KẾT LUẬN
Có thể nói không có hoạt động nội luật hóa, pháp
luật quốc tế sẽ khó đi vào thực tiễn áp dụng ở
từng quốc gia. Điều 11 Công ước Viên 1969 quy
định: Sau khi “ký, trao đổi các văn kiện của điều
ước phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia
nhập hoặc bằng mọi cách khác được thỏa thuận”
để chấp nhận sự ràng buộc của ĐUQT, các chủ
thể có thẩm quyền sẽ tiến hành nội luật hóa, khi
đó các quy định trong các ĐUQT đó phát sinh
hiệu lực đối với công dân, pháp nhân, tổ chức của
Việt Nam. Qua tìm hiểu nội hàm khái niệm và
cách thức nội luật hóa, chúng ta có thể kết luận
một số vấn đề sau đây:
- Về điều kiện để nội luật hóa một ĐUQT bao
gồm: Thứ nhất, điều ước phải được ký kết trên
cơ sở tự nguyện, bình đẳng; thứ hai, nội dung
của điều ước không trái với các nguyên tắc cơ
bản của Luật quốc tế.
- Về đặc điểm: Văn bản nội luật hóa thực chất là
văn bản pháp luật quốc gia chứa đựng các quy
phạm pháp luật có nội dung cụ thể hóa quy
định của ĐUQT. Văn bản nội luật hóa có hiệu
lực pháp lý bắt buộc đối với tất cả các chủ thể
luật quốc gia cũng như trong phạm vi toàn bộ
lãnh thổ của quốc gia với tư cách một văn bản
pháp luật quốc gia thông thường.
- Về ý nghĩa, vai trò: Nội luật hóa đóng vai trò
quan trọng trong việc thực hiện nghĩa vụ thành
viên ĐUQT, đảm bảo nguyên tắc “Pacta sunt
servanda”, tạo cơ sở pháp lý trong việc tăng
cường và mở rộng các quan hệ hữu nghị và
hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn
đề có tính chất quốc tế mà tội phạm có tính
chất quốc tế là một ví dụ điển hình. Ngoài ra,
nội luật hóa còn góp phần đảm bảo sự hài hòa
giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;
thúc đẩy, góp phần hoàn thiện pháp luật quốc
gia, tăng cường kỹ thuật lập pháp trong nước.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về khái niệm nội luật hóa và cách thức nội luật hóa quy định của các điều ước quốc tế về phòng, chống tội phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 34 – 39
34
BÀN VỀ KHÁI NIỆM NỘI LUẬT HÓA VÀ CÁCH THỨC NỘI LUẬT HÓA
QUY ĐỊNH CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
Nguyễn Quyết Thắng1, Bùi Trương Ngọc Quỳnh2
1Trường Đại học An ninh Nhân dân
2Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 01/12/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
03/01/2019
Ngày chấp nhận đăng:
02/2020
Title:
Review on definition and
methods of “transforming”
regulations of international
crimes countering treaties
Keywords:
Transforming, international
treaties, crime countering
Từ khóa:
Nội luật hóa, điều ước quốc tế,
phòng chống tội phạm
ABSTRACT
There are some different scientific views on the definition of “transforming”
in international law nowadays. The article mentions all angles for
understanding the definition. The article aims at looking for a clear meaning
of the content of the accademic term following the study of regulations of
international laws as well as the related Vietnamese laws. Besides, the
article also discusses some methods of transforming through analysing all
international crimes countering treaties, then tries to reach a general
consensus on transforming all international commitments into Vietnam’s
legal system, especially in law-making area.
TÓM TẮT
Hiện nay, về mặt khoa học, vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về nội hàm
thuật ngữ “nội luật hóa” trong pháp luật quốc tế. Bài viết phân tích, làm rõ
nội hàm khái niệm nội luật hóa trên cơ sở quy định của pháp luật quốc tế
cũng như quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan. Ngoài ra, bài viết
còn bàn về các cách thức nội luật hóa trên cơ sở phân tích các điều ước quốc
tế đa phương về phòng, chống tội phạm, kinh nghiệm của Việt Nam, từ đó
góp phần đảm bảo thống nhất về mặt nhận thức trong hoạt động nội luật hóa
các cam kết quốc tế ở Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực lập pháp.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời đại ngày nay, việc các quốc gia tích
cực thiết lập, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
phòng, chống tội phạm đang trở thành xu thế tất
yếu. Để tạo ra “phản ứng toàn cầu” trong cộng
đồng quốc tế nhằm chống lại một cách hiệu quả
các loại tội phạm có tính nguy hiểm cao, nhất là
các tội phạm có tính chất quốc tế, các quốc gia nói
riêng và chủ thể pháp luật quốc tế nói chung đã
cùng nhau xây dựng nhiều công cụ mang tính
quốc tế, trong đó pháp luật được xem là công cụ
then chốt. Do vậy, việc nhiều điều ước quốc tế
(ĐUQT) về phòng, chống tội phạm ra đời đã phản
ánh nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong việc đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Trong bối cảnh
chung đó, Việt Nam cũng đã kí kết, gia nhập và
trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế
đa phương về lĩnh vực phòng, chống tội phạm:
Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về phòng,
chống ma túy; Công ước chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia (CTOC); Công ước chống
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 34 – 39
35
tham nhũng; các ĐUQT về phòng, chống khủng
bố... Chẳng hạn trong lĩnh vực phòng, chống
khủng bố, trải qua hơn 05 thập kỷ, cộng đồng
quốc tế đã và đang tiếp tục xây dựng “khung pháp
lý quốc tế chung” thông qua các ĐUQT nhằm
chống lại các hình thức và biểu hiện của khủng
bố. Theo Ủy ban chống khủng bố của Liên Hợp
quốc – United Nations Office of Counter-
Terrorism (2018), từ năm 1963 cho đến nay có
tổng cộng 12 Công ước và 7 Nghị định thư quốc
tế quy định về hành vi khủng bố lần lượt ra đời
dưới sự bảo trợ của LHQ và các tổ chức chuyên
môn của LHQ (như Tổ chức hàng không dân
dụng quốc tế (ICAO), Tổ chức hàng hải quốc tế
(IMO), Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế
(IAEA)...). Trong số đó, hiện có 16 ĐUQT chống
khủng bố đã phát sinh hiệu lực (Ban chỉ đạo
phòng, chống khủng bố - Bộ Công an, 2013) và
được LHQ công bố rộng rãi. Hiện, Việt Nam đã kí
kết, gia nhập 13 điều ước và sẽ tiếp tục nghiên
cứu để gia nhập 03 điều ước còn lại vào thời điểm
thích hợp (bao gồm: Công ước 1991 về đánh dấu
vật liệu nổ dẻo để nhận biết; Nghị định thư 2005
bổ sung Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp
pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải; Nghị
định 2005 bổ sung Nghị định thư về trừng trị hành
vi bất hợp pháp chống lại an toàn của các công
trình cố định trên thềm lục địa). Ngoài việc tham
gia vào các điều ước quốc tế đa phương, trong
quan hệ hợp tác song phương với các quốc gia,
Việt Nam cũng đã đàm phán và ký kết nhiều Hiệp
định tương trợ tư pháp về hình sự và hiệp định
dẫn độ tội phạm với các nước trên thế giới, qua đó
tăng cường khả năng hợp tác quốc tế trong đấu
tranh, phòng chống tội phạm.
Sau khi trở thành thành viên của các điều ước
quốc tế, Việt Nam cũng như các quốc gia thành
viên sẽ phải thực thi một cách nghiêm túc và có
thiện chí các cam kết và yêu cầu trong các điều
ước quốc tế bằng nhiều phương thức khác nhau.
Một trong những phương thức quan trọng chính là
“nội luật hóa” quy định trong các điều ước quốc tế
đó vào pháp luật quốc gia. Chính vì vậy, việc làm
rõ nội hàm thuật ngữ “nội luật hóa” cũng như
cách thức nội luật hóa quy định của các ĐUQT
vào pháp luật Việt Nam có ý nghĩa quan trọng cả
về lý luận và thực tiễn. Bài viết tập trung giải
quyết các vấn đề này trên cơ sở gắn liền với các
điều ước quốc tế đa phương về phòng, chống
khủng bố mà Việt Nam đang là thành viên.
2. QUAN NIỆM VỀ NỘI LUẬT HÓA QUY
ĐỊNH CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
VÀO PHÁP LUẬT QUỐC GIA
Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 12 Công
ước Viên 1969 (United Nations [UN], 1969) thì
ĐUQT là văn bản thỏa thuận được ký kết giữa các
chủ thể của luật pháp quốc tế (quốc gia và tổ chức
quốc tế) và được điều chỉnh bằng luật quốc tế, bất
kể tên gọi của văn bản thỏa thuận đó là gì. Các
cách thức thể hiện sự đồng ý ràng buộc bởi một
ĐUQT của chủ thể luật quốc tế được quy định tại
Điều 11 Công ước Viên 1969 (UN, 1969) bao
gồm: Ký, trao đổi các văn kiện hình thành điều
ước, thông qua hoặc phê chuẩn (“ratification”),
thừa nhận hoặc công nhận (“acceptance”), tán
thành hoặc chấp thuận (“approval”), gia nhập
(“accession”) hoặc bằng bất cứ cách thức nào
được đồng thuận bởi các bên. Tuy nhiên, Công
ước Viên không nêu cụ thể các cách thức, biện
pháp mà quốc gia thành viên có thể áp dụng để
đáp ứng yêu cầu cũng như thực thi quy định của
các ĐUQT mà quốc gia đó đã ký kết, gia nhập.
Hơn thế, trong lời nói đầu và tại Điều 26 Công
ước Viên 1969 (UN,1969) quy định: “Mọi điều
ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham
gia điều ước và phải được các bên thi hành trên
tinh thần thiện chí”. Hay tại Điều 27 Công ước
Viên 1969 (UN, 1969) quy định: “Một bên không
thể viện dẫn những quy định của pháp luật trong
nước của mình làm lý do cho việc không thi hành
một điều ước”.
Như vậy, pháp luật quốc tế không quy định quốc
gia cần phải thực hiện ĐUQT bằng cách thức nào;
các quốc gia có quyền tự do lựa chọn cách thức để
thực hiện điều ước, miễn là thực hiện một cách
tận tâm và thiện chí. Đây cũng là nội dung của
nguyên tắc “Pacta sunt servanda”, một trong
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 34 – 39
36
những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế được
ghi nhận trong Tuyên bố của Đại hội đồng LHQ
năm 1970 về những nguyên tắc cơ bản của Luật
quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác
giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương LHQ;
đồng thời cũng là nguyên tắc được hầu hết các
quốc gia thừa nhận và chấp hành. Chẳng hạn đối
với nhóm ĐUQT chống khủng bố, tinh thần
nguyên tắc “Pacta sunt servanda” cũng được ghi
nhận và thể hiện rõ nét trong tài liệu Hướng dẫn
toàn cầu về việc hợp tác pháp luật và thực thi các
ĐUQT chống khủng bố (Văn phòng Liên Hợp
Quốc về Ma tuý và Tội phạm [UNODC], 2006).
Theo đó, các ĐUQT chống khủng bố trở thành
nền tảng pháp lý trong việc đấu tranh phòng,
chống khủng bố một khi được các quốc gia gia
nhập và thực thi một cách thiện chí, có trách
nhiệm trên thực tế. Tính hiệu quả của các công cụ
pháp lý quốc tế về chống khủng bố phải trên cơ sở
cam kết thực thi nghiêm túc của các quốc gia
thành viên.
Tóm lại, sau khi được cộng đồng quốc tế xây
dựng, các ĐUQT chống khủng bố nói riêng và các
ĐUQT về phòng, chống tội phạm nói chung sẽ là
nền tảng pháp lý trong công cuộc đấu tranh với
các loại tội phạm có tính quốc tế và nguyên tắc
“Pacta sunt servanda” buộc các quốc gia thành
viên phải tiến hành bước tiếp theo nhằm đảm bảo
thực thi nghiêm túc những quy định của ĐUQT
đó trong phạm vi quốc gia mình. Đây chính là
bước “chuyển hóa” nội dung, yêu cầu của các
ĐUQT vào hệ thống pháp luật quốc gia mà về mặt
khoa học gọi là nội luật hóa. Theo Từ điển Luật
học (Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, 2015),
nội luật hóa là việc “chuyển hóa quy định trong
ĐUQT thành quy phạm pháp luật có giá trị bắt
buộc thực hiện đối với tổ chức, cá nhân ở một
quốc gia”. Mục đích nội luật hoá là để các quốc
gia thực thi nghiêm túc quy định của các ĐUQT,
đảm bảo tinh thần nguyên tắc “Pacta sunt
servanda”. Việc nội luật hóa được tiến hành sau
khi cơ quan có thẩm quyền của quốc gia chính
thức xác nhận quy định trong ĐUQT ràng buộc
đối với quốc gia đó. Như vậy, theo cách hiểu
chung nhất, nội luật hóa là cách thức thực thi
ĐUQT, nó khác với việc phê chuẩn hay phê duyệt
ĐUQT. Nội luật hóa không nhằm mục đích thừa
nhận ĐUQT mà nhằm tạo ra sự ràng buộc đối với
pháp nhân, thể nhân của quốc gia kí kết với
ĐUQT. Rõ ràng, nội luật hóa có vai trò quan
trọng trong việc thực hiện các ĐUQT, góp phần
đảm bảo nguyên tắc “Pacta sunt servanda”. Hiện
nay, khái niệm nội luật hóa được sử dụng rộng rãi
trong nhiều trường hợp khác nhau, như nội luật
hóa ĐUQT, nội luật hóa tập quán quốc tế, nội luật
hóa các phán quyết của Tòa án quốc tế
3. CÁCH THỨC NỘI LUẬT HÓA QUY
ĐỊNH CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
VỀ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM VÀO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Cách thức nội luật hóa hay nói cách khác là cách
thức để chuyển hóa nội dung, yêu cầu trong các
quy định của ĐUQT vào hệ thống pháp luật quốc
gia phụ thuộc vào cách thức giải quyết mối quan
hệ giữa luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế.
Theo Tom Ginsburg, Svitlana Chernykh và
Zachary Elkins (2008), hiện nay trên thế giới có
hai trường phái khi đề cập đến mối quan hệ giữa
ĐUQT và hệ thống pháp luật quốc gia, đó là
trường phái “nhất nguyên luận” (“monism”) và
“nhị nguyên luận” (“dualism”). Trường phái “nhất
nguyên luận” cho rằng ĐUQT và luật pháp của
một quốc gia là hai mặt thống nhất của hệ thống
luật pháp. Khi quốc gia đã ký kết hoặc tham gia
ĐUQT thì có thể áp dụng trực tiếp quy định của
ĐUQT đó trong lãnh thổ quốc gia. Chẳng hạn,
Hoa Kỳ là một nước theo thuyết nhất nguyên
luận. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định: Các ĐUQT và
các luật ban hành trong nước là “luật tối cao” của
đất nước. Hệ quả kèm theo là quy định của ĐUQT
có thể được áp dụng trực tiếp trong hệ thống pháp
luật Hoa Kỳ. Như vậy, trường phái nhất nguyên
luận xác định cách thức nội luật hóa thông qua
việc áp dụng trực tiếp ĐUQT. Trong khi đó,
trường phái “nhị nguyên luận” cho rằng luật pháp
quốc tế và nội luật là hai hệ thống pháp luật tách
biệt; ĐUQT chỉ có thể có hiệu lực thi hành trong
phạm vi quốc gia sau khi đã được “chuyển hóa”
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 34 – 39
37
một cách thích hợp bằng văn bản pháp luật.
Chẳng hạn, các quốc gia Đức, Cô-Oét, Kê-nya,
Hy Lạp, Anh, Ma-lai-xia, Băng-la-đét theo
trường phái này (Văn phòng Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, k.n.). Mỗi trường
phái có ưu điểm, khuyết điểm riêng và rõ ràng các
quốc gia cũng không nhất thiết buộc phải theo
trường phái, cách thức nội luật hóa nào miễn sao
đảm bảo việc thực thi hiệu quả các cam kết trong
các ĐUQT. Chính vì vậy mà khi đề cập đến việc
thực thi nhóm các ĐUQT chống khủng bố, Văn
phòng LHQ về Ma tuý và Tội phạm [UNODC]
(2006) đã hướng dẫn:
Mỗi quốc gia thành viên phải lựa chọn ra cách
thức nào hợp lý, phù hợp nhất để đảm bảo thực thi
các yêu cầu, nội dung cơ bản của điều ước quy
định về hành vi khủng bố. Sẽ không có một giải
pháp cụ thể nào để áp dụng chung cho tất cả các
quốc gia mà việc lựa chọn cách thức, biện pháp
pháp nào là phù hợp với hệ thống pháp luật trong
nước hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi quốc gia. Sau
hoạt động bắt buộc là ký kết, phê chuẩn ĐUQT về
chống khủng bố, việc đảm bảo thực thi và áp dụng
các ĐUQT này có thể được thiết lập bằng cách
hoặc là sửa đổi, bổ sung các quy định trong pháp
luật hình sự của quốc gia, hoặc là bằng cách ban
hành văn bản pháp luật riêng chứa đựng tất cả các
yêu cầu, nội dung của các ĐUQT (đây là cách
thức nhanh và đơn giản nhất).
Điều 12 Hiến Pháp 2013 của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam cũng khẳng định sự cam
kết của Việt Nam trong việc tham gia và thực hiện
các ĐUQT: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam () chủ động và tích cực hội nhập, hợp
tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân
thủ Hiến chương LHQ và ĐUQT mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Mặc dù
việc cam kết thực hiện ĐUQT một cách nghiêm
túc và thiện chí nhất đã được quy định rõ nhưng
Hiến pháp Việt Nam lại không quy định cách thức
cụ thể để áp dụng và thực thi các yêu cầu của
ĐUQT. Khi tìm hiểu ở pháp luật chuyên ngành,
cụ thể là khoản 1 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế
(Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam [QH], 2006), mối quan hệ giữa ĐUQT với
pháp luật trong nước được quy định: “Trường hợp
văn bản quy phạm pháp luật và ĐUQT mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề
thì áp dụng quy định của ĐUQT đó, trừ Hiến
pháp”. Như vậy, trong trường hợp pháp luật quốc
gia và ĐUQT quy định có sự khác nhau thì áp
dụng (trực tiếp) ĐUQT.
Luật ĐUQT năm 2016 quy định mọi điều ước
Việt Nam ký kết hoặc gia nhập không được trái
với Hiến pháp, và trong trường hợp ĐUQT mà
Việt Nam là thành viên và pháp luật trong nước
có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp
dụng quy định của ĐUQT. Các quy định cho thấy
Việt Nam nghiêng về cách tiếp cận “nhất nguyên
luận”, tức là ĐUQT có thể được áp dụng trực tiếp
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên,
việc có áp dụng trực tiếp được một điều khoản
của điều ước hay không còn phụ thuộc vào chính
quy định đó, chẳng hạn: Có quy định về quyền,
nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hay không? Quy
định đó có đủ rõ, đủ chi tiết để áp dụng hay
không?... Tại khoản 2 Điều 6 Luật ĐUQT 2016
quy định:
Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của
ĐUQT, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi
quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐUQT
đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ
hoặc một phần ĐUQT đó đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong trường hợp quy định của
ĐUQT đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết
định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc
ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực
hiện ĐUQT đó.
Qua phân tích trên, ta thấy rằng quan điểm của
Việt Nam trong việc nội luật hóa ĐUQT dựa trên
quan điểm hỗn hợp giữa hai thuyết nhất nguyên
luận và nhị nguyên luận, tức là vừa có thể - theo
thuyết nhất nguyên luận - áp dụng trực tiếp
ĐUQT trong trường hợp pháp luật trong nước có
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 34 – 39
38
quy định khác với ĐUQT hoặc trong trường hợp
cơ quan có thẩm quyền của nhà nước quyết định
áp dụng trực tiếp khi thấy ĐUQT đã đủ rõ và chi
tiết; vừa có thể - theo thuyết nhị nguyên luận -
“sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật để thực hiện” trong trường
hợp khi thấy ĐUQT chưa đủ rõ hoặc chi tiết.
Tóm lại, khái quát về mặt lý luận, Việt Nam có
thể nội luật hóa quy định của các ĐUQT vào pháp
luật quốc gia bằng các cách thức như sau:
Thứ nhất, ban hành văn kiện cấp nhà nước thừa
nhận các quy định trong ĐUQT sẽ có hiệu lực áp
dụng ở trên lãnh thổ quốc gia. Đây là hình thức
đơn giản nhất để nội luật hóa vì không phải ban
hành nhiều quy phạm pháp luật mà chỉ thuần túy
quy định pháp nhân, thể nhân có nghĩa vụ thực
hiện quy định trong từng ĐUQT. Tuy nhiên, hạn
chế hình thức này ở chỗ: Do các quy định trong
ĐUQT xác lập nhằm điều chỉnh hành vi của các
quốc gia thành viên nên thường không đủ chi tiết
để điều chỉnh hành vi của pháp nhân, thể nhân;
Thứ hai, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
hoặc sửa đổi, bổ sung quy định trong các văn bản
pháp luật để cụ thể hóa các quy định trong ĐUQT.
Hình thức nội luật hóa này sẽ tạo ra văn bản quy
phạm pháp luật mới trong hệ thống pháp luật quốc
gia hoặc làm thay đổi nội dung điều chỉnh của
một số quy định trong văn bản pháp luật hiện
hành theo yêu cầu của ĐUQT;
Thứ ba, bãi bỏ hoặc sửa đổi văn bản quy phạm
pháp luật hoặc một số quy định trong văn bản
pháp luật quốc gia để phù hợp với yêu cầu của
ĐUQT. Đây là hình thức khắc phục sự mâu thuẫn
trong nội dung điều chỉnh của pháp luật quốc gia
theo yêu cầu của quy định trong ĐUQT.
Cách thức nào được lựa chọn để áp dụng đối với
ĐUQT cụ thể dường như sẽ được xác định bởi cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Dựa trên thực tiễn
nội luật hóa ĐUQT ở Việt Nam trong thời gian
qua thì cách thức nội luật hóa phổ biến nhất là bãi
bỏ, sửa đổi, bổ sung quy định trong văn bản pháp
luật để phù hợp với yêu cầu của ĐUQT (Viện
Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, 2015, tr.593).
Chính vì vậy mà theo nhóm tác giả Hoàng Phước
Hiệp cho rằng cách thức nội luật hóa điều ước
quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
nay là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến
hành các hoạt động cần thiết để chuyển hoá các
quy phạm của ĐUQT thành quy phạm của pháp
luật quốc gia bằng cách ban hành, sửa đổi, bổ
sung văn bản quy phạm pháp luật trong nước
(Hoàng Phước Hiệp, 2007, tr.127).
4. KẾT LUẬN
Có thể nói không có hoạt động nội luật hóa, pháp
luật quốc tế sẽ khó đi vào thực tiễn áp dụng ở
từng quốc gia. Điều 11 Công ước Viên 1969 quy
định: Sau khi “ký, trao đổi các văn kiện của điều
ước phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia
nhập hoặc bằng mọi cách khác được thỏa thuận”
để chấp nhận sự ràng buộc của ĐUQT, các chủ
thể có thẩm quyền sẽ tiến hành nội luật hóa, khi
đó các quy định trong các ĐUQT đó phát sinh
hiệu lực đối với công dân, pháp nhân, tổ chức của
Việt Nam. Qua tìm hiểu nội hàm khái niệm và
cách thức nội luật hóa, chúng ta có thể kết luận
một số vấn đề sau đây:
- Về điều kiện để nội luật hóa một ĐUQT bao
gồm: Thứ nhất, điều ước phải được ký kết trên
cơ sở tự nguyện, bình đẳng; thứ hai, nội dung
của điều ước không trái với các nguyên tắc cơ
bản của Luật quốc tế.
- Về đặc điểm: Văn bản nội luật hóa thực chất là
văn bản pháp luật quốc gia chứa đựng các quy
phạm pháp luật có nội dung cụ thể hóa quy
định của ĐUQT. Văn bản nội luật hóa có hiệu
lực pháp lý bắt buộc đối với tất cả các chủ thể
luật quốc gia cũng như trong phạm vi toàn bộ
lãnh thổ của quốc gia với tư cách một văn bản
pháp luật quốc gia thông thường.
- Về ý nghĩa, vai trò: Nội luật hóa đóng vai trò
quan trọng trong việc thực hiện nghĩa vụ thành
viên ĐUQT, đảm bảo nguyên tắc “Pacta sunt
servanda”, tạo cơ sở pháp lý trong việc tăng
cường và mở rộng các quan hệ hữu nghị và
hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn
đề có tính chất quốc tế mà tội phạm có tính
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 34 – 39
39
chất quốc tế là một ví dụ điển hình. Ngoài ra,
nội luật hóa còn góp phần đảm bảo sự hài hòa
giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;
thúc đẩy, góp phần hoàn thiện pháp luật quốc
gia, tăng cường kỹ thuật lập pháp trong nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố - Bộ Công
an. (2013). Các ĐUQT, ASEAN và pháp luật
Việt Nam về phòng, chống khủng bố. Hà Nội:
Nhà xuất bản Công an nhân dân.
Hoàng Phước Hiệp. (2007). Nội luật hóa ĐUQT
mà Việt Nam ký kết, gia nhập phục vụ quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. (Đề tài khoa
học cấp Bộ). Viện Nghiên cứu Khoa học pháp
lý - Bộ Tư pháp, Việt Nam.
Liên Hợp quốc. (2008). Các công cụ pháp lý quốc
tế về ngăn chặn và trừng trị khủng bố quốc tế.
New York (Mỹ). Xem (bản tiếng Anh) tại:
Ngày 9/4/2016, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội
khóa 13 đã thông qua Luật ĐUQT (Luật số
108/2016/QH13). Với 10 chương, 84 điều,
Luật ĐUQT có hiệu lực thi hành từ ngày 1
tháng 7 năm 2016, thay thế Luật Ký kết, gia
nhập và thực hiện ĐUQT năm 2005.
Nguyễn Thị Phương Hoa. (2015). Nội luật hóa
các quy định của Công ước chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia trong BLHS Việt Nam.
(Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ).
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. (2016). Luật Điều ước quốc tế. Hà Nội:
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Tom Ginsburg, Svitlana Chernykh, Zachary
Elkins. (2008). Commitment and Diffusion:
How and Why National Constitutions
Incorporate International Law. University of
Illinois Law Review 201. Retrieved from
ontent.cgi?article=2453&context=journal_artic
les, truy cập ngày 20/1/2016.
United Nations - Office of Counter-Terrorism.
(2018). International Legal Instruments.
Retrieved from
instruments.shtml
United Nations. (1969). Vienna Convention on the
law of treaties (with annex). Concluded at
Vienna on 23 May 1969. Retrieved from
https://treaties.un.org/doc/Publication/UNTS/
Volume%201155/volume-1155-I-18232-
English.pdf
Văn phòng LHQ về Ma tuý và Tội phạm
[UNODC]. (2006). Hướng dẫn toàn cầu về
việc hợp tác pháp luật và thực thi các ĐUQT
chống khủng bố (đoạn 9). NewYork (Mỹ).
Truy cập từ:
https://www.unodc.org/documents/terrorism/P
ublications/Guide_Legislative_Incorporation_I
mplementation/English.pdf.
Văn phòng Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. (k.n.). Tóm tắt thực tiễn về
một số vấn đề liên quan đến kí kết và thực hiện
ĐUQT. Truy cập từ:
DT_TAILIEU/Attachments/2007/9._Tom_tat_
thuc_tien_quoc_te_ve_DUQT.pdf
Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp. (2015). Từ
điển luật học. Hà Nội: Nhà xuất bản Từ điển
bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_khai_niem_noi_luat_hoa_va_cach_thuc_noi_luat_hoa_quy.pdf