ngân hàng, tòa án, thương vụ nước ngoài và sự tham gia của nhiều tổ chức nghiệp vụ khác như tổ chức giám định, kiểm toán, hiệp hội ngành nghề Khi đó, các quy định pháp luật về chuyển giá và các biện pháp chống chuyển giá có thể sẽ tiến tới được ban hành dưới hình thức là một chế định pháp luật riêng song hành cùng với các luật trong các lĩnh vực liên quan như Luật về đầu tư, thuế, hải quan, cạnh tranh, ngân hàng Vì vậy, trong tương lai cần xây dựng Luật Chống chuyển giá nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất có giá trị pháp lý cao cho việc chống Một số đánh giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 57 chuyển giá. Thứ hai, tiếp tục rà soát và hoàn thiện hành lang pháp lý cho vấn đề chống chuyển giá ở Việt Nam. Ở phạm vi pháp luật trong nước, song hành với việc ghi nhận chính thức trong Luật Quản lý Thuế vấn đề chống trốn thuế qua chuyển giá, cần tiếp tục bổ sung trong các luật hiện hành (như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp, Luật Tổ chức Tín dụng) vấn đề chuyển giá dưới hình thức các hành vi bị cấm, các giao dịch cần đảm bảo tính minh bạch Ngoài ra, cần xây dựng ban hành các biện pháp chế tài pháp lý đủ mạnh để xử lý các hành vi chuyển giá, trốn lậu thuế. Kinh nghiệm từ nhiều nước trong khu vực cho thấy các hành vi chuyển giá nhằm gian lận thuế thường phải chịu những mức xử phạt từ 100% đến 400% số thuế bị phát hiện gian lận, đồng thời công khai danh tính những doanh nghiệp thực hiện chuyển giá nhằm trốn thuế (Đặng Văn Hải, 2018). Ở phạm vi quốc tế, đến nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, có quan hệ thương mại với hầu hết các quốc gia trên thế giới và đã ký Hiệp định Giá trị hải quan và Hiệp định Tránh đánh thuế 2 lần với hơn 50 quốc gia, đây chính là điều kiện pháp lý quan trọng trong việc triển khai xây dựng và thực hiện các biện pháp chống chuyển giá. Theo khuyến nghị của OECD (OECD, 1995), việc triển khai cơ chế thỏa thuận trước về phương pháp giá tính thuế (APA) có thể được coi là một giải pháp có ý nghĩa tích cực trong việc cân bằng lợi ích quốc gia nhận đầu tư và các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời vẫn đảm bảo việc không vi phạm các cơ chế pháp lý khác của Hiệp định Tránh đánh thuế 2 lần đã ký kết. Trong tương lai, việc tiếp tục ký kết các hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với các đối tác thương mại khác của Việt Nam và hình thành cơ chế thỏa thuận trước về phương pháp giá tính thuế APA giữa nhà đầu tư nước ngoài với các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc minh bạch hóa phương pháp xác định giá trị tính thuế của các giao dịch có tính liên kết. Tuy nhiên, việc hình thành và áp dụng cơ chế APA tại Việt Nam cần phải có một lộ trình và bước đi thích hợp nhằm đảm bảo khả năng thích ứng của cơ quan quản lý nhà nước, cũng như tâm lý kinh doanh của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thứ ba, tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật trong lĩnh vực chống chuyển giá. Về lâu dài, việc hình thành một cơ quan chuyên trách chống chuyển giá ở cấp Trung ương nhằm chỉ đạo thực hiện thông suốt công tác chống chuyển giá ở tầm quốc gia và trực tiếp xử lý các vấn đề về thông tin ở tầm quốc tế sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác chống chuyển giá ở nước ta. Trước tiên cần phải tạo ra cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục kiện toàn hệ thống cơ quan thanh tra trong lĩnh vực chuyển giá trong ngành Thuế, chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra giá chuyển giao đối với các doanh nghiệp có nhiều thành viên, các ngành nghề có dấu hiệu rủi ro lớn về thuế do hành vi chuyển giá của doanh nghiệp liên kết, các doanh nghiệp đã và đang thực hiện tái cơ cấu Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng trong quá trình kiểm soát và xử lý các hành vi chuyển giá, các cơ quan chức năng (đặc biệt ngành Thuế và Hải quan) cần tích cực phổ biến, tuyên PHẠM MINH QUỐC Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201958 truyền nhằm nâng cao sự nhận thức về các tác động và ảnh hưởng của hành vi chuyển giá đối với lợi ích chung của xã hội và giới kinh doanh, đồng thời tiếp tục xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành về chuyển giá và tùy theo nhu cầu có thể xây dựng Đề án về việc thành lập cơ quan chuyên trách về chuyển giá ở từng địa phương có nhiều doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động. Trong quá trình tiến hành công tác chống chuyển giá, một hệ thống cơ sở dữ liệu được kết nối liên thông nhằm cung cấp kịp thời thông tin về doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp có vốn FDI nói riêng trong các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ hết sức có ý nghĩa để có sự phối hợp đồng bộ, thông suốt trong kiểm soát hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp có quan hệ liên kết. Điều này đòi hỏi ngành thuế, cơ quan ngoại giao, cơ quan cấp phép đầu tư, hải quan, ngân hàng cần tăng cường xây dựng cơ sở dữ liệu và kết nối thông tin để có được một hệ thống thông tin cần thiết cho quá trình quản lý, phân tích rủi ro, thanh tra và xử lý các hành vi chuyển giá giữa các doanh nghiệp liên kết. Để đạt được điều này, Chính phủ cần tiếp tục rà soát, xây dựng cơ chế pháp lý cụ thể cho việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng, khoản chi Ngân sánh Nhà nước phục vụ công tác chuyển giá (chi phí để mua thông tin, chi phí điều tra, xác minh). 4. Kết luận Chuyển giá là một hiện tượng khá phổ biến trong quan hệ đầu tư kinh doanh quốc tế thường xuất hiện trong các các giao dịch kinh tế giữa các doanh nghiệp vốn đã tồn tại mối quan hệ liên kết (theo kiểu tập đoàn kinh tế, hoặc có cơ cấu theo mô hình công ty mẹ- công ty con), trong đó các bên trong giao dịch liên kết đã thiết lập cơ chế giá chuyển giao (giá chuyển giao nội bộ hay giá liên kết) được xác định ở mức cao hơn hay thấp hơn giá trị của hàng hóa dịch vụ mua vào hoặc bán ra thông thường (giá thị trường) nhằm đạt được những lợi ích nhất định trong tập đoàn hoặc nhóm. Trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và thuế quan, hiện tượng này có thể được các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng như một phương thức trốn tránh các khoản thuế thông qua việc báo lỗ trong hoạt động kinh doanh, dẫn đến sự thất thu về ngân sách đồng thời gây ra sự bất bình đẳng sự bất bình đẳng về lợi ích và những cách biệt trong ưu thế cạnh tranh tại một quốc gia tiếp nhận đầu tư. Trên thực tế, việc xác định có tồn tại sự chuyển giá trong hoạt động của các doanh nghiệp FDI là một vấn đề không đơn giản, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải có cách đánh giá đúng mức và toàn diện về hiện tượng này, đồng thời phải ban hành và hoàn thiện những cơ sở pháp lý đủ mạnh và linh hoạt nhằm xử lý kịp thời các hành vi chuyển giá. Cùng với sự nỗ lực của nhà nước trong việc hình thành khuôn khổ pháp lý cho hoạt động chống chuyển giá, tạo những cơ sở pháp lý nhất định cho hoạt động của các cơ quan chức năng (đầu tư, thuế, hải quan, kiểm toán, ngân hàng) trong đấu tranh chống chuyển giá của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam, việc tiếp tục hoàn thiện những hạn chế còn tồn tại trong pháp luật về lĩnh vực này cần thiết phải được đặt ra. Theo đó, Việt Nam cần sớm cụ thể hóa và ban hành các quy định pháp luật về chống Một số đánh giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 59 chuyển giá ở mức độ hiệu lực cao hơn nhằm hỗ trợ cho công tác đấu tranh chống chuyển giá, tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất rõ ràng và minh bạch cho các doanh nghiệp có cơ sở chấp hành và tuân thủ. Trên cơ sở kinh nghiệm và dựa theo các quy tắc, thông lệ trong thực tiễn hoạt động chống chuyển giá trên thế giới, Việt Nam cần tiếp tục rà soát, xây dựng cơ chế pháp Tài liệu tham khảo 1. Andrew Lymer & John Hasseldine (2002), The International Taxation System, Kluwer Academic Publishers, ISBN 1402071574. 2. Bộ Tài chính (1997), Thông tư số 74/1997/TT-BTC ngày 20/10/1997 hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài.Bộ Tài chính (1999), Thông tư số 89/1999/TT-BTC ngày 16/7/1999 về việc hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 3. Bộ Tài chính (2001), Thông tư số 13/2001/TT-BTC ngày 08/3/2001 về việc hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 4. Bộ Tài chính (2005), Thông tư 117/2005/TT-BTC ngày 19/12/2005 hướng dẫn việc thực hiện xác định giá thị trường trong các giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. 5. Bộ Tài chính (2010), Thông tư 66/2010/TT-BTC ngày 22/4/2010 về việc hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. 6. Bộ Tài chính (2017), Thông tư 41/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 hướng dẫn thi hành Nghị định số 20/2017/NĐ-CP. 7. Chính phủ (2017), Nghị định số 20/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết. 8. Dương Thị Vân Anh (2018), Thực trạng chuyển giá và giải pháp chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI tại Việt Nam, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán (số T4/2018). 9. Đặng Văn Hải, Giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chống chuyển giá tại Việt Nam, website: 10. https://enternews.vn/giai-phap-hoan-thien-khuan-kho-phap-ly-ve-chong-chuyen-gia-tai-viet-nam-135362.html 11. OECD (2001), Transfer Pricing Guidelines for Multinational Enterprises and Tax Administrantions. 12. OECD, Công ước mẫu về định giá chuyển giao của OECD. 13. OECD (1995), Cẩm nang hướng dẫn về chuyển giá. 14. Phạm Hùng Tiến (2012), Bàn về chống chuyển giá trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh số 28. 15. Phan Hữu Thắng, Nhận biết dấu hiệu chuyển giá, nguồn website: gia-d5715.html 16. Phan Thị Thành Dương (2006), Chống chuyển giá ở Việt Nam, Khoa học pháp lý số 2 (33)/2006. 17. Quốc hội (2006), Luật Quản lý Thuế số 78/2006/QH 11 (sửa đổi năm 2012). 18. Quốc hội (2012), Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH 12 (sửa đổi năm 2013). 19. Võ Phan Sử, Bàn về vấn đề chuyển giá doanh nghiệp FDI, nguồn website: 20. 21. Website, Cần ngăn chặn doanh nghiệp FDI báo lỗ giả, nguồn: NewsDetail.aspx?co_id=30111&cn_id=612807 22. Website, Doanh nghiệp FDI, minh bạch thuế và túi tiền quốc gia, nguồn: tuyen-doanh-nghiep-fdi-minh-bach-thue-va-tui-tien-quoc-gia-20141029020422187.htm 23. Website, Ngăn chặn lỗ giả, lãi thật, nguồn: 24. Website, Quốc hội bàn cách “chặn” doanh nghiệp lỗ giả, nguồn: ban-cach-chan-doanh-nghiep-lo-gia-p0c1034n521427.vnn lý cụ thể cho việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác này, hướng tới hình thành một cơ quan chuyên trách chống chuyển giá ở cấp Trung ương nhằm chỉ đạo thực hiện thông suốt công tác chống chuyển giá ở tầm quốc gia và trực tiếp xử lý các vấn đề về thông tin chuyển giá ở tầm quốc tế ■ PHẠM MINH QUỐC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_danh_gia_va_giai_phap_hoan_thien_phap_luat_ve_chong_c.pdf
Tài liệu liên quan