Một số kiến nghị
Một là, cần sửa đổi Luật Đầu tư năm
2014, bổ sung giải thích rõ một số khái niệm
như: lợi ích công cộng”, “mục đích công
ích” , được sử dụng trong các hiệp định
đầu tư song phương giữa Việt Nam và một
nước khác.
Hai là, các biện pháp bảo vệ môi
trường thường gắn với việc giải thích và
thực thi các hiệp định đầu tư trong một số
trường hợp khác nhau. Do đó, việc áp dụng
các ngoại lệ gắn liền với việc thực thi các
biện pháp của nhà nước và cần phải được
lập luận một cách chặt chẽ, có cơ sở. Những
vấn đề cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng bao
gồm: mục đích của biện pháp bảo vệ môi
trường; không phân biệt đối xử, theo đó
các biện pháp này không liên quan tới nhà
đầu tư nước ngoài hoặc khoản đầu tư nước
ngoài; và các biện pháp được áp dụng bất kể
quốc tịch của nhà đầu tư; đúng thẩm quyền
giải quyết tranh chấp (cơ quan tài phán có
thẩm quyền thụ lý vụ kiện). Trong đó, bằng
chứng khoa học là có cơ sở cũng như sự giải
thích các tiêu chí về “sự cần thiết”, “cơ sở
khoa học xác đáng” đóng vai trò rất quan
trọng. Vì vậy, các cơ quan liên quan của Việt
Nam cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về
những nội dung trên để phục vụ cho việc
theo đuổi các vụ kiện sau này.
Ba là, cần quy định cụ thể trong hợp
đồng đầu tư về khả năng áp dụng các ngoại
lệ trong trường hợp bảo vệ môi trường trên
cơ sở sự nhất quán với các nguyên tắc và
quy định của hiệp định đầu tư.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 264 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng quy định trường hợp ngoại lệ về môi trường trong pháp luật đầu tư quốc tế và một số so sánh với thực tiễn Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÁP DỤNG QUY ĐỊNH TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT
ĐẦU TƯ QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ SO SÁNH VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM
Trần Thăng Long*
* TS. Phó Trưởng khoa Ngoại ngữ Pháp lý, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Abstract
Currently, investment treaties often retain the provisions on
exception cases, which provide the legal ground for the host country
to implement interventions to the deprivation of investor ownership.
It is important that, once deprivation measures are taken on the basis
of environmental exceptions, the host countries should carefully
consider and prepare the legal grounds, scientific justifications
and arguments for their behavior and attention to the issue of
compensation reasonable and satisfactory for the investors.
Tóm tắt:
Hiện nay, các hiệp định đầu tư thường có quy định về trường hợp
ngoại lệ, trong đó tạo cơ sở pháp lý cho quốc gia tiếp nhận đầu tư
thực hiện các biện pháp can thiệp dẫn đến việc tước quyền sở hữu
của nhà đầu tư. Điều quan trọng là, một khi các biện pháp truất hữu
được thực hiện trên cơ sở các ngoại lệ về môi trường, các quốc gia
cần cân nhắc và chuẩn bị kỹ lưỡng về cơ sở pháp lý, cơ sở khoa
học và các luận cứ cho hành vi của mình và lưu ý đến vấn đề bồi
thường một cách hợp lý và thỏa đáng cho các nhà đầu tư.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: trường hợp ngoại lệ, hiệp ước
đầu tư, sung công, môi trường, luật đầu
tư quốc
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 17/09/2018
Biên tập : 02/12/2018
Duyệt bài : 07/12/2018
Article Infomation:
Keywords: exceptions, investment
treaty, expropriation, environment,
international investment law.
Article History:
Received : 17 Sep. 2018
Edited : 02 Dec. 2018
Approved : 07 Dec. 2018
1. Ngoại lệ về môi trường trong luật đầu
tư quốc tế
1.1. Khái quát chung
Luật đầu tư quốc tế có những ngoại
lệ cho việc áp dụng và tuân thủ các cam kết
quốc tế của các quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Mục đích chung của các ngoại lệ là tạo ra
1 Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Đầu tư quốc tế, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, tr. 611.
công cụ cân bằng giữa yêu cầu của bảo hộ
đầu tư nước ngoài và bảo vệ các giá trị hoặc
các mục tiêu khác, do đó chúng là cơ sở để
các quốc gia liên quan tiến hành các hành
động đối với nhà đầu tư, ví dụ như nhằm
bảo vệ sức khỏe con người, môi trường1. Về
cơ bản, các ngoại lệ trong luật đầu tư quốc
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
54 Số 4(380) T2/2019
tế bao gồm: các ngoại lệ chung, các ngoại
lệ cụ thể nêu ra trong các hiệp định đầu tư
và những ngoại lệ riêng cho từng quốc gia.
Trong đó, các ngoại lệ chung thường gắn
với việc thực thi các nguyên tắc về bảo hộ
đầu tư, về cơ bản tương tự như Điều XX của
GATT2 và Điều XIV của GATS trong khuôn
khổ WTO.
Các ngoại lệ về môi trường thường có
thể hiểu là những ngoại lệ mà trong đó, lý do
về môi trường là cơ sở của việc áp dụng các
biện pháp, bao gồm việc bảo vệ, gìn giữ và
ngăn ngừa những nguy cơ tác động tiêu cực
đến môi trường. Hiện nay, các hiệp định đầu
tư có quy định về trường hợp ngoại lệ này,
thể hiện dưới dạng “sự cần thiết để bảo vệ
sức khỏe của con người, động thực vật” và
“liên quan đến việc bảo tồn các tài nguyên
có thể bị cạn kiệt của quốc gia”. Các ngoại
lệ về môi trường là cơ sở của việc tiến hành
biện pháp truất hữu và cũng là tiêu chí để
đánh giá tính “hợp pháp” của biện pháp truất
hữu mà quốc gia tiếp nhận đầu tư đã thực
hiện. Các ngoại lệ này chính là những ngoại
lệ chung của các hiệp định đầu tư và là một
các cơ sở dẫn đến việc áp dụng các biện
pháp truất hữu dựa trên lý do về môi trường.
Nhìn chung bao gồm các dạng: (i) lý do bảo
vệ môi trường là cơ sở dẫn đến việc truất
hữu, thông thường là truất hữu gián tiếp; (ii)
biện pháp truất hữu được thực hiện dựa trên
cơ sở của những vi phạm pháp luật của nhà
đầu tư về vấn đề bảo vệ môi trường, trong đó
bao gồm việc phòng tránh các thảm họa môi
trường hoặc sau khi xử lý các sự cố nghiêm
2 GATT - General Agreement on Tariffs and Trade: Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch.
3 Xem vụ EC - Các biện pháp ảnh hưởng tới sản phẩm chứa a-mi-ăng và a-mi-ăng, WT/DS135/AB/R 443; Vụ Trung
Quốc - Các biện pháp liên quan đến xuất khẩu các nguyên liệu thô, 355, WT/DS394/AB/R,WT/DS395/AB/R, WT/
DS398/AB/R (ngày 30/1/2012); Vụ Hoa Kỳ - Các tiêu chuẩn đối với xăng dầu thường và xăng dầu tái chế, 22 WT/
DS2/AB/R (ngày 29/4/1996; Vụ Thái Lan - Hạn chế nhập khẩu và áp thuế nội địa với thuốc lá, DS10/R-37S200 (ngày
05/10/1990).
trọng về môi trường.
1.1. Điều kiện áp dụng các ngoại lệ về môi
trường
Trong các hiệp định đầu tư quốc tế,
các ngoại lệ về môi trường nhìn chung được
mô phỏng theo Điều XX của GATT. Vì vậy,
chúng sẽ được giải thích dựa trên cơ sở các
giải thích của GATT. Nói cách khác, căn
cứ để giải thích tính phù hợp của các biện
pháp áp dụng dựa trên lý do về môi trường
sẽ được giải thích theo đúng cách giải thích
của Điều XX của GATT và đã được làm rõ
qua một số vụ kiện tại WTO3.
Thực tiễn phân xử tranh chấp của
WTO cho thấy, để một biện pháp rơi vào
phạm vi của đoạn (b) Điều XX, là một biện
pháp “cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc
tình trạng sức khoẻ con người, động vật hoặc
thực vật”. Trong khi đó, để rơi vào phạm vi
của đoạn (g) Điều XX, một biện pháp phải
“liên quan đến việc bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên có thể cạn kiệt”. Thuật ngữ “liên quan
đến” được định nghĩa là “có liên quan đến,
được kết nối với”. Tuy nhiên, giữa đoạn (b)
và (g) có những sự khác nhau. Đoạn (b) của
Điều XX cho phép các quốc gia có thể có
những hoạt động hạn chế “cần thiết” nhằm
mục đích bảo vệ sức khỏe con người và
động thực vật trong khi ở đoạn (g) thì quy
định này lại được áp dụng ở một tiêu chuẩn
thấp hơn, đó là chỉ cần “liên quan” đến việc
bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể
bị cạn kiệt và biện pháp này phải được áp
dụng song song với các biện pháp hạn chế
sản xuất và tiêu dùng trong nước.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
55Số 4(380) T2/2019
Để đảm bảo rằng các biện pháp môi
trường này không được áp dụng tùy tiện và
không được sử dụng như một biện pháp bảo
hộ trá hình, đoạn mở đầu của Điều XX có
quy định 3 điều kiện để một thành viên có
thể xem xét để áp dụng các biện pháp này:
Một là, không tạo ra công cụ phân biệt đối
xử tùy tiện; Hai là, không tạo ra sự phân biệt
đối xử một cách vô lý; Ba là, không tạo ra
một sự hạn chế trá hình đối với thương mại.
Như vậy các ngoại lệ tại Điều XX
nói chung và tại đoạn (b) và (g) nói riêng là
những ngoại lệ đối với các nghĩa vụ của một
quốc gia thành viên. Tuy nhiên, các ngoại
lệ này phải được thực hiện kèm theo những
nghĩa vụ và điều kiện nhất định. Chính vì
lý do đó, khi một quốc gia muốn áp dụng
những ngoại lệ liên quan đến môi trường
này họ phải chứng minh được rằng biện
pháp mà mình áp dụng có được đề cập đến
trong đoạn (b) và (g) hay không và có thỏa
mãn những quy định của đoạn mở đầu của
Điều XX hay không.
Tóm lại, theo thực tiễn của GATT
1947 và WTO, việc giải thích và áp dụng
đúng Điều XX GATT phải được thực hiện
bằng một cuộc kiểm tra gồm ba bước4: Thứ
nhất, xác định xem chính sách theo đuổi của
thành viên với việc áp dụng các biện pháp
được đề cập đến có rơi vào phạm vi của các
chính sách và động cơ liệt kê ở các đoạn
từ (a) đến (j) hay không; thứ hai, tùy thuộc
vào từng đoạn cụ thể từ (a) đến (j) nêu trên,
xác định xem liệu biện pháp đó phải là ‘cần
thiết’ hoặc ‘liên quan đến’ việc theo đuổi
chính sách hay không; thứ ba, biện pháp này
4 Xinjie Luan & Julien Chaisse (2011), ‘Preliminary Comments on the WTO Seals Products Dispute: Traditional Hunting,
Public Morals and Technical Barriers to Trade’, 22 Colo. J. Int'l envtl. l. & pol'y 79 (2011), dẫn trong Đại học Luật Hà
Nội (2017), tlđd, tr. 618.
5 Xem Rahim Moloo, Justin Jacino (2011), ‘Environmental and Health Regulation: Assessing Liability under Investment
Treaties’, Berkeley Journal of International Law, Volume 29( 1).
6 Julien Chaisse, bài giảng tại khóa đào tạo nâng cao về Luật đầu tư quốc tế và giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước
ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, Hà Nội, ngày 07-11/11/2016.
cần phải được áp dụng phù hợp với đoạn mở
đầu của Điều XX hay không.
1.3. Trách nhiệm bồi thường
Như trên đã phân tích, nguyên tắc
trách nhiệm đền bù của bên gây ô nhiễm là
nguyên tắc nền tảng của luật quốc tế về môi
trường. Tuy nhiên, trong luật đầu tư quốc
tế, nguyên tắc này chưa nhận được sự ủng
hộ cần thiết để trở thành cơ sở pháp lý loại
trừ trách nhiệm của nhà nước5. Về cơ bản,
hầu hết các Hiệp định đầu tư song phương
(BITs) đều bảo vệ nhà đầu tư khỏi việc bị
truất hữu gián tiếp và các biện pháp có tác
động tương đương và rất ít trường hợp quy
định tình huống mà nhà nước không phải
bồi thường khi áp dụng các biện pháp này.
Theo Dự thảo Công ước Havard về
trách nhiệm quốc tế của nhà nước với thiệt
hại của người nước ngoài thì việc tịch thu tài
sản do ban hành chính sách nhằm đảm bảo
trật tự công, đạo đức hoặc sức khỏe cộng
đồng thì không phải bồi thường. Theo Julien
Chaisse, tập quán quốc tế cho phép nhà
nước có linh hoạt pháp lý trong một số tình
huống đặc biệt và trong trường hợp không
có ngoại trừ nào trong hiệp định thì nước
nhận đầu tư cũng có thể biện giải biện pháp
của mình theo thông lệ quốc tế. Những quy
tắc này vẫn áp dụng trong trường hợp hiệp
định không có quy định về an ninh quốc gia.
Điều quan trọng là xác định được mức độ
được phép ngoại trừ theo thông lệ quốc tế.
Các trường hợp này gồm trường hợp bất khả
kháng, tình cảnh hiểm nghèo và trường hợp
cần thiết6.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
56 Số 4(380) T2/2019
2. Thực tiễn áp dụng
Thực tiễn giải quyết tranh chấp về đầu
tư quốc tế cho thấy, hầu hết các trường hợp
tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia tiếp
nhận đầu tư là có liên quan đến biện pháp
truất hữu, tuy nhiên, chủ yếu là các biện
pháp truất hữu gián tiếp. Trong hai thập kỷ
vừa qua, các tranh chấp phát sinh giữa nhà
đầu tư và nhà nước liên quan đến chính sách
môi trường được xem xét ở các cơ quan
trọng tài đầu tư quốc tế cho thấy, các biện
pháp bị kiện liên quan đến khá nhiều lĩnh
vực môi trường như chất thải nguy hại, đa
dạng sinh học, ô nhiễm nước, không khí7.
Cần phải nhắc lại rằng, nếu việc tước
đoạt trực tiếp phục vụ mục đích công cộng,
ví dụ bảo vệ môi trường, được thực hiện một
cách không phân biệt đối xử và phù hợp với
quy trình pháp luật, quốc gia tiến hành trả tiền
bồi thường nhanh chóng, đầy đủ, hiệu quả và
việc tước đoạt sẽ được coi là hợp pháp.
* Chấm dứt dự án đầu tư nhằm ngăn
ngừa nguy cơ gây ô nhiễm môi trường
Về biện pháp này, vụ Metalclad và
Mexico8 được xem là một trong những vụ
việc tiêu biểu. Trong vụ việc này, chính
quyền địa phương tại tiểu bang San Luis
Potos, Mexico đã từ chối cho phép nhà máy
của Metalclad, một công ty của Hoa Kỳ hiện
đang quản lý một cơ sở xử lý chất thải nguy
hại tại Mexico triển khai xây dựng dự án và
hoạt động, dựa trên những bằng chứng cho
rằng có khả năng chất thải được xử lý tại nhà
máy sẽ làm ô nhiễm nguồn nước địa phương.
Đồng thời, cơ sở để chấm dứt dự án này là
do có các cuộc biểu tình công khai liên tục
7 Nathalie Bernasconi-Osterwalder và Lise Johnson (2011), International Investment Law and Sustainable Development
– Key cases from 2000 - 2010, International Institute for Sustainable Development.
8 Metalclad Corp. v. United Mexican States, ICSID Case No. ARB(AF)/97/1, Award (Metalclad Award), 30 August
2000, https://www.italaw.com/cases/671
phản đối hoạt động của công ty này. Sau đó,
tiểu bang này cũng đã thông qua một Nghị
quyết sinh thái. Nghị quyết tuyên bố một khu
vực bảo tồn tự nhiên (bao gồm cả bãi rác) để
bảo vệ các loài xương rồng quý hiếm. Quan
điểm của phía Mexico là việc chấm dứt các
hoạt động của Metalclad dựa trên mục đích
công cộng, cụ thể là việc bảo vệ môi trường
trước nguy cơ gây ô nhiễm do hoạt động của
dự án chôn lấp chất thải nói trên.
Metalclad sau đó đã khởi kiện chính
phủ Mexico, đòi bồi thường số tiền lên đến
90 triệu USD để bù đắp thiệt hại phát sinh.
Công ty này cáo buộc chính quyền Mexico
đã vi phạm một loạt các nguyên tắc về bảo
hộ đầu tư và việc truất hữu mang tính phân
biệt đối xử và được tiến hành không đúng
thủ tục. Một Tòa án theo cơ chế bổ sung của
ICSID đã thụ lý vụ việc và sau đó đưa ra
phán quyết ủng hộ nhà đầu tư. Phía Mexico
đã yêu cầu xem xét phán quyết này tại một
Tòa án ở Canada. Toà này hủy bỏ một phần
của phán quyết nhưng vẫn yêu cầu Mexico
phải bồi thường cho nhà đầu tư.
* Từ chối gia hạn giấy phép thực hiện
dự án
Biện pháp này được minh họa thông
qua vụ Tecmed và Mexico. Technicas
Medioambientales Tecmed S.A. (bên nguyên
đơn) là một công ty Tây Ban Nha và là công
ty mẹ của Technicas medioambientales
Mexico, S.A. de C.V. (Tecmed), sở hữu 99%
cổ phần của Tecmed, một công ty được thành
lập theo luật pháp Mexico. Tecmed lại nắm
giữ hơn 99% cổ phần của Cytrar, S.A. de
C.V. (Cytrar) cũng là một công ty Mexico.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 4(380) T2/2019
Cytrar đã được cấp phép nhằm thực hiện dự
án chôn lấp chất thải công nghiệp nguy hại
(bãi rác) tại khu đô thị của Hermosillo, nằm
ở bang Sonora, Mexico bởi cơ quan chính
phủ Mexico là INE vào năm 1996. Đến năm
1998, INE ban hành nghị quyết từ chối gia
hạn giấy phép và thay vào đó tìm cách để
Cytrar đóng bãi rác. Lý do mà INE nêu ra
là do sự thay đổi chính quyền của thành phố
Hermosillo. Tecmed cho rằng việc không
gia hạn giấy phép cấu thành việc chiếm đoạt
tài sản, và do đó đã khởi kiện đòi bồi thường
thiệt hại vật chất và danh tiếng cũng như
lợi ích liên quan đến thiệt hại vào thời điểm
INE từ chối đơn xin gia hạn.
Trong vụ này, nhà đầu tư cho rằng
chính quyền Mexico đã phân biệt đối xử và
không thực hiện đối xử công bằng và bình
đẳng cũng như đã thực hiện truất hữu tài sản
của họ. Tòa Trọng tài giải quyết vụ việc đã
lập luận theo hướng có lợi cho nhà đầu tư,
kết luận rằng hành động từ chối gia hạn giấy
phép đã tạo nên một sự truất hữu. Điều quan
trọng là, các yếu tố thúc đẩy việc từ chối của
INE chủ yếu là vì lý do chính trị và không
phải môi trường, và mong muốn của cộng
đồng là không quá lớn để dẫn đến khủng
hoảng xã hội hay bất ổn công cộng, từ đó
khó có thể cho rằng lợi ích công cộng bị ảnh
hưởng là lớn hơn việc mất đi tài sản của phía
Tecmed. Từ đó, Tòa Trọng tài kết luận rằng,
nghị quyết của INE là không phù hợp, nghị
quyết và hiệu lực của nó dẫn đến việc tước
quyền vi phạm các hiệp định và luật pháp
quốc tế9.
* Cấm thực hiện dự án vì lý do môi
trường
9 Tecnicas Medioambientales Tacmed S.A.(“Tecmed”) v. United Mexican States, ICSID Case No. ARB (AF)/00/2,
Award, 43 I.L.M. 133 (2004).
10 S.D. Meyers v. Government of Canada, UNCITRAL, 2002
Vụ kiện S.D. Myers, Inc. v Canada10
là một ví dụ tiêu biểu. S.D. Myers, Inc.
(“SDMI”) là một công ty Hoa Kỳ có đầu
tư ở Canada với tên gọi là Myers Canada.
Một trong các lĩnh vực kinh doanh chủ chốt
của SDMI là xử lý Polychlorinated biphenyl
(PCB). Đây là một chất nguy hại đến môi
trường sử dụng chủ yếu trong các thiết bị
điện. MYERS Canada được thành lập để thu
gom chất thải PCB của Canada để xử lý bởi
SDMI tại cơ sở ở Hoa Kỳ.
Năm 1980, Hoa Kỳ đóng cửa biên
giới đối với chất thải PCB nhưng vào mùa
thu 1995 Hoa Kỳ lại cấp phép cho SDMI
trong 25 tháng để nhập khẩu chất thải PCB
từ Canada. Ngay sau đó, Canada đã ra một
lệnh cấm xuất khẩu PCB sang Hoa Kỳ do
đó khiến SDMI và cơ sở đầu tư của bên này
ở Canada không tiến hành được hoạt động
dự kiến. SDMI đã khiếu nại theo Chương 11
NAFTA rằng lệnh cấm của Canada vi phạm
nghĩa vụ NAFTA. Tòa Trọng tài kết luận
rằng, lệnh cấm của Canada không phải vì
lý do môi trường như Canada nêu. Trái lại,
lệnh cấm này chủ yếu nhằm bảo hộ ngành
xử lý chất thải PCB của Canada trong cuộc
cạnh tranh với Hoa Kỳ và ưu đãi hơn cho
doanh nghiệp của Canada so với doanh
nghiệp nước ngoài. Tòa kết luận, SD Myers
và cơ sở đầu tư của bên này tại Canada bị
ngăn cản thực hiện hoạt động kinh doanh dự
kiến. Đây là một bất lợi rõ ràng cho bên này
so với các đối thủ cạnh tranh Canada. Vì thế
Tòa Trọng tài đã kết luận rằng việc ban hành
lệnh cấm là vi phạm Điều 1102.
* Xử phạt vi phạm về môi trường như
một biện pháp truất hữu gián tiếp
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 4(380) T2/2019
Vụ công ty Newmont làm ô nhiễm
Vịnh Buyat, Indonesia là một ví dụ điển hình.
Vụ việc này tương tự như trường hợp vụ việc
của Vedan và Formosa ở Việt Nam. Trong
vụ kiện này, PT Newmont Minahasa Raya là
một công ty con của tập đoàn khai thác mỏ
Newmont đã tiến hành dự án khai thác mỏ
vàng Mesel ở Bắc Sulawesi, Indonesia từ
năm 1996 đến năm 2004. Dự án này sau đó
chấm dứt hoạt động vì lý do đã khai thác hết
quặng vàng ở đây. Newmont đã được phép
đổ chất thải đá là phần đá được nghiền mịn
sau khi tách và lấy ra vàng theo một đường
ống dẫn dài 900 mét trên đáy biển ở độ sâu
82 mét tại vịnh Buyat Bay. Sau khi việc thải
đổ được tiến hành đã gặp phải phản ứng
quyết liệt từ các cộng đồng địa phương và
các tổ chức phi chính phủ khi tuyên bố rằng
các chất thải này đã làm gây ô nhiễm Vịnh
Buyat đồng thời gây ra tác động bất lợi cho
sức khỏe của các cư dân địa phương. Trên cơ
sở của những phản ứng này, một số nghiên
cứu được thực hiện dưới sự ủy quyền bởi cả
Chính phủ Indonesia và Newmont. Kết quả
là trong nước đã phát hiện có chất asenic và
thủy ngân ở nồng độ cao. Đáng chú ý là, một
nghiên cứu của Chính phủ Indonesia đã cho
thấy chất thải từ mỏ vàng để lại hàm lượng
asen và thủy ngân cao trong trầm tích trên
đáy vịnh, sau đó chúng được thẩm thấu vào
các sinh vật sống dưới tầng đáy là thức ăn
cho các loài cá trong vùng biển này. Nghiên
cứu này sau đó đã khuyến cáo người dân
giảm tiêu thụ cá và nêu ra phương án di dời
làng chài với 300 cư dân khỏi khu vực này.
Bộ Môi trường Indonesia đã tuyên bố
rằng, Newmont đã không được phép đưa
11 Cultural Survival, “Newmont to pay 30 million to end pollution suit”, , 16 February 2004, <https://www.culturalsurviv-
al.org/news/campaign-update-newmont-pay-30-million-end-pollution-suit>.
12 “Buyat Bay: History and Status,” Newmont Brochure, May 2006, Xem thêm “The Government
of Indonesia and Newmont Announce Buyat Bay Agreement”, 16 February, 2006, <https://www.newmont.com/newsroom/
newsroom-details/2006/The-Government-of-Indonesia-and-Newmont-Announce-Buyat-Bay-Agreement/default.aspx>.
ra môi trường lượng chất thải lớn như vậy.
Đồng thời, Bộ khẳng định hành vi đổ chất
thải ra biển của Newmont là đã vi phạm Quy
định số 19/1994 của Chính phủ về Quản lý
chất thải nguy hiểm và độc hại, cùng với hai
quy định khác được ban hành năm 1999 (số
9 và số 85) của Indonesia. Kết quả là, vào
ngày 9/3/2005, Bộ Môi trường đã đệ đơn
kiện chống lại PT Newmont Minahasa Raya
tại Tòa án Quận Nam Jakarta, đòi bồi thường
thiệt hại với số tiền là 133,6 triệu USD nhằm
để phục hồi môi trường ở Vịnh Buyat và
việc di dời cư dân địa phương11. Kèm theo
đó là một yêu cầu khởi tố hình sự chống lại
công ty và chủ tịch công ty này là Richard
Ness vì lý do đã gây ô nhiễm Vịnh Buyat với
mục đích nhằm ngăn chặn các công ty khác
vi phạm luật môi trường quốc gia.
Sau đó, Tòa án Quận Nam Jakarta
đã bác bỏ khiếu kiện dân sự của Bộ Môi
trường chống lại Newmont. Cuối cùng,
vào ngày 16/2/2006, Chính phủ Indonesia
đã thoả thuận với Newmont khoản tiền 30
triệu USD, sau đó hai bên đã ký kết một
'Thỏa thuận thiện chí'. Trong thoả thuận
này, Chính phủ Indonesia đồng ý rằng các
điều tra khoa học sâu hơn về việc liệu các
hoạt động của Newmont có gây ra bất kỳ tác
động xấu nào đến môi trường ở vịnh Buyat
hay không và liệu chúng có tác động tiêu
cực tới sức khỏe ở người dân địa phương
hay không sẽ được tiến hành bởi một Hội
đồng gồm 6 nhà khoa học trong 10 năm. Đổi
lại, Newmont đã đồng ý thành lập một quỹ
từ thiện để giám sát việc phân bổ tiền hỗ trợ
Hội đồng khoa học cũng như các dự án khác
trong cộng đồng địa phương12.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 4(380) T2/2019
* Nhận xét:
Các vụ kiện nói trên là những vụ kiện
tiêu biểu trong hoạt động đầu tư quốc tế và
đều có liên quan đến việc áp dụng đến các
ngoại lệ về môi trường. Các biện pháp mà
chính phủ thực hiện nhìn chung đã đáp ứng
các tiêu chí để cấu thành nên hành vi truất
hữu tài sản của nhà đầu tư và do đó đều
bị nhà đầu tư áp dụng các quy định từ các
hiệp định đầu tư tương ứng để khởi kiện đòi
bồi thường. Trong các vụ kiện này, các Tòa
Trọng tài có khuynh hướng ủng hộ nhà đầu
tư bằng việc đưa ra những kết luận có lợi
cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, điều này cũng
xuất phát từ thực tế rằng các cơ sở pháp lý
mà các chính phủ đưa ra chưa thuyết phục
trọng tài về tính hợp lý, sự đảm bảo các quy
tắc về truất hữu hợp pháp và tính khoa học
của những bằng chứng đưa ra, chẳng hạn
như lập luận về tính cần thiết khi thực hiện
biện pháp vì mục đích đảm bảo lợi ích công
cộng. Điều quan trọng là mặc dù các lý do
về môi trường có thể được viện dẫn như là
căn cứ để tiến hành các biện pháp truất hữu
và ở góc độ nào đó, các căn cứ này đã cho
thấy những biện pháp truất hữu là hợp pháp,
việc bồi thường luôn được đặt ra. Điều này
rõ ràng là một điểm mà các quốc gia tiếp
nhận đầu tư không mong đợi và vì vậy sẽ
phải rất cẩn trọng trong các quyết định liên
quan đến khoản đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài, ngay cả trong trường hợp có cơ sở về
mối quan ngại môi trường.
3. Ngoại lệ về môi trường trong các hiệp
định đầu tư của Việt Nam và một số bài
học kinh nghiệm
13 Vũ Thị Châu Quỳnh, ‘Giới thiệu tổng quan về các hiệp định đầu tư quốc tế của Việt Nam’ tài liệu Hội thảo Phòng ngừa
và giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế do Bộ Tư pháp và USAID tổ chức tháng 10/2015
14 Trịnh Hải Yến (2017), tlđd, tr. 240 - 241.
3.1. Ngoại lệ về môi trường trong các hiệp
định đầu tư của Việt Nam
Hiện nay Việt Nam đã tham gia gần
70 Hiệp định đầu tư song phương (BITs)
và Hiệp định thương mại tự do có quy định
về vấn đề đầu tư13. Các hiệp định này đều
chứa đựng những nội dung cơ bản như bảo
hộ đối với nhà đầu tư, các nguyên tắc bảo
hộ đầu tư và các bảo đảm khác, cơ chế giải
quyết tranh chấp và việc giải quyết những
vấn đề liên quan14. Mặc dù vậy, các ngoại
lệ liên quan đến môi trường trong các BITs
của Việt Nam hầu như không tồn tại. Trong
khi đó, các ngoại lệ này được thể hiện dưới
dạng các ngoại lệ chung ở các hiệp định đầu
tư giữa ASEAN và các đối tác. Nhìn chung,
chúng có nội hàm và cách thể hiện tương tự
Điều XX của GATT.
Chẳng hạn, Hiệp định đầu tư toàn diện
ASEAN (ACIA) tại Điều 14 quy định điều
kiện để tiến hành biện pháp truất hữu (trong
Hiệp định được sử dụng dưới thuật ngữ “sung
công” hoặc quốc hữu hóa trực tiếp hoặc các
biện pháp tương tự, bao gồm: (a) phục vụ
cho mục đích công cộng; (b) thực hiện mà
không có phân biệt đối xử; (c) có bồi thường
kịp thời, đầy đủ và hiệu quả; và (d) tuân thủ
đúng quy trình của pháp luật. Điều 17 quy
định về các ngoại lệ chung, cho phép các
quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp
thích hợp, miễn là chúng không tạo thành
phương tiện phân biệt đối xử tùy tiện hoặc
vô lý giữa các nước thành viên hoặc nhà đầu
tư của các nước thành viên nơi có điều kiện
tương tự, hoặc hạn chế trá hình đối với các
nhà đầu tư của nước thành viên khác và các
khoản đầu tư của họ. Trong đó, điểm (b) và
điểm (f) có những tương đồng với các ngoại
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 4(380) T2/2019
lệ chung tại Điều XX của GATT. Đồng thời,
điểm (e) đề cập đến ngoại lệ trong việc áp
dụng các biện pháp nhằm “bảo vệ tài sản
quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hoặc
khảo cổ”, đây là sự mở rộng của khái niệm
“bảo vệ môi trường”, có liên hệ với vấn đề
“mối quan tâm về môi trường” như đã đề
cập ở phần trước.
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hàn
Quốc năm 2009, chương Đầu tư có quy định
và giải thích khá chi tiết các nội dung liên
quan đến tước quyền sở hữu. Đáng chú ý là
đoạn (c) điểm (ii) của Phụ lục 9-B có quy
định không coi là tước quyền sở hữu gián
tiếp nếu như chúng được áp dụng để đạt
được mục đích công cộng hợp pháp, như
bảo vệ sức khỏe cộng đồng, an toàn, môi
trường.
Trong khi đó, Hiệp định Thương mại
Việt Nam - Liên minh châu Âu (EUVFTA)
có quy định về vấn đề thu hồi dự án đầu tư15,
trong đó các bên ký kết có quyền áp dụng
theo ngoại lệ chung, nhưng không đề cập đến
vấn đề môi trường. Do đó vấn đề môi trường
chỉ có thể được suy ra từ khái niệm ở điểm
(a) “phục vụ cho mục đích công ích”. Chẳng
hạn, quốc gia tiếp nhận đầu tư có thể thu hồi
dự án đầu tư trong lĩnh vực môi trường hoặc
có liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường,
miễn là phải chứng minh được việc thu hồi
này nhằm phục vụ cho mục đích công ích.
Cách áp dụng này có thể hiểu tương tự như
các vụ việc Santa Elena v Costa Rica,16 và
Southern Pacific v Egypt17.
3.2. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam: vụ
việc Vedan và Formosa
· Vụ việc của Vedan năm 2008
15 Điều 16 Hiệp định Thương mại Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EUVFTA) năm 2017.
16 Compañia del Desarrollo de Santa Elena S.A. v. Republic of Costa Rica, ICSID Case No. ARB/96/1. .
17 Southern Pacific Properties ltd v Arab Republic of Egypt, ICSID 1992.
Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt
Nam được thành lập và hoạt động tại tỉnh
Đồng Nai là doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài do BurghleyEnterprises Pte., Ltd.
(Singapore) đầu tư. Kể từ khi Vedan hoạt
động vào năm 1993 cho tới giữa năm 1994,
các địa phương dọc theo sông Thị Vải,
huyện Long Thành, Đồng Nai bắt đầu nhận
thấy sông Thị Vải bị ô nhiễm, cá chết ngày
càng nhiều. Quá trình gây ô nhiễm sông Thị
Vải kéo dài qua 14 năm sau đó nhưng vụ
việc không được các cơ quan quản lý địa
phương phát hiện.
Ngày 08/09/2008, Cục Cảnh sát phòng
chống tội phạm về môi trường và Đoàn
kiểm tra liên ngành bắt quả tang Vedan xả
chất thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải qua
những đường ống ngầm. Ngày13/09/2008,
đoàn kiểm tra đã lập biên bản hành vi xả
nước thải chưa qua xử lý thông qua những
đường ống ngầm ra sông Thị Vải. Theo ước
tính thì Vedan đã xả 3.500 - 4.500 m3 chất
thải/ngày, mỗi năm có hàng triệu tấn nước
thải chưa qua xử lý đã được xả thẳng xuống
sông Thị Vải qua hệ thống đường hầm bí
mật và tinh vi. Đến đầu tháng 10/2008, Bộ
Tài nguyên Môi trường kết luận Vedan có
12 hành vi vi phạm pháp luật và đã ban hành
quyết định xử phạt hành chính Vedan 267,5
triệu đồng, buộc Vedan truy nộp 127 tỷ đồng
phí bảo vệ môi trường.
· Vụ việc Formosa năm 2016
Công ty TNHH Gang thép Hưng
Nghiệp Formosa Hà Tĩnh là chi nhánh
của Tập đoàn nhựa Formosa, Đài Loan.
Formosa là chủ đầu tư dự án khu liên hợp
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 4(380) T2/2019
gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương (bắt
đầu từ năm 2008) thuộc Khu kinh tế Vũng
Áng (Hà Tĩnh).
Ngày 6/4/2016, tại vùng biển cảng
Vũng Áng đã xảy ra hiện tượng một số loại
thủy sản bị chết. Ngay sau đó, hiện tượng
thuỷ sản chết lan trên diện rộng, bắt đầu từ
ven biển Hà Tĩnh, sau đó lan dọc ven biển
các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên Huế. Sự cố này đã gây ra những thiệt
hại nặng nề về kinh tế, xã hội và môi trường.
Nguyên nhân được công bố vào ngày
30/6/2016 là do Công ty Formosa, trong quá
trình thi công, vận hành thử nghiệm tổ hợp
nhà máy, đã có những vi phạm và để xảy
ra sự cố, dẫn tới nước thải có chứa độc tố
chưa được xử lý đạt quy chuẩn xả ra môi
trường. Cụ thể, nước thải của Formosa có
chứa độc tố như phenol, xyanua kết hợp
với hydroxit sắt, tạo thành một dạng phức
hỗn hợp, có tỷ trọng lớn hơn nước biển, theo
dòng hải lưu di chuyển theo hướng Bắc -
Nam từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế18.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã
ban hành Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với Formosa số tiền phạt là
4.485.000.000 đồng và buộc Formosa phải
thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả
vi phạm theo quy định của pháp luật. Về
phía Formosa, công ty đã nhận trách nhiệm
gây ra ô nhiễm môi trường biển nghiêm
trọng nói trên, thực hiện công khai xin
lỗi Chính phủ và nhân dân Việt Nam, bồi
thường thiệt hại cho người dân, khắc phục
hậu quả môi trường, cam kết không tái phạm
việc vi phạm pháp luật về môi trường. Đến
cuối tháng 8/2016, Công ty Formosa đã thực
18 Tổng cục Môi trườg, ‘Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia’ <2016
SOE_2016/11.%20Phu%20chuong.pdf?ver=2017-07-25-160659-403>, tr. 151.
hiện đúng cam kết, hoàn thành việc chuyển
tiền bồi thường cho Việt Nam với tổng số
tiền là 500.000.000 đô la Mỹ (tương đương
trên 11.500 tỷ đồng Việt Nam).
· Nhận xét:
Hai vụ việc của Vedan và Formosa tại
Việt Nam có điểm chung là các biện pháp
xử phạt hành chính và chế tài về môi trường
đưa ra chống lại các bên vi phạm là nhà đầu
tư nước ngoài căn cứ trên cơ sở vi phạm
nghiêm trọng về môi trường của các công ty
này. Các biện pháp được áp dụng là những
biện pháp xử lý đối với bên vi phạm dựa trên
những cơ sở và bằng chứng rõ ràng, thuyết
phục, và điều này khó có thể liên hệ đến vấn
đề truất hữu. Các nhà đầu tư cho thấy sự
chấp thuận và cam kết tuân thủ quyết định,
khắc phục hậu quả một cách có thiện chí.
Tuy nhiên, các vụ việc này cũng có thể
dẫn đến các vụ kiện theo luật đầu tư quốc
tế, xuất phát từ các hiệp định đầu tư ký giữa
Việt Nam và các bên liên quan trong trường
hợp Việt Nam áp dụng những biện pháp
mạnh mẽ hơn, chẳng hạn như việc đóng
cửa các dự án này, thay vì dừng lại ở việc
xử phạt vi phạm. Trường hợp Chính phủ
Việt Nam sử dụng các biện pháp chế tài cao
hơn đối với Formosa, như yêu cầu nhà máy
đóng cửa đến khi khắc phục tất cả các sai
phạm liên quan đến tiêu chuẩn môi trường
hoặc tạm thu hồi giấy phép hoạt động thì có
thể bị xem là biện pháp truất hữu gián tiếp
và không thể được áp dụng mà không bồi
thường thoả đáng cho nhà đầu tư trên cơ sở
Hiệp định khuyến khích đầu tư song phương
giữa Đài Loan và Việt Nam ký kết năm
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 4(380) T2/2019
199319. Như đã đề cập ở trên, trong tương
lai nếu phải áp dụng những biện pháp nhằm
ngăn chặn, phòng ngừa hoặc xử lý vi phạm
nghiêm trọng về môi trường hoặc những
biện pháp can thiệp về hành chính hoặc tư
pháp đối với các dự án đầu tư, Chính phủ
Việt Nam cần phải chuẩn bị những cơ sở
pháp lý và khoa học thật vững chắc và đảm
bảo đáp ứng những tiêu chuẩn của việc truất
hữu cũng như cơ sở để áp dụng các ngoại lệ
về môi trường.
3.3. Một số kiến nghị
Một là, cần sửa đổi Luật Đầu tư năm
2014, bổ sung giải thích rõ một số khái niệm
như: lợi ích công cộng”, “mục đích công
ích”, được sử dụng trong các hiệp định
đầu tư song phương giữa Việt Nam và một
nước khác.
Hai là, các biện pháp bảo vệ môi
trường thường gắn với việc giải thích và
thực thi các hiệp định đầu tư trong một số
trường hợp khác nhau. Do đó, việc áp dụng
các ngoại lệ gắn liền với việc thực thi các
biện pháp của nhà nước và cần phải được
lập luận một cách chặt chẽ, có cơ sở. Những
vấn đề cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng bao
gồm: mục đích của biện pháp bảo vệ môi
trường; không phân biệt đối xử, theo đó
các biện pháp này không liên quan tới nhà
đầu tư nước ngoài hoặc khoản đầu tư nước
ngoài; và các biện pháp được áp dụng bất kể
quốc tịch của nhà đầu tư; đúng thẩm quyền
giải quyết tranh chấp (cơ quan tài phán có
thẩm quyền thụ lý vụ kiện). Trong đó, bằng
chứng khoa học là có cơ sở cũng như sự giải
thích các tiêu chí về “sự cần thiết”, “cơ sở
khoa học xác đáng” đóng vai trò rất quan
trọng. Vì vậy, các cơ quan liên quan của Việt
19 Nguyễn Thị Lan Hương, tlđd, tr. 89.
Nam cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về
những nội dung trên để phục vụ cho việc
theo đuổi các vụ kiện sau này.
Ba là, cần quy định cụ thể trong hợp
đồng đầu tư về khả năng áp dụng các ngoại
lệ trong trường hợp bảo vệ môi trường trên
cơ sở sự nhất quán với các nguyên tắc và
quy định của hiệp định đầu tư.
Bốn là, khi thu hồi các loại giấy phép
phải có căn cứ thu hồi quy định trong pháp
luật, thu hồi do hành vi vi phạm của nhà đầu
tư phải có cơ sở rõ ràng, chắc chắn về hành
vi vi phạm, tuân thủ đầy đủ các quy định về
thời hạn và thủ tục. Cần xác định nguyên
tắc có tính chất phổ biến trong quan hệ đầu
tư quốc tế, đó là khi tước quyền sở hữu của
nhà đầu tư thì phải bồi thường theo giá thị
trường. Các hành vi gây thiệt hại kinh tế
hoặc vô hiệu hóa quyền của nhà đầu tư với
tài sản có thể được coi là tước quyền sở hữu
gián tiếp.
Năm là, cần quan tâm thích đáng đối
với việc nghiên cứu các vụ kiện tranh chấp
về đầu tư quốc tế đã được các cơ quan giải
quyết tranh chấp về đầu tư phân xử. Điều
này sẽ giúp cho các cơ quan chức năng liên
quan đến việc chuẩn bị hồ sơ vụ kiện và lập
luận hiểu rõ hơn về quy trình, thủ tục và nội
dung pháp lý đã được giải quyết trong các
vụ kiện đó.
Ngoài ra, việc xúc tiến tham gia Công
ước ICSID cũng là cơ hội cho Việt Nam tiếp
cận với các vụ kiện đã được giải quyết theo
cơ chế này và tiếp cận với những hướng dẫn,
bình luận và nghiên cứu của các chuyên gia
trong việc nắm vững các vụ kiện đã được
phân xử, làm nền tảng nghiên cứu, học hỏi
cho Việt Nam■.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 4(380) T2/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Hải Yến (2017), Giáo trình Luật đầu tư quốc tế, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 9.
2. M. Sornarajah (2010), The International Law On Foreign Investment, 3rd ed., Cambridge University Press,
tr. 207.
3. Trần Việt Dũng (2016), ‘Truất hữu tài sản của nhà đầu tư trong trường hợp làm ô nhiễm môi trường’, Khoa
học pháp lý, số 5/2016, tr. 13.
4. Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Công pháp quốc tế - quyển 1, Nxb. Hồng Đức
5. Nguyễn Thị Lan Hương (2018), ‘Một số tranh chấp liên quan đến biện pháp truất hữu gián tiếp trong quản
lý môi trường – kinh nghiệm phòng ngừa tranh chấp cho Việt Nam’, bài viết trong Hội thảo ‘Giải quyết
tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước: Các vấn đề pháp lý và thực tiễn’, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh,
tháng 5/2018, tr. 95.
6. Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật đầu tư quốc tế, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, tr. 611.
7. EC - Các biện pháp ảnh hưởng tới sản phẩm chứa a-mi-ăng và a-mi-ăng, WT/DS135/AB/R 443;
8. Trung Quốc - Các biện pháp liên quan đến xuất khẩu các nguyên liệu thô, 355, WT/DS394/AB/R,WT/
DS395/AB/R, WT/DS398/AB/R (ngày 30 tháng 1 năm 2012);
9. Hoa Kỳ - Các tiêu chuẩn đối với xăng dầu thường và xăng dầu tái chế, 22 WT/DS2/AB/R (ngày 29/4/1996;
10. Thái Lan - Hạn chế nhập khẩu và áp thuế nội địa với thuốc lá, DS10/R-37S200 (ngày 05/10/1990).
11. Xinjie Luan & Julien Chaisse, ‘Preliminary Comments on the WTO Seals Products Dispute: Traditional
Hunting, Public Morals and Technical Barriers to Trade’, 22 Colo. J. Int'l envtl. l. & pol'y 79 (2011), dẫn
trong Đại học Luật Hà Nội (2017), tlđd, tr. 618.
12. Rahim Moloo, Justin Jacino (2011), ‘Environmental and Health Regulation: Assessing Liability under
Investment Treaties’, Berkeley Journal of International Law, Volume 29( 1).
13. Julien Chaisse, bài giảng tại khóa đào tạo nâng cao về Luật đầu tư quốc tế và giải quyết tranh chấp giữa nhà
đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, Hà Nội, ngày 07-11 tháng 11 năm 2016.
14. Nathalie Bernasconi-Osterwalder và Lise Johnson (2011), International Investment Law and Sustainable
Development – Key cases from 2000 - 2010, International Institute for Sustainable Development.
15. P. Vargiu (2014), ‘Environmental Expropriation in International Investment Law’, in T. Treves, F. Seatzu,
Foreign Investment, International Law and Common Concerns, S. Trevisanut (eds.), Routledge Research
in International Economic Law, p. 225.
16. Metalclad Corp. v. United Mexican States, ICSID Case No. ARB(AF)/97/1, Award (Metalclad Award), 30
August 2000, https://www.italaw.com/cases/671
17. Tecnicas Medioambientales Tacmed S.A.(“Tecmed”) v. United Mexican States, ICSID Case No. ARB
(AF)/00/2, Award, 43 I.L.M. 133 (2004).
18. S.D. Meyers v. Government of Canada, UNCITRAL, 2002
19. Cultural Survival, “Newmont to pay 30 million to end pollution suit”, , 16 February 2004, <https://www.
culturalsurvival.org/news/campaign-update-newmont-pay-30-million-end-pollution-suit>.
20. “Buyat Bay: History and Status,” Newmont Brochure, May 2006,
21. “The Government of Indonesia and Newmont Announce Buyat Bay Agreement”, 16 February, 2006, https://
www.newmont.com/newsroom/newsroom-details/2006/The-Government-of-Indonesia-and-Newmont-
Announce-Buyat-Bay-Agreement/default.aspx
22. Vũ Thị Châu Quỳnh, ‘Giới thiệu tổng quan về các hiệp định đầu tư quốc tế của Việt Nam’ tài liệu Hội thảo
Phòng ngừa và giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế do Bộ Tư pháp và USAID tổ chức tháng 10/2015
23. Compañia del Desarrollo de Santa Elena S.A. v. Republic of Costa Rica, ICSID Case No. ARB/96/1. .
24. Southern Pacific Properties ltd v Arab Republic of Egypt, ICSID 1992.
25. Tổng cục Môi trườg, ‘Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia’ <2016
quynh/2017/BC_SOE_2016/11.%20Phu%20chuong.pdf?ver=2017-07-25-160659-403>.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 4(380) T2/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ap_dung_quy_dinh_truong_hop_ngoai_le_ve_moi_truong_trong_pha.pdf