Qua ứng dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm
sàng (CDR) trong phân loại suy giảm nhận thức
ở người ≥ 65 tuổi, chúng tôi có:
+ Độ nhạy cảm của CDR: 87,50%, đặc hiệu:
100%, chính xác: 97,12%.
+ Phân loại: Bình thường: 50,4%; MCI:
29,5%; SSTT: 20,2%. Trong đó: SSTT nhẹ: 7,9%,
trung bình: 10,1%, nặng: 2,2%.
Gần ½ các trường hợp được coi là bình
thường theo tiêu chí lâm sàng, khi đánh giá lại
bằng thang điểm CDR đã được phân loại lại là
MCI, những đối tượng có nguy cơ chuyển thành
SSTT trong tương lai. Chỉ có 4 (2,93%) trường
hợp SSTT, được xếp loại lại là MCI (CDR= 0,5).
Không có trường hợp SSTT nào được chẩn đoán
từ các trường hợp bình thường. Điều này cho
thấy có sự phù hợp giữa thang điểm CDR và
MMSE cũng như tiêu chí lâm sàng.
Tóm lại: Thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng
(CDR) là công cụ có giá trị trong phân loại SSTT
ở người già. Gần ½ các trường hợp được coi
như là bình thường, đã được phân loại như các
trường hợp nghi ngờ (MCI), gia tăng nguy cơ
chuyển thành SSTT về sau. Phát hiện này là
quan trọng trong theo dõi và phòng ngừa tiến
triển của SSTT.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 551 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 332
ÁP DỤNG THANG ĐIỂM SA SÚT TRÍ TUỆ LÂM SÀNG (CDR)
TRONG ĐÁNH GIÁ SUY GIẢM NHẬN THỨC Ở NGƯỜI GIÀ
Vũ Anh Nhị*, Phan Mỹ Hạnh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người
≥ 65 tuổi.
Phương pháp: Dùng thang điểm MMSE sàng lọc suy giảm chức năng nhận thức trong 139 người già ≥ 65
tuổi. Có 69 người có MMSE ≤ 26 điểm và 70 người có điểm MMSE > 26 đều được đưa vào nghiên cứu này. Tất
cả đều được đánh giá lâm sàng và các trắc nghiệm tâm thần kinh học để chẩn đoán SSTT. Sau đó, tất cả những
trường hợp có và không có SSTT đều được phân loại bình thường, MCI, SSTT nhẹ, trung bình và nặng theo
thang điểm CDR Việt hóa.
Kết quả: Độ nhạy cảm của CDR: 87,50%, đặc hiệu:100%, chính xác: 97,12%. Trong số 139 người được
chọn, 107 (77%) người được phân loại là bình thường theo MMSE khi đánh giá lại bằng thang điểm CDR có 70
(50.4%) là bình thường (CDR=0) và 41(29,5%) là MCI (CDR=0,5). Trong số 32 người được chẩn đoán là
SSTT, có 11 (7,9%) là SSTT nhẹ (CDR=1), 14 (10,1%) trung bình (CDR=2) và 3 (2,2%) nặng (CDR=3). Chỉ có
4 (2,93%) trường hợp được coi là MCI qua đánh giá lại bằng thang điểm CDR.
Kết luận: Thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) là công cụ có giá trị trong phân loại sa sút trí tuệ ở
người già. Gần 1/2 các trường hợp qua đánh giá bằng thang điểm MMSE được coi như là bình thường, khi đánh
giá lại bằng thang điểm CDR đã được phân loại như các trường hợp nghi ngờ (MCI), gia tăng nguy cơ chuyển
thành SSTT. Vì vậy, phát hiện này là quan trọng trong phòng ngừa và theo dõi tiến triển của SSTT.
Từ khóa: sa sút trí tuệ, suy giảm nhận thức
ABSTRACT
APPLY THE CLINICAL DEMENTIA RATING FOR EVALUATION THE COGNITIVE DEFICIT
AMONG THE ELDERLY.
Phan My Hanh, Vu Anh Nhi* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 332 - 326
Objective: To apply the Clinical Dementia Rating for evaluation cognitive deficit among the elderly ≥ 65
years old.
Methods: The Mini Mental State Examination was utilized as a screening method for cognitive deficit
among the 139 elderly. All those who scored ≤ 26 points (69 elderly) and 70 elderly with scores > 26 points were
included in the study. The 139 subjects selected were submitted to clinical evaluation and neuropsychological
tests for the diagnosis of dementia. Afterwards, both cases and non-cases were classified, according to the
Vietnamese version of the Clinical Dementia Rating, in the categories normal, borderline, mild, moderate and
severe dementia.
Results: The sensibility of CDR was 87.50%, the specificity was 100% and the accuracy was 97.12%.
Among the 139 subjects selected, 107 (77 %) was non cases, 70 (50.4%) were classified as normal (CDR=0),
41(29.5%) as questionable (CDR=0.5). Among the 32 cases of dementia, 11(7.9%) were classified as mild
dementia (CDR=1), 14(10.1%) as moderate (CDR=2), 3(2.2%) as severe dementia (CDR=3). Only four (2.93%)
* Bộ môn Thần kinh, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc BS Phan Mỹ Hạnh, ĐT: 0122 3333 063, Email: h_phanmy@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 333
of the cases were considered questionable cases by the Clinical Dementia Rating.
Conclusions: The Clinical Dementia Rating is a valid instrument for classifying the dementia status of the
elderly. Almost half the cases considered normal by the diagnostic criteria of the Mini Mental State Examination
were borderline cases according to the Clinical Dementia Rating and might correspond to cases of mild cognitive
impairment with an increased risk of conversion to dementia cases. This detection is important in preventing and
following dementia ‘s progression.
Keywords: Dementia, cognitive deficit
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sa sút trí tuệ là một vấn đề nổi bật trong sức
khỏe cộng đồng ở người cao tuổi hiện nay,
không chỉ vì tỉ lệ mắc bệnh gia tăng, chi phí điều
trị rất tốn kém mà còn vì gia tăng tỷ lệ tử vong.
Đánh giá và công nhận SSTT ngay từ lần
thăm khám đầu tiên sẽ đảm bảo được sự chăm
sóc thích hợp, nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của cả bệnh nhân và người chăm sóc.
Chính khuynh hướng này là hồi chuông
cảnh báo về các phương pháp có giá trị và độ tin
cậy cao trong việc phân loại chẩn đoán SSTT.
Ở các nước đang phát triển, các thang điểm
khác nhau cho độ nhạy cảm và độ đặc hiệu khác
nhau. Thang điểm phù hợp nhất cho mỗi quốc
gia là thay đổi phụ thuộc vào nền văn hóa và
nền giáo dục của nước đó.
Thang điểm MMSE được sử dụng nhiều
nhất, đặc biệt trong sàng lọc SSTT do đánh giá
nhanh và dễ sử dụng. Tuy nhiên không thể
dùng cho người giảm thị, thính lực cũng như
người mù chữ.
Thang điểm CDR là thang điểm vừa có thể
phân loại từ người khỏe mạnh đến những người
có SSTT lại vừa có thể phân độ SSTT. Ngày nay,
đã được sử dụng như một tiêu chuẩn vàng cho
việc đánh giá SSTT lâm sàng với lợi thế là áp
dụng hàng loạt để theo dõi diễn tiến từ MCI đến
SSTT nặng.
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là áp
dụng thang điểm SSTT lâm sàng (CDR) Việt hóa
trong phân loại suy giảm chức năng nhận thức ở
người ≥ 65t, nhằm làm cơ sở cho việc theo dõi và
điều trị sớm các đối tượng có nguy cơ cao.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Người già ≥ 65 tuổi.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Mọi đối tượng trong dân số chọn đều được
sàng lọc qua thực hiện test MMSE. Đối tượng có
điểm MMSE ≤ 26 đ sẽ được khám tâm thần kinh
và chẩn đoán SSTT dựa vào tiêu chí lâm sàng
(DSM-IV). Sau đó, tất cả các đối tượng với
MMSE >26 đ và ≤ 26 đ đều được đánh giá lại
bằng thang điểm CDR.
Tiêu chuẩn loại trừ
Rối loạn tri giác, bệnh TKTW, tâm thần,
động kinh, Parkinson, nghiện rượu, nghiện
thuốc, chấn thương đầu, bị bệnh nội khoa nặng
khác, giảm thính lực, thị lực nặng, mù chữ.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
Thu thập số liệu
Bệnh nhân và thân nhân được lựa chọn
ngẫu nhiên thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh và không
có một trong các tiêu chuẩn loại trừ. Trực tiếp
thu thập bệnh sử và tiền sử cũng như thăm
khám lâm sàng, tâm -thần kinh. Trực tiếp thu
thập số liệu từ bệnh nhân và thân nhân bệnh
nhân theo bảng thu thập số liệu mẫu.
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được xử lý và phân tích bằng SPSS
13.0.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Xác định giá trị của thang điểm CDR
Qua nghiên cứu của chúng tôi, điểm MMSE:
thấp nhất là 3, cao nhất là 30 và điểm trung bình
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 334
là 24,71 ± 5,46. Số người có số điểm MMSE > 26
đ là 70 (50,3%), ≤ 26 đ là 69 người (49,7%).
Điểm số trung bình của các trường hợp
được coi là bình thường là 27,93 điểm (tối
thiểu là 27 và tối đa là 30 điểm), trong khi
điểm trung bình cho các trường hợp SSTT là
21,45 điểm (tối thiểu là 0 và tối đa là 26 điểm).
Không có trường hợp SSTT nào được tìm
thấy trong số các trường hợp bình thường (độ
đặc hiệu của MMSE là 100% tại điểm giới
hạn này).
Khi mức độ nặng của SSTT tăng lên, điểm số
của MMSE giảm xuống một cách đáng kể; với
các đối tượng bình thường (CDR= 0), điểm trung
bình MMSE là 27,93 với độ lệch chuẩn 1,98 (SD);
với các đối tượng nghi ngờ (CDR=0,5) điểm
trung bình MMSE là 25,17 (SD = 1, 69), với các
đối tượng SSTT nhẹ (CDR=1) điểm trung bình
MMSE là 20,64 (SD = 2,9), với các đối tượng với
SSTT trung bình (CDR=2) điểm trung bình
MMSE là 14,79 (SD = 1,53) và với các trường hợp
SSTT nặng (CDR=3) điểm trung bình MMSE là
4,67 (SD = 1,53). (hình 1).
Qua nghiên cứu này, chúng tôi cũng nhận
thấy rằng: trong số những người bình thường
(77%), gần ½ (29,5%) trường hợp đã được phân
loại như các trường hợp nghi ngờ SSTT(MCI),
phù hợp với nghiên cứu Motario và cộng sự(10).
Điểm trung bình của MMSE giảm đáng kể
theo các mức độ nặng của SSTT giúp xác nhận
việc phân loại CDR theo MMSE.
0
5
10
15
20
25
30
0 0.5 1 2 3
Hình 1: So sánh tương quan giữa điểm trung bình
CDR và MMSE
Một phân tích gộp của 34 nghiên cứu STT và
5 nghiên cứu MCI cho thấy MMSE có độ nhạy
cảm là 79,8%, độ đặc hiệu là 81,3%, đã kết luận:
MMSE với độ chính xác trung bình, sử dụng tốt
nhất cho chẩn đoán loại trừ SSTT trong cộng
đồng và trong lần thăm khám đầu tiên, và nên
được sử dụng kết hợp với các phương pháp
khác(8).
Qua nghiên cứu của chúng tôi: độ nhạy của
CDR: 87,50%, độ đặc hiệu: 100%, và độ chính
xác: 97,12%. So với nghiên cứu của Chaves và
cs: CDR có độ nhạy là 86% khi phát hiện SSTT
trong số những người già khỏe mạnh, hay độ
nhạy là 80% khi phát hiện những người nghi
ngờ có SSTT và có độ đặc hiệu là 100% cho cả
hai nhóm người này(3). Nghiên cứu của Motario
và cs, độ nhạy của CDR là 91,2%, độ đặc hiệu là
100%(10).
Trong số 139 người được chọn, 107 (77%)
người được phân loại là bình thường theo
MMSE khi đánh giá lại bằng thang điểm CDR
có 70 (50.4%) là bình thường (CDR=0) và
41(29,5%) là MCI (CDR=0,5), đối tượng có nguy
cơ cao chuyển thành SSTT.
Trong số 32 người được chẩn đoán là SSTT,
có 11 (7,9%) SSTT nhẹ (CDR=1), 14 (10,1%) SSTT
trung bình (CDR=2) và 3 (2,2%) SSTT nặng
(CDR=3). Chỉ có 4(2,93%) trường hợp SSTT,
được phân loại lại là MCI (CDR= 0,5). Không có
trường hợp nào chẩn đoán SSTT từ các trường
hợp bình thường (bảng 1).
Bảng 1: So sánh CDR với chẩn đoán lâm sàng trong
chẩn đoán SSTT
CDR Chẩn đoán * Tổng
SSTT Bình thường
SSTT (1.2.3) 28 0 28
Bình thường (0. 0,5) 4 107 111
Tổng 32 107 139
Điều này cũng đã cho thấy có một sự thống
nhất cao giữa các tiêu chí lâm sàng và CDR, xác
nhận tính giá trị của CDR trong việc tách các đối
tượng bình thường từ các trường hợp SSTT(10).
Phân loại suy giảm nhận thức
SSTT đặc biệt xảy ra ở người châu Á, chiếm
46% trên tổng số 25 tỉ người sa sút trí tuệ trên
toàn thế giới. Trong các nghiên cứu của các tác
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 335
giả ở Châu Á như Liu, Ishii, de Silva, Lee, Lim
và cs: tỷ lệ hiện mắc SSTT của người ≥ 65 tuổi ở
Trung Quốc từ 1,8 – 6,3%, ở Nhật Bản: 3,3 – 8%,
ở Ấn Độ: 1.4 – 4%, ở Hàn Quốc: 8,2 – 10,8%, ở
Đông Nam Á: 2,5 – 7%. Một vài nghiên cứu tiền
cứu đưa ra tỉ lệ hiện mắc ở người từ 65 tuổi trở
lên từ 3,2 – 8,9 trên 1000 người hàng năm, tỉ lệ
này thấp hơn so với Châu Mỹ và Châu Âu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ SSTT
theo tiêu chí lâm sàng là 23%, theo đánh giá
bằng thang điểm CDR là 20,2% (bảng 2).
Độ rộng này có thể được giải thích bởi sự
khác biệt về đặc tính của mẫu khảo sát, các
phương thức tầm soát và các phương pháp xác
định sa sút trí tuệ.(6)
Bảng 2: Phân loại SSTT theo CDR
Tần số Tỷ lệ %
0 Không SSTT
0,5 MCI:
- Thể suy giảm trí nhớ
- Suy giảm một lĩnh vực
-Suy giảm nhiều lĩnh vực
1 SSTT nhẹ
2 SSTT trung bình
3 SSTT nặng
70
41
4
2
35
11
14
3
50,4
29,5
9,8
4,9
85,4
7,9
10,1
2,2
Các nghiên cứu đoàn hệ những người cao
tuổi ở Mỹ đã cho thấy: tỷ lệ mắc toàn bộ của suy
giảm nhận thức nhẹ (MCI) từ 4,6- 28,3%, từ 2-
30% trong dân số nói chung và từ 6 – 85% trong
tiến trình lâm sàng nói riêng (trung bình 40%).
Tỷ lệ này càng tăng trong những người càng
lớn tuổi và trình độ học vấn càng thấp.
Hai nghiên cứu của Meguro và cs (2001,
2004) cũng cho thấy: tỉ lệ hiện mắc của CDR= 0,5
chiếm 30,2% người bản xứ trong dự án Tajiri của
Nhật và 29,5% người Nhật nhập cư đến Sao
Paulo ở Brazil(6).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ hiện
mắc CDR=0,5 là 29,5%, phù hợp với kết quả
trên. Sa sút trí tuệ chiếm tỷ lệ chung là 20,2%,
trong đó: SSTT nhẹ: 7,9%, SSTT trung bình:
10,1%, và SSTT nặng: 2,2%.
Điều này cho thấy xu hướng sử dụng CDR
hiện nay như là một công cụ phân độ sa sút trí
tuệ ngày càng được áp dụng nhiều hơn do bởi 2
đặc tính sẵn có:
+ Giá trị của thứ bậc: trong đó mức độ 3
nặng hơn mức độ 2 và mức độ 2 nặng hơn mức
độ 1.
+ Giá trị của sự phù hợp trong bảng điểm
của 6 lãnh vực, như trong trường hợp điển hình
của bệnh Alzheimer giai đoạn nhẹ, hầu hết các
điểm khác nhau của các lãnh vực khác nhau chỉ
dao động trong khoảng 0,5 -1đ(12).
KẾT LUẬN
Qua ứng dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm
sàng (CDR) trong phân loại suy giảm nhận thức
ở người ≥ 65 tuổi, chúng tôi có:
+ Độ nhạy cảm của CDR: 87,50%, đặc hiệu:
100%, chính xác: 97,12%.
+ Phân loại: Bình thường: 50,4%; MCI:
29,5%; SSTT: 20,2%. Trong đó: SSTT nhẹ: 7,9%,
trung bình: 10,1%, nặng: 2,2%.
Gần ½ các trường hợp được coi là bình
thường theo tiêu chí lâm sàng, khi đánh giá lại
bằng thang điểm CDR đã được phân loại lại là
MCI, những đối tượng có nguy cơ chuyển thành
SSTT trong tương lai. Chỉ có 4 (2,93%) trường
hợp SSTT, được xếp loại lại là MCI (CDR= 0,5).
Không có trường hợp SSTT nào được chẩn đoán
từ các trường hợp bình thường. Điều này cho
thấy có sự phù hợp giữa thang điểm CDR và
MMSE cũng như tiêu chí lâm sàng.
Tóm lại: Thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng
(CDR) là công cụ có giá trị trong phân loại SSTT
ở người già. Gần ½ các trường hợp được coi
như là bình thường, đã được phân loại như các
trường hợp nghi ngờ (MCI), gia tăng nguy cơ
chuyển thành SSTT về sau. Phát hiện này là
quan trọng trong theo dõi và phòng ngừa tiến
triển của SSTT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anderson H.S. (2010), “Dementia and mild cognitive
impairment”, Neurology; 75(1), p. 27-34.
2. Chandra V., Pandav R., Dodge H.H., Johnston J.M., Belle S.H.,
DeKosky ST, Ganguli M (2001), “Incidence of Alzheimer’s
disease in a rural community in India: the Indo-US study”,
Neurology, 57, p. 985–989.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 336
3. Chaves M.L.F., et al (2007),”Validity of the Clinical Dementia
Rating Scale for the Detection and Staging of Dementia in
Brazilian Patients”, Alzheimer Dis Assoc Disord, 21, p.210-217.
4. Hughes C.P., Berg L., Danziger W.L., Coben L.A., Martin R.L
.(1982),”A new clinical scale for the staging of dementia”, Br
Psychiatry, 140, p. 566-72.
5. Lê Minh (2004).”Sa sút trí tuệ”, Thần kinh học lâm sàng, Nhà
xuất bản Y học, tr. 524-43.
6. Lim W.S., MRCP, MMed, Mei Sian Chong, MRCP, and Suresh
Sahadevan, FRCP (2007), “Utility of the Clinical Dementia
Rating in Asian Populations”. Clin MedRes, 5(1), p. 61–7
7. Liu H.C., Lin K.N., Teng E.L., Wang S.J., Fuh J.L., Guo N.W.,
Chou P., Hu H.H., Chiang B.N. (1995),”Prevalence and subtypes
of dementia in Taiwan: a community survey of 5297
individuals”, J Am Geriatr Soc, 43, p.144–149.
8. Mitchell A.J. (2009). “A meta-analysis of the accuracy of the
mini-mental state examination in the detection of dementia and
mild cognitive impairment”, J Psychiatr Res, 43(4), p. 411-431.
9. Morris J. (1993),”The Clinical Dementia Rating (CDR): current
version and scoring rules”, Neurology, 43(11), p. 2412-4.
10. Motario M.B.M.M., Ramos L.R. (2005), “Validity of the
Portuguese version of Clinical Dementia Rating”, Rev Saúde
Pública, 39(6), p.1-8.
11. Petersen R.C., Smith G.E., Waring S.C., et al (1999),”Mild
cognitive impairment: Clinical characterization and outcome”,
Arch Neurol, 56, p.303-308.
12. Sahadevan S., Rockwood K., Morris J.C. (1999),”Global
assessment measures in dementia. In: Gauthier S, ed. Clinical
Diagnosis and Management of Alzheimer’s disease. 2nd ed.
London: Martin Dunitz, p.167–177.
13. Vũ Anh Nhị (2008), ”Sa sút trí tuệ: bệnh Alzheimer”, Sách giáo
khoa.: tr.15-29.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ap_dung_thang_diem_sa_sut_tri_tue_lam_sang_cdr_trong_danh_gi.pdf