6.4.2. Điều trị toàn thân
Kháng histamin thường chỉ hiệu quả trong
điều trị ngứa do mày đay và có thể dùng nhóm
gây tác dụng êm dịu thần kinh vào buổi tối để
giúp bệnh nhân dễ ngủ như hydroxyzin. Nhóm
thuốc đối kháng μ-opioid có thể giảm ngứa do
tắc mật. Thuốc chống động kinh (gabapentin,
pregabalin) có tác dụng giảm ngứa mạn tính có
nguồn gốc thần kinh, ngứa cánh tay quay, ngứa
do lymphoma T da, bệnh thận mạn tính, bỏng và
hiện tượng lành thương. Pregabalin được dùng
trong trường hợp ngứa liên quan đến cetuximab,
tiếp xúc nước, bệnh thận mạn tính hay không
dung nạp với gabapentin. Nhóm SSRI (như
paroxetin) có hiệu quả chống ngứa do tiếp xúc
nước, tâm thần, cận tăng sinh hoặc ngứa mạn
tính không rõ nguyên nhân. Thuốc chống trầm
cảm ba vòng (như mirtazapin, doxepin) hiệu
quả trong kiểm soát ngứa do mày đay, viêm da
thể tạng, HIV hay ngứa không đáp ứng với các
phương pháp điều trị khác. Ciclosporin A có thể
được dùng để điều trị ngứa mạn tính trên bệnh
nhân viêm da thể tạng hoặc sẩn ngứa với liều 3 - 5
mg mỗi ngày.
Một số thuốc có thể giảm ngứa nhưng chưa
rõ về mặt chứng cứ như kháng thụ thể serotonin
(ondansetron 8mg x 1 - 3 lần/ngày, topisetron
5mg/ngày và granisetron 1mg/ngày); kháng thụ
thể neurokinin 1 (aprepitant).
Không khuyến cáo sử dụng thalidomide,
kháng kháng thụ thể leukotriene và TNF-alpha
trong điều trị ngứa. Glucocorticosteroid đường
uống cũng không được khuyến cáo, trừ trường
hợp nặng hoặc đặc biệt và không nên dùng quá
2 tuần.
6.4.3. Liệu pháp ánh sáng
Liệu pháp ánh sáng được dùng trong ngứa
mạn tính toàn thân, đặc biệt trên nhóm bệnh
nhân lớn tuổi, chống chỉ định điều trị toàn thân
khác và tùy thuộc nguyên nhân gây bệnh. Có thể
dùng UVB (NB-UVB), UVA hoặc kết hợp UVA/UVB
đi kèm việc dùng thuốc tại chỗ và/hoặc toàn thân
khác, ngoại trừ nhóm ức chế calcineurin và ức chế
miễn dịch.
7. KẾT LUẬN
Ngứa mạn tính có thể do nhiều nguyên nhân
khác nhau và việc kiểm soát cơn ngứa còn gặp
nhiều khó khăn do cơ chế bệnh sinh vẫn chưa
được hiểu một cách thấu đáo. Nếu bệnh nhân
có kèm thương tổn viêm, việc điều trị bệnh da
thường sẽ giúp họ hết ngứa. Trường hợp có các
vấn đề liên quan đến nội tiết, chuyển hoá, gan
mật, tiết niệu, ung thư, thần kinh, tâm thần cần
chuyển khám và điều trị chuyên khoa song hành
với việc giải quyết cơn ngứa.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Kiểm soát cơn ngứa mạn tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
'IʁN Ĉ¬N
59Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
1. ĐẠI CƯƠNG
Ngứa là cảm giác của da và niêm mạc mà
không hiện diện ở cơ quan nội tạng. Ngứa có thể
biểu hiện ở dạng cấp tính (dưới 6 tuần) hoặc mạn
tính (trên 6 tuần).
2. DỊCH TỄ HỌC
Một nghiên ở Đức trên 11.730 người cho thấy
tỷ lệ hiện mắc gia tăng theo tuổi, từ 12,3% (16 - 30
tuổi) lên đến 20,3% (61 - 70 tuổi). Ngứa là triệu
chứng thường gặp ở nhiều bệnh da như viêm
da thể tạng (hầu hết bệnh nhân), vảy nến (70 -
90%) Một số bệnh hệ thống cũng gây ngứa
như xơ gan tắc mật nguyên phát (80 - 100%),
bệnh thận mạn tính (40 - 70%), bệnh Hodgkin
(hơn 30%) Tỷ lệ bệnh nhân bị ngứa mạn tính
nhưng không tìm được nguyên nhân cũng chiếm
từ 8 - 15% các trường hợp.
3. SINH BỆNH HỌC
Cơn ngứa được hình thành do sự tương tác
của ba cơ quan chính bao gồm da, miễn dịch
và thần kinh. Kích thích từ da chủ yếu được dẫn
truyền qua sợi C dây thần kinh hướng tâm không
myelin và đa số không nhạy cảm với histamine.
Thông tin sẽ được chuyển đến tế bào thần kinh
chuyên biệt ở sừng sau tủy sống, rồi đi thẳng lên
phần sau của nhân bụng giữa đồi thị và từ đó
hoạt hóa đồng thời cả vỏ não trước, vùng vận
động, và thuỳ đỉnh chủ yếu ở bán cầu não trái. Có
nhiều chất trung gian tham gia quá trình này và
hiện người ta vẫn chưa hiểu biết một cách đầy đủ
về cơ chế bệnh sinh.
4. NGUYÊN NHÂN
4.1. Ngứa do bệnh da
Da khô hay viêm (viêm da cơ địa, vảy nến,
viêm da tiếp xúc, phản ứng thuốc, sẹo); nhiễm
trùng (nấm, vi trùng, siêu vi, viêm nang lông, cái
ghẻ, chấy rận, côn trùng, chân đốt); miễn dịch
(bệnh bóng nước, đặc biệt viêm da dạng herpes
Duhring, bóng nước dạng pemphigus, viêm bì
cơ); di truyền (Darier, Hailey - Hailey, Sjögren -
Larsson, da vảy cá, ly thượng bì bóng nước); thai
kỳ (phát ban đa dạng, bóng nước tự miễn thai kỳ,
sẩn ngứa thai kỳ); bệnh ác tính (lymphoma tế bào
T hay B ở da, thâm nhiễm bạch cầu da).
4.2. Ngứa do bệnh hệ thống
Nội tiết và chuyển hóa (suy thận mạn, bệnh
gan có hay không kèm tắc mật, bệnh tuyến giáp,
rối loạn hấp thu, ngứa tiền mãn kinh); nhiễm
trùng (HIV, ký sinh trùng, giun sán); huyết học
(thiếu hay quá tải sắt, đa hồng cầu nguyên phát
hay thứ phát, lymphoma Hodgkin hay non-
Hodgkin, bệnh bạch cầu); bệnh ác tính (u đặc
cổ tử cung, tuyến tiền liệt, đại tràng, hội chứng
carcinoid) hoặc do thuốc.
Phản biện khoa học: PGS.TS. Phạm Thị Lan
* Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh
KIEÅM SOAÙT CÔN NGÖÙA MAÏN TÍNH
BS. Phạm Đăng Trọng Tường*
'IʁN Ĉ¬N
60 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
4.3. Ngứa do bệnh thần kinh
Đa xơ cứng, ung thư, áp xe, nhồi máu (não,
tủy sống), ngứa cánh tay quay, ngứa giữa vai,
ngứa sau zona, ngứa âm hộ, bệnh thần kinh sợi
nhỏ. Một số trường hợp ngứa nguồn gốc thần
kinh nhưng không có thương tổn thần kinh như
bệnh gan gây ngứa do tăng μ-opioid nội sinh.
4.4. Ngứa do bệnh tâm thần
Một số rối loạn tâm thần cũng gây ngứa mạn
tính như ảo giác, trầm cảm, rối loạn âu lo, tâm
thần phân liệt, rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
4.5. Ngứa do bệnh phối hợp
Có nhiều bệnh phối hợp hoặc chồng lấp gây
ra ngứa mạn tính.
4.6. Ngứa không rõ nguyên nhân
Không có thương tổn da và không phát hiện
các bệnh lý đi kèm dựa trên triệu chứng lâm sàng
và xét nghiệm.
5. CHẨN ĐOÁN
5.1. Nguyên tắc
Khai thác bệnh sử và thăm khám toàn bộ da
niêm, lông tóc, móng tay, chân, vùng sinh dục,
hậu môn; chú ý tìm thương tổn nội tạng (gan,
lách, thận, hạch); cũng như thương tổn thần kinh,
tâm thần.
5.2. Xét nghiệm
5.2.1. Sàng lọc ban đầu
Công thức máu, tốc độ lắng máu, urea,
creatinine, alkaline phosphatase, men gan,
bilirubine, T3, T4, TSH, đường huyết, sắt, ferritin
huyết thanh và tìm máu vi thể trong phân nếu
bệnh nhân trên 40 tuổi.
5.2.2. Sàng lọc thêm khi nghi ngờ
Điện di miễn dịch, viêm gan, cholesterol,
triglyceride, parathormone, sinh thiết da,
miễn dịch huỳnh quang (bệnh dưỡng bào,
pemphigoid), soi tìm nấm, tổng phân tích nước
tiểu, hình ảnh học và xét nghiệm tủy xương (bệnh
dưỡng bào).
Xét nghiệm chẩn đoán bệnh hệ thống
Có thể tiến hành một số xét nghiệm cơ
bản như creatinine, aspartate aminotransferase
(AST), alanine transaminase (ALT), alkaline
phosphatase, bilirubin, TSH, công thức máu,
đường huyết, X quang lồng ngực, gamma-
glutamyl transpeptidase (γ-GT), soi phân tìm ký
sinh trùng (ngứa vùng sinh dục - hậu môn). Thực
hiện thêm các xét nghiệm đặc hiệu cho từng
bệnh cảnh lâm sàng khi cần thiết.
6. ĐIỀU TRỊ
6.1. Tiếp cận bệnh nhân
6.1.1. Tiếp cận ban đầu
Khai thác kỹ tiền căn và bệnh sử, bao gồm
căng thẳng thần kinh, thuốc đang dùng (điều trị,
nghiện), triệu chứng tổng quát như sốt, sụt cân,
mệt mỏi. Khám thực thể, đánh giá thương tổn da
(nếu có) và hướng dẫn bệnh nhân cách tắm, chăm
sóc da. Nếu chưa có chẩn đoán xác định nguyên
nhân gây ngứa, có thể điều trị triệu chứng và hẹn
tái khám sau hai tuần.
6.1.2 Tiếp cận kế tiếp
Đánh giá lại tiền sử, bệnh sử, triệu chứng
lâm sàng và thực hiện các xét nghiệm sàng lọc
ban đầu. Có thể cho nhập viện và theo dõi để tìm
nguyên nhân.
'IʁN Ĉ¬N
61Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
6.2. Điều trị không dùng thuốc
6.2.1. Cần tránh
Phấn khích, căng thẳng, rượu bia, thức ăn
quá nóng, quá cay, tiếp xúc các chất dễ gây kích
ứng, dị ứng, các yếu tố làm tăng khô da (khí hậu
lạnh, nhiều gió), nóng (tắm hơi), chườm đá lạnh,
cồn, tắm rửa quá thường xuyên.
6.2.2. Giáo dục sức khỏe
Hướng dẫn bệnh nhân các biện pháp thư
giãn, thiền và cách ngăn vòng xoáy bệnh lý ngứa
- gãi - ngứa. Nên tắm nước ấm, không quá 20 phút
với xà phòng dịu nhẹ, không kiềm, không mùi hay
tắm dầu. Trường hợp bệnh nhân có thương tổn
da, sau khi tắm nên vỗ ráo hay chậm nhẹ bằng
khăn mềm như cotton. Dưỡng ẩm da hàng ngày,
đặc biệt ngay sau khi tắm rửa. Có thể chống ngứa
vào ban đêm bằng thuốc thoa tại chỗ chứa urea,
camphor, menthol, polidocanol, tannin.
6.3. Điều trị nguyên nhân
Ngứa mạn tính có thể do các bệnh lý ngoài
da, cơ quan nội tạng, thần kinh, tâm thần hoặc
không rõ nguyên nhân. Trường hợp xác định
được nguyên nhân, cần điều trị đặc hiệu và
chuyển khám chuyên khoa phù hợp.
6.4. Điều trị triệu chứng
6.4.1. Điều trị tại chỗ
Có thể dùng thuốc thoa corticoid (ngứa do
viêm da), tacrolimus hay pimecrolimus (giảm
nhẹ ngứa khu trú), thuốc tê (giảm ngứa tạm thời
như benzocain, lidocain, pramoxin hoặc phối
hợp prilocain với lidocain), kết hợp kẽm, bạc hà,
long não (giảm ngứa tạm thời), capsaicin (giảm
ngứa khu trú nhưng hay gây tác dụng phụ),
thuốc chủ vận tác động trên thụ thể cannabinoid
(giảm ngứa khu trú), kem doxepin 5% (ngứa do
liken phẳng, chàm đồng tiền và viêm da tiếp xúc
nhưng không nên dùng quá 8 ngày do nguy cơ
viêm da tiếp xúc), acetylsalicylic acid (có thể hiệu
quả trong một số ít trường hợp như liken phẳng).
6.4.2. Điều trị toàn thân
Kháng histamin thường chỉ hiệu quả trong
điều trị ngứa do mày đay và có thể dùng nhóm
gây tác dụng êm dịu thần kinh vào buổi tối để
giúp bệnh nhân dễ ngủ như hydroxyzin. Nhóm
thuốc đối kháng μ-opioid có thể giảm ngứa do
tắc mật. Thuốc chống động kinh (gabapentin,
pregabalin) có tác dụng giảm ngứa mạn tính có
nguồn gốc thần kinh, ngứa cánh tay quay, ngứa
do lymphoma T da, bệnh thận mạn tính, bỏng và
hiện tượng lành thương. Pregabalin được dùng
trong trường hợp ngứa liên quan đến cetuximab,
tiếp xúc nước, bệnh thận mạn tính hay không
dung nạp với gabapentin. Nhóm SSRI (như
paroxetin) có hiệu quả chống ngứa do tiếp xúc
nước, tâm thần, cận tăng sinh hoặc ngứa mạn
tính không rõ nguyên nhân. Thuốc chống trầm
cảm ba vòng (như mirtazapin, doxepin) hiệu
quả trong kiểm soát ngứa do mày đay, viêm da
thể tạng, HIV hay ngứa không đáp ứng với các
phương pháp điều trị khác. Ciclosporin A có thể
được dùng để điều trị ngứa mạn tính trên bệnh
nhân viêm da thể tạng hoặc sẩn ngứa với liều 3 - 5
mg mỗi ngày.
Một số thuốc có thể giảm ngứa nhưng chưa
rõ về mặt chứng cứ như kháng thụ thể serotonin
(ondansetron 8mg x 1 - 3 lần/ngày, topisetron
5mg/ngày và granisetron 1mg/ngày); kháng thụ
thể neurokinin 1 (aprepitant).
Không khuyến cáo sử dụng thalidomide,
kháng kháng thụ thể leukotriene và TNF-alpha
'IʁN Ĉ¬N
62 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
trong điều trị ngứa. Glucocorticosteroid đường
uống cũng không được khuyến cáo, trừ trường
hợp nặng hoặc đặc biệt và không nên dùng quá
2 tuần.
6.4.3. Liệu pháp ánh sáng
Liệu pháp ánh sáng được dùng trong ngứa
mạn tính toàn thân, đặc biệt trên nhóm bệnh
nhân lớn tuổi, chống chỉ định điều trị toàn thân
khác và tùy thuộc nguyên nhân gây bệnh. Có thể
dùng UVB (NB-UVB), UVA hoặc kết hợp UVA/UVB
đi kèm việc dùng thuốc tại chỗ và/hoặc toàn thân
khác, ngoại trừ nhóm ức chế calcineurin và ức chế
miễn dịch.
7. KẾT LUẬN
Ngứa mạn tính có thể do nhiều nguyên nhân
khác nhau và việc kiểm soát cơn ngứa còn gặp
nhiều khó khăn do cơ chế bệnh sinh vẫn chưa
được hiểu một cách thấu đáo. Nếu bệnh nhân
có kèm thương tổn viêm, việc điều trị bệnh da
thường sẽ giúp họ hết ngứa. Trường hợp có các
vấn đề liên quan đến nội tiết, chuyển hoá, gan
mật, tiết niệu, ung thư, thần kinh, tâm thần cần
chuyển khám và điều trị chuyên khoa song hành
với việc giải quyết cơn ngứa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Assessment of pruritus. BMJ Best Practice
online: https://bestpractice.bmj.com/topics/en-
gb/612.
2. British Association of Dermatologists’
guidelines for the investigation and management
of generalized pruritus in adults without an
underlying dermatosis, 2018.
3. Laurent, Misery. Pruritus. Springer. Second
Edition, 2016.
4. Update of the Guideline on Chronic
Pruritus, European Dermatology Forum, 2014.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bai_giang_kiem_soat_con_ngua_man_tinh.pdf