Bài giảng Quản lý thuế

Việc xử lý vấn đề đánh thuế trùng trong trường hợp cả hai Nhà nước đánh thuế trên phần thu nhập mà hai công ty (công ty mẹ và công ty con) ở hai nước khác nhau chuyển cho nhau thường được thực hiện bằng thỏa thuận song phương. Có các biện pháp điều chỉnh sau đây: - Biện pháp điều chỉnh sơ cấp: Khoản thu nhập đã bị đánh thuế ở Nhà nước mà công ty chuyển lợi nhuận sẽ được trừ ra khỏi thu nhập bị đánh thuế thu nhập công ty ở nước cư trú của công ty được hưởng lợi nhuận chuyển đến. - Biện pháp điều chỉnh thứ cấp: Nhà nước nơi công ty chuyển lợi nhuận sẽ tiến hành đánh thuế trên phần thu nhập phân phối cho công ty này và nước cư trú của công ty được hưởng lợi nhuận chuyển đến cho phép khấu trừ số thuế này vào số thuế phải nộp. Như vậy có các biện pháp tránh đánh thuế hai lần khác nhau, việc áp dụng biện pháp nào là tùy thuộc vào cam kết của các nước ghi rõ trong các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần.

docx34 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2866 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Quản lý thuế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ê khai thuế giá trị gia tăng đầu vào…nhưng nếu người đọc và thực hiện văn bản luật này không hiểu thế nào là thuế đầu ra, thuế đầu vào thì họ không thể kê khai và tính toán số thuế phải nộp. Hoặc nếu người nộp thuế không thể thực hiện các phéptính cộng, trừ, nhân, chia thành thạo thì không thể tính toán số thuế cần nộp. Hơn nữa., cơ chế tự tính thuế đòi hỏi sự tự giác cao của đối tượng nộp thuế, do đó, ý thức tuân thủ pháp luật của người dân là một vấn đề mấu chốt. Để đạt được điều kiện này cần đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền phổ biến chính sách thuế. Cần có sự chuẩn bị kỹ càng về tâm lý và kỹ năng thực hành việc tự kê khai,tính thuế cho đối tượng nộp thuế thông qua một chiến dịch truyền thông và phổ biến pháp luật có quy mô, bài bản( chẳng hạn như mở các lớp hướng dẫn tự tính thuế miến phí và bắt buộc đối với mọi đối tượng nộp thuế), có sự kiểm tra để đảm bảo mọi đối tượng nộp thuế có thể thực hành những phần việc của mình trong cơ chế hành thu mới một cách thành thục và độc lập. Công tác tư vấn, hỗ trợ đối tượng nộp thuế cần được chú trọng đúng mức sao cho mỗi khi cần giải đáp thắc mắc là đối tượng nộp thuế có thể được đáp ứng nhanh chóng. Thứ ba, các cơ quan hành pháp phải có năg lực quản lý cao và phối hợp tốt với các cơ quan thuế trong công tac quản lý đối tượng nộp thuế. Điều này đòi hỏi các cơ quan hành pháp nói chung và cơ quan thuế nói riêng phải có trình độ quản lý cao để đảm bảo thực hiện đúng những quy định của pháp luật. Thứ tư, nâng cao tính hiệu quả trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Trốn lậu thuế được coi là căn bệnh kinh liên tồn tại song song cũng với việc thu thuế của Nhà nước, vấn đề chỉ ở chỗ nó bị hạn chế ở mức độ nào mà thôi. Trong khi đó, cơ chế tự tính thuế yêu cầu một sự tự giác cao và giảm sự kiểm tra thường kỳ của cơ quan thuế, do đó đây có thể là cơ hội cho các cơ sở kinh doanh không trung thực lợi dụng trốn lậu thuế. Vì thế, công tác thanh tra, kiểm tra thuế cần phải được tăng cường và nâng cao hiệu quả như là một điều kiện tất yếu và song hành cùng cơ chế tự tính thuế, công tác thanh tra phải được coi là trọng tâm quản lý. Thêm vào đó, việc xử lý kết quả thanh tra và lấy kết quả xử lý vi phạm để răn đe, ngăn ngừa cần chú ý đúng mức. Thứ năm, có chế tài pháp luật đủ nghiêm để răn đe và trừng trị các hành vi vi phạm luật thuế và quy định về kê khai, nộp thuế. Trong quản lý Nhà nước nói chung và trong quản lý thu thuế nói riêng, việc quy định các chế tài xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi tính răn đe, ngăn ngừa của nó. Khi áp dụng cơ chế tự tính thuế, các chế tài pháp luật nghiêm minh càng trở nên cần thiết vì khả năng lợi dụng sự cho phép tự giác của Nhà nước để trốn lậu thuế là khá lớn, đặc biệt là những nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội chưa cao. 5.2 Mô hình quản lý thuế Mô hình quản lý thuế là sự khái quát hóa các phương thức quản lý của cơ quan thuế với người nộp thuế thành mô hình. Mô hình quản lý thuế được xây dựng dựa trên những triết lý quản lý khác nhau. Ứng với mỗi triết lý quản lý là mô hình quản lý thuế tương ứng. Có hai mô hình quản lý thuế phổ biến trên thế giới là mô hình tâm lý hành vi phổ biến và mô hình tuân thủ. 5.2.1. Mô hình tâm lý hành vi phổ biến Valarie Braithwaite và John Braithwaite (1985) cho rằng, tâm lý hành vi phổ biến của con người là sẽ lựa chọn hành động khi hiểu được lợi ích của hành động và những hậu quả có thể nhận được khi không thực hiện một hành động nào đó. Do vậy, quản lý thuế muốn đạt được sự tuân thủ cao thì trước hết phải bắt đầu từ hoạt động thuyết phục, sau đó mới tiến dần đến trừng phạt. Vì quan niệm như vậy nên mô hình này còn được gọi là mô hình Thuyết phục và trừng phạt. Mô hình tâm lý hành vi phổ biến cho thấy, việc làm đầu tiên quan trọng nhất và phải làm nhiều nhất của cơ quan thuế là phục vụ để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Việc thuyết phục được thực hiện thông qua các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, lắng nghe, chia sẻ, vận động, hướng dẫn, hỗ trợ để người nộp thuể thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Nếu việc thuyết phục không thành công thì mới thực hiện việc nhắc nhở qua văn bản. Đây được coi là động thái cảnh báo, nhắc nhở nhẹ nhàng của cơ quan thuế. Sau động thái này là các động thái mạnh hơn và ngày càng mạnh lên, có tác động này càng nhiều đến lợi ích của người nộp thuế, thể hiện ở phạt hành chính, phạt hình sự, cấm hoạt động kinh doanh tạm thời và cấm hoạt động kinh doanh vĩnh viễn. Đây là mô hình tương đối cổ điển và đã được áp dụng từ trước khi Valarie Braithwaite và John Braithwaite khái quát hóa thành lý thuyết mô hình tâm lý học hành vi phổ biến. Hiện nay, trong thực tiễn quản lý thuế, mô hình quản lý này vẫn được sử dụng kết hợp với mô hình tuân thủ ở nhiều nước. 5.2.2. Mô hình tuân thủ Đây là mô hình quản lý thuế xác lập trên cơ sở đánh giá tính tuân thủ của NNT. Theo đó, trên cơ sở đánh giá tính tuân thủ của NNT, cơ quan thuế phương pháp quản lý khác nhau với từng nhóm đối tượng để đạt hiệu quả quản lý cao nhất . Mô hình này được đề xuất bởi Grabosky và Braithwaite năm 1986 và được cơ quan thuế Australia áp dụng cuối những năm 1990. Vì vậy, mô hình này còn được gọi là mô hình tháp tuân thủ ATO8 Mô hình này thể hiện qua sơ đồ sau: Đặc điểm của NNT Hành vi của NNT Phương pháp xử lý của CQT Cố tình không áp dụng toàn bộ -10 tuân thủ quyền lực theo luật pháp -9 Chiến lược KD Ngành nghề ----------------------------------------------------------------- -8 Không muốn tuân Ngăn chặn thông NTT thủ nhưng sẽ tuân qua các biện -7 thủ nếu cơ quan pháp phát hiện vi -6 Yếu tố xã hội Yếu tố kinh tế thuế quan tâm phạm ---------------------------------------------------------------------5 Yếu tố tâm lý Cố gắng tuân thủ Chiến lược của hỗ trợ để -4 Nhưng không phải CQT lầ tạo áp tuân thủ -3 lúc nào cũng lực để giảm số thành công -- ----- -----------------------------------------2 Sẵn sàng NNT không Tạo điều kiện -1 tuân thủ tuân thủ thuận lợi -0 THUẾ TRONG QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ 6.1. THUẾ TRONG CÁC HÌNH THƯC LIÊN HẾT KINH TẾ QUỐC TẾ Kể từ sau khi chiến tranh thuế giới lần thứ hai, kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến sâu sắc. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, nền kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoa cao độ, các nước ngày càng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn. Một Trong những xu thế nền kinh tế thế giới là toàn cầu hóa cá hoạt động và quan hệ kinh tế. Tư tưởng quan trọng của xu thế này là tự do hóa các hoạt động ngoại thương và kinh doanh, Đi liền với quá trình toàn cầu hóa là quá trình khu vực hóa, hình thành các nhóm liên kết kinh tế khu vực. Việc hình thành các khối liên kết kinh tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại, hoạt động kinh tế giữa các nước thành viên, tạo khả năng ứng phó tốt hơn với các khu vực khác trên thế giới. Trong các cấp độ liên kết kinh tế quốc tế, thuế là vấn đề nổi lên hàng đầu. 6.1.1.Hiệp định thương mại ưu đãi. Hiệp định thương mại ưu đãi là hình thức liên kết kinh tế quốc tế, khi hai hay nhiều nước trong khối thực hiện ưu đãi về thuế quan, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu hàng hóa áp dụng cho các nước trong khối thấp hơn so với các nước ngoài khối (trừ dịch vụ về vốn). Mặt khác các nước thành viên vẫn duy trì mức thuế nhập khẩu ban đầu đối với các nước ngoài khối. Năm 1977, các nước ASEAN đã ký Hiệp định thương mại ưu đãi nhằm mục đích từng bước thúc đẩy thương mại trong khối. Các nước thành viên lựa chọn các sản phẩm có thể giảm thuế để đưa vào danh mục giảm thuế.Tính đến tháng 6/1986 đã có tát cả 12.647 sản phẩm của 6 nước thành viên được hưởng ưu đãi về mậu dịch, khoảng một nửa trong số đó được giảm thuế trong khoảng 20 – 25%. Việc ký kết Hiệp định thương mại giữa các nước bước đầu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi và giao lưu hàng hóa giữa các nước tham gia ký kết. Tuy nhiên, trong Hiệp định thương mại ưu đãi vẫn chưa thực sự khuyến khích trao đổi thương mại vì chưa loại bỏ thuế nhập khẩu mà mới chỉ dừng lại ở việc giảm thuế nhập khẩu cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước thành viên. 6.1.2. Khối mậu dịch tự do Đây là hình thức liên kết quốc tế, trong đó các nước thành viên trong khối bãi bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu và các hạn chế định lượng hàng hóa nhập khẩu của nhau (trừ dịch vụ về vốn). Tuy nhiên mỗi nước thành viên vẫn áp dụng thuế nhập khẩu một cách độc lập đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ngoài khối. Hiện nay khối mậu dịch tự do là hình thức liên kết kinh tế khu vực phổ biến trên thuế giới, đó là NAFTA, AFFTA,… Năm 1992 các nước ASEAN thiết lập khu vực mậu dịch tự do AFTA nhằm giảm thuế quan trọng nội bộ khối xuống còn 0 – 5% theo chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CFPT, loại bỏ tất cả các hạn chế định lượng và các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 01/01/1993 và hoàn thành kế hoạch này vào 01/01/2003. Khối mậu dịch tự do có cấp độ cao hơn Hiệp định thương mại ưu đãi, và có tác dụng mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư giữa các nước thành viên, nhưng do đặc điểm là các nước thành viên được tự do quy định mức thuế quan với các nước ngoài khối nên hình thức liên kết quốc tế này mới chỉ dừng lại ở sự hợp tác và liên kết ở một mức độ nhất định, chưa thật sự chặt chẽ. 6.1.3. Liên minh thuế quan Liên minh thuế quan là một hình thức liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên của liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên của liên minh bãi bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu và các hạn chế định lượng đối với nhập khẩu hàng hóa giữa các nước thành viên, cùng áp dụng một mức thuế quan và những quy định thương mại khác trong việc buôn bán với các nước không thuộc liên minh. Liên minh thuế quan là một trong những hình thức liên kết kinh tế có nhiều ưu thế hơn so với các hình thức khác. Nó thể hiện ở một số đặc điểm chủ yếu sau đây: - Các thành viên trong liên minh thuế quan khi nhập khẩu hàng háo của nhau đều được miễn trừ thuế nhập khẩu và bãi bỏ những quy định về số lượng. (Tuy nhiên đối với các dịch vụ về vốn vẫn phải tuân thủ theo những quy định của từng nước thành viên). - Các thành viên trong liên minh thuế quan đều thống nhất áp dụng của một mức thuế nhập khẩu đối ngoại đánh vào hàng hóa của các nước không phải là thành viên. - Một liên minh thuế quan cùng lúc chứa đựng hai yếu tố không hoàn toàn thuận chiều nhau: Một mặt liên minh thuế quan có xu hướng thúc đẩy mậu dịch tự do hơn, làm tăng cạnh tranh và tăng ngoại thương giữa các thành viên. Nhưng mặt khác liên minh thuế quan có xu hướng mang lại bảo hộ tương đối nhiều hơn chống lại ngoại thương và cạnh tranh từ các nước không phải là thành viên. Liên minh thuế quan có thể gây tắc động đến hoạt động ngoại thương hoặc tạo lập mậu dịch và chuyển hướng mậu dịch, cụ thể: - Tạo lập mậu dịch trong liên minh thuế quan là sự chuyển hướng sản xuất ở một nước thành viên đối với hàng hóa có chi phí cao hơn sang các nước thành viên có chi phí thấp hơn. Ví dụ: Có 3 nước A,B,C cùng sản xuất một hàng hóa X có tình trạng như sau: Quốc gia Chi phí sản xuất trung bình Chưa có liên minh thuế quan (thuế suất thuế NK của A là 100%) Có liên minh thuế quan giữa A và B A 50 50 50 B 40 80 40 C 30 60 60 Khi chưa có liên minh thuế quan, giả sử A ban hành thuế nhập khẩu với mức thuế nhập khẩu đồng nhất 100% đối với nhập khẩu hàng hóa cả B và C vì chi phí sản xuất ra hàng hóa ở A kể cả thuế là thấp nhất (50 < 60 < 80). Giả sử A và B hình thành một liên minh thuế quan. Hàng hóa X nhập khẩu từ B sẽ được miễn thuế nhập khẩu, chi phí sản xuất hàng hóa X và B thấp hơn so với ở A (40 < 50), do vậy A sẽ không tự sản xuất hàng hóa X mà giao cho B sản xuất và nhập khẩu hàng hóa này từ B. Như vậy ở đây có hiện tượng tạo lập mậu dịch. - Chuyển hướng mậu dịch khi hình thành liên minh thuế quan. Đó là sự chuyển dịch việc sản xuất một loại hàng hóa từ nước sản xuất có chi phí thấp sang nước sản xuất có chi phí cao do có sự đối xử thuế nhập khẩu khác nhau giữa các nước thành viên của liên minh với các nước ngoài liên minh. Ví dụ: Có 3 nước A, B và C cùng sản xuất cùng một mặt hàng X theo tình hình như sau: Quốc gia Chi phí sản xuất trung bình Chưa có liên minh thuế quan (thuế suất thuế NK của A là 100%) Có liên minh thuế quan giữa A và B A 50 50 50 B 40 60 40 C 30 45 45 Trước khi có liên minh thuế quan dù A có ban hành thuế suất 50% đối với hành hóa X từ B và C thì chắc chắn A sẽ nhập hàng hóa từ C vì ở đây chi phí sản xuất hàng X kể cả thuế là thấp nhất. Giả sử A và B hình thành một liên minh thuế quan. Khi đó A sẽ nhập khẩu hàng của B vì hàng nhập từ B được miễn thuế nhập khẩu nên rẻ hơn, mà không nhập hàng của C cho dù về thực chất chi phí sản xuất ở C là thấp nhất. Như vậy, ở đây có hiện tượng chuyển việc sản xuất mặt hàng ở nước có hiệu quả nhất (C) sang nước kém hiệu quả hơn (B). Hiện tượng này được gọi là sự chuyển hướng mậu dịch trong liên minh thuế quan. Như vậy, liên minh thuế quan có thể gây ra hai hiện tượng khác nhau trong hoạt động ngoại thương. Liên minh thuế quan là có lợi nếu việc tạo lập mậu dịch nhiều hơn chuyển hướng mậu dịch. Điều này có thể trở thành hiện thực nếu các nước tham gia liên minh thuế quan có nhiều sở thích khác nhau, nghĩa là các nước thành viên có lợi thế so sánh về xuất khẩu nhiều loại hàng hóa khác nhau. Liên minh thuế quan có thể đem lại một số lợi ích sau đây: - Liên minh thuế quan làm gia tăng sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Việc bãi bỏ thuế nhập khẩu giữa các nước trong liên minh thuế quan làm cho thị trường được mở rộng hơn, đi liền với nó là sự gia tăng số lượng các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng. Trong liên minh thuế quan, cạnh tranh không có nghĩa là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng cung cấp một loại sản phẩm mà nó liên quan đến khả năng và tính sẵn sàng của các nhà sản xuất gia tăng thị phần, lấn chiếm sản phẩm, giữa các cá nhân với nhau mà còn giữa các liên minh với nhau. Cạnh tranh ngày càng gia tăng tất yếu dẫn đến việc nghiên cứu và phát triển công nghệ mới. Điều này có ý nghĩa tích cực, tạo động lực phát triển khoa học và công nghệ. - Liên minh thuế quan thúc đẩy gia tăng các khoản đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Trong điều kiện liên minh thuế quan, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Để đối phó với tình hình này các nhà sản xuất ở tất cả các nước đều gia tăng đầu tư nhằm tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Các nhà sản xuất của nước thành viên tăng đầu tư, cải tiến kỹ thuật để sản phẩm của họ có thể cạnh tranh với hàng hóa của các nước thành viên khác được tự do xâm nhập vào thị trường của mình. Các nước ngoài liên minh tăng đầu tư trực tiếp vào các nước thành viên của liên minh, nhằm tạo điều kiện cho hàng hóa của họ được hưởng những ưu đãi thuế quan, và cả các doanh nghiệp ở các nước ngoài liên minh cũng gia tăng đầu tư nhằm hạ thấp giá thành để sản phẩm của họ có cơ hội xâm nhập thị truờng các nước thành viên khi họ không được hưởng ưu đãi về thuế quan. 6.1.4. Khối thị trường chung Khối thị trường chung được thành lập khi bên cạnh tạo thành một liên minh thuế quan, các nước chấp nhận di chuyển tự do các yếu tố sản xuất giữa các nước thành viên. Năm 1967 Cộng đồng châu Âu (EU) ra đời nhằm đảm bảo sự hòa nhập kinh tế, thực hiện thị trường thống nhất, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước trong khối. Bên cạnh việc xóa bỏ hàng tào thuế quan trong buôn bán giữa các nước thành viên, xây dựng một hệ thống thuế quan thống nhất đối với các nước ngoài khối, EU dần xóa bỏ những hạn chế đối với việc tự do di chuyển sức lao động và sự phân biệt đối xử với công nhân nước ngoài về tiền lương, chính sách xã hội,… và thông qua việc thiết lập chế độ tự do di chuyển vốn và phương tiện sản xuất giữa các nước thành viên. 6.1.5. Liên minh kinh tế Một liên minh kinh tế là một khối thị trường chung với các quy định nhằm thống nhất các chính sách kinh tế nhất định, đặc biệt là các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế- xã hội. Vơi hiệu lực của Hiệp ước Mastricht vào ngày 01/01/1993, liên minh châu Âu (EU) đã đạt tới những đỉnh cao trong liên kết kinh tế quốc tế ở nhiều lĩnh vực như thành lập thị trường chung, chính sách nông nghiệp chung, liên kết tiền tệ, đặc biệt là việc ban hành một đồng tiền chung (đồng euro) đã thực hiện được ước muốn xóa bỏ rào cản về tỷ giá hối đoái và hạn chế lưu thông tiền tệ trong khối. Tóm lại, các khối liên kết khu vực ngày nay trên thế giới hầu hết đều tồn tại dưới một trong năm loại hình kể trên. Có những khối đã chuyển từ loại hình này sang loại hình khác ở mức liên kết cao hơn. Sự xuất hiện và phát triển khách quan trong bối cảnh khu vực hóa, toàn cầu hóa và có tác động rất to lớn đối với nền kinh tế thế giới. 6.2. NHỮNG NGUYÊN TẮC HỘI NHẬP QUỐC TẾ CHI PHỐI ĐẾN CHÍNH SÁCH THUẾ CỦA CÁC QUỐC GIA. Việc xây dựng các chính sách thuế của các quốc gia trong điều kiện hội nhập thị trường chịu sự chi phối của các nguyên tắc sau đây: 6.2.1. Nguyên tắc hoạt động phân biệt đối xử Đây là nguyên tắc bao trùm thống nhất của WTO, nó cùng được áp dụng như một nguyên tắc cơ bản trong các khối mậu dịch khu vực và các hiệp định thương mại song phương. Nguyên tắc này được thể hiện dưới hai nguyên tắc cụ thể sau: - Nguyên tắc tối huệ quốc (Most Fovoured Nation- MFN) Tối huệ quốc là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia về cơ hội giao dịch kinh tế, thương mại quốc tế. Nguyên tăc MFN quy định nếu một nước dành cho một nước thành viên một đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN được quy định trong các hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được áp dung đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước thành viên đều được dành những ưu đãi nhất. Nguyên tắc này đòi hỏi, khi hai bước đã có sự thỏa thuận về ưu đãi thuế và các loại phí khác, thì điều đó cũng có nghĩa là thỏa thuận này sẽ được áp dụng cho tất cả các nước thành viên tham gia. Tuy nhiên nguyên tắc nay cũng được đưa ra một số ngoại lệ và miễn trừ nhất định mở ra những phương thức vận hành khác nhau cho các nước thành viên, tùy thuộc vào điều kiện của từng nước. Chẳng hạn như cho phép có ngoại lệ đối với các nước thành viên trong hiệp định thương mại khu vực có thể có biểu thuế suất, hàng rào thuế quan riêng để dành cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn với các nước thứ ba. - Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment- NT) Nguyên tăc đối xử quốc gia quy định các hàng hóa nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hóa cùng loại trong nước. Mục tiêu chính của nguyên tắc này là tạo ra những điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa cùng loại, nhằm hạn chế bảo hộ sản xuất trong nước. Mục tiêu chính của nguyên tắc này là tạo ra những điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa cùng loại, nhằm hạn chế bảo hộ sản xuất trong nước. Nói cách khác, nguyên tắc này quy định hàng hóa nhập khẩu sau khi đã đóng thuế nhập khẩu phải được đối xử bình đẳng như hàng hóa trong nước về thuế và lệ phí nội địa khác. Việc áp dụng nguyên tắc đói xử quốc gia nhằm ngăn chặn các nước thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước bằng các biện pháp thuế quan. 6.2.2. Nguyên tắc có đi có lại Nguyên tăc này quy định nếu một quốc gia có một số biện pháp mở cửa thị trường như hạ thấp thuế nhập khẩu, xóa bỏ một phần hay toàn bộ hàng rào phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu thì họ có quyền đòi hỏi các nước thành viên khác có những nhượng bộ tương tự. Nguyên tắc này đòi hỏi các nước phải luôn cân nhắc khi đưa ra các cam kết để đảm bảo sự hài hòa giữa nghĩa vụ và quyền lợi trong đàm phán thuế song phương hay địa phương, đồng thời phải tôn trọng việc thực hiện các cam kết đó. Đối với WTO nguyên tăc này được duy trì trong suốt quá trình đàm phán, đặc biệt trong đàm phán ra nhập WTO giữa các nước đã là thành viên và sẽ là thành viên. Các nước đã là thành viên vốn có sẵn các cam kết giảm thuế quan, xóa bỏ những biện pháp phi thuế quan cho nên họ cũng đòi hỏi những sự nhượng bộ tương ứng đối với các ứng cử viên, đây là một trong những thử thách mà các ứng cử viên phải chấp nhận để trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Đối với khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA, các nhượng bộ cũng được đàm phán trên nguyên tắc này và được quy định cụ thể trong văn bản hướng dẫn về trao đổi nhượng bộ. Tuy nhiên, nếu một nước thành viên không thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết thì phải bồi thường thông qua tranh chấp. 6.2.3. Nguyên tắc công khai, minh bạch Đây là một yêu cầu đòi hỏi các nước phải thực hiện công khai các chính sách, biện pháp về tự do hóa thương mại đầu tư, các chính sách đó phải đảm bảo rõ ràng để cho các thành viên có thể hiểu các nội dung của chính sách một cách nhất quán, đồng thời biết được các chính sách đang được thực hiện như thế nào. Nguyên tắc này nhằm hạn chế sự tùy tiện, buộc các nước phải giảm bớt bảo hộ mậu dịch, kiểm soát các hình thức trợ cấp khác nhau trong đó cấm mọi hình thức liên quan đến trợ cấp để khuyến khích sử dụng hàng trong nước thay cho hàng nhập khẩu. Trợ cấp thông qua chính sách thuế thường bao gồm: Miễn giảm thuế; xóa nợ thuế… nhằm mục đích hỗ trợ xuất khẩu. Các loại trợ cấp này phải thường xuyên được công bố trước WTO trong chương trình minh bạch hóa chính sách thương mại và chỉ được áp dụng nếu không bị các nước thành viên phản đối. 6.2.4. Nguyên tắc thực hiện tự do hóa Mở cửa và tự do hóa từng bước là một trong những nội dung chính của quá trình hội nhập quốc tế về tài chính của các nước. Thực chất của nội dung này là việc các nước mở cửa các thị trường của mình cho nước ngoài thâm nhập và cạnh tranh, đồng thời cũng có nghĩa là các nước sẽ có cơ hội thâm nhập và cạnh tranh ở thị trường của các nước khác. Yêu cầu này đặt ra đối với chính sách thuế của các nước là: Thuế quan và các biện pháp khác mà các nước áp dụng để duy trì sự bảo hộ sản xuất trong nước của mình cần được giảm bớt và trong trường hợp có thể thì sẽ được xóa bỏ thông qua các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên và thuế quan sẽ được giữ nguyên ở mức giảm như vậy mà không được tăng lên nữa. Như vậy, thông lệ “Thực hiện tự do hóa” ngày càng được mở rộng ra áp dụng trong cả lĩnh vực thương mại hàng hóa và dịch vụ. GATT/WTO đã đề nghị các nước tiến hàng đàm phán giảm thuế và các biện pháp phi thuế quan khác để mở từng bước lĩnh vực hàng hóa. Để khuyến khích quá trình này, GATT/WTO cho phép các nước được hình thành các khu vực mậu dịch tự do (bỏ phần lớn các hàng rào thuế quan và phi quan thuế) mà không cần áp dụng cho các nước ngoài khu vực. Điều này sẽ đảm bảo cho các nước tiến hành tự do hóa nền kinh tế từng bước phù hợp với khả năng của mình trước khi cạnh tranh với tất cả các nước còn lại. 6.2.5. Nguyên tắc phòng ngừa bất trắc Để đảm bảo công bằng và duy trì lợi ích cho mỗi nước khi thực hiệ các ràng buộc đã cam kết, WTO đưa ra một số quy định về phòng ngừa bất trắc. Những quy định này cho phép các nước thành viên được áp dụng các hành động tự vệ trong một số trường hợp đặc biệt như: Các trường hợp khẩn cấp về bảo hộ cho nên công nghiệp trong nước nếu việc tăng lượng hàng nhập khẩu có thể đe dọa hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước; trường hợp có hoạt động bá phá giá, hoặc nước xuất khẩu áp dụng các biện pháp trợ cấp không được phép. Các biện pháp áp dụng có thể là nâng cao mức thuế quan, ban hành các loại thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, thực hiện các biện pháp phụ đối với hành nhập khẩu hàng hoặc quy định về hạ chế định lượng. Để thực thi được các biện pháp trên đòi hỏi các nước áp dụng phải có những bằng chứng rõ ràng chứng minh cho sự chính đáng về hành động của mình và đây là công việc phức tạp và đòi hỏi chi phí không nhỏ nên đôi khi rất khó cho các nước đang hay kém phát triển có thể thành công như mong muốn. 6.2.6. Ưu đãi cho các nước đang và kém phát triển Do trình độ phát triển và tiềm năng kinh tế của các nước rất khác nhau trong quá trình hội nhập kinh tế, nên các tổ chức, diễn đàn tổ chức kinh tế quốc tế quy định cho phép các nước đang và kém phát triển được hưởng một số ưu đãi nhất định và so với quy định chung. Các ưu đãi này có thuế dưới dạng thời gian áp dụng cam kết dài hơn, hạn chế lĩnh vực mở cửa, mức độ dự phòng rủi ro trong cam kết lớn hơn so với các nước đã phát triển. Chẳng hạn như, hệ thống ưu đãi phổ cập (Generalized System of Preferences- GSP). Theo hệ thống ưu đãi phổ cập, các nước phát triển, được gọi là nước cho hưởng, cho các nước đang phát triển và kém phát triển, được gọi là nước được hưởng, hưởng chế độ ưu đãi thông qua giảm hoặc miễn thuế. Chế độ ưu đại được xây dựng trên cơ sở không có sự phân biệt và không đòi hỏi bất cứ nghĩa vụ nào từ phía các nước được hưởng. Các nước cho hưởng ưu đãi quy định thuế suất ưu đãi cho chế độ GSP dựa trên mức thuế suất của chế độ đối xử tối huệ quốc. Nhìn chung, thuế suất ưu đãi theo chế độ GSP thường ở mức 0% hoặc rất thấp. GSP không nhất thiết phải đi kèm với MFN, một nước đang phát triển có thể dành được GSP nhưng vẫn chưa được hưởng MFN. Ví dụ, EU, Nhật Bản, Canada dành cho Việt Nam được hưởng GSP đối với một số mặt hàng sang các nước này, song Việt Nam chưa được hưởng MFN từ các nước này. Với ưu đãi thuế quan GSP thì hàng hóa của nước được hưởng sẽ có thêm ưu thế trong thị trường nước nhập khẩu. Tuy nhiên, hàng hóa này sẽ mtamj thời không được hưởng ưu đãi thuế quan GSP nữa trong một số trường hợp nhất định. Chẳng hạn, khi một số hàng hóa nhập khẩu theo GSP ảnh hưởng đến công nghiệp sản xuất mặt hàng đó trong nước. Quy tắc xuất xứ là yếu tố chính để đảm bảo những lợi ích của chế độ ưu đãi thuế quan theo GSP, vì nó chỉ dành cho những sản phẩm mà thực sự có được do thu hoạch, sản xuất, gia công hoặc chế biến ở những nước xuất khẩu được hưởng. 6.3. VẤN ĐỀ ĐÁNH THUẾ TRÙNG GIỮA CÁC QUỐC GIA 6.3.1. Khái niệm và nguyên nhân của hiện tượng đánh thuế trùng 6.3.1.1. Khái niệm đánh thuế trùng Các quốc gia dựa vào hai đặc quyền cơ bản để thu thuế là quyền đối với đối tượng cư trú và quyền đối với thu nhập phát sinh từ quốc gia đó. Việc thực hiện hai đặc quyền này trong hệ thống thuế của mỗi nước đã dẫn đến tình trạng thu thuế trùng lặp giữa các quốc gia trong trường hợp khi đối tượng sống ở một nước nhưng có thu nhập từ nước khác. Theo các nhà phân tích cổ điển về thuế thì hiện tương đánh thuế trùng là hiện tượng xảy ra khi một đối tượng chịu thuế bị đánh thuế trên cùng một khoản thu nhập hay tài sản trong cùng một thời kỳ nhất định bởi hai hay nhiều Nhà nước mà tổng số thuế phải nộp lớn hơn số thuế tính theo luật thuế của mỗi nước. Định nghĩa này mới chỉ dừng lại ở việc phản ánh hiện tượng đánh thuế trùng về mặt pháp lý, chưa đề cập đến được hiện tượng nộp thuế bị đánh thuế bởi hai Nhà nước trên cùng một khoản thu nhập. Theo ủy ban về các vấn đề thuế của OECD đưa ra định nghĩa về hiện tượng đánh thuế trùng khá hoàn chỉnh như sau: “Hiện tượng hai hay nhiều Nhà nước áp dụng một loại thuế trên cùng một khoản thu nhập hay tài sản chịu thuế của cùng một đối tượng tính thuế trong một kỳ tính thuế làm cho đối tượng đó phải chịu một gánh nặng thuế lớn hơn gánh nặng thuế mà đáng lẽ họ phải chịu bởi một Nhà nước. Ngoài ra còn là hiện tượng khi hai đối tượng nộp thuế của hai nhà nước cùng phải nộp thuế tại từng nước đối với cùng một khoản thu nhập chịu thuế”. Định nghĩa trên đã bao quát được hai hình thức đánh thuế trùng đó là đánh thuế trùng mang tính pháp lý và đánh thuế trùng mang tính kinh tế. Đánh thuế trùng về mặt pháp lý: Nghĩa là trường hợp một đối tượng bị hai hay nhiều nhà nước đánh thuế đối với cùng một khoản thu nhập hay tài sản chịu thuế. Đánh thuế trùng về mặt pháp lý thường thể hiện trong các trường hợp sau đây: - Một đối tượng được hai Nhà nước thừa nhận là đối tượng cu trú: Khi một đối tượng nào đó được coi là đối tượng cư trú ở một nhà nước thì Nhà nước này có quyền đánh thuế trên toàn bộ thu nhập của đối tượng đó không biệt thu nhập phát sinh ở nước đó hay ở nhà nước khác. Như vậy nếu một cá nhân được cả hai Nhà nước thừa nhận là đối tượng cư trú thì cá nhân này sẽ phải chịu một sự đánh thuế trùng không chỉ trên khoản thu nhập phát sinh ở hai nước mà còn cả trên khoản thu nhập có nguồn gốc từ nước thứ ba. - Một cá nhân là đối tượng cư trú ở một nước nhưng nhận được thu nhập từ nước khác ( hoặc sở hữu tài sản của nước khác). Nhìn chung các Nhà nước đều đánh thuế đối với những khoản thu nhập (tài sản) phát sinh từ nước họ vì cho rằng sở dĩ các cá nhân đó có thu nhập (tài sản) một phần là do các chủ thể này được sử dụng cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng của nước họ và do vậy phải có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước nơi phát sinh thu nhập (tài sản). Như vậy, nếu một cá nhân cư trú ở một nước nhưng nhận được thu nhập phát sinh từ nước này đồng thời bị Nhà nước nơi cư trú đánh thuế, do vậy anh ta sẽ bị đánh thuế trên toàn bộ thu nhập, bất kể nguồn thu nhập phát sinh ở trong nước hay ở nước ngoài. - Đánh thuế trùng về mặt kinh tế: Theo Ủy ban về các vấn đề về thuế của OECD định nghĩa: Đánh thuế trùng về mặt kinh tế là hiện tượng mà hai cá nhân khác nhau cùng bị đánh thuế trên cùng một khoản thu nhập hay cùng một tài sản. Hiện tượng này không chỉ xảy ra trên phạm vi quốc tế mà còn có thể xảy ra trong phạm vi quốc gia. Ví dụ của hiện tượng đánh thuế trùng trong phạm vi một nước đó là trường hợp đánh thuế đối với lợi tức cổ phần, khoản này đã chịu thuế thu nhập công ty trước khi nó được chia cho cổ đông, và các khoản thu nhập này lại phải chịu thuế lần thứ hai đó là thuế thu nhập cá nhân vì đây là khoản thu nhập của các cổ đông. Trên phạm vi quốc tế, hiện tượng đánh thuế trùng xảy ra khi hai công ty (công ty mẹ và công ty con) ở hai quốc gia chuyển lợi nhuận cho nhau. Khoản lợi nhuận này sẽ bị đánh thuế bởi hai Nhà nước khi mà Nhà nước khi mà nhà nước nơi chuyển công ty chuyển lợi nhuận đóng trụ sở từ chố việc giảm thuế cho khoản lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, còn Nhà nước nơi công ty được hưởng lại cộng cả khoản lợi nhuận được chuyển đến để tính thuế thu nhập. 6.3.1.2. Nguyên nhân của hiện tượng đánh thuế trùng. Ngày nay việc đánh thuế trùng khá phổ biến xuất phát từ các lý do sau đây: - Do xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội ngày nay càng mở rộng. - Toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành một trong nhưng xu thế chủ yếu của nền kinh tế hiện đại. Trên thế giới ngày càng có nhiều công ty đa quôc gia tồn tại và phát triển, một công ty có trụ sở điều hành chính ở một nước nhưng có nhiều công ty trực thuộc đóng ở nước ngoài, một số cá nhân có thể có nhiều quốc tịch, cư trú ở một nước nhưng có thể làm việc ở nhiều nước khác nhau. Các cá nhân, các công ty đó có thể có thu nhập kể cả ở nước cư trú và kể cả ở tại nước nguồn. Các quốc gia thường áp dụng thuế trực thu khi đánh vào thu nhập của từng đối tượng nộp thuế không phân biệt khoản thu nhập đó có nguồn gốc từ đâu. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tồn tại các quan điểm và nguyên tắc đánh giá thuế riêng nên nảy sinh hiện tượng đánh thuế trùng. - Do sự xung đột về quyền đánh thuế giữa các Nhà nước: Quyền đánh thuế của các Nhà nước trước hết thể hiện ở quyền xây dựng và thực thi các chính sách thuế. Để ban hành các sắc thuế phải dựa trên các nguyên tắc đánh thuế. Có các nguyên tắc đánh thuế khác nhau như nguyên tắc đánh thuế theo quốc tịch; nguyên tắc đánh thuế theo nơi cư trú và nguyên tắc đánh thuế theo lãnh thổ (nguyên tắc đánh thuế theo nguồn). Khi thực hiện quyền đánh thuế của mình trên phạm vilanhx thổ, quốc gia, các Nhà nước tuân theo những nguyên tắc khác nhau, dẫn đến những xung đột về quyền đánh thuế giữa các nhà nước, và đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hiện tượng đánh thuế hai lần giữa các quốc gia. Có ba trường hợp xung đột về quyền đánh thuế: Trường hợp 1: Sự xung đột giữa các nguyên tắc đánh thuế theo quốc tịch và nguyên tắc đánh thuế theo nơi cư trú. Trường hợp này xảy ra khi hai hay nhiề quốc gia cùng khẳng định quyền đánh thuế đối với cùng một đối tượng chịu thuế do đối tượng đó mang quốc tịch của nước nay nhưng là đối tượng cư trú của nước kia. Một đối tượng nộp thuế cư trú ở một nước nhưng lại mang quốc tịch của nước khác. Theo nguyên tắc đánh thuế của quốc tịch thì đối tượng này sẽ bị Nhà nước người đó mang quốc tịch đánh thuế trên toàn bộ thu nhập, đồng thời theo nguyên tắc cư trú đối tượng này cũng bị Nhà nước cư trú đánh thuế trên toàn bộ thu nhập của mình. Trường hợp 2: Sự xung đột của nguyên tắc đánh thuế theo quốc tịch hoặc nơi cư trú và nguyên tắc đánh thuế theo nguồn: nghĩa là khi hai hay nhiều quốc gia cùng khẳng đinh quyền đánh thuế đối với một đối tượng chịu thuế lấy lý do là đối tượng có thu nhập phát sinh ở nước này nhưng lại cư trú hoặc mang quốc tịch của nước kia. Một đối tượng cư trú tại một nước hoặc có quốc tịch của một nước nhưng lại có thu nhập phát sinh từ nước khác. Đối tượng này sẽ bị Nhà nước nơi cư trú hoặc nước anh ta mang quốc tịch đánh thuế trên toàn bộ thu nhập của mình theo nguyên tắc đánh thuế theo quốc tịch hoặc cư trú. Phần thu nhập đối tượng nhân được tại nước mà anh ta làm việc hay kinh doanh sẽ bị nhà nước nơi phát sinh thu nhập đánh thuế. Như vậy phần thu nhập phát sinh từ nước thứ hai sẽ bị đánh thuế trùng. Trường hợp thứ 3: Sự xung đột của chính nguyên tắc đánh thuế theo thuế nguồn. Trường hợp xung đột này xảy ra khi hai hay nhiều quốc gia cùng khẳng định quyền đánh thuế đối với cùng một khoản thu nhập của đối tượng nộp thuế vì cho rằng thu nhập thuế đó phát sinh ở nước họ. Khi hai Nhà nước khác nhau áp dụng những nguyên tắc đánh thuế theo nguồn một cách không ăn nhập với nhau trên cùng một yếu tố đánh thuế như lợi nhuận của hoạt động thương mại quốc tế tạo ra sự đánh thuế trùng. Trong 3 trường hợp xung đột nói trên thì loại xung đột giữa quốc gia nguồn và quốc gia nơi cư trú là phổ biến. Ngoài ra đánh thuế trùng còn có thể xảy ra do kết quả của việc các quốc gia định nghĩa về “thu nhập”không giống nhau và áp dụng những nguyên tắc tính thuế cũng như tính thời gian khác nhau. Đánh thuế trùng có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động đầu tư quốc tế vì gánh nặng thuế mà đối tượng phải chịu cao hơn do phải nộp thuế tại hai nước tính trên cùng một đối tượng chịu thuế. Khả năng xuất khẩu vốn ra nước ngoài của các nước co thể bị ảnh hưởng do việc đánh thuế trùng vì điều này làm giảm lợi nhuận thực tế mà các nhà đầu tư có được. Đối với các nước nhận đầu tư, việc đánh thuế hai lần là nguyên nhân có ảnh hưởng nhất định làm cản trở việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trong khi vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng đặc biệt đối với các nước đang phát triển nơi có nhu cầu vốn rất lớn. Tựu trung lại, đánh thuế trùng đã tạo ra một lực cản đói với hoạt động đầu tư trên phạm vi quốc tế, đòi hỏi các quốc gia quan tâm xử lý hiện tượng này. 6.3.2. Hậu quả của việc đánh thuế trùng đối với đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế là sự di chuyển các phương tiện đầu tư như tiền vốn, hiện vật, kỹ thuật công nghệ,…từ nước này sang nước khác để kinh doanh kiểm lợi nhuận. Đầu tư quốc tế là là một đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước. Đầu tư quốc tế là một hình thức kiếm lợi ích giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Đầu tư quốc tế diễn ra ở hình thức khác nhau như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và đầu tư dưới dạng cho vay (ODA). Đầu tư quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước chủ đầu tư và nhận đầu tư nói riêng. Đánh trùng thuế tạo ra một lực cản đối với sự phát triển không chỉ một quốc gia mà cho cả quá trình phát triển kinh tế quốc tế. Đối vớ nước đầu tư: Nước đầu tư là nước có khả năng tích lũy vốn lớn, họ sẽ quyết định đầu tư ở nơi cho phép họ đạt được mục đích: chi phí thấp, việc di chuyển vốn và lợi nhuận có lợi nhất, đầu tư đảm bảo an toàn. Do đó, trước khi đưa ra quyết đinh đầu tư, nhà đầu tư phải xem xét kỹ các yếu tố ảnh hưởng đến việc đầu tư ở một nước như tình trạng thi trường, chất lượng lao động, sự ổn đinh về mặt chính trị ,xã hội, mức độ thuận lợi của việc chuyển lợi nhuận về nước, chính sách thuế,…, trong đó gánh nặng thuế luôn được xem xét nghiêm túc sao cho gánh nặng thuế cảu nhà đầu tư là thấp nhất. Gánh nặng thuế của nhà đầu tư không những quy định bởi chính sách thuế của nước cư trú, mà còn cả ở các nước tiếp nhận đầu tư, giữa nhà nước cư trú và nhà nước nguồn có tồn tại hiện tượng đánh thuế trùng hay không? Nếu như có sự đánh giá thuế trùng giữa hai nhà nước thì nó sẽ làm cho gánh nặng thuế của nhà đầu tư tăng lên, điều này có thể là nguyên nhân chủ yếu khiến cho nhà đầu tư từ bỏ ý định đầu tư từ bỏ ý định đầu tư ra nước ngoài. 6.3.3. các biện pháp đánh trùng thuế Các nước có thể có các cách khác nhau để xử lý việc đánh thuế trùng, việc áp dung biện pháp nào tùy thuộc vào từng nước. có hai laoij biện pháp sau: 6.3.3.1 Biện pháp đơn phương Áp dụng biện pháp này, Nhà nước có thế đơn phương đưa ra các biện pháp miễn phí, giảm số thuế mà các nhà đầu tư phải nộp tại nước mình. Biện pháp này có ưu điểm là loại bỏ được hiện tượng đánh thuế trùng nhưng trên thực tế rất ít khi được áp dụng vì việc đơn phương cắt giảm thuế là đồng nghĩa với việc Nhà nước từ bỏ quyền đánh thuế của mình đối với một khoản thu nhập hoặc tài sản nhất định. 6.3.3.2. Biện pháp cam kết quốc tế Biện pháp cam kết quốc tế được hình thành nhằm thỏa mãn yêu cầu của các bên trong việc xử lý vấn đề đánh thuế trùng. Tham gia các cam kết quốc tế đồng nghĩa với việc các thành viên hoặc từ bỏ hoặc giới hạn một phần quyền đánh thuế của mình đối với khoản thu nhập, tài sản phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ và phân công lao động quốc tế. Các cam kết quốc tế có thể là cam kết đa phương hoặc cam kết song phương và được biểu hiện ở các Hiệp định thuế mang tính quốc tế như Hiệp định đa phương về tránh đánh thuế hai lần giữa các quốc gia, các Công ước Viên về ngoại giao và Công ước Viên về quan hệ lãnh sự, Hiệp định viện trợ giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển; và Hiệp định song phương về tránh đánh thuế hai lần giữa các quốc gia. Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa các quốc gia là văn kiện pháp lý song phương, trong đó đưa ra một khuôn khổ để các nước phân chia quyền lợi về thuế từ các đối tượng nộp thuế hoạt động qua biên giới, đồng thời loại bỏ những rào cản đối với các dòng luân chuyển hàng hóa, vốn, công nghệ và lao động giữa các quốc gia. Hiệp định thuế nhằm các mục đích sau đây: - Xóa bỏ hoặc hạn chế việc đánh thuế trùng giữa hai Nhà nước, tạo môi trường pháp lý và kinh tế thuận lợi cho các hoạt động đầu tư quốc tế, từ đó thúc đẩy các hoạt động này, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các quốc gia, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. - Ấn định khung pháp lý, theo đó, các nước tiến hành hợp tác với nhau trong việc thực hiện Hiệp định; thiết lập nền tảng của sự phối hợp, hợp tác giữa các nước trong việc chống lại các hiện tượng trốn, lậu thuế quốc tế, xử lý các tranh chấp về thuế giữa các quốc gia. - Bảo vệ đối tượng nộp thuế tránh được sự phân biệt đối xử không có lợi về thuế của một nhà nước do có sự khác biệt về quốc tịch. Hiện tượng đánh thuế trùng gồm hai dạng:Đánh thuế trùng về pháp lý và đánh thuế trùng về kinh tế. Mục đích chính của Hiệp định thuế là nhằm đưa ra các biện pháp để xóa bỏ hoặc hạn chế đánh thuế trùng. Sau đây là một số biện pháp chủ yếu được đề cập trong các Hiệp định thuế: a. Biện pháp loại bỏ đánh thuế trùng về mặt pháp lý - Biện pháp loại bỏ hiện tượng đánh thuế trùng về thân phận cư trú: Nếu một đối tượng bị coi là đối tượng cư trú ở cả hai nước thì sẽ bị đánh thuế ở cả hai nước trên toàn bộ thu nhập, tài sản của đối tượng này, trong mẫu Hiệp định tránh đánh thuế hai lần của OECD và của UN có quy định các tiêu chí cụ thể để xác định một đối tượng cư trú theo thứ tự ưu tiên như nhà ở thường trú, trung tâm quyền lợi chủ yếu, thời gian cư trú và quốc tế. Nếu căn cứ vào những tiêu chí này mà vẫn chưa xác định được thân phận cư trú ở nước ký kết nào thì sẽ được giải quyết bằng thỏa thuận chung giữa các nhà chức trách có thẩm quyền của hai nước. Theo nguyên tắc của Hiệp định, một nước có quyền đánh thuế trên toàn bộ thu nhập của một đối tượng cư trú và chỉ đánh thuế đối với đối tượng không cư trú trên phần thu nhập phát sinh tại nước đó. - Biện pháp loại bỏ đánh thuế trùng giữa nước cư trú và nước phát sinh nguồn thu nhập: Đối với những khoản thu nhập mà hai nước ký kết cùng có quyền đánh thuế thì các biện pháp loại bỏ hiện tượng đánh thuế trùng bao gồm: + Biện pháp miễn thuế: Theo biện pháp này các nước không thu thuế đối với thu nhập nhận được từ nước ngoài. Có hai dạng miễn thuế: miễn thuế toàn phần và miễn thuế lũy tiến. Miễn thuế toán phần: Áp dụng biện pháp này, Nhà nước không đánh thuế đối với những khoản thu nhập đã được đánh thuế ở nước kí kết bên kia. Biện pháp này có ưu điểm cơ bản là loại bỏ hoàn toàn đánh thuế hai lần giữa các nước, vì khi đó thu thuế chỉ dựa vào một đặc quyền duy nhất là nguồn phát sinh thu nhập, việc tránh đánh thuế trùng trở nên đơn giản và dễ thực hiện đối với cả người nộp thuế và cơ quan thu thuế. Tuy nhiên, nếu áp dụng biện pháp này dễ dẫn đến mâu thuẫn với mục tiêu công bằng và hiệu quả trong chính sách thuê,s có thể sẽ khuyến khích đầu tư ra nước ngoài nhưng là nguyên nhân làm thất thu ngân sách vì Nhà nước không thu thuế đối với thu nhập từ nước ngoài. Miễn thuế lũy tiến: Áp dụng biện pháp này, các nước tham gia kí kết Hiệp định mặc dù miễn thuế cho thu nhập từ nước ngoài, tuy nhiên khoản thu nhập nhận được từ nước ngoài vẫn được cộng vào tổng thu nhập trong nước để xác định mức thuế lũy tiến áp dụng cho phần thu nhập trong nước. Việc áp dụng biện pháp này có ưu điểm là đảm bảo công bằng hơn so với biện pháp trên, góp phần đảm bảo thu cho NSNN. Nhưng hạn chế của nó là phức tạp khi áp dụng, phương pháp này được áp dụng dễ dàng ở Nhà nước nơi cư trú, nhưng rất khó khăn ở nước ngoài do về mặt lý thuyết thì nước này không biết đến toàn bộ thu nhập của đối tượng. Ngoài ra phương pháp này chỉ có ý nghĩa đối với thuế thu nhập lũy tiến. + Biện pháp khấu trừ thuế: Áp dụng biện pháp này, về ơ bản số thuế đã nộp ở nước ngoài được khấu trừ vào số thuế sẽ phải nộp ở trong nước cho phần thu nhập ở nước ngoài. Nó cho phép loại bỏ việc thu thuế hai lần xảy ra do các nước thu thuế cùng một lúc dựa trên đặc quyền cư trú và đặc quyền nguồn thu nhập. Có các cách khấu trừ khác nhau, đó là khấu trừ toàn phần, khấu trừ hạn chế và khấu trừ khoán thuế: Khấu trừ toàn phần: Nước cư trú đánh thuế trên toàn bộ thu nhập và cho phép khấu trừ khoản thuế đã nộp tại nước ngoài, nhưng khoản thuế được khấu trừ không được vượt quá số thuế tính trên phần thu nhập tương ứng theo quy định của luật thuế nước cư trú. Khấu trừ khoán thuế: Phương pháp này cho phép đối tượng nộp thuế được hưởng một khoản khấu trừ thuế trong nước cư trứ, thậm chí ngay cả khi đối tượng đó không phải nộp một khoản thuế nào ở nước ngoài. Tuy nhiên, số thuế đáng lẽ phải nộp ở nước ngoài được khấu trừ đó không thể lớn hơn số thuế phải nộp tại nước cư trú. b. Biện pháp loại bỏ đánh thuế trùng về kinh tế Việc xử lý vấn đề đánh thuế trùng trong trường hợp cả hai Nhà nước đánh thuế trên phần thu nhập mà hai công ty (công ty mẹ và công ty con) ở hai nước khác nhau chuyển cho nhau thường được thực hiện bằng thỏa thuận song phương. Có các biện pháp điều chỉnh sau đây: - Biện pháp điều chỉnh sơ cấp: Khoản thu nhập đã bị đánh thuế ở Nhà nước mà công ty chuyển lợi nhuận sẽ được trừ ra khỏi thu nhập bị đánh thuế thu nhập công ty ở nước cư trú của công ty được hưởng lợi nhuận chuyển đến. - Biện pháp điều chỉnh thứ cấp: Nhà nước nơi công ty chuyển lợi nhuận sẽ tiến hành đánh thuế trên phần thu nhập phân phối cho công ty này và nước cư trú của công ty được hưởng lợi nhuận chuyển đến cho phép khấu trừ số thuế này vào số thuế phải nộp. Như vậy có các biện pháp tránh đánh thuế hai lần khác nhau, việc áp dụng biện pháp nào là tùy thuộc vào cam kết của các nước ghi rõ trong các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxQuan ly thue.docx
Tài liệu liên quan