Dự phòng tái phát
BN phải được điều trị bằng thuốc kháng rượu. Nếu sử dụng đúng chỉ định và đủ thời gian, tỷ lệ thành công có thể lên tới 90%.
Disulfiram (esperal) là thuốc hiệu quả nhất. Nếu BN uống rượu khi dùng thuốc sẽ có rất nhiều triệu chứng khó chịu như đau đầu dữ dội, chóng mặt, buồn nôn, nôn, hoảng sợ vô cùng. Hiện tượng này lặp đi, lặp lại khi BN uống rượu, từ đó khiến BN hình thành phản xạ sợ rượu. (Phải ngừng uống rượu ít nhất 48 giờ)
Cách dùng: Disulfiram uống mỗi sáng 1/2 viên. Thời gian uống thuốc tối thiểu là 24 tháng. Chỉ được dùng disulfiram khi đã ngừng rượu tuyệt đối ít nhất 24 giờ.
Có thể thay thế disulfiram bằng metronidazol.
Cách dùng như sau Metronidazol sáng 2 - 3 viên, tối 2 - 3 viên. Thời gian dùng thuốc 18 - 24 tháng. Hiệu quả của metronidazol chỉ là 60 - 70% số trường hợp. Nhiều bệnh nhân uống metronidazol nhưng vẫn có thể uống rượu được.
Naltrexon, dùng để điều trị củng cố cho BN nghiện ma túy Thuốc cho kết quả tốt trong điều trị chống tái nghiện rượu.
Cách dùng: Naltrexone (natrex, revia) 1 viên/ngày, uống buổi sáng.
Thời gian uống thuốc để điều trị chống tái nghiện rượu là trên 2 năm (chống tái nghiện ma túy là trên 6 năm).
Để điều trị chống tái nghiện rượu thành công, phải được bảo đảm bệnh nhân uống thuốc thực sự. Người nhà BN (bố, mẹ hoặc vợ) phải trực tiếp cho BN uống thuốc hàng ngày.
41 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Nghiện rượu và lạm dụng rượu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIỆN RƯỢU VÀ LẠM DỤNG RƯỢU
BSCKII.NGUYỄN HOÀNG ĐIỆP
ĐẠI CƯƠNG
Rượu là một thuốc tác dụng rất mạnh gây nhiễm độc cấp diễn (hoặc nhiễm độc mãn tính).
Vì nhận thức sai lầm, uống rượu... thực sự đã làm gia tăng các nguy cơ tác hại của rượu đối với sức khoẻ.
Khái niệm nghiện rượu Magnus đề cập vào năm 1849.
Nghiện rượu là một bệnh mãn tính, làm ảnh hưởng đến hiệu suất công tác, đến sức khoẻ tâm thần và thể chất, làm tổn thương đến các mối quan hệ gia đình và đời sống xã hội.
Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã xác định nghiện rượu như một bệnh coi chương trình chống rượu là một nội dung trọng yếu trong chương trình chống nghiện các chất độc..
Nghiện rượu là một loại bệnh nằm trong nhóm bệnh lý nghiện chất, thuộc chương F10 - F19 của Bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10
ĐẠI CƯƠNG
1. Định nghĩa về nghiện rượu:
1.1. Theo Tổ chức Y tế thế giới (1993): Nghiện rượu là nhu cầu thèm muốn đòi hỏi thường xuyên đồ uống có cồn, hình thành thói quen, rối loạn nhân cách, giảm khả năng lao động và ảnh hưởng đến sức khoẻ.
1.2. Theo Hardy. P (1994) thì Nghiện rượu là:
Về mặt số lượng: sử dụng quá 1ml cồn tuyệt đối cho 1kg cân nặng hoặc 0,75 lít rượu vang 10 o độ Alcol trong vòng 24 giờ cho một người đàn ông cân nặng 70kg.
Về mặt xã hội: tất cả các hình thái uống rượu vượt quá mức sử dụng thông thường và truyền thống.
ĐẠI CƯƠNG
2. Khái niệm lạm dụng rượu
LDR là một người uống rượu chưa hẳn đã nghiện, nhưng vẫn có thể làm hại đến sức khoẻ của họ.
Uống rượu gây hại cho sức khoẻ của mình, những trường hợp như thế được coi là lạm dụng (alcohol abuse).
Việc nhận thức được ý nghĩa này, thực chất là nhằm ngăn chặn sớm tác hại của rượu, nâng cao cảnh giác cho mọi người trong cộng đồng nhiều khi vì thói quen, tuân thủ tập tục, dễ dàng biện hộ cho những hành vi mang tính chất lễ nghi quên mất rằng minh "lạm dụng rượu" trong giao tiếp, hội hè, ăn nhậu.
Vài chỉ số về dịch tễ.
NR ở người lớn là khoảng 1-10% dân số.
Mỹ có khoảng 13 triệu người NR, 13% người lớn LDR hoặc lệ thuộc rượu ở một thời điểm trong đời. Tỉ lệ NR cao nhất ở nam giới độ tuổi 30 – 50
Tại Úc: 90% nam và 75% nữ uống rượu, trong đó số nam uống rượu ít nhất một ngày trong một tuần là 60% và tỷ lệ này ở nữ là 40%. 4% nam và 1% nữ là NR.
Tuy có nhiều biện pháp quản lý rượu, nhưng tỉ lệ uống rượu ở các nước vẫn rất cao đồng nghĩa tỷ lệ NR cũng khá cao như ở Liên Xô cũ 5 - 6%, Pháp 4%, Ấn Độ 3%.
Việt Nam, một điều tra tại HÀ NỘI trên 10 nghìn dân thì tỷ lệ LDR là 5,06% trong đó NR là 1,43%. Và một xã ở tỉnh Bắc Thái (cũ) Thì tỷ lệ LDR là 9,7% NR là 0,2%.
Về giới LDR và NR chủ yếu là nam giới, ở nữ NR, LDR ít gặp chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp ( 0,13 % NR và 5,2% LDR).
Kiểm tra rượu dân tộc Văn hóa rượu cần
Rượu dừa Nấu rượu thủ công
BỆNH NGUYÊN, BỆNH SINH
1. Bệnh nguyên
1.1. Các giả thuyết về tâm lý và nhân cách tiền bệnh lý.
Các nhân tố tâm lý và nhân cách có thể vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nghiện rượu.
- Giả thuyết giảm - căng thẳng (tension reduction hypothesis để người nghiện họ tìm đến rượu với mục đích làm giảm căng thẳng.
- Giả thuyết tăng hưng phấn và giảm đau: những nghề lao động nặng nhọc khiến cơ thể mệt mỏi .
- Nhân cách bệnh lý là hậu quả đúng hơn là nguyên nhân của nghiện rượu.
Kết quả của nguyên nhân tâm lý, nhân cách tiêng bệnh lý càng làm tăng thêm mức độ sử dụng rượu và tình trạng nghiện rượu ngày mộ trầm trọng.
BỆNH NGUYÊN, BỆNH SINH
1.2. Các thuyết về văn hoá - xã hội
Một số nước tại châu Âu có tỷ lệ nghiện rượu thấp do nó chỉ được dùng như một phần của nghi lễ tôn giáo.
Khuynh hướng nghiện chất bị ảnh hưởng nhiều bởi sự sẵn có, phong tục tập quán, thái độ và áp lực của xã hội...
Trong môi trường, nghề nghiệp thường xuyên phải tiếp xúc với bia rượu...
Những áp lực xã hội tác động lên cá nhân: đó là sự rủ rê của bạn rượu, tác động có hại của các quảng cáo về rượu
BỆNH NGUYÊN, BỆNH SINH
1.3. Các thuyết về sinh học
Các thuyết về thay đổi hoá học:
Người ta cho rằng trong hoạt động hệ thần kinh rượu có thể sinh ra một chất giống như “morphin” trong não một số người và có thể gây ra nghiện như: Tetrahydropapaveroline hoặc beta-carbolines.
R ượu có nhiều tác dụng đặc hiệu trên các hệ dẫn truyền thần kinh chọn lọc như DA, Seretonin, đặc biệt là trên hệ GABA...
1.4. Các nhân tố di truyền
N guy cơ ở số người chứng nghiện rượu tiên phát có cha mẹ nghiện rượu cao gấp 3 - 4 lần so với BT
Con của người nghiện rượu có sự giảm ngưỡng đối với rượu và sự giảm ngưỡng đáp ứng với rượu ở độ tuổi 20 sẽ làm tăng tỷ lệ nghiện rượu ở độ tuổi 30.
Anh chị em sinh đôi một hợp tử có tỉ lệ nghiện rượu cao gấp hai lần BT
BỆNH NGUYÊN, BỆNH SINH
1.5. Các yếu tố thuận lợi khác.
Tiền sử thời thơ ấu bị rối loạn giảm chú ý - tăng động, Rối loạn nhân cách đặc biệt là rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường dẫn đến nghiện rượu.
Tuổi: Tỉ lệ sử dụng rượu nhiều nhất là từ 20 - 35 tuổi, nhưng sử dụng rượu cao nhất là ở lứa tuổi 35 trở lên.
Loại rượu uống: Loại rượu, lượng rượu uống nhiều hay ít, loại rượu đó có độ mạnh hay nhẹ, nhịp độ uống hàng ngày. Thức ăn dùng khi uống rượu...
Phụ thuộc vào sức khoẻ của người uống rượu: Tầm vóc, cân nặng, giới tính, tuổi tác (phụ nữ và trẻ em chịu tác hại của rượu nhanh hơn, rõ hơn người lớn).
Trình độ văn hóa: Nghiện rượu gặp ở mọi tầng lớp xã hội. Tuy nhiên trong một số nghiên cứu cũng nhận thấy rằng nghiện rượu có tỷ lệ cao ở những người có học vấn thấp.
BỆNH NGUYÊN, BỆNH SINH
2. Giả thuyết bệnh sinh một số bệnh lý nghiện rượu
Rượu tác dụng trực tiếp của rượu lên não. Say rượu thông thường là do nhiễm độc rượu cấp của các tế bào cơ thể và tế bào thần kinh. Hậu quả nhiễm độc lâu ngày càng gây ra các tổn thương não, tổn thương các nội tạng và rối loạn chuyển hoá trong cơ thể.
Loạn thần thường xuất hiện do nhiễm độc rượu với nồng độ trong máu cao, nhưng ngay cả khi nồng độ rượu trong máu rất thấp hay không có thì tình trạng loạn thần vẫn có thể xuất hiện. Theo Natjarop say rượu cấp phát triển đột ngột không phụ thuộc lượng rượu uống vào nhiều hay ít, thường là sau khi uống một lượng rượu nhỏ.
BỆNH NGUYÊN, BỆNH SINH
2. Giả thuyết bệnh sinh một số bệnh lý nghiện rượu
Sảng rượu cấp do ảnh hưởng của các sản phẩm phân huỷ của rượu gây ra các biến đổi của cơ thể và não . N hiều trường hợp nghiện rượu nặng, uống những lượng rượu lớn nhưng không thấy xuất hiện sảng rượu cấp; một số trường hợp nghiện rượu đã cai hay giảm hẳn lượng rượu uống, sảng rượu cấp điển hình phát sinh do ảnh hưởng của các tác hại phụ thêm (như viêm phổi, chấn thương...).
Loạn thần Corxacop thường do sự thiếu Vitamin B1 và Vitamin PP trầm trọng .
Trạng thái ảo giác, hoang tưởng ghen tuông do rượu đều phát triển trên cơ địa nghiện rượu mạn tính. có thể do tăng nồng độ DA
LÂM SÀNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN DO RƯỢU THƯỜNG GẶP
1. Say rượu bệnh lí:
Say rượu bất kỳ nào cũng là một trạng thái không bình thường (tức là bệnh lý). Nhưng khi hướng vào những triệu chứng rối loạn loạn thần nhận thấy ở trong say rượu bệnh lý, Zatulovski. M.I. (1955) đã đề nghị gọi say rượu bệnh lý là loại say rượu loạn thần .
Về lâm sàng: các rối loạn tâm thần cấp tính xảy ra do uống rượu trong một khoảng thời gian ngắn không chỉ với một lượng rượu lớn mà cả khi chỉ uống một lượng rượu nhỏ.
Đặc điểm là rối loạn ý thức và ngôn ngữ, người bệnh thường có hành vi nguy hiểm.
Thường bắt đầu và kết thúc đột ngột...
HÌNH ẢNH SAY RƯỢU
LÂM SÀNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN DO RƯỢU THƯỜNG GẶP
2. Sảng rượu:
LT c ấp tính, ở người NRMT , sau khi ngừng uống rượu . khi cai rượu hoặc sau một giai đoạn uống rượu quá nhiều. tử vong tới 20%...
N am nhiều hơn nữ.
X ảy ra khi ngừng uống rượu đột ngột. Khoảng 1/3 số trường hợp có hội chứng cai rượu sẽ tiến triển thành sảng rượu gồm:
* Rối loạn ý thức thường tăng lên về ban đêm hoặc về sáng sớm. Mất ngủ hoàn toàn kéo dài.
* Hội chứng Paranoid: HT cảm thụ. Thường gặp hoang tưởng bị hại
* Các ảo giác thậtchủ yếu xuất hiện vào buổi chiều tối, các ảo thị kích cỡ thu nhỏ...
* RLCX : thường có sự kết hợp giữa sợ hãi với sự hài hước...
* Đặc điểm run: run toàn thân, run chân tay, run lưỡi, người ta cảm thấy nhiều hơn là trông thấy...
* Các rối loạn thần kinh thực vật rầm rộ, khoảng 15% có thể có co giật.
LÂM SÀNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN DO RƯỢU THƯỜNG GẶP
3. Ảo giác do rượu.
Các ảo giác với những đặc trưng riêng đó là các ảo giác thật, có thể nhiều ảo giác trên một BN
* Ảo thanh hay gặp nhất, ảo thanh thô sơ hoặc lời nói. tăng lên vào chiều tối mất đi đột ngột sau một giấc ngủ sâu hoặc giảm về cường độ và tần số... có thể tiến triển cấp tính đến mạn tính từ trên 3 tháng trở lên.
* Ảo thị gặp nhiều sau ảo thanh. Nội dung phù hợp với nội dung ảo thanh, HT.
* Ảo giác xúc giác ít gặp hơn ảo thanh, ảo thị, thường xuất hiện cùng ảo thị..
* Ảo khứu và ảo vị ít gặp.
LÂM SÀNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN DO RƯỢU THƯỜNG GẶP
4. Hoang tưởng do rượu.
4.1. Đặc điểm lâm sàng:
* Hoang tưởng Paranoia: nhiều nhất là Hoang tưởng ghen tuông. Nội dung của hoang tưởng liên quan đến các sự vật có thật xung quanh bệnh nhân, phát triển trên nền nhân cách thoái hoá do rượu
* Hoang tưởng Paranoid do rượu hay gặp hoang tưởng bị hại, bị theo dõi và các hoang tưởng cảm thụ có tính hình tượng cao:
Ngoài ra còn thấy một số các hoang tưởng khác như hoang tưởng liên hệ, tự cao, nghi bệnh...nhưng tỉ lệ thấp.
LÂM SÀNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN DO RƯỢU THƯỜNG GẶP
5. Các bệnh não thực tổn mạn tính do rượu:
5.1. Bệnh não thực tổn Gayet - Wernicke:
Bệnh não thực tổn do rượu Gayet - Wernicke được biểu hiện ở gian đoạn toàn phát được biểu hiện bằng bộ ba triệu chứng:
* Liệt mắt: rung giật nhãn cầu, liệt nhìn phối hợp.
* Thất điều: người bệnh có thể không tự đi đứng được
* Lú lẫn: rối loạn nặng toàn bộ các năng lực định hướng.. Tri giác sai thực tại, ảo giác là phổ biến. Rối loạn thần kinh thực vật
Có thể có cơn co giật kiểu động kinh. Rối loạn trí nhớ kiểu Corxacop.
LÂM SÀNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN DO RƯỢU THƯỜNG GẶP
5.2. Bệnh giả liệt do rượu:
Rất hiếm gặp và rất nặng. lâm sàng giống như bệnh liệt tuần tiến do giang mai. chủ yếu là do thiếu vitamin nhóm B trầm trọng. giảm chú ý, trí nhớ, hoang tưởng khuyếch đại, tổn thương khu trú thần kinh tiến triển nặng dần lên mặc dù trạng thái nhiễm độc rượu đã hết và điều trị không có kết quả.
5.3. Bệnh loạn thần Corxacop:
Là giai đoạn kết tiếp của bệnh não Wernicke do rượu. do tình trạng thiếu B1 trầm trọng và kéo dài, cộng thêm tình trạng gây ngộ độc trực tiếp của rượu dẫn đến tổn thương não bộ.
* Hội chứng Suy giảm trí nhớ (hội chứng Corxacop)
* Hội chứng viêm đa dây thần kinh và xuất hiện vào giai đoạn cuối cùng
LÂM SÀNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN DO RƯỢU THƯỜNG GẶP
6. Các biến đổi nhân cách trong nghiện rượu mãn tính
Người bệnh ngày trở nên càng ích kỷ giảm sút sự quan tâm đến gia đình. Chỉ quan tâm đến việc thỏa mãn uống rượu bằng mọi giá như bằng đủ mọi nguồn tiền. Không xấu hổ khi ăn bám gia đình vợ con. Song bê tha bê rạc. càng ngày càng suy giảm các tập tính tốt. Khi say rượu dễ bực tức đánh chửi vợ con.
Thường xuyên nghỉ việc cho đến không làm được việc gì.
Địa vị xã hội ngày một thấp kém, quan hệ xã hội ngày một bị thu hẹp. BN mất dần những người bạn tốt, chỉ con lại những bạn rượu và dễ vi phạm pháp luật.
Hình ảnh tác hại của rượu
Say rượu đánh vợ Hình ảnh bố say đánh mẹ qua tranh trẻ
RỐI LOẠN HV, NC DO RƯỢU
Tác hại tức thì khi lạm dụng
Mất khả năng kiềm chế để giữ gìn ý tứ
Giảm hoặc mất khả năng điều phối hoạt động (chậm chạp phản ứng, loạng choạng, đờ đẫn).
Nôn mửa, đau bụng.
Giảm khả năng nhận thức giác quan (nhìn, nghe, ngửi) do đó dễ bị tai nạn xe cộ, tai nạn lao động, va chạm trong sinh hoạt.
Suy yếu chức năng đại não và hoạt động bền bỉ của hệ thần kinh: do đó dễ mệt mỏi, hoặc hung hăng cục cằn, không kiềm chế được.
Bất tỉnh, xanh tái.
Tác hại lâu dài của rượu khi lạm dụng kéo dài
Giảm hoặc mất sự thèm ăn uống
Thiếu sinh tố do không khấp thụ được đặc biệt không hấp thụ được các sinh tố nhóm B (B1, B6, B2, PP, B15, B12) dẫn đến viêm đa dây thần kinh, hay uể oải mệt mỏi, thiếu sinh lực.
Viêm loét niêm mạc dạ dày
Tổn thương thoái hoá gan, xơ gan, viêm tuỵ cấp.
Bệnh lý tim mạch (xơ vữa mạch, loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim).
Thoái hoá, suy đồi tính cách (vị kỷ, thô lỗ, buông lơi trách nhiệm với gia đình xã hội).
Rối loạn nội tiết (giảm khả năng tình dục ở nam, lãnh khí ở nữ).
Ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của thai nhi hoặc đứa trẻ được thụ thai trong những cuộc truy hoan có uống rượu.
Hình ảnh tác hại của rượu
Say rươu chống đối lại Công An Số lượng tinh trùng giảm
Nồng độ rượu trong máu và mức độ tác hại
Người ta dùng thử nghiệm Breathalyser phân tích hơi thở để đo lượng rượu trong máu. Đơn vị đo nồng độ rượu trong máu tính bằng BAL (breathalyser alcohol level).
Nồng độ rượu > 0,05% BAL tương ứng khoảng 0,2 - 0,3 g/l. trạng thái thoát ức chế biểu hiện: khoái cảm, nói nhiều, sàm sỡ, khóc, cười, thiếu kìm chế.
Từ 0,05 - 0,08% BAL tương ứng 0,4 - 0,7 g/l: rối loạn vận động đi đứng loạng choạng, rối loạn sự xét đoán.
Từ 0,08 - 0,15 BAL tương ứng 0,8 - 1 g/l: nói chậm, đứng không vững, mắt mờ, buồn ngủ, nôn, không đi lại được một mình.
Từ 0,2 - 0,4 BAL tương ứng 1 - 2 g/l: say mềm, đái ra quần, mê man, rối loạn nhịp thở.
0,45 - 0,6 (2- 3 g/l): xanh tái hôn mê, có thể chết nếu không được cứu chữa.
Sơ bộ tính nồng độ rượu trong máu khi uống rượu để tránh sử dụng rượu gây hại (lạm dụng)
Theo tài liệu của úc "nước uống tiêu chuẩn" standard drink: là nước uống có phân độ rượu như nhau (10 g rượu). Khi uống 1 đơn vị mức uống tiêu chuẩn sẽ nâng mức độ rượu trong máu là khoảng 0,015% BAL.
1 đơn vị nước uống tiêu chuẩn đối với:
Bia 6 - 120 là: 285 ml
Rượu vang 150 là: 120 ml
Rượu ngọt (liqueur) 200 là : 60 ml
Rượu trắng (vodka) 400 là: 30ml
Cách ước lượng nồng độ rượu trong máu khi uống rượu:
1. Cộng các cơ số nước uống tiêu chuẩn của một người đã uống: ví dụ 1 người uống 60 ml rượu trắng bằng 2 mức tiêu chuẩn, và 570 ml bia bằng 2 mức tiêu chuẩn:
2 + 2 = 4 mức tiêu chuẩn
2. Rồi trừ đi số giờ người đó uống: giả sử người đó uống trong 2 giờ:
4 - 2 = 2
3. Cuối cùng nhân kết quả với 0,015:
2 x 0,015 = 0,03% BAL.
Các tiêu chuẩn chẩn đoán một người đã NR
Theo ICD.10 một người được coi là đã nghiện rượu khi có 3 trong 6 biểu hiện sau:
Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải uống rượu
Khó khăn kiểm tra về thời gian bắt đầu uống và kết thúc uống cũng như mức độ uống hàng ngày.
Khi ngừng uống rượu thì xuất hiện trạng thái cai cụ thể là: lo âu, vã mồ hôi, nôn mửa, co rút, trầm cảm, đau mỏi, rối loạn nhịp tim, cáu bẳn, thô bạo... và bệnh nhân có ý định uống rượu trở lại để né tránh hoặc giảm nhẹ hội chứng cai.
Có bằng chứng về số lượng uống ngày càng gia tăng (khả năng dung nạp)
Sao nhãng những thú vui trước đây, dành nhiều thời gian để tìm kiếm rượu, uống rượu.
Vẫn tiếp tục uống mặc dù đã hiểu rõ tác hại của rượu gây ra về cả cơ thể và tâm thần.
ĐIỀU TRỊ
Nguyên tắc điều trị
Cắt cơn cai rượu bằng thuốc an thần và vitamin B1 liều cao.
Thải độc, b ù nước và điện giải cho bệnh nhân nghiện rượu
Điều trị hoang tưởng, ảo giác trong nghiện rượu.
Điều trị các triệu Trầm cảm trong nghiện rượu
Vitamin liệu pháp, đặc biệt vitamin B1 trong điều trị nghiện rượu.
Điều trị các bệnh lí nội khoa, thần kinh cho BN nghiện rượu .
Dự phòng tái phát nghiện rượu
MỘT SỐ PHÁC ĐỒ CẮT CƠN CAI
Phác đồ 1: S eduxen tiêm bắp ngày 2 ống sáng và tối, dùng từ 5 - 7 ngày.
Phác đồ này đơn giản, dễ thực hiện và cho hiệu quả cao.. Thuốc nên được sử dụng cho bệnh nhân càng sớm càng tốt
Trong các trường hợp bệnh nhân có kích động dữ dội, run và rối loạn ý thức có thể dùng tới 4 ống seduxen/ngày. BN xơ gan hoặc viêm gan nặng có thể dùng seduxen, không nên vượt quá 20 mg/ngày.
MỘT SỐ PHÁC ĐỒ CẮT CƠN CAI
Phác đồ 2: R ivotril 4 viên/ ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 - 7 ngày. Rivotril có hiệu quả điều trị cai rượu rất tốt.
Phác đồ 3: L exomil 4 viên/ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 - 7 ngày. Hiệu quả cai nghiện rượu của lexomil tương đối tốt .
Phác đồ 4: C arbamazepin 4 viên/ ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 - 7 ngày. Carbamazepin có hiệu quả cai rượu tương đương với benzodiazepin dạng uống (rivotril, lexomil...).
Điều trị hoang tưởng, ảo giác trong hội chứng cai rượu
Phác đồ 1: Haloperidol và pipolphen. Trộn lẫn 2 loại thuốc này trong cùng một xi lanh (có thể trộn thêm seduxen), tiêm bắp cho bệnh nhân sáng 1/2 liều, tối 1/2 liều. Dùng thuốc cho đến khi bệnh nhân hết hoang tưởng và ảo giác (thường là 5 - 7 ngày). Phác đồ này có hiệu quả cao, tin cậy, nhưng haloperidol làm cho bệnh nhân run nhiều hơn, giảm ngưỡng co giật của bệnh nhân.
Điều trị hoang tưởng, ảo giác trong hội chứng cai rượu (tiếp)
Phác đồ 2: Olanzapin 1 viên/ngày, uống vào buổi tối. Olanzapin có ưu điểm chống loạn thần mạnh, nhưng không gây ra ngoại tháp, vì vậy không cần dùng kèm các thuốc chống ngoại tháp như trihex. Tuy nhiên phác đồ này chỉ áp dụng được cho bệnh nhân chịu uống thuốc.
V itamin Liệu pháp trong điều trị hội chứng cai rượu
Người nghiện rượu có tình trạng thiếu vitamin nhóm B đặc biệt B1 mạn tính. viêm cơ tim cấp, viêm đa dây thần kinh và rất nhiều tổn thương khác. T a dùng vitamin B1 liều cao (trên 200 mg/ngày). Tốt nhất là đường tiêm
Ngoài ra cần bổ xung một số các VTM khác như:
Neurobion tiêm bắp sáng và tối. Đây là thuốc có chứa vitamin B1, vitamin B6, vitamin B12 do đó rất thuận lợi cho điều trị hội chứng cai rượu.
Ancopir tiêm bắp sáng, tối. Thuốc này cũng chứa vitamin B1, vitamin B6 và vitamin B12 như neurobion.
Vitamin B1, vitamin 3B, ancopir, neurobion... đều có dạng viên
Thải độc b ù nước và điện giải , nâng đỡ thể trạng cho bệnh nhân
BN nghiện rượu mãn tính do tổn thương da dầy khong hấp thu được B12, acid folic, sắt sẽ gây thiếu máu đặc biệt là thiếu máu nhược sắc. Ngoài bổ xung VTM nhóm B cần phải cho BN uống thêm viên sắt, acid folic..
Cơ thể BN nghiện rượu đều bị ngộ độc mạn tính, mất nước mất điện giải, cần truyền thải độc và bù nước, điện giải cho họ như sau:
Ringer lactat truyền tĩnh mạch chậm hoặc natri clorua 0,9% cũng truyền tĩnh mạch chậm.
Khi đã có xét nghiệm đường huyết cho thấy glucoza máu của bệnh nhân không cao thì ta có thể cho thêm các dung dịch huyết thanh ngọt như dextrose, glucoza. C hỉ nên cho huyết thanh ngọt đẳng trương
Dự phòng tái phát
BN phải được điều trị bằng thuốc kháng rượu. Nếu sử dụng đúng chỉ định và đủ thời gian, tỷ lệ thành công có thể lên tới 90%.
Disulfiram (esperal) là thuốc hiệu quả nhất. Nếu BN uống rượu khi dùng thuốc sẽ có rất nhiều triệu chứng khó chịu như đau đầu dữ dội, chóng mặt, buồn nôn, nôn, hoảng sợ vô cùng... Hiện tượng này lặp đi, lặp lại khi BN uống rượu, từ đó khiến BN hình thành phản xạ sợ rượu. (Phải ngừng uống rượu ít nhất 48 giờ)
Cách dùng: Disulfiram uống mỗi sáng 1/2 viên. Thời gian uống thuốc tối thiểu là 24 tháng. Chỉ được dùng disulfiram khi đã ngừng rượu tuyệt đối ít nhất 24 giờ.
Có thể thay thế disulfiram bằng metronidazol.
Cách dùng như sau Metronidazol sáng 2 - 3 viên, tối 2 - 3 viên. Thời gian dùng thuốc 18 - 24 tháng. Hiệu quả của metronidazol chỉ là 60 - 70% số trường hợp. Nhiều bệnh nhân uống metronidazol nhưng vẫn có thể uống rượu được.
Dự phòng tái phát
Naltrexon, dùng để điều trị củng cố cho BN nghiện ma túy Thuốc cho kết quả tốt trong điều trị chống tái nghiện rượu.
Cách dùng: Naltrexone (natrex, revia) 1 viên/ngày, uống buổi sáng.
Thời gian uống thuốc để điều trị chống tái nghiện rượu là trên 2 năm (chống tái nghiện ma túy là trên 6 năm).
Để điều trị chống tái nghiện rượu thành công, phải được bảo đảm bệnh nhân uống thuốc thực sự. Người nhà BN (bố, mẹ hoặc vợ) phải trực tiếp cho BN uống thuốc hàng ngày.
Cám ơn sự theo dõi của đồng nghiệp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bai_giang_nghien_ruou_va_lam_dung_ruou.ppt